Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sau khi hội nhập WTO

Danh mục các bảng Bảng 1: Số DNTN hoạt động kinh doanh bị lỗ qua các năm….………………37 Bảng 2: Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…….……………………………..…………..38 Bảng 3: Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân……….……….…40 Bảng 4: Doanh thu bình quân/1 lao động/1 năm của doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài………………………………………..42 Bảng 5 : Vốn sản xuất của tư nhân tư nhân…………….………………………45 Bảng 6 : Số lượng doan

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sau khi hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp tư nhân phân theo quy mô…..……………….46 Bảng 7: Cơ cấu lao động doanh nghiệp tư nhân phân theo trình độ lao động….48 Danh mục các đồ thị Đồ thị 1 : Số lượng doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 1991-1999……………….35 Đồ thị 2 : Cơ cấu lao động trực tiếp của DNTN phân theo học vấn…………...48 Đồ thị 3: Đánh giá của DNTN về sự ảnh hưởng của thương hiệu yếu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp……………………………………53 Đồ thị 4: Đánh giá của DNTN về mức độ ảnh hưởng của khả năng tiếp thị thấp tới hoạt động của DN............................................................................................56 Danh mục ký hiệu viết tắt AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á DN Doanh nghiệp DNTN Doanh nghiệp tư nhân FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài OEDC Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế R&D Nghiên cứu và phát triển WEF Diễn đàn Kinh tế Thế giới WTO Tổ chức Thương mại Thế giới XK Xuất khẩu Lời mở đầu Cùng với xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam càng ngày càng mở cửa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Quá trình hội nhập đó được đánh dấu bằng việc Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại của khu vực và thế giới. Việt Nam bắt đầu tham gia thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, chính thức được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định Thương mại với Mỹ. Và mốc quan trọng nhất là vào cuối năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO). Thực tế cho thấy sau mỗi mốc gia nhập AFTA, APEC hay ký Hiệp định song phương với Hoa Kỳ, làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào Việt Nam tăng lên một cách mạnh mẽ. Cùng với lượng vốn FDI khổng lồ chảy vào Việt Nam là lượng các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam càng nhiều. Việc này làm cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt và quyết liệt mà những người yếu thế là các doanh nghiệp Việt Nam , đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân với quy mô nhỏ bé. Không nằm ngoài quy luật đó, sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam càng phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Sự cạnh tranh quyết liệt dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản. Đây là một thực trạng đáng buồn, bởi tuy có quy mô nhỏ bé nhưng về số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm đến hơn 90% số lượng doanh nghiệp cả nước, tạo việc làm cho hơn 50% tổng lao động cả nước. Sự phát triển của kinh tế tư nhân là sự thể hiện sự phát triển nói chung của nền kinh tế. Do vậy, nghiên cứu tình hình doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân vào giai đoạn sau khi gia nhập WTO là vấn đề cần thiết để tìm ra giải pháp góp phần giúp khu vực tư nhân phát triển bền vững. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sau khi gia nhập WTO” để nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp này. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là tìm hiểu thực trạng năng lực cạnh tranh hiện nay của doanh nghiệp tư nhân, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong thời gian tới. Cơ sở để đưa ra những giải pháp đó là quá trình phân tích những nguyên nhân dẫn đến thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân bị tác động từ những yếu tố môi trường bên ngoài như môi trường kinh doanh, chính sách của nhà nước, xu thế kinh tế khu vực và thế giới…và từ những yếu tố bên trong của doanh nghiệp như vốn, nguồn nhân lực, chiến lược kinh doanh… Nội dung của chuyên đề chỉ tiếp cận đến những yếu tố ảnh hưởng bên trong của doanh nghiệp, và giải pháp nêu ra cũng nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại bên trong doanh nghiệp tư nhân. Để giải quyết được những vấn đề trên, chuyên đề dựa vào việc thống kê và phân tích số liệu từ các công trình nghiên cứu về doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã được tiến hành. Đặc biệt là phân tích số liệu từ cuộc điều tra 670 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam của Viện Kinh tế Việt Nam tiến hành năm 2008. Tôi chân thành cảm ơn PGS-TS Trần Đình Thiên, Quyền Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam; Th.S Phạm Sĩ An, phòng Kinh tế Vĩ mô, Viện Kinh tế Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Th.S Nguyễn Thị Hoa vì sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của cô trong suốt quá trình tôi hoàn thiện chuyên đề này! Chương I: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp I.Lý luận chung về cạnh tranh 1.Khái niệm cạnh tranh Xét một cách tổng quan nhất, cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Theo nghĩa thông thường, cạnh tranh là ý thức và hành động cố gắng giành phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau. Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, thương mại, luật, chính trị, sinh thái, thể thao. Trong khuôn khổ đề tài chúng ta đề cập đến khái niệm cạnh tranh trong kinh tế. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hàng hóa, là điều kiện sống còn của các doanh nghiệp; nó ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Do đó, khái niệm cạnh tranh được sử dụng trong những phạm vi khác nhau từ cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, quốc gia cho đến phạm vi quốc tế. Mục tiêu cơ bản của cạnh tranh cũng lại được đặt ra khác nhau phụ thuộc vào phạm vi sử dụng đó. Do vậy, có nhiều khái niệm về cạnh tranh khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình” Ngoài ra còn có định nghĩa khác cho cạnh tranh như: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất hàng hóa – kinh doanh nhằm giành những điều kiện thuận lợi để thu được nhiều lợi nhuận”(Wikipedia) Trong khi đó tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế(OEDC) lại định nghĩa: “Cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần” Ngày nay, vấn đề cạnh tranh càng được các doanh nghiệp coi trọng. Doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường, mục tiêu hàng đầu là tối đa hóa lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này, doanh nghiệp cần luôn luôn xây dựng, củng cố và nâng cao vị thế của mình so với các đối thủ khác, nghĩa là luôn giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Đặc biệt khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì việc giành vị thế trên thị trường là vấn đề sống còn với các doanh nghiệp. Cạnh tranh trong môi trường hiện nay còn đồng nghĩa với ganh đua: ganh đua về sản phẩm, giá cả, mẫu mã, chất lượng, dịch vụ…để tác động đến sự lựa chọn của khách hàng. 2. Vai trò của cạnh tranh Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế, là môi trường vận động của cơ chế thi trường. Do đó, cạnh tranh tồn tại như một quy luật khách quan, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế. Cạnh tranh có vai trò quan trọng đối với cả nền kinh tế, người tiêu dùng và trong quan hệ đối ngoại. 2.1. Đối với nền kinh tế-xã hội 2.1.1.Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường Khi cung một hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống. Do cạnh tranh, doanh nghiệp phải hạ giá bán sản phẩm ngang bằng hay thấp hơn giá thị trường nếu muốn tiêu thụ được hàng hóa đó. Doanh nghiệp nào có đủ khả năng cải tiến công nghệ, tăng năng suất thì mới đủ khả năng tiếp tục cung cấp sản phảm. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại. Sự rời bỏ thị trường của một số doanh nghiệp sẽ làm cung giảm, thị trường cung cầu cân bằng trở lại. Ngược lại, khi cung hàng hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm trên thị trường. Khi đó, giá thị trường của hàng hóa sẽ tăng lên, các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao. Lợi nhuận cao đó khiến nhiều nhà đầu tư muốn thâm nhập vào ngành. Sự gia nhập thị trường của một số doanh nghiệp khiến cung hàng hóa tăng lên, cung cầu lại cân bằng trở lại. 2.1.2.Cạnh tranh hướng việc sủ dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất Như đã nêu ở trên, mục đích của cạnh tranh là thu được lợi ích cao nhất, cụ thể là luôn tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, các chủ thể kinh doanh khi tham gia thị trường luôn phải cân nhắc khi quyết định sử dụng nguồn lực của mình một cách hợp lý để có được hiệu quả tối ưu. Họ sẽ đầu tư nguồn lực của mình vào những nơi mà tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi ích nhận được. Chính đặc điểm này mà các nguồn lực luôn được vận động, chu chuyển hợp lý và sử dụng hiệu quả. 2.1.3.Cạnh tranh có chức năng phân phối và điều hòa thu nhập Cạnh tranh làm nguồn lực sản xuất luôn vận động và chu chuyển từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao. Do đó, cạnh tranh luôn tạo áp lực đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong từng thời điểm một sản phẩm có thể chiếm ưu thế trên thị trường, doanh nghiệp thu được lợi nhuận cũng như vị thế lớn, song vị trí của doanh nghiệp luôn bị đe dọa bởi các sản phẩm tiến bộ hơn của các đối thủ cạnh tranh hay các đối thủ tiềm ẩn khác. Vì vậy, nếu cạnh tranh diễn ra công bằng thì các nhà kinh doanh có vị thế lớn sẽ không thể duy trì được lợi thế cũng như lợi nhuận của mình mãi mãi mà phải chia sẻ với những chủ thể khác. Do đó, cạnh tranh cũng sẽ tác động đến việc phân phối và điều hòa thu nhập. 2.1.4.Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới Giống như quy luật tồn tại và đào thải của tự nhiên, quy luật cạnh tranh trong kinh tế luôn khẳng định chiến thắng thuộc về kẻ mạnh-những chủ thể kinh tế có tiềm lực, có trình độ và tri thức, có tư duy kinh tế và kinh nghiệm thương trường. Còn những chủ thể kinh tế yếu kém, không đủ năng lực cạnh tranh sẽ bị đâò thải ra khỏi thị trường. Để có thể tồn tại, doanh nghiệp luôn phải không ngừng hoàn thiện mình, nâng cao năng lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm. Do đó, cạnh tranh trở thành động lực của phát triển và đổi mới. 2.2.Đối với người tiêu dùng Khi hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường, nếu như lợi nhuận là yếu tố thôi thúc các chủ thể tham gia tiến hành sản xuất thì cạnh tranh lịa bắt buộc và thúc đẩy họ phải điều hành các hoạt động này sao cho hiệu quả cao nhất. Và đối tượng được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này chính là người tiêu dùng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải quan tâm mở rộng cung cấp ngày càng tốt hơn những sản phẩm hàng hóa dịch vụ có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý cho người tiêu dùng. Như vậy cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng quyền tự do lựa chọn những sản phẩm phù hợp với nhu cầu. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng mạnh thì lợi ích của người tiêu dùng càng tăng. 2.3. Đối với quan hệ đối ngoại Trong xu hướng toàn cầu hóa, cạnh tranh không chỉ trong phạm vi trong nước mà còn ra phạm vi quốc tế. Cạnh tranh giúp thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường, tìm kiếm thị trường mới, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm huy động vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý…, giúp các nhà sản xuất trong nước nhìn thấy những khuyết tật của hàng nội để khắc phục, vươn lên tìm lợi thế của mình để chiến thắng trong cạnh tranh. Nói cách khác thông qua cạnh tranh quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia trên thế giới tham gia sâu rộng vào phân công lao động và hợp tác kinh doanh quốc tế, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của từng quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế quốc dân. II. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh đã và đang là chủ đề được bàn luận nhiều ở cả các nước phát triển và đang phát triển vì tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù các nhà kinh tế thống nhất với nhau về tầm quan trọng nhưng lại có những nhận thức khác nhau về năng lực cạnh tranh. Do vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ năng lực cạnh tranh và các cấp độ áp dụng cũng rất khác nhau. Trong từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại, trên cùng một thị trường tiêu thụ”. Khái niệm khả năng cạnh tranh được sử dụng khi đề cập đến các doanh nghiệp, các ngành, hay cả quốc gia. 1.Năng lực cạnh tranh của quốc gia Năng lực cạnh tranh quốc gia thường được phân tích theo quan điểm tổng thể, đặt trọng tâm vào môi trường kinh tế vĩ mô và thể hiện vai trò của Chính phủ. Trong báo cáo hàng năm của Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF), khái niệm này được đề cập: “Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của nền kinh tế trong việc đạt và duy trì mức tăng trưởng cao”. Bên cạnh đó cũng có quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh quốc gia dựa trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của các ngành. Quan điểm này thể hiện rõ nhất trong nhiều công trình của M.Porter. Porter cho rằng, các doanh nghiệp là những chủ thể cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính vì vậy, nói về lợi thế cạnh tranh quốc gia là nói về những đặc trưng của quốc gia với tư cách là môi trường hoạt động cho phép các doanh nghiệp của quốc gia đó có thể thành công trên thị trường thế giới. 2.Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành thường được phân tích theo ba quan điểm chính. Khung khổ phân tích theo quan điểm quản trị chiến lược chính là việc nhìn nhận những ưu thế về cấu trúc ngành/doanh nghiêp. Quan điểm này cũng đòi hỏi phải tính tới các nguồn lực có tính riêng biệt cũng như các ý tưởng quản trị mới gắn liền với sự phát triển nhảy vọt của công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Quan điểm tân cổ điển là tiền đề cho những phân tích dựa trên lợi thế so sánh, chi phí và các nhân tố, đặc biệt là các nhân tố chính sách có thể làm chệch hướng việc phân bổ các nguồn lực. Quan điểm tổng hợp cố gắng thể hiện cả những phân tích định tính và định lượng và cả những quan sát tĩnh và động để tạo ra mộ khung khổ đánh giá hoàn chỉnh năng lực cạnh tranh ngành/doanh nghiệp. Theo Van Duren, Martin và Westgren(1991), năng lực cạnh tranh của một ngành/doanh nghiệp là năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Định nghĩa này được xem là nhất quán với mục tiêu kinh doanh, đồng thời phù hợp với các mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách thương mại của chính phủ. 3.Năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của khách hang. Nó được thể hiện bằng việc khách hàng lựa chọn sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của mình. Do đó, sản phẩm/dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao là sản phẩm/dịch vụ có chất lượng tốt, giá thành hạ, tiện lợi và phù hợp thị hiếu. III.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.Khái niệm Như đã trình bày, vì được phân tích dưới nhiều góc độ và xuất phát từ những quan điểm khác nhau nên có nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được tiếp cận như sau: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.” (PGS-TS Lê Xuân Bá) 2.Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Xuất phát từ khái niệm trên, các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện ở một số khía cạnh sau 2.1.Khả năng duy trì và nâng cao kết quả kinh doanh Kết quả kinh doanh được hiểu theo nghĩa thông thường là lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được, càng thu được lợi nhuận cao tức là doanh nghiệp càng có kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, cách hiểu đó chưa đầy đủ bởi chỉ xét đến lượng mà không xét đến tương quan tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được và chi phí bỏ ra. Hiểu một cách chính xác, kết quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình. Nếu gọi H là kết quả kinh doanh thì:                                                                  Kết quả đầu ra           Kết quả kinh doanh (H) = -----------------------                                                                  Chi phí đầu vào Công thức này thể hiện hiệu quả của việc bỏ ra một số vốn để thu được kết quả cao hơn tức là đã có một sự xuất hiện của giá trị gia tăng với điều kiện H>1, H càng lớn càng chứng tỏ quá trình đạt hiệu quả càng cao. Để tăng hiệu quả (H), chúng ta có thể sử dụng những biện pháp như: giảm đầu vào, đầu ra không đổi; hoặc giữ đầu vào không đổi, tăng đầu ra; hoặc giảm đầu vào, tăng đầu ra,.. Dễ dàng nhận thấy rằng, một doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt đồng nghĩa với việc thu được mức lợi nhuận cao. Kết quả kinh doanh tốt còn thể hiện việc sử dụng nguồn lực một cách hợp lý để thu được lợi ích cao nhất. Duy trì được kết quả kinh doanh trong dài hạn, doanh nghiệp sẽ duy trì và nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Do đó, kết quả kinh doanh chính là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có cái nhìn cụ thể về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ra thường sử dụng hai tiêu chí: tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh của doanh nghiệp (một đồng vốn bỏ ra trong kỳ sinh lời được bao nhiêu đồng lợi nhuận) và tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của doanh nghiệp(kết quả tiêu thụ được một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.) 2.2.Khả năng duy trì và mở rộng thị phần Theo quy định tại Khoản 5, Điều 3, Luật Cạnh tranh của Việt Nam : “Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hang hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào cảu tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hang hóa, dịch vụ đó trên thị trường lien quan theo tháng, quý, năm” Theo định nghĩa này về thị phần, cơ sở xác định thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định trên thị trường liên quan chính là doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào đối với loại hang hóa, dịch vụ đó của doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Thị phần có thể được phân chia theo địa lý, giới tính, ngành nghề, dân tộc, quan điểm và thuộc tính . Thị phần của doanh nghiệp càng lớn chứng tỏ sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp càng được tiêu thụ nhiều, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao. Thị phần duy trì và mở rộng so với các đối thủ làm vị thế của doanh nghiệp càng nâng cao. Việc duy trì và mở rộng thị trường chính là tiêu chí đánh giá được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.3.Năng suất Từ những năm 90 của thế kỷ 20 về trước, năng suất được hiểu và áp dụng ở Việt Nam theo khái niệm truyền thống, năng suất đồng nghĩa với năng suất lao động và thường được quan tâm, tính toán bằng số lượng hay khối lượng sản phẩm tạo ra hoặc tổng giá trị sản xuất-dịch vụ tạo ra trên một lao động hay giờ lao động. Năng suất truyền thống định hướng theo các yếu tố đầu vào, chủ yếu là lao động, nguyên vật liệu, thiết bị và giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng năng suất là tăng đầu ra và giảm đầu vào. Cách tiếp cận này không còn thích hợp với kinh tế thị trường, kinh tế phát triển trên nền tảng công nghệ tiến bộ, phát triển theo chiều sâu. Theo quan điểm mới, năng suất định hướng theo các kết quả của đầu ra, hướng tới nhu cầu của thị trường và giảm lãng phí trong mọi hình thức chứ không là chỉ giảm đầu vào . Mặt khác, năng suất chỉ có ý nghĩa thực sự khi được tính theo giá trị gia tăng. Năng suất được coi là biểu hiện cho cả hiệu lực và hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu, vì năng suất cao nhưng không được lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường. Đặc biệt năng suất theo cách tiếp cận mới không đối lập mà đồng hướng, cùng tạo nên hiệu quả với chất lượng. Chất lượng hóa các yếu tố và các quá trình là điều kiện để tăng năng suất với tốc độ cao và ổn định, bền vững. Chỉ tiêu năng suất thường được đánh giá cụ thể bằng tỷ lệ doanh thu bình quân/1lao động hoặc giá trị gia tăng trên lao động. 3.Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả những yếu tố bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. 3.1.Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 3.1.1. Tác động của môi trường quốc tê 3.1.1.1. Những ảnh hưởng của nền chính trị thế giới Các nhân tố chủ yếu phản ánh thay đổi chính trị thế giới là các quan hệ chính trị hình thành trên thế giới và từng khu vực như vấn đề toàn cầu hóa, hình thành và mở rộng hay phá bỏ các hiệp ước liên minh đa phương, song phương (liên minh châu Âu, khối ASEAN..), giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và từng khu vực (mâu thuẫn Bắc-Nam…).Các nhân tố này tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp với xu hướng và mức độ khác nhau. Nếu các quan hệ chính trị thế giới diễn ra với xu hướng tốt đẹp, hòa bình hợp tác cùng phát triển, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp tất nhiên sẽ thuận lợi, quan hệ thương mại giữa các nước, khu vực ổn định. Ngược lại, nếu các quan hệ chính trị thế giới căng thẳng, nhiều mâu thuẫn, tất yếu dẫn đến sự cản trở trong thương mại, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 3.1.1.2. Các quy định pháp luật của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế Luật pháp của mỗi quốc là nền tảng tạo ra môi trường kinh doanh của nước đó. Các quy định pháp luật của mỗi nước tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh ở thị trường nước đó. Môi trường kinh doanh quốc tế và từng khu vực lại phụ thuộc vào pháp luật và các thông lệ quốc tế. Các thỏa thuận này vừa tạo nhiều cơ hội mới và vừa xuất hiện nhiều nguy cơ đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1.1.3. Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế quốc tế Các yếu tố kinh tế thế giới tác động mạnh mẽ đến kinh doanh của các doanh nghiệp ở mọi nước tham gia vào quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Những yếu tố ảnh hưởng rõ nét nhất đến doanh nghiệp như mức độ thịnh vượng của nền kinh tế, khủng hoảng, xu hướng phát triển kinh tế thế giới…. Khi nền kinh tế thế giới ở vào thời kỳ thịnh vượng, cầu tiêu dùng đa dạng, phong phú hơn và phổ biến là theo xu hướng tăng nhanh. Điều này kích thích trực tiếp tăng cầu các yếu tố sản xuất, phát triển kĩ thuật-công nghệ,…Xu thế này tạo cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh diễn ra đối với các doanh nghiệp ở phổ biến mọi quốc gia, làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngược lại, khi nền kinh tế thế giới khủng hoảng, hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo bởi sự giảm sút tiêu dùng. Do tính chất toàn cầu hóa thế giới nên mọi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới đều có ảnh hưởng dây chuyền và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.Mức độ ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào quy mô, tính chất của từng cuộc khủng hoảng và tới từng đối tượng doanh nghiệp cụ thể. Xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Sự phát triển kinh tế thế giới hướng đến hội nhập toàn cầu bắt buộc doanh nghiệp phải có sự thay đổi để thích ứng, quá trình đó ảnh hưởng đến hoạt động và năng lực của doanh nghiệp. Hay xu hướng sử dụng năng lượng sạch, bảo vệ môi trường , phát triển bền vững khiến doanh nghiệp phải dần thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Những xu hướng phát triển như vậy luôn có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của doanh nghiệp. 3.1.1.4. Ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật-công nghệ Kỹ thuật-công nghệ tác động trực tiếp đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào, năng suất, chất lượng, giá thành … nên là nhân tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp. Xu thế phát triển kỹ thuật- công nghệ có ảnh hưởng mang tính dây chuyền: sự thay đổi công nghệ này kéo theo sự biến đổi của công nghệ khác, xuất hiện sản phẩm mới, vật liệu mới, thói quen tiêu dùng…Vì vậy, sự phát triển của nó có tác động đến nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành, ở nhiều khu vực và trên phạm vi toàn cầu theo chiều hướng tích cực. Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, nhân tố kỹ thuật công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn, phát triển mạnh nếu muốn có sức cạnh tranh cao sẽ phải là các doanh nghiệp có khả năng làm chủ khả năng sáng tạo kỹ thuật-công nghệ cao, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. 3.1.1.5. Ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa-xã hội Mỗi nước đều có một nền văn hóa riêng và xu thế toàn cầu hóa tạo ra phản ứng giữ gìn bản sắc văn hóa của từng nước. Bản sắc văn hóa dân tộc ảnh hưởng trực tiếp đến đến các doanh nghiệp thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp với nước mà họ quan hệ. Ngày nay những ảnh hưởng này không chỉ ở hành vi giao tiếp, ứng xử mà điều rất quan trọng là văn hóa dân tộc tác động trực tiếp đến việc hình thành thị hiếu, thói quen tiêu dùng… Điều này tác động trực tiếp nhất đến các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm tiêu dùng. Tìm hiểu tường tận văn hóa cũng như thị hiếu của các thị trường xuất khẩu là các doanh nghiệp đã nắm được một phần thành công, năng cao lợi thế cạnh tranh của mình. 3.1.2. Tác động của môi trường kinh tế quốc dân 3.1.2.1. Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường có liên quan đến trạng thái phát triển của nền kinh tế: tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái… Nếu nền kinh tế quốc dân tăng trưởng với tốc độ cao sẽ tác động đến nền kinh tế quốc dân theo hai hướng. Một là, tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư dẫn đến tăng khả năng thanh toán cho các nhu cầu của họ. Điều này dẫn đến đa dạng hóa các loại cầu và xu hướng phổ biến là tăng cầu. Điều này đồng nghĩa với việc thị trường mở rộng, doanh nghiệp nào nắm bắt được sớm sẽ có lợi thế lớn. Thứ hai, khả năng tăng sản lượng và mặt hàng của nhiều doanh nghiệp đã làm tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này. Điều này tạo khả năng tích lũy vốn nhiều hơn, tăng quy mô, tăng cầu về đầu tư mở rộng kinh doanh làm cho môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn. Nếu nền kinh tế quốc dân ổn định, các hoạt động kinh doanh cũng được giữ ở mức độ ổn định. Khi nền kinh tế quốc dân rơi vào tình trạng suy thoái nó sẽ tác động đến nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo hướng ngược lại với trường hợp nền kinh tế quốc dân tăng trưởng. Tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp tác động trực tiếp đến cả hai mặt sản xuất và tiêu dùng. Khi tỷ lệ lạm phát cao nó sẽ tác động xấu đến tiêu dùng, số cầu của hầu hết các hàng hóa, dịch vụ sẽ giảm, tiền sẽ biến thành vàng để tích trữ nên vừa không đẻ ra tiền, vừa làm giảm lượng cầu đầu tư cho kinh doanh, hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp sẽ giảm sút. Lợi nhuận của doanh nghiệp giảm đồng nghĩa với năng lực cạnh tranh giảm. 3.1.2.2. Ảnh hưởng của các nhân tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế. Môi trường kinh doanh bình đẳng tao điều kiện cho mọi doanh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành mạnh, buộc mọi doanh nghiệp phải làm ăn chân chính, có trách nhiệm với người tiêu dùng. Môi trường kinh doanh thông thoáng làm khả năng cạnh tranh, kinh doanh của doanh nghiệp tăng. Nếu ngược lại, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống, đời sống của người tiêu dung. Đến lượt mình, các vấn đề này lại tác động tiêu cực trở lại đối với sản xuất. Quản lý nhà nước về kinh tế là nhân tố tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, trình độ và thái độ làm việc của các cán bộ công quyền tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu,…sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể, do đó sẽ tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các ngành, vùng kinh tế nhất định. 3.1.2.3. Tác động của nhân tố kỹ thuật-công nghệ Trong phạm vi môi trường kinh tế quốc dân, nhân tố kỹ thuật cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng mang tính chất quyết định đối với khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Công nghệ-kỹ thuật đã trở thành yếu tố sản xuất trực tiếp, thúc đẩy mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển theo hướng tăng tốc nhanh, đảm bảo sự ổn định trong hoạt động kinh doanh và bảo vệ môi trường sinh thái. Nếu các doanh nghiệp muốn nhanh chóng vươn lên, tạo ra khả năng cạnh tranh để có thể đứng vững trên sân nhà, vươn ra thị trường khu vực và quốc tế sẽ không thể không chú ý nâng cao khả năng nghiên cứu và phát triển, không chỉ là chuyển giao, làm chủ công nghệ nhập khẩu mà phải có khả năng sáng tạo được kỹ thuật-công nghệ tiên tiến. 3.1.2.4. Ảnh hưởng của các nhân tố văn hóa-xã hội Văn hóa xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất sâu sắc đến hoạt động quản trị kinh doanh của mọi doanh nghiệp.Các vấn đề phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng…có ảnh hưởng sâu sắc đến cơ cấu cầu trên thị trường. Nhân tố này tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm tiêu dùng, đồ gia dụng, may mặc, du lịch.. Văn hóa xã hội còn tác động trực tiếp đến hình thành môi trường văn hóa doanh nghiệp, văn hóa nhóm cũng như thái độ cư xử, ứng xử của các nhà quản trị, nhân ._.viên khi tiếp xúc với đối tác kinh doanh cũng như khách hàng. 3.1.2.5. Ảnh hưởng của các nhân tố, điều kiện tự nhiên Các nhân tố tự nhiên bao gồm các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác, các điều kiện địa lý, khí hậu…Các điều kiện tự nhiên có thể ảnh hưởng đến từng loại doanh nghiệp kinh doanh khác nhau: tài nguyên thiên nhiên tác động có tính chất quyết định đến hoạt động của các doanh nghiệp khai thác; điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu…tác động đến các doanh nghiệp sản xuất nông lâm thủy hải sản và từ đó tác động đến các doanh nghiệp chế biến; địa hình và sự phát triển hạ tầng tác động đến việc lựa chọn địa điểm của mọi doanh nghiệp…. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng ở mức độ khác nhau,cường độ khác nhau đến từng loại doanh nghiệp ở các địa diểm khác nhau và nó cũng tác động theo cả hai xu hướng tiêu cực và tích cực,do đó ảnh hưởng đến kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3.1.3. Tác động của môi trường cạnh tranh ngành Tác động của môi trường cạnh tranh ngành đến doanh nghiệp được thể hiện qua mô hình 5 yếu tố cạnh tranh của Michael Porter, trong đó, 5 yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: khách hàng, đối thủ cạnh tranh trong ngành, đối thủ tiềm ẩn, sức ép từ phía nhà cung cấp và sức ép từ sản phẩm thay thế. 3.1.3.1. Khách hàng Khách hàng là đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp, người tạo ra lợi nhuận, thắng lợi của doanh nghiệp. Khách hàng là những người có cầu về sản phẩm của doanh nghiệp, mà cầu là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cầu tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động đến mức độ và cường độ cạnh tranh của doanh nghiệp ngành. Nếu ngành có lượng cầu lớn, cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thấp, ngược lại nếu ngành có lượng cầu nhỏ,cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp gay gắt. Khách hàng của doanh nghiệp có thể là người tiêu dùng trực tiếp và cũng có thể là các doanh nghiệp thương mại. Khi doanh nghiệp là doanh nghiệp thương mại thì quyền mặc cả của họ phụ thuộc vào các nhân tố cụ thể như: khối lượng hàng, tỷ trọng chi phí đầu vào của người mua, tính chất chuẩn và khác biệt hóa của sản phẩm, tính chất quan trọng của sản phẩm đối với người mua,thông tin về thị trường… Với xu thế cạnh tranh ngày càng cao, khách hàng đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về chất lượng, giá cả, sự tiện lợi mà cả về thái độ và phong cách phục vụ. Khách hàng có thể gây áp lực với doanh nghiệp bằng việc ép giảm giá, đòi hỏi chất lượng tốt hơn, khiến doanh nghiệp đầu tư nhiều chi phí hơn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự thay đổi của khách hàng cũng gây ra những áp lực làm doanh nghiệp điêu đứng. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp không đổi mới theo kịp những thay đổi trong nhu cầu khách hàng thì họ sẽ chuyển sang nhà cung cấp khác có thể đáp ứng tót hơn yêu cầu của họ. Điều này sẽ dẫn đến thị phần của doanh nghiệp giảm, chứng tỏ sự giảm sút năng lực cạnh tranh. 3.1.3.2. Các đối thủ cạnh tranh trong ngành Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp đang kinh doanh cùng ngành nghề và trên cùng một khu vực thị trường với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong một ngành tạo ra cung sản phẩm trên thị trường. Số lượng, quy mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M.Porter, tám vấn đề sau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự cạnh tranh giữa các đối thủ: số lượng các đối thủ cạnh tranh là nhiều hay ít? Mức độ tăng trưởng của ngành là nhanh hay chậm? Chi phí lưu kho hay chi phí cố định là cao hay thấp? Các đối thủ cạnh tranh có đủ ngân sách để khác biệt hóa sản phẩm hay chuyển hướng kinh doanh không? Năng lực sản xuất của các đối thủ có tăng hay không và nếu có tăng thì khả năng tăng ở tốc độ nào? Tính chất đa dạng sản xuất kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh ở mức độ nào? Mức độ kì vọng của các đối thủ cạnh tranh vào chiến lược kinh doanh của họ và sự tồn tại các rào cản rời bỏ ngành. 3.1.3.3. Các đối thủ tiềm ẩn Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp mới xuất hiện hay sắp xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động. Tác động của các doanh nghiệp này đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp đó. Sự xuất hiện của các đối thủ tiềm ẩn làm thay đổi bức tranh cạnh tranh ngành, làm gia tăng mức cạnh tranh của ngành. Càng nhiều đối thủ tiềm ẩn thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng bị đe dọa. 3.1.3.4. Sức ép từ phía các nhà cung cấp Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào khác nhau bao gồm cả người bán thiết bị, nguyên vật liệu, người cấp vốn, những người cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Theo M.Porter, các nhân tố: số lượng nhà cung cấp, tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cụ thể, khả năng của các nhà cung cấp và vị trí quan trọng đến mức độ nào của doanh nghiệp đối với các nhà cung cấp sẽ tạo ra sức ép từ phía các nhà cung cấp đến doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1.3.5. Sức ép của các sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức ép lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Nếu các sản phẩm thay thế thu hút được khách hàng sẽ làm thu hẹp thị phần của doanh nghiệp, hạn chế mức lợi nhuận dẫn đến giảm bớt năng lực cạnh tranh. Áp lực cạnh tranh của yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng, chi phí chuyển đổi, tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế; các yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế. 3.2.Các yếu tố bên trong doanh nghiệp 3.2.1.Tình hình tài chính Tình hình tài chính tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho… cũng như khả năng thanh toán, duy trì mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của doanh nghiệp đó. Mọi quyết định của doanh nghiệp đều phải cân nhắc trước hết đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó tình hình tài chính doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu như: tổng lượng vốn, khả năng thu hút vốn, hiệu quả sử dụng vốn, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp đánh giá vị thế của doanh nghiệp…… 3.2.2.Tình hình nhân lực Nhân lực là lực lượng lao động sáng tạo của doanh nghiệp, bao gồm cả lao động quản trị, lao động nghiên cứu và phát triển, lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực có tác động rất mạnh và mang tính quyết định đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đội ngũ lao động năng động, sáng tạo, có trình độ sẽ có được nhiều ý tưởng trong kinh doanh, năng suất lao động cao, sản phẩm chất lượng. Đây đều là những yếu tố quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, có nguồn nhân lực chất lượng, doanh nghiệp sẽ đảm bảo được sự phát triển bền vững cũng như vị thế cạnh tranh của mình. Để đánh giá tình hình nhân lực của doanh nghiệp, ta thông qua số lượng, chất lượng, trình độ của lao động 3.2.3.Hoạt động marketing Marketing là quá trình kế hoạch hóa và thực hiện các ý tưởng liên quan đến việc hình thành, xác định giá cả, xúc tiến và phân phối hàng hóa và dịch vụ để tạo ra sự thay đổi nhằm thỏa mãn các mục tiêu của mọi cá nhân và tổ chức. Hoạt động marketing truyền thống-marketing với khách hàng thường tập trung vào chủng loại, sự khác biệt hóa và chất lượng sản phẩm,thị phần, giá cả, niềm tin của khách đối với sản phẩm, chi phí phân phối sản phẩm, hiệu quả hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng…Bên cạnh đó, marketing hiện đại còn phát triển ra ngoài phạm vi marketing truyền thống như bao gồm cả marketing nội bộ, marketing với người cấp hàng… Mục tiêu của maketing là thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, đảm bảo được cung cấp sản phẩm/dịch vụ ổn định với chất lượng theo yêu cầu của sản xuất và giá cả phù hợp nhằm giúp doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận trong dài hạn. Như thế, hoạt động maketing đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của mọi doanh nghiệp. Hoạt động maketing càng có chất lượng bao nhiêu doanh nghiệp càng có thể tạo ra các lợi thế chiến thắng các đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu. 3.2.4.Chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh là một bản phác thảo tương lai của doanh nghiệp trong khu vực hoạt động và các khả năng khai thác; chiến lược kinh doanh xác định các mục tiêu dài hạn, các chính sách cũng như các giải pháp cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã định (trang 29, giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2002) Đặc trưng cơ bản của chiến lược là động và tấn công. Trong quản trị chiến lược phải đặc biệt coi trọng công tác dự báo, chủ động lường trước những thay đổi của môi trường kinh doanh để vạch ra các giải pháp tấn công nhằm tận dụng cơ hôi, hạn chế hiểm họa có thể xuất hiện trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Có được chiến lược kinh doanh tốt, doanh nghiệp dễ dàng định hướng và có được những chuẩn bị tốt để có thể nhanh chóng thích ứng với những thay đổi xảy ra, kể cả cơ hội lẫn thách thức. Như thế, đề ra chiến lược kinh doanh đúng đắn, doanh nghiệp tự nâng cao được lợi thế cạnh tranh của mình, giúp doanh nghiệp phát triển bền vững. 3.2.5.Khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển Khả năng sản xuất của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng sản xuất của doanh nghiệp thường tập trung chủ yếu vào các vấn đề năng lực sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ kỹ thuật, tuổi đời máy móc thiết bị…Các nhân tố trên tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời hạn sản xuất và đáp ứng nhu cầu về sản phẩm/dịch vụ. Đây là một trong các điều kiện không thể thiếu tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Nghiên cứu và phát triển là hoạt động có mục đích sáng tạo sản phẩm và khác biệt hóa sản phẩm, cải tiến hoặc áp dụng công nghệ, trang thiết bị, sáng tạo vật liệu mới…Khả năng nghiên cứu và phát triển là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm /dịch vụ luôn phù hợp với thị trường, đẩy nhanh tốc độ đổi mới cũng như khác biệt hóa sản phẩm. Các vấn đề trên tác động trực tiếp và rất mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng sản xuất tốt cùng với hoạt động nghiên cứu và phát triển phát triển sẽ luôn đáp ứng được nhu cầu về sản phẩm hợp thị hiếu, giá thành hợp lý, chất lượng tốt. Do vậy những hoạt động này ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.2.6.Trình độ tổ chức và quản trị doanh nghiệp Cơ cấu tổ chức bộ máy doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,được chuyên môn hóa, được giao những quyền hạn nhất định nhằm thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp tác động mạnh đến hoạt động của đội ngũ lao động, sự cân bằng của doanh nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cân đối có hiệu quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, măt khác, giữa quản trị doanh nghiệp và chất lượng sản phẩm có quan hệ nhân quả,….nên tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quản trị lao động có chất lượng nếu trước hết có cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị tốt, nói cách khác là có trình độ tổ chức và quản lý doanh nghiệp tốt. Do vậy, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. III.Sự cần thiết nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân 1.Vai trò của doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Các doanh nghiệp tư nhân là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội. Theo điều tra của tổng cục thống kê, trong 2006 các doanh nghiệp tư nhân là nơi tạo ra 4 triệu chỗ việc làm, chiếm đến 50% tổng chỗ việc làm cả nước. Sự phát triển của khu vực tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang mất cân đối và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Các doanh nghiệp tư nhân đóng góp vào ngân sách nhà nước ngày càng nhiều, từ hơn 6% tổng ngân sách đầu những năm 2000 lên 9,24% ngân sách năm 2006. Sự năng động của các doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước đổi mới hoạt động kinh doanh, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Hiện thời, các doanh nghiệp tư nhân trong nước đóng góp khoảng gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường về một số mặt hàng quan trọng. Đóng góp ngày một nhiều trong lĩnh vực xuất khẩu khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp tư nhân đối với nền kinh tế. Mặt khác, sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trong nước góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ… 2.Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp tư nhân khi Việt Nam trở thành thành viên WTO Sau 10 năm đàm phán và mong đợi, cuối năm 2006, đầu năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này mang đến cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức. 2.1.Cơ hội Gia nhập WTO mang đến cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam nhiều cơ hội lớn. Một trong những thuận lợi lớn nhất của việc gia nhập WTO là các doanh nghiệp tư nhân trong nước sẽ khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của mình thong qua sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO. Nhờ đó, có thể hạn chế được sự chèn ép của các doanh nghiệp nước ngoài trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Mặt khác, là thành viên thứ 150 của WTO, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng nhiều thị trường xuất khẩu mới, mở rộng xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng. Đây sẽ là đòn bẩy cho những doanh nghiệp tư nhân biết tận dụng và khai thác. Việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới là cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đi cùng với nguồn vốn đầu tư này là cơ hội để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cơ hội tiếp nhận không chỉ công nghệ sản xuất mà còn cả những công nghệ quản lý hiện đại. Hội nhập sẽ đặt các doanh nghiệp tư nhân trước những sức ép của các doanh nghiệp nước ngoài, tạo động lực để các doanh nghiệp tư nhân chuyển hướng hoạt động sang các ngành có lợi thế so sánh, tăng dần hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Doanh nghiệp tư nhân còn được hưởng lợi từ quá trình hội nhập bằng việc thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa các chính sách của nhà nước. Chắc chắn hệ thống chính sách cũng như thủ tục hành chính của nhà nước sẽ đơn giản hóa, thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tư nhân, giúp doanh nghiệp tư nhân thuận lợi phát triển. 2.2.Thách thức Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có những mặt hạn chế của nó. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội nhưng mặt khác cũng dẫn đến nhiều thách thức lớn cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Cùng với việc hưởng lợi từ việc mở cửa thị trường các nước khác, thị trường trong nước cũng phải mở cửa cho sự gia nhập của các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài. Đây chính là thách thức lớn nhất cho những doanh nghiệp tư nhân trong nước, bởi phải đối đầu với những doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính dồi dào, máy móc, công nghệ và kỹ năng quản lý vượt trội, hàng hóa chất lượng tốt…Cùng với sự mở cửa thị trường trong nước là quá trình giảm dần hàng rào thuế quan, phi thuế quan trong nước với hàng xuất khẩu. Đặc biệt là sự kiện mở cửa của thị trường bán lẻ đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu năm 2009 làm hàng hóa trong nước vốn trước kia đã khó khăn lại càng khó khăn trong cạnh tranh. Gia nhập WTO cùng với cơ hội mở rộng thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu là yêu cầu khắt khe về quy trình, chất lượng sản phẩm theo đúng chuẩn quốc tế trong khi khả năng của doanh nghiệp tư nhân còn kém, chưa thể đáp ứng hết. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ATB có hiệu lực trên toàn thế giới từ 1/1/1980 xác lập các rào cản kỹ thuật trong thương mại nhằm tạo ra các cơ cấu, định chế trong các doanh nghiệp , các quốc gia, các khu vực làm giảm hoặc loại trừ dần rào cản kỹ thuật giữa các tổ chức. Từ lâu, trên thế giới đã hình thành hệ thống mua bán tin cậy không có sự kiểm tra chất lượng của bên thứ ba. Cơ sở của hệ thống mua bán tin cậy là các chứng thư chất lượng do một số tổ chức phi chính phủ được nhiều nước công nhận cấp. Đó là các chứng nhận về ISO 9000, ISO 14000… Các định chế này tác động trực tiếp tới các hoạt động quản trị, đặc biệt là quản trị định hướng chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế. Một thách thức khác đối với doanh nghiệp tư nhân là sự giảm dần hỗ trợ của Chính phủ theo đúng cam kết với WTO. Những khoản hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ đầu vào… sẽ dần bị cắt giảm. Không có nguồn trợ cấp này, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã gặp không ít khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài. 3.Kết luận Doanh nghiệp tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, là động lực phát triển kinh tế đất nước. Đây là khu vực góp phần tạo công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng như giúp tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Khu vực doanh nghiệp tư nhân năng động và linh hoạt chính là thước đo sự phát triển nói chung của nền kinh tê. Do đó, đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân là biện pháp đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong sự phát triển của nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu. Gia nhập WTO chính là sự kiện thể hiện sự hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của nền kinh tế Việt Nam. Như đã phân tích, sự kiện này đem lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tư nhân trong việc mở rộng thị trường mới cũng như hấp thụ nguồn vốn cũng như công nghệ từ nước ngoài. Tuy nhiên đi kèm với những cơ hội là thách thức không nhỏ với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân cần biết tận dụng cơ hội và vượt qua những khó khăn để tồn tại và phát triển. Để tận dụng tối đa cơ hội, vượt qua được những thách thức để phát triển bền vững, doanh nghiệp tư nhân cần phải củng cố thực lực của mình, tức là nâng cao các yếu tố nội hàm trong doanh nghiệp. Có được các yếu tố nội hàm mạnh nghĩa là doanh nghiệp tư nhân có được năng lực cạnh tranh mạnh, có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn nước ngoài có tiềm lực tài chính, quản lý và công nghệ vượt trội. Để cải thiện năng lực cạnh tranh, trước hết phải làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh hiện nay của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Những phân tích chi tiết về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ là nội dung chính trong phần sau của chuyên đề. Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam I.Thực trạng phát triển của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam Trước đây, cơ chế kinh tế của nước ta là cơ chế bao cấp với hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu công cộng. Do đó, mọi hoạt động của kinh tế tư nhân đều bị kìm hãm và không có cơ hội phát triển. Kinh tế tư nhân chỉ bắt đầu được thừa nhận và khuyến khích phát triển từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986). Đại hội khẳng định đường lối đổi mới, chỉ rõ "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", chỉ rõ sáu thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế gia đình; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Do vậy, từ thời điểm này, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam mới bắt đầu phát triển. 1.Giai đoạn 1986-1999 Đây là giai đoạn kinh tế tư nhân được Đảng và nhà nước thừa nhận là khu vực kinh tế tồn tại khách quan và cần thiết trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, được tạo điều kiện để phát triển. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 “Công dân Việt Nam có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” và thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng Cộng Sản Việt Nam tại các kỳ Đại hội. Xuất phát từ sự nhận thức trên, các cơ chế chính sách của Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn này đã có sự chuyển biến rõ rệt và được thể chế hóa tại các đạo luật kinh tế quan trọng như: Luật doanh nghiệp tư nhân(1990), luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994)(sửa đổi năm 1998). Các doanh nghiệp tư nhân đã có sự khôi phục và bắt đầu phát triển. Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tạo ra hành lang pháp lý đầu tiên hết sức quan trọng cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Nhờ vậy, khu vực này đã có bước phát triển khá mạnh. Về số lượng, nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp tư nhân hoạt động, thì sau 1 năm (1992) tăng lên 5189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15276, năm 1998 có 39180 và đến năm 1999 tổng số doanh nghiệp khu vực tư nhân lên đến 45601. Như vậy, trong 10 năm, số lượng doanh nghiệp tư nhân đã tăng hơn 100 lần. Đồ thị 1: Số lượng doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 1991-1999 Nguồn: Tổng cục thống kê Cũng theo số liệu từ tổng cục thống kê, giá trị tài sản cố định trung bình của một doanh nghiệp tư nhân (một chủ) năm 1991 là 0,1 tỷ đồng, giai đoạn 1992-1996 giữ ổn định ở 0,2 tỷ đồng. Giá trị này của công ty trách nhiệm hữu hạn là 0,6 tỷ đồng năm 1991, 0,7 tỷ đồng năm 1992, bị giảm xuống 0,5 tỷ đồng trong năm 1996. Số lượng lao động trong doanh nghiệp tư nhân bình quân là 8 người năm 1991, tăng lên 9 người năm 1996, 17 người năm 1997 và 19 người năm 1998. Tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đạt bình quân khoảng 37% thời kỳ 1994-1997. Như vậy, giai đoạn 1986 đến trước 2000, doanh nghiệp tư nhân có sự hồi phục và bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn còn gặp nhiều cản trở và không ổn định bởi hành lang pháp lý trong nước chưa thực sự hoàn thiện. Việc đưa vào thực thi Luật Doanh nghiệp đầu năm 2000 là đòn bẩy thực sự cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. 2.Giai đoạn từ 2000 đến nay Cùng với các chính sách đổi mới, Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ đầu 2000 là khâu đột phá trong cải cách kinh tế và hành chính, tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho khu vực tư nhân phát triển. Nhờ đó, các doanh nghiệp tư nhân có bước phát triển vượt bậc về số lượng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2004, cả nước có 84003 doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 2005, con số này đã lên đến 105167 doanh nghiệp, và năm 2006 là 123392 doanh nghiệp, chiếm 94% tổng số lượng các loại hình doanh nghiệp cả nước. Tuy nhiên sự phát triển về số lượng của các doanh nghiệp tư nhân không đi kèm với chất lượng. Doanh nghiệp tư nhân hoạt động không bền vững, quy mô nhỏ bé, làm ăn chộp giật, kinh doanh thua lỗ, khả năng tiếp cận thông tin kém…và đang bị các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh gay gắt và lấn lướt trên thị trường. Thực trạng phát triển này xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính là do không có đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn hiện nay sẽ được đánh giá rõ ở phần tiếp theo của chuyên đề. II.Đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, nếu chúng ta chỉ đánh giá các tiêu chí một cách riêng biệt thì chưa thể thấy rõ được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay đang ở mức độ nào. Sẽ là vô nghĩa nếu những phân tích được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Do đó, trong quá trình đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam qua một số tiêu chí, đề tài sẽ cố gắng đưa ra vài phép so sánh với năng lực của các loại hình doanh nghiệp khác để có cái nhìn toàn diện về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. 1.Khả năng duy trì và nâng cao kết quả kinh doanh Kết quả hoạt động kinh doanh là yếu tố quan trọng nhất khi xét đến năng lực của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh thấp kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Bảng 1: Số DNTN hoạt động kinh doanh bị lỗ qua các năm Năm Số DNTN Tổng mức lỗ Lỗ bình quân 1 doanh nghiệp Tỷ lệ số DN kinh doanh lỗ kinh doanh lỗ (tỷ đồng) (Triệu đồng) (%) 2004 20497 4703 229 24.4 2005 28457 5261 185 27.6 2006 36833 5441 148 29.85 Nguồn: Tổng cục thống kê Căn cứ vào số liệu bảng trên, thấy rằng có đến 36833 doanh nghiệp tư nhân làm ăn thua lỗ trong năm 2006 với mức lỗ bình quân 148 triệu đồng/1 doanh nghiệp, chiếm 29,85% tổng số doanh nghiệp tư nhân hoạt động. Mặc dù số lỗ bình quân một doanh nghiệp tư nhân có xu hướng giảm trong vào năm gần đây nhưng sự gia tăng của tỷ lệ số doanh nghiệp lỗ đã khiến cho tổng mức lỗ tăng lên đáng kể, đến năm 2006 là 5441 tỷ đồng. Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thua lỗ đã cho chúng ta hình dung về hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh kém của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng năng lực cạnh tranh thấp kém của các doanh nghiệp tư nhân trong nước khi làm một phép so sánh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đối thủ cạnh tranh chính của doanh nghiệp tư nhân. So với các doanh nghiệp nước ngoài, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thấp hơn rất nhiều. Bảng 2: Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đơn vị: % Loại hình Lợi nhuận/vốn kinh doanh Lợi nhuận/doanh thu doanh nghiệp 2004 2005 2006 2004 2005 2006 Doanh nghiệp tư nhân 1.62 1.49 2.01 1.25 1.21 1.74 Doanh nghiệp có vốn 13.04 11.25 13.15 15.37 11.82 14.19 đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp cả nước 4.85 4.35 4.94 5.99 5.23 6.12 Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu và lợi nhuận/vốn kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân còn ở khoảng cách xa so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2004, tỷ lệ lợi nhuận/vốn kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp đến 8 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước. Tỷ lệ này trong các năm 2005 và 2006 lần lượt là 7.6 và 6.5 lần. Cũng như vậy, tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu của các năm 2004, 2005, 2006 của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp nhiều lần so với các doanh nghiệp tư nhân, lần lượt là 12.3; 9.8 và 8.2 lần. Tuy sự chênh lệch này có xu hướng giảm nhưng vẫn là quá xa, và nó thể hiện sự yếu thế của các doanh nghiệp tư nhân trong nước trong cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Không chỉ so với các doanh nghiệp nước ngoài, so với tỷ lệ chung của doanh nghiệp cả nước thì kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân cũng thấp hơn mặt bằng chung đáng kể. Vì vậy có thể đánh giá rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay là rất thấp. 2.Khả năng duy trì và mở rộng thị phần Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân còn được đánh giá qua khả năng duy trì và mở rộng thị phần trên thị trường hoạt động. Thị trường ở đây được xem xét là thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước. Đầu tiên ta đánh giá khả năng duy trì thị phần trên thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân. 2.1.Thị trường xuất khẩu Theo số liệu điều tra 670 doanh nghiệp tư nhân của Viện kinh tế Việt Nam tiến hành năm 2008, trong các năm gần đây, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân có hoạt động xuất khẩu có xu hướng tăng dần lên, năm 2005 là 35.5%, năm 2006 tăng lên 38.35%. Bảng 3:Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân Đơn vị: % 2005 2006 2007 Tỷ lệ DNTN có 33.5 38.02 38.47 hoạt động xuất khẩu Tỷ lệ doanh thu từ XK trong 62.3 63.54 60.92 các DNTN có hoạt động XK Tốc độ tăng doanh thu XK 26.18 15.08 của DNTN có hoạt động XK Nguồn: Viện Kinh tế Việt Nam 2008 Qua số liệu phân tích từ bảng trên ta thấy rằng, dù số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu có tăng lên nhưng tỷ lệ doanh thu từ xuất khẩu trong các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu lại giảm từ 62.3% năm 2005 xuống 63.54% năm 2006 và 60.92% trong năm 2007. Qua đó, dần thấy được rằng, doanh nghiệp tư nhân đang mất dần lợi thế trên những thị trường xuất khẩu của mình. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng khoảng 21.93% trong năm 2007. Trong khi đó tỷ lệ tăng doanh thu từ xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân lại chỉ có khoảng 15.08% trong năm 2007, thấp hơn mặt bằng cả nước. Đây là một hiện tượng đáng ngạc nhiên khi 2007 là năm đầu tiên sau khi Việt Nam gia nhập WTO với nhiều thị trường xuất khẩu mới được khai thông. Như vậy, khả năng mở rộng thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân là không bằng các loại hình khác. So sánh với khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trị giá xuất khẩu hàng hóa của khối này trong năm 2007 chiếm đến 57.2% tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa cả nước (Tổng cục thống kê). Như vậy hơn một nửa thị trường xuất khẩu đang thuộc về các doanh nghiệp có vốn đầu._.là từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Đảng và Nhà nước hiện nay luôn dành sự quan tâm cho khu vực doanh nghiệp tư nhân. Nhưng những chính sách của Chính phủ chỉ ở tầm vĩ mô. Doanh nghiệp tư nhân muốn thực sự phát triển bền vững thì phải xuất phát từ thực lực của mình, nghĩa là có năng lực cạnh tranh mạnh do những yếu tố nội hàm bên trong doanh nghiệp mạnh. Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân sẽ được đề cập lần lượt trong phần tiếp theo của chuyên đề. II.Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân 1.Nâng cao năng lực tài chính Cả trong giai đoạn khởi nghiệp và hoạt động sau đó, tìm đủ vốn đầu tư luôn là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp tư nhân. Quy mô nhỏ khiến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp tư nhân không đảm bảo cho hoạt động. Vốn là vấn đề khá nan giải và không thể dễ giải quyết trong ngắn hạn. Do đó, doanh nghiệp tư nhân phải năng động và linh hoạt trong việc xử lý các tình huống. Để giải quyết vấn đề thiếu vốn, giải pháp chủ yếu cho các doanh nghiệp tư nhân là vay của các ngân hàng. Thường thì doanh nghiệp tư nhân không có tài sản có giá trị thích hợp để làm thế chấp, sổ sách, báo cáo tài chính chưa rõ ràng, minh bạch, năng lực quản lý, xây dựng chiến lược và lập phương án kinh doanh có tính khả thi còn thấp do đó không đủ yêu cầu để vay vốn. Doanh nghiệp tư nhân muốn nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn của mình thì đầu tiên phải minh bạch hóa sổ sách kế toán, báo cáo tài chính. Không một ngân hàng nào muốn trao khoản vay của mình cho những công ty mà họ không nắm rõ về tình hình tài chính. Doanh nghiệp có thể nhờ đến sự tư vấn của các dịch vụ tư vấn pháp luật vay vốn, các công ty kiểm toán có uy tín trong và ngoài nước. Việc tiếp theo mà doanh nghiệp tư nhân phải thực hiện là xây dựng phương án kinh doanh một cách chuyên nghiệp để thuyết phục sự ủng hộ của ngân hàng. Ngân hàng sẽ sẵn sàng đầu tư vào nơi có khả năng sinh lời cho họ. Mặt khác, doanh nghiệp tư nhân phải đảm bảo được uy tín của mình trong việc thanh toán với các ngân hàng. Một bộ phận các doanh nghiệp tư nhân lừa đảo là nguyên nhân làm mất niềm tin của ngân hàng. Không chỉ có thể huy động vốn từ các ngân hàng, có nhiều kênh huy động vốn khác mà doanh nghiệp tư nhân chưa khai thác và sử dụng. Như hình thức thuê tài chính, một kênh thu hút vốn trung và dài hạn được đánh giá là khá hữu hiệu với những ưu thế nổi bật như tiết kiệm chi phí, thủ tục tương đối đơn giản, không phải thế chấp, được hưởng lợi ích từ những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến và các dịch vụ tư vấn miễn phí nhưng các doanh nghiệp tư nhân lại chưa sử dụng nhiều phương thức này. Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân còn có thể huy động vốn bằng cách vay của người lao động trong doanh nghiệp, phát hành trái phiếu hay huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan và khách quan từ phía các doanh nghiệp tư nhân, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nên hệ thống chính sách, pháp luật có nhiều thay đổi, chưa ổn định và đầy đủ… cũng khiến cho doanh nghiệp tư nhân vốn đã khó tiếp cận các nguồn tài chính lại càng thêm khó khăn. Trong phạm vi đề tài, những kiến nghị vĩ mô không được đề cập, nhưng nhìn chung để nâng cao tiềm lực vốn cũng như khả năng tiếp cận nguồn lực này cần đến sự nỗ lực từ cả phía các doanh nghiệp tư nhân và chính sách của Chính phủ. 2.Nâng cao trình độ nguồn lao động Vấn đề nguồn lao động chất lượng thấp đã là vấn đề được nhắc đến từ lâu. Con người luôn là chủ thể của mọi hoạt động, do vậy doanh nghiệp tư nhân muốn hoạt động hiệu quả thì phải có nguồn lao động chất lượng. Doanh nghiệp tư nhân muốn có nguồn nhân lực chất lượng thì cần phải kiểm soát lao động ngay từ đầu vào. Doanh nghiệp tư nhân cần chủ động trong việc liên kết với các cơ sở dạy nghề ở địa phương. Việc này vừa đảm bảo nguồn cung lao động chất lượng, vừa tiết kiệm chi phí nhiều so với việc doanh nghiệp phải tự đào tạo. Người lao động được đào tạo trong các cơ sở dạy nghề một cách chuyên nghiệp, toàn diện, lại được bổ sung luôn những kỹ năng cần thiết khi làm việc trong doanh nghiệp. Kết thúc khóa học, người lao động được sắp xếp chỗ làm ngay trong doanh nghiệp nếu đáp ứng đủ yêu cầu trong quá trình đào tạo. Việc kết hợp như vậy có lợi cho cả ba bên: doanh nghiệp, người lao động và cơ sở dạy nghề. Thực tế, mô hình trên đã thành công ở nhiều nơi và cần được nhân rộng. Nếu chưa có điều kiện bổ sung nguồn lao động có chất lượng, doanh nghiệp tư nhân cần tổ chức sắp xếp đội ngũ lao động cho phù hợp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Mặt khác, cần tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Chính sách đãi ngộ hợp lý là chìa khóa để doanh nghiệp giữ được lao động lành nghề và thu hút lao động có chất lượng tự đến với doanh nghiệp. Đồng thời với việc tuyển dụng lao động có trình độ, doanh nghiệp tư nhân cần luôn bổ sung kỹ năng cho người lao động. Doanh nghiệp nên thường xuyên mở các lớp nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ của người lao động, nhất là khi công ty đưa vào sử dụng những công nghệ mới hay chuẩn bị sản xuất những mặt hàng mới. Giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và các lao động nên thường xuyên giữ quan hệ “mở” trong đó các nhân viên có thể đối thoại trực tiếp với các cấp lãnh đạo và đưa ra ý kiến đóng góp về các hoạt động của doanh nghiệp sẽ góp phần làm giảm thiểu những sự hiểu lầm là mầm mống của các tranh chấp và các mối bất hòa trong quan hệ cá nhân và công việc thường hiện hữu trong nhiều doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp có nhiều lao động đến từ nhiều địa phương với văn hóa khác nhau. Doanh nghiệp cũng nên phổ biến cho tất cả lao động về chiến lược hay phương án kinh doanh của doanh nghiệp, không chỉ đơn thuần là đưa ra những yêu cầu về sản xuất, số lượng hay chất lượng sản phẩm. Như vậy, người lao động luôn chủ động trong công việc, nâng cao tinh thần và năng suất lao động. 3.Nâng cao hiệu quả hoạt động lựa chọn chiến lược Để doanh nghiệp tư nhân thực sự phát triển bền vững, doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh trong trung hạn và dài hạn, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo mùa vụ như hiện nay. Khâu đầu tiên cần cải thiện chính là dự báo. Vấn đề tài chính làm doanh nghiệp tư nhân khó có thể tổ chức các cuộc điều tra thông tin sơ cấp. Do vậy, để làm tốt công tác dự báo, doanh nghiệp tư nhân cần thu thập và tận dụng dụng tối đa các thông tin đa chiều có được từ nhiều nguồn. Phải nhận thức rằng, ở thời đại thông tin như hiện nay, doanh nghiệp nào nắm được thông tin sớm hơn thì sẽ nắm được phần hơn. Vì vậy, không nên bỏ qua thông tin từ bất kỳ nguồn nào, đặc biệt quan trọng như các thông tin liên quan đến chính sách nhà nước, luật pháp. Từ việc thu thập thông tin, doanh nghiệp sẽ tiến hành phân tích các ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp. Những phân tích đặc biệt quan trọng liên quan đến môi trường cạnh tranh ngành như phân tích đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp… cần được tiến hành thường xuyên để đảm bảo doanh nghiệp tư nhân luôn nắm được thay đổi tình hình. Từ đó, doanh nghiệp sẽ rút ra những cơ hội, thách thức của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những chiến lược hợp lý để chiếm lĩnh thị trường và chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt, doanh nghiệp tư nhân cần đặt chiến lược hoạt động của mình cùng xu hướng với sự phát triển của ngành. Nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân cần có sự liên kết. Không để tái diễn tình trạng mạnh ai người đấy làm như hiện nay, làm giảm năng lực cạnh tranh nói chung của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân cần đẩy mạnh liên kết hợp tác bằng nhiều con đường. Việc tham gia vào các Hiệp hội là một hoạt động làm tăng tính liên kết của các doanh nghiệp. Mặt khác, tham gia vào Hiệp hội là cơ hội cho doanh nghiệp được cung cấp thông tin về chính sách và luật pháp, cung cấp thông tin thị trường, tham gia các khóa huấn luyện ngắn hạn, hỗ trợ tìm các nguồn vốn, tư vấn công nghệ và tư vấn cơ hội kinh doanh. Do vậy, chủ động và tích cực tham gia các Hiệp hội sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp tư nhân. Tham gia Hiệp hội là một kiểu của liên kết ngang. Con đường phát triển có sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập là liên kết theo chuỗi, theo chiều dọc, tức là tập hợp tất cả các doanh nghiệp có mối liên quan trong quá trình tạo ra giá trị gia tăng từ khâu cung cấp nguyên liệu, sản xuất… đến phân phối, tiêu thụ, bán hàng tới tay người tiêu dùng. Liên kết như vậy sẽ giúp hoạt động của doanh nghiệp tư nhân luôn ổn định, thu được lợi thế lớn so với các đối thủ. 4.Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing 4.1.Hoạt động nghiên cứu thị trường Để nâng cao hiệu quả hoạt động marketing, đầu tiên doanh nghiệp tư nhân cần đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo. 4.2.Xây dựng thương hiệu Xây dựng thương hiệu mạnh là một công cụ hữu hiệu tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo một nghiên cứu xã hội học, 90% người tiêu dùng cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân cần xây dựng thương hiệu ngay cho riêng mình để nâng cao vị thế trong cạnh tranh. Biểu hiện bên ngoài của thương hiệu là logo, hình tượng, khẩu hiệu, nhạc hiệu, bao bì của doanh nghiệp. Với ngân sách hạn hẹp của doanh nghiệp tư nhân, việc thuê một công ty quảng cáo chuyên nghiệp thiết kế thương hiệu là tương đối khó. Do vậy, khi bắt đầu, doanh nghiệp tư nhân có thể tự thiết kế bằng việc tổ chức các cuộc thi thiết kế logo, khẩu hiệu của doanh nghiệp trong nội bộ công ty. Chú ý rằng, tên gọi của một thương hiệu cần phải đơn giản, dễ nhớ, dễ đọc và mang tính quốc tế. Logo cần phải tạo đuợc sự khác biệt, dễ nhận biết và phân biệt với các logo khác, có khả năng làm cho nguời xem nhớ đến nó và liên tuởng đến sản phẩm của công ty. Logo cần đuợc thiết kế đơn giản để dễ tái tạo chính xác trên các hình thức in ấn, bảng hiệu, băng rôn, biểu tuợng khác nhau. Hình tượng của một nhãn hiệu là cách sử dụng một nhân vật hoặc con vật nào đó diễn tả tính cách riêng biệt của nhãn hiệu, để tạo sự chú ý, sinh động, gợi nhớ, và tạo sự khác biệt của sản phẩm. Nhạc hiệu là một đoạn nhạc hoặc một bài hát ngắn dễ nhớ, dễ lặp lại, đuợc sáng tác dựa trên giá trị cốt lõi của nhãn hiệu và sản phẩm. Khẩu hiệu là một lời văn ngắn gọn diễn tả cô đọng về lợi ích sản phẩm và gợi nhớ. Khẩu hiệu phải lột tả đuợc cái tinh túy của nhãn hiệu và sản phẩm và mang tính đặc trung cho loại sản phẩm đó. Bao bì cần tạo tiện lợi cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm như dễ mở, dễ đóng, dễ cầm, dễ cất, dễ lấy sản phẩm ra. Bao bì sản phẩm cần có một thiết kế nổi bật có thể đuợc khách hàng nhận biết nhanh khi cùng đuợc trung bày trên một vị trí với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể đuợc thực hiện qua hình dáng, kích thuớc hoặc màu sắc, hình ảnh bắt mắt của bao bì. Hình thành thương hiệu rồi, doanh nghiệp tư nhân phải không ngừng phát triển thương hiệu, nghĩa là chất lượng của thương hiệu. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ người khách hàng của mình hơn ai hết, và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Do đó, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp luôn giữ được sự hài lòng của khách hàng, đối tác trong chất lượng phục vụ cũng như chất lượng sản phẩm, dich vụ. Ngoài ra, để quảng bá thương hiệu của mình một cách rộng rãi, doanh nghiệp tư nhân cần chú ý giới thiệu thương hiệu của mình trong tất cả các hoạt động của công ty, kể cả nhỏ nhất. Doanh nghiệp nên in tên, logo, khẩu hiệu của mình lên tất cả các tài liệu, vật dụng như danh thiếp, đồ dùng văn phòng, bảng hiệu, bao bì, brochure và trang web của doanh nghiệp. Đính kèm câu khẩu hiệu vào phần chữ ký của thư điện tử, in logo hoặc đính chúng lên các văn bản giao tiếp với khách hàng cũng là biện pháp để khắc sâu thương hiệu vào trí nhớ của đối tác cũng như khách hàng. Doanh nghiệp có thể in logo lên các vật dụng không quá đắt tiền như áo, túi xách..và phát những vật dụng này cho các khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng và cả các nhà cung cấp mỗi lần ghé thăm doanh nghiệp. Những biện pháp trên vừa đơn giản, dễ thực hiện trong khi chi phí thấp, rất phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp tư nhân trong khi hiệu quả rất lớn. Một vấn đề nữa là doanh nghiệp tư nhân cần nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Các nhãn hiệu, kiểu đáng hàng hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết. 4.3.Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức mạng lưới bán hàng Trên thương trường, phần thắng thuộc về những DN kéo được người tiêu dùng về phía mình và dành được hệ thống phân phối chính là các mạng lưới kinh doanh lớn, cũng như các cửa hàng nhỏ lẻ. Có thể doanh nghiệp làm ra sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hợp lý nhưng nếu sản phẩm không phủ khắp, không đưa đến người tiêu dùng qua hệ thống phân phối tốt thì không ai biết đến sản phẩm đó. Sự trung thành của người tiêu dùng và độ phủ kín của hệ thống phân phối chính là hai điều kiện cơ bản đển doanh nghiệp xây dựng thương hiệu. Vì vậy, vấn đề hiện nay của doanh nghiệp tư nhân là phải hình thành hệ thống phân phối chuyên nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân nên chọn kiểu kênh phân phối dọc. Đây là kiểu tổ chức kênh rất hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến. Trong kênh gồm có nhiều thành viên khác nhau: nhà sản xuất, nhà bán buôn, bán lẻ. Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài. Quản lý giữa các tổ chức hay thành viên kênh phải đảm bản chặt chẽ đến mức tạo ra một sự lưu thông thông suất của hàng hóa và các dòng chảy khác trong kênh từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng và ngược lại. Doanh nghiệp tư nhân nên mạnh dạn đầu tư xứng đáng cho việc thiết kế, tạo ra một cơ cấu kênh phân phối tối ưu về chiều dài (số cấp độ trung gian của kênh), chiều rộng (sản lượng thành viên ở cùng một cấp độ của kênh), số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng hóa được phân bổ vào mỗi kênh. Sau khi thiết kế được một cơ cấu kênh phân phối tối ưu, các doanh nghiệp phải biến các mô hình này thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lưới phân phối và thực hiện các biện pháp để điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình phát triển mạng lưới, tuyển chọn, thu hút các thành viên kênh cũng như quá trình quản lý kênh, các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần đầu tư tiền bạc mà phải có những kế sách khôn ngoan kiên trì, mềm dẻo, khai thác những khía cạnh văn hóa, tập quán truyền thống của người Việt Nam. Nói chung, để xây dựng được hệ thống phân phối, doanh nghiệp tư nhân phải đầu tư nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Thực tế, chỉ có số ít các doanh nghiệp tư nhân ở quy mô trung bình và lớn mới có đủ khả năng thiết lập những hệ thống, chuỗi cửa hàng phân phối của riêng mình. Do đó, khi chưa thể tự thiết lập hệ thống phân phối riêng của mình, doanh nghiệp tư nhân cần thiết lập kế hoạch đưa sản phẩm của mình tham gia vào hệ thống phân phối bán lẻ có sẵn trên thị trường. Trong quá trình mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, các hệ thống phân phối ở nước ta rất đa dạng. Hiện chiếm khoảng 18% là loại hình hiện đại: trung tâm thương mại, đại siêu thị – con số không quá lớn nhưng ngày càng có xu hướng tăng lên, còn lại chiếm 82% là loại hình truyền thống. Hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu lưu thông trên những trên phân phối truyền thống. Việc bán sản phẩm trong những kênh phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại chiếm số lượng ít. Nguyên nhân là do doanh nghiệp tư nhân chưa chú ý đến hình thức ngày càng phổ biến này. Mặt khác, sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân không thường xuyên duy trì được chất lượng khiến các siêu thị không muốn tiêu thụ sản phẩm của họ. Các doanh nghiệp tư nhân cần đẩy mạnh đàm phám với các siêu thị trong việc phân phối sản phẩm, đồng thời đảm bảo nguồn cung ổn định về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. 4.4. Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng Doanh nghiệp tư nhân cần tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các loại dịch vụ để kích thích sức mua của thị trường. Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến phải hướng đồng thời tới ba mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tư tưởng chủ đạo của các thông điệp đưa ra phải dựa vào nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều gì đó của sản phẩm đối với khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quảng cáo uy tín của doanh nghiệp và tính nổi trội của các dịch vụ đi theo. Loại hình quảng cáo trên truyền hình là loại hình có hiệu quả nhất. Tuy vậy, khả năng của doanh nghiệp tư nhân đa số chưa thể chi trả được khoản chi phí lớn như vậy. Doanh nghiệp tư nhân có thể hướng đến các loại hình chi phí thấp hơn như quảng cáo trên đài phát thanh, tạp chí, bảng hiệu…Đặc biệt, xu thế hiện nay là quảng cáo trên internet trong các webside trưng bày sản phẩm, hoặc tiếp thị sản phẩm qua các blog cá nhân, diễn đàn. Khi chuẩn bị tung ra sản phẩm mới, doanh nghiệp tư nhân nên tổ chức buổi giới thiệu sản phẩm để giới thiệu tính năng, cách sử dụng, các dịch vụ hậu mãi, bảo hành cho khách hàng. Như vậy, khách hàng sẽ có điều kiện hiểu biết sâu về sản phẩm, tác động đến sự lựa chọn sản phẩm của khách hàng. 4.5.Tăng cường áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Nếu biết áp dụng hình thức này, doanh nghiệp tư nhân dù nhỏ bé nhưng vẫn có thể phát triển thương hiệu cũng như hệ thống phân phối của mình ở phạm vi rộng lớn. Lợi ích của thương mại điện tử có thể thấy được như tiếp cận với nguồn thông tin đa dạng và khổng lồ, qua đó có cơ hội lựa chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của mình. Giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần. Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Thấy rằng, khi ứng dụng thương mại điện tử, khoảng cách về vốn, thị trường, nhân lực và khách hàng sẽ được thu hẹp lại do bản thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm nhiều chi phí. Hơn thế nữa với lợi thế của kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một phương thức kinh doanh mới khác với hình thức kinh doanh truyền thống. Chính những điều này sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ thậm chí là rất nhỏ trong cuộc cạnh tranh với đối thủ của mình. 5.Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu và phát triển sản phẩm Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, doanh nghiệp tư nhân cần cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công nghệ. Phải xác định rằng, công nghệ là yếu tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ. Công nghệ hiện nay thay đổi từng ngày và đòi hỏi doanh nghiệp tư nhân phải kịp thời nắm bắt. Doanh nghiệp tư nhân cần lập quỹ khấu hao để dành cho việc mua sắm máy móc, thiết bị mới. Việc đổi mới máy móc thiết bị cần tiến hành 5-7 năm/lần để đảm bảo cho sản xuất có chất lượng và đổi mới. Đổi mới công nghệ không chỉ bao gồm máy móc thiết bị. Công nghệ còn là những quy trình sản xuất hay tiêu chuẩn kỹ thuật. Yêu cầu của quá trình sản xuất hiện nay không chỉ là tạo ra sản phẩm được chấp nhận trong nước mà còn phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Và công nghệ áp dụng vừa phải tạo ra sản phẩm chất lượng, vừa đảm bảo không gây hại đến môi trường. Có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Hoạt động nghiên cứu và phát triển là những chi phí cho hôm nay nhưng lại là thành quả cho ngày mai. Một doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu phát triển tốt sẽ có nhiều điều kiện hơn để phát triển mạnh mẽ. Doanh nghiệp tư nhân cần nhận thức được vấn đề này để tăng cường trong khâu nghiên cứu và phát triển. Hiển nhiên là hoạt động này cần một chi phí nghiên cứu lớn trong khi rủi ro có thể xảy ra. Việc gia tăng đột ngột hoạt động này cũng có thể ẩn dấu những chi phí không được kiểm soát. Do vậy doanh nghiệp tư nhân trước hết nên tập trung vào việc nghiên cứu cải tiến sản phẩm cũ, điều chỉnh nó cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu sản phẩm mới phải đảm bảo sản phẩm thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Đặc biệt, nên tạo ra những sản phẩm mang tính đáp ứng nhu cầu tiềm năng của khách hàng, hoặc sản phẩm ở những phân khúc thị trường chưa được đáp ứng. Có như vậy, tuổi đời sản phẩm mới được lâu dài. Cung cấp những sản phẩm như thế luôn đảm bảo doanh nghiệp đi tiên phong trên thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh. 6.Nâng cao công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp Để nâng cao hiệu quả điều hành doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân nên áp dụng những tiêu chuẩn quản lý hiện đại. Những tiêu chuẩn này đã được hình thành qua nhiều năm và áp dụng ở nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Việc quản lý doanh nghiệp dựa theo những tiêu chuẩn này giúp doanh nghiệp tư nhân có những định hướng trong các hoạt động, từ đó khâu quản lý cũng dễ dàng hơn. Trong doanh nghiệp tư nhân áp dụng các hệ thống quản lý, hình thức được áp dụng chủ yếu là ISO 9000. Hệ thống này đưa ra những quy định, thủ tục nhằm đảm bảo quy trình đầu ra cho một sản phẩm chất lượng. Tại Việt Nam, trong 10 năm trở lại đây, có ít nhất ba hệ thống quản lý được quan tâm triển khai trong các doanh nghiệp là: hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm (ISO 9000), hệ thống hoạch định nguồn lực DN (ERP) và mới đây là hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM). Doanh nghiệp tư nhân nên nghiên cứu và áp dụng những tiêu chuẩn này trong hoạt động của doanh nghiệp để tăng hiệu quả quản lý cũng như sản xuất kinh doanh. Đồng thời với việc áp dụng những tiêu chuẩn chung trong quản lý, doanh nghiệp tư nhân cần xây dựng văn hóa riêng cho doanh nghiệp. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa doanh nghiệp, nhưng tựu chung lại, văn hóa doanh nghiệp là các giá trị mà các thế hệ thành viên của doanh nghiệp tạo dựng nên và nó ảnh hưởng đến cách hành xử của các thành viên trong doanh nghiệp đó. Trong thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực, tài sản,… mà còn cạnh tranh và chiến thắng nhau bằng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là hoạt động phong trào bề nổi mà còn là phần chìm với sức lan tỏa mạnh mẽ. Nếu như phần nổi chỉ chiếm 17% trong tảng băng văn hóa thì phần chìm khó định lượng, định tính nhưng lại chiếm tới 83% làm nên sức mạnh nội tại của mỗi doanh nghiệp. Có thể chia văn hóa doanh nghiệp thành các tầng bậc khác nhau. Trong đó, tầng 1 chính là bề nổi, bao gồm cách bài trí nơi làm việc, logo, trang phục của nhân viên,… Tầng 2 (bề chìm) gồm những giá trị được chia sẻ, chấp nhận và tuyên bố như chiến lược kinh doanh, mục tiêu, quy tắc, triết lý kinh doanh, quy chuẩn đạo đức,… Tầng 3 là tầng sâu nhất gồm các quan niệm chung như giá trị nền tảng, cốt lõi của một doanh nghiệp… Cấu trúc văn hóa doanh nghiệp thể hiện qua phong cách của lãnh đạo, nhân viên, cách ứng xử với cộng đồng. Văn hóa doanh nghiệp là phần hồn của mỗi doanh nghiệp và có những tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh cũng như môi trường làm việc chung của công ty. Chính văn hóa doanh nghiệp góp phần đắc lực tạo nên bản sắc; tạo ra một môi trường làm việc thân thiện, hiệu quả; mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết luận Năng lực cạnh tranh là vấn đề quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mọi doanh nghiệp khi tham gia trên thị trường cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp tư nhân, quy mô nhỏ, tiềm lực yếu thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn mà cạnh tranh ngày càng gay gắt bởi sự gia nhập của các tập đoàn lớn từ nước ngoài, những tập đoàn mà quy mô, tiềm lực cũng như kinh nghiệm đều vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân. Chính vì vậy, xuyên suốt những phân tích trong toàn bộ chuyên đề là những luận điểm nhằm đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân với mục đích đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này, góp phần giúp doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh một cách sòng phẳng trên thị trường. Chuyên đề đã giải quyết vấn đề này từ góc độ vi mô, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ bên trong doanh nghiệp. Việc phân tích những yếu tố nội hàm bên trong doanh nghiệp, tìm ra những vấn đề yếu kém từ bên trong doanh nghiệp tư nhân sẽ là cơ sở để giải quyết một cách hiệu quả và triệt để những nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Nhưng cũng chính vì chỉ tiếp cận dưới góc độ vi mô, chuyên đề không đánh giá và đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ vĩ mô, tức là các yếu tố tác động từ bên ngoài tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Đây là một trong những mặt hạn chế của chuyên đề, chưa đánh giá được năng lực cạnh tranh của doanh nghệp tư nhân một cách tổng thể. Một điểm khác, do điều kiện hạn chế về thời gian và kiến thức, những luận điểm trong chuyên đề nhiều chỗ còn chưa đầy đủ về số liệu, dẫn chứng và phân tích. Tuy còn những hạn chế nhất định, chuyên đề hi vọng đã đưa ra được những đánh giá có chất lượng về thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn hiện nay cũng như những giải pháp có thể góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn tới. Cuối cùng, một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Viện Kinh tế Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề. Đặc biệt, cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Hoa đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành chuyên đề này! Tài liệu tham khảo 1. Mai Ngọc, Nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại nội địa Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu và trao đổi, Số 9 (153) năm 2008 2. Nguyễn Nga, Hợp sức để đứng vững trên thị trường nội địa, Báo điện tử VietNamnet, 21:26' 07/01/2009 3. Nguyễn Trần Quang, 5 công cụ để xây dựng thương hiệu, 4. Nguyễn Vĩnh Thanh, Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2006 5. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ và Th.S Nguyễn Thị Mai Trang, Năng lực động của doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí phát triển kinh tế, trang 2-6,số 208, năm 2008 6. PGS.TS Nguyễn Thành Độ, TS Nguyễn Ngọc Huyền, Giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, Nhà xuất bản lao động-xã hội, Hà Nội, 2002 7. PGS_TS Lê Xuân Bá, Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí quản lý kinh tế, trang 11-21, số 12, 2007 8. PGS_TS Trần Đình Thiên, Gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 8, 2006 9. Sổ tay thương mại điện tử cho doanh nghiệp, Thương mại điện tử với Doanh nghiệp, 2007 10. Theo VOV, Hệ thống phân phối trước ngưỡng cửa WTO- Liên kết để cùng tồn tại, 15:16', 15/6/ 2006 11. Tổng cục thống kê ,Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2005, 2006,2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008 12. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm 13. Viện Kinh tế Việt Nam, Báo cáo: Thách thức trong việc điều chỉnh ở mức doanh nghiệp, năng suất và phúc lợi lao động dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa: nghiên cứu trường hợp và đề xuất chình sách, 2008 14. Viện kinh tế Việt Nam, Gia nhập WTO và vấn đề phát triển thị trường nội địa, Đề tài khoa học cấp Viện, 2006 15. Viện kinh tế Việt Nam, Số liệu từ cuộc điều tra 670 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, 2008 Mục lục Danh mục các bảng…………………………………………………………....…1 Danh mục các đồ thị…………………………………………………………..….2 Danh mục ký hiệu viết tắt…………………………………………………….….3 Lời mở đầu………………………………………………………………….….4 Kết luận………………………………………………………………………..78 Tài liệu tham khảo Nhận xét, đánh giá chuyên đề của cơ quan thực tập ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21871.doc
Tài liệu liên quan