Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam: ... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Dệt may là một trong những ngành công nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam. Trong những năm qua thì ngành Dệt may luôn duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hai con số, trong đó Dệt may xuất khẩu là một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực(chỉ sau Dầu thô) với tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu luôn ở mức 2 con số, trung bình khoảng 16%.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... vấn đề chúng ta quan tâm là các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ làm gì để có thể đứng vững, ngày càng phát triển và sánh ngang cùng các cường quốc về xuất khẩu Dệt may trên.
Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp Dệt may xuất khẩu cho đến năm 2020 đó là nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh, giữ vững vai trò ngành trọng điểm , mũi nhọn về xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế. Để đạt được những mục tiêu trên, vấn đề hàng đầu cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Từ những lý do trên em xin chọn đề tài: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam" để có cơ hội tìm hiểu kỹ, và góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên.
Nội dung
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ nhất, Cạnh tranh là quy luật kinh tế cơ bản, quan điểm về cạnh tranh rất rộng ,nhưng hiện nay chưa có quan điểm thống nhất.
Theo quan điểm cạnh tranh cổ điển, Các-Mac cho rằng cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hóa dựa theo chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất , nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất gây ra cạnh tranh, theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, các nhà tư bản đưa ra những biện pháp sử dụng để cạnh tranh là thường xuyên cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động , để thu lợi nhuận siêu ngạch . Như vậy , ông có cái nhìn cạnh tranh dưới góc độ khá tiêu cực , cạnh tranh không bình đẳng ,nếu một bên có lợi thì bên kia chịu thiệt . Tuy nhiên ông cũng nói lên vai trò của cạnh tranh là đổi mới sản xuất , phát triển kinh tế thông qua nỗ lực cạnh tranh của các nhà tư bản.
Lý thuyết cạnh tranh cổ điển đã có những đóng góp nhất định cho việc ra đời lý thuyết cạnh tranh hiện đại sau này.
Theo lý thuyết cạnh tranh hiện đại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất và người tiêu dùng) để nắm lấy vị thế tương đối trong sản xuất và tiêu thụ , hay tiêu dùng nhằm thu lợi ích nhiều nhất cho mình.
Đối với các nhà sản xuất thì mục tiêu của sự ganh đua là giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, nắm được những điều kiện sản xuất và khu vực thị trường có lợi nhất. Còn đối với người tiêu dùng mục tiêu của họ là dùng lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi, như thế, cuộc cạnh tranh thị trường không giống cuộc chiến. Các đối thủ cạnh tranh có thể cùng chia sẻ lợi ích và nếu doanh nghiệp không thể thỏa mãn khách hàng tốt hơn thì có thể rút lui khỏi thị trường một cách tự nguyện chứ không phải do đối thủ “cá lớn” làm phương hại.
Quan điểm hiện đại có cách tiếp cận đúng đắn được nhiều doanh nghiệp, quốc gia sử dụng, có thể thấy cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là cạnh tranh khốc liệt nhất, bất kì doanh nghiệp nào khi tham gia đều phải đối mặt với cạnh tranh để tồn tại và thu lợi nhuận cao và để có thể phát triển một cách bền vững;
Như vậy, cạnh tranh có tác động thúc đẩy sản xuất, là động lực để tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh ,buộc các doanh nghiệp phải kết hợp và thực hiện tốt lợi ích của mình và lợi ích của khách hàng, lợi ích của cộng đồng, lợi ích của xã hội, chính vì vậy, nền kinh tế không ngừng được đổi mới, phát triển, nâng cao mức sống cho người dân
Mặt khác,các doanh nghiệp muốn có vị thế cao trên thị trường, phải nhạy bén hơn, nắm bắt tốt nhu cầu khách hàng hơn các đối thủ cạnh tranh, chính vì vậy mà các doanh nghiệp không ngừng cải tiến kĩ thuật, hoàn thiện về bộ máy quản lý để nâng cao năng suất nhằm tạo ra những sản phẩm giá rẻ hơn, đẹp hơn, chất lượng hơn, chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện, các doanh nghiệp thành công thì ngày càng thu hút được nhiều khách hàng, thu lợi nhuận nhiều;
Thứ hai trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta đã sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ... Ở luận văn này, sẽ chủ yếu đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước sự tấn công của các doanh nghiệp khác ,hay theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại (1997) năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là không bị doanh nghiệp khác đánh bại về kinh tế, lại có khái niệm cho rằng năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với nâng cao lợi thế cạnh tranh, hay năng suất lao động. Theo tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm” cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế . Như vậy, quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chưa được thống nhất, vấn đề là phải tìm được một khái niệm phù hợp cả về điều kiện , bối cảnh, trình độ phát triển của từng thời kỳ, thể hiện được phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đối phó được nhưng tình huống bất lợi nhất chứ không chỉ dựa vào lợi thế so sánh.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là : ‘’khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm , mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững’’ .
Qua khái niệm trên có thể thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không phải là một chỉ tiêu đơn thuần mà mang tính tổng hợp của nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm doanh nghiệp hay cho từng doanh nghiệp, tuy nhiên để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì cẩn phải xem xét những yếu tố ảnh hửong đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2. Các yếu tố ảnh hửong đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Chất lượng và sự sẵn sàng của các yếu tố đầu vào
Các nhân tố đầu vào bao gồm nhân lực, nguyên liệu, phụ liệu, công nghệ, thông tin, các yếu tố này phải sẵn sàng, nghĩa là phải dự trữ đủ về số lượng, chủng loại, chất lượng để kịp thời cung cấp cho bộ phận sản xuất kinh doanh khi cần thiết, đảm bảo không bị giãn đoạn trong sản xuất, và tiêu thụ, ngoài ra chất lượng của các yếu tố đầu vào có vai trò quyết định đến chất lượng của sản phẩm, chất lượng, việc cung cấp đầu vào như nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu, thông tin, đặc biệt thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là rất quan trọng, để doanh nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh.
1.2.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều, ngày càng phong phú về mẫu mã, chất lượng nhưng đồng thời giá thành lai rẻ hơn rất nhiều, các sản phẩm doanh nghiệp tạo ra phải đảm bảo được những yêu cầu đó của thị trường, các doanh nghiệp luôn phải có sự nghiên cứu về thị trường , có những thông tin về thị trường, các đối thủ cạnh tranh và cuờng độ cạnh tranh trên thị trường đó, mức độ đáp ứng của doanh nghiệp trên thị trường đó, và sự nhìn nhận của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh…để có thể đưa ra những chiến lược phát triển đúng đắn trên từng thị trường.
1.2.3. Công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ cúa doanh nghiệp
Đây là yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện, cung cấp nước, thông tin liên lạc…); các ngành công nghiệp có liên quan đặc biệt là ngành công nghiệp phụ trợ đều có ảnh hửong đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp ở khu vực có cơ sở hạ tầng phát triển, dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao thì sẽ có những lợi thế về cạnh tranh như sử dụng hiệu quả nguồn nhân công dồi rào , giá rẻ, nhưng lại có chất lượng cao, hay sự phát triển của thông tin, công nghệ cao thì các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với phương pháp quản lý doanh nghiệp khao học, tiên tiến, hiệu quả trên thế giới, nâng cao sức cạnh tranh so với các đối thủ.
1.2.4. Các chính sách và chiến lược của doanh nghiệp
Các chính sách và chiến lược của doanh nghiệp nhằm mục đích giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Chính sách và chiến lược gồm nhiều loại như chính sách nhân sự , chính sách về các sản phẩm mới, chính sách về thị trường…các chính sách và chiến lược mà tốt là kim chỉ nam giúp doanh nghiệp có những định hướng đúng đắn, đề ra và hoàn thành mục tiêu ngắn, trung hạn để tiếp nối đến mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có chính sách và chiến lược tốt giúp cho doanh nghiệp có thể hoạt động, cạnh tranh trong những điều kiện bất lợi nhất.
Các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường pháp lý tuân theo pháp luật kinh doanh của nhà nứớc do chính phủ Việt nam ban hành, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập thì các doanh nghiệp cần phải quan tâm những qui định do các tổ chức quốc tế đặt ra (WTO, ASEAN, AFTA), các luật lệ pháp lý tạo ra môi trường kinh doanh và hợp tác bình đẳng giữa các doanh nghiệp, một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ thuận lợi cho mọi doanh nghiệp, điều chỉnh hài hòa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích khách hàng, lợi ích của cộng đồng khẳng định mặt tích cực và vai trò của cạnh tranh lành mạnh.
Còn nếu doanh nghiệp hoạt động trong môi trường kinh doanh không lành mạnh, nhiều khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá không đúng với thực chất, sẽ gây những thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội.
Ngoài ra còn phải kể đến chính sách kinh tế, chính sách thương mại , chính sách cạnh tranh, chính sách đầu tư, các chính sách sẽ có tác dụng khuyến khích hay hạn chế, ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của ngành, ảnh hửong đến toàn doanh nghiệp trong ngành đó.
1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1. Năng suất sản xuất
Năng suất là lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian, tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, lượng sản phẩm còn phải đảm bảo về mặt chất lượng(ít phề phẩm),năng suất có liên quan tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực nên nó là một chỉ tiêu tổng hợp của nhiều chỉ tiêu như :
Khả năng chủ động về nguồn nguyên vật liệu,
Qui mô chất lượng nhân lực,
Trình độ công nghệ và qui mô sản xuất…
Các doanh nghiệp luôn luôn phải nâng cao năng lực sản xuất đảm bảo tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và chất lượng cao, ngoài ra đối với các doanh nghiệp nâng cao năng suất liên quan kết hợp hài hòa các lợi ích doanh nghiệp, khách hàng, cộng đồng, ví dụ đối với những doanh nghiệp xuất khẩu có những qui định chặt chẽ về qui trình sản xuất sản phẩm làm sao để đảm bảo về môi trường, những qui định về việc sử dụng lao động vè nếu sử dung lao động trẻ em thì dù có tạo sản phẩm có chi phí thấp thì cũng không có năng suất, không được chấp nhận chứ chưa nói đền năng lực cạnh tranh.
Trong nền kinh tế hiện đại đây là chỉ số rất quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận
Là chỉ tiêu tổng hợp bao gồm:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =lợi nhuận/doanh thu (%)
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư= lợi nhuận /tổng vốn đầu tư (%)
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có = lợi nhuận /tổng vốn chủ sở hữu (%)
Đối với các doanh nghiệp lợi nhuận không chỉ là mục tiêu chủ yếu , mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.thể hiện tiêu chí thể hiện mức độ đạt được mục tiêu hoạt động, phản ánh mặt chất lượng của năng lực cạnh tranh
Tỷ suất lợi nhuận càng lớn hơn 100% thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp càng cao vì thế năng lực cạnh tranh càng cao
1.3.3. Khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp
Đây là chỉ tiêu đành giá về đầu ra của doanh nghiệp. Tiêu chí này gồm tiêu chí thị phần và tốc độ tăng thị phần của doanh nghiệp .
Thị phần là tiêu chí thể hiên vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp , doanh nghiệp có thị phần lớn thể hiện qui mô khách hàng của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp được nhiều khách hàng biết đến hơn, được mua, tạo dấu ấn trong long khách hàng từ đó nâng cao thương hiệu, uy tín của daonh nghiệp, đồng thời giá trị sản phẩm của doanh nghiệp tăng, doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh cao hơn các đối thủ
Được tính theo công thức :
Trong đó :: thị phần doanh nghiệp i
: doanh thu hoặc doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp
D : tổng doanh thu hay doanh số tiêu thụ trên thị trường
Công thức này phản ánh vị thế cạnh tranh tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó, Chỉ tiêu này mang tính chất ‘’ tĩnh’’, người ta thường xem xét sự biến đổi chỉ số thị phân qua các năm
Trong trường hợp không tính được thị phần có thể dùng chỉ số tốc độ tăng trưởng của doanh thu để thay thế.Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi đầu ra của doanh nghiệp theo thời gian được tính bằng cách so sánh mức độ biến đổi của doanh thu hay doanh số của kỳ t so với kỳ t-1. Chỉ tiêu này không phản ánh được vị thế của từng doanh nghiệp trong tổng thể.
1.3.4. Các chỉ tiêu khác
Khả năng thích ứng và đổi mới của doanh nghiệp : trong điều kiện kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự linh hoạt trong mọi tình huống. Đây là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh ‘’động ‘’ của doanh nghiệp.
Khả năng thu hút nguồn lực : khả năng thu hút nguồn lực nhằm đảm bảo cho điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường đồng thời nâng cao năng lực thu hút đầu vào của doanh nghiệp như thu hút lao động có trình độ cao, công nghệ may móc, trang thiết bị , nhà xưởng hiện đại . Đây là chỉ tiêu nhằm đảm bảo nâng cao năng lực cạnh tranh trong dài hạn.
Khả năng liên kết và hợp tác của các doanh nghiệp : Liên kết giữa các doanh nghiệp diễn ra giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước , giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ, nhà cung ứng với các doanh nghiệp sản xuất, tham gia vào liên kết các doanh nghiệp có thể chia sẻ nguồn lực phát triển , hỗ trợ sản xuất, giảm thiểu chi phí so với các doanh nghiệp sản xuât độc lập…vì thế phát triển liên kết doanh nghiệp được coi là một giải pháp quan trọng đã được trình bày ở nhiều nước , nó cũng là một tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh doanh nghiệp ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam
2.1. Tình hình xuất khẩu ngành Dệt May Việt Nam những năm gần đây
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt May Việt Nam
Trong vòng 10 năm qua, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình vào khoảng 20%, đây là mức tăng trưởng cao, đưa dệt may xếp vị trí thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa(chỉ sau dầu thô).
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam giai đoạn (1999-2008)
(Đơn vị :triệu USD)
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Giá trị
1746
1892
1975
2732
3609
4385
4862
5784
7780
9500
Tăng (%)
8.36
4.39
38.33
32.10
21.50
10.88
18.96
34.50
22.10
Kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm 2000-2001 không cao, tăng trưởng thấp lý do chính là: do mặt hàng xuất khẩu của ta phục hồi lại sau khủng hoảng tài chính Châu Á.
Có điểm đáng chú ý là năm 2001 tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may thấp nhất, nguyên nhân là do trong năm này thì hàng Dệt may của việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng Dệt may Trung Quốc,nền kinh tế của các nước nhập khẩu chính của ta lại đang suy thoái nên số lượng nhập khẩu ít hơn, mặt khác, hàng Dệt may của các nước Đông Âu, Bắc Phi, Campuchia, Bangladesh, Srilanka, xuất khẩu vào EU được miễn thuế nhập khẩu và không bị khống chế về hạn ngạch, trong khi đó Dệt may Dệt may Việt Nam không chỉ bị đánh thuế nhập khẩu bình quân 14%, mà còn bị khống chế về hạn ngạch khiến hàng hóa của ta kém cạnh tranh so với hàng hóa nước khác.
Năm 2001 cũng là năm đánh dấu sự kiện hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kì được kí kết, hàng dệt may Việt Nam có khả năng thâm nhập và tiếp cận thị trường tiềm năng, từ 2001 đến 2004 hàng năm tăng trung bình 79.33 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân là 31. 15%, đây là mức tăng trưởng rất cao Dệt may là một trong số ít mặt hàng chủ lực của nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định trong những năm qua.
Biểu đồ dưới đây cho thấy xu hướng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may rõ nét hơn.
Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam
Giai đoạn (1999-2008)
Sau sự kiện Việt Nam kí kết hiệp định thưong mại với Hoa Kì năm 2001, đã có sự thay đổi lớn về kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt Nam trong đó mốc son đáng nhớ nhất là năm 2002 với mức tăng trưởng kỉ lục là 38.33% đưa Dệt may lên vị trí thứ nhất trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Sau khi tăng đột biến trong 2 năm 2002 và 2003 (tăng lần lượt 38,3% và 32,1%) thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong năm 2004 và 2005 đã chững lại do xuất khẩu sang Mỹ và EU bị áp hạn ngạch.
Sang năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, ngành Dệt may đã có những thành tựu chưa từng có. Và 2007 nhờ xuất khẩu sang EU và Mỹ được dỡ bỏ hạn ngạch nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã tăng khá trở lại.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu Dệt may đạt 7,8 tỉ đô la Mỹ , tăng gấp 2,2 lần so với năm 2004 , đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và được xếp thứ 9 trong các nước xuất khẩu hàng may mặc thế giới.
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là 9,5 tỷ USD năm 2008 và 25 tỷ USD vào năm 2020. 7 tháng đầu 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 5,094 tỷ USD, tăng 19,74% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, để đạt mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may năm 2008 thì kế hoạch xuất khẩu trong 5 tháng cuối năm, trung bình mỗi tháng, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của nước ta phải đạt tối thiểu 880 triệu USD. Đó là mức kim ngạch cao, đòi hỏi nỗ lực lớn ở bản thân các doanh nghiệp, hiệp hội Dệt may Việt Nam và cần có những chính sách hợp lý, hiệu quả từ phía Chính phủ.
2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu Dệt may Việt Nam theo thị trường
Thị trường tiêu thụ dệt may thời gian qua đã có nhiều sự thay đổi lớn, đó là sự chuyển biến từ khu vực thị trường Đông Âu sang thị trường khu vực khác.Cho đến nay Dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 100 nước, bảng số liệu dưới đây là những thị trường tiêu thụ chính của Dệt may Việt Nam. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy thị trường tiêu thụ Dệt may Việt Nam tập trung chủ yếu ở 3 thị trường lớn đó là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,còn những thị trường khác, tỷ trọng nhập khẩu thấp.
Bảng 2.2.Kim ngạch xuất khẩu Dệt may tới một số thị trường
(ĐV: triệu USD)
TT
Thị trường
Năm 2006
(tr USD)
So với 2005(%)
Năm 2007
(tr USD)
So với 06 (%)
1
Mỹ
3044.6
16.97
4464.8
46.65
2
EU
1243.8
37.46
1489.3
19.74
3
Nhật Bản
627.6
3.93
703.8
12.14
4
Đài Loan
181.4
-0.95
161.1
-11.18
5
Canada
97.3
20.23
135.5
39.25
6
Hàn Quốc
82.9
67.55
84.9
2.49
7
Nga
62.4
30.33
79.0
26.59
8
Mêhicô
54.5
9
Trung Quốc
29.7
265.92
43.1
45.17
10
Thổ Nhĩ Kỳ
5.7
134.99
37.8
563.80
11
Hồng Kông
31.1
148.75
36.6
17.60
12
UAE
27.4
351.44
28.5
4.15
13
Campuchia
18.5
5.64
28.5
54.15
14
Malaysia
33.7
37.78
25.3
-24.79
15
Singapore
19.1
285.40
24.2
26.40
16
Indonexia
17.4
1,036
24.8
42.40
17
Ả rập Xê út
18.1
166.95
27.2
49.91
18
Ôxtrâylia
23.7
-4.54
24.2
2.08
19
Ukraina
12.2
284.32
21.4
75.20
20
Thái Lan
10.7
367.75
16.4
53.24
21
Nam Phi
3.4
124.38
13.3
294.27
22
Thuỵ Sỹ
10.8
31.97
11.3
4.80
23
Philipine
6.4
373.29
11.2
76.14
Nguồn:Hiệp hội dệt may Việt Nam
Biểu đồ 2.2.Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt Nam sang các
thị trường năm 2007
(Đơn vị: %)
Nguồn:Bộ thương mại Việt Nam
Thị trường Hoa Kỳ
Bảng 2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Hoa kỳ giai đoạn 2000-2008
(ĐV: triệu USD)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Hoa Kỳ (1)
49.5
49.3
850
2480
2396
2602
3044.6
4464.8
5500
Toàn ngành(2)
1892
1975
2732
3609
4385
4862
5784
7780
9500
Tỷ trọng (1)/(2)%
2.62
2.50
31.11
68.71
54.02
53.52
52.18
57.39
57.89
Nguồn:Hiệp hội dệt may Việt Nam
Qua bảng số liệu cho thấy năm 2001 xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ chỉ khoảng 49.3 thì đến năm 2002 con số đã là 850 triệu USD, tăng gấp 17 lần so với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này 2001.Chiếm 1/3 giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
Đến năm 2003 kim ngạch là 2480 triệu USD, tăng gấp khoảng 50 lần so với năm 2001, đạt được điều trên là do nỗ lực của chính phủ, của toàn ngành may, và những nhân tố khách quan khác.
Tuy nhiên đến năm 2005, xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ tăng chậm, thậm chí một số mặt hàng bị tăng trưởng âm(cat 338-339)nguyên nhân là Hoa Kỳ bỏ hạn ngạch cho các nước thành viên của WTO , trong khi Việt Nam chưa gia nhập nên không được hưởng ưu đãi này.
Đến năm 2006 khi Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam được cạnh tranh trong sân chơi bình đẳng hơn nên kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng nhanh, năm 2006 đạt 3 tỷ USD.
Cho đến năm 2007 kim ngạch vào thị trường này là 4.4 tỷ USD và tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn là 28.55%, với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ so với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam chiếm trên 50%, chứng tỏ thị trường này có ảnh hưởng rõ nét nhất đến kim ngạch xuất khẩu cho toàn ngành và tình hình xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Biểu đồ 2.2.1 So sánh tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt may sang thị trường Hoa Kỳ với ngành giai đoạn 2000-2008
(đv: triệu USD)
Số liệu năm 2008 trên chỉ là những con số dự báo, hiện nay các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên thị trường này nguyên nhân chính là do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính khiến sức tiêu thụ trên thị trường này suy giảm.
Thị trường EU
Bảng 2.2.2 kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt nam vào thị trường EU giai đoạn 2000-2008
(đơn vị: triệu USD)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
EU
609
559
579
537.1
760
882.8
1245
1490
1800
Thị trường EU là thị trường truyền thống của Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Và cũng là thị trường tiêu thu Dệt may Việt Nam lớn thứ 2
Số liệu thồng kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD,do nền kinh tế EU chậm lại trong năm 2003. Mức tăng trưởng GDP thực tế chỉ đạt 0.8%. Đây là mức thấp hơn mức tăng 1.0% của năm 2002, mà bản thân mức 1.0% này cũng đã thấp hơn mức 1.7% của năm 2001.
Đến năm 2004 tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỉ USD (đạt 1.245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1.490 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2006, tăng 62,2% so với năm 2005, gấp gần 3 lần so với năm 2003.
Năm 2008, thị trường EU phấn đấu đạt 1,8 tỷ USD.Đây là nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực cao ngay từ đầu năm. Dù tình hình có khó khăn hơn, phải cạnh quyết liệt hơn, nhưng DN Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội giữ vững và duy trì được mức tăng trưởng, nếu tìm được hướng đi thích hợp.
Hiện nay, thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam lớn nhất trong Liên minh vẫn là Đức (46,9%); Pháp (10,8%); Hà Lan (10,3%); Anh (9,4%); Bỉ (6,1%); Tây Ban Nha (5,1%); Ý (4,4%); Đan Mạch (2%); Thụy Điển (1,9%); Áo (1,5%); Phần Lan (0,6%); Ai Len (0,4%); Luxembourg (0,3%); Hy Lạp (0,2%) và Bồ Đào Nha (0,1%).
Năm 2008, EU cũng sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng Dệt may của các nước trong đó có Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc .
Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu Dệt may Việt Nam lớn thứ 3,chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may, thị trường Nhật ban là thị trường khá khó tính, trong khi kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU tăng mạnh thì tốc độ tăng trưởng kim ngạch Dệt may Việt Nam vào thj trường này lại tăng khá chậm,biểu đồ dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn xu thế đó.
Biểu đồ 2.1.3 Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản Giai đoạn 2000-2008
(Đơn vị: triệu USD)
Kim ngạch năm 2006 tăng chỉ khoảng 4%, đạt khoảng 627 triệu USD.năm 2007, chỉ đạt 738 triệu USD chỉ tăng 12.14 %.
Hơn thế nữa, năm 2008 các nước ASEAN được xóa bỏ thuế quan xuống 0%, trong khi đó Việt Nam đang phải chịu mức thuế suất 10%, để được hạ mức thuế xuất xuống 05 bên phía Nhật Bản yêu cầu Dệt may Việt Nam phải đáp ứng tiêu chí sản xuất qua “2 công đoạn”,tức là được sản xuất từ nguyên phụ liệu trong nước, hoặc nhật hoặc các nước ASEAN, đây là thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.
Các thị trường khác
Các thị trường khác như Hàn Quôc, Đài loan, camphuchia, Braxin, Nam Phi….
Chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam.
Trong đó, hiện nay kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt nam là Đài loan,trong khi kim ngạch xuất khẩu sang Hoa kỳ chậm lại thì kim ngạch xuất khẩu sang EU, Đài loan lại tăng cao, việc mở rộng thị trường tiêu thụ Dệt may Việt nam là điều cần thiết giúp gia tăng xuất khẩu, hạn chế rủi ro khi chỉ tập trung vào thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Thị trường tiêu thụ chiếm tỷ trọng thấp nhất là Nam phi năm 2006 với tỷ trọng là 0.06%, còn năm 2007, thị trường chiếm tỷ trọng tiêu thụ dệt may nhỏ nhất của Việt Nam là Philipin. Tỷ trọng nhập khẩu Dệt may Việt Nam vào các thị trường luôn biến động, 7 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may vào các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU đều chậm do ảnh hửong của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới , đặc biệt tại Mỹ.
2.1.3. Kim ngạch xuất khẩu theo chủng loại hàng Dệt may Việt Nam
Năm 2006, các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng như áo len, đồ lót, caravat, khăn, quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so với năm 2005, đạt 205 triệu USD.
Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63 triệu USD. Tuy nhiên, xét theo tổng kim ngạch xuất khẩu thì áo jacket là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt 246 triệu USD.
Đứng thứ ba là áo thun, với mức chênh lệch kim ngạch xuất khẩu lên tới 50 triệu USD, tăng 81% so với năm 2005, đạt 112 triệu USD. Trong khi xuất khẩu áo sơ mi lại tăng thấp, chỉ tăng 9 triệu USD, tương đương với 8,32% so với năm 2005, đạt 117 triệu USD – là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng cao thứ ba.
Trong khi đó, xuất khẩu đồ lót và mặt hàng áo len lại giảm so với năm 2005. Bên cạnh đó, các mặt hàng như áo gió, áo ghilê, khăn, màn… cũng giảm xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng như túi ngủ, quần áo mưa, găng tay, áo Kimono có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng rất cao trong năm 2006. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, xuất khẩu các chủng loại mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm 2007.
Như vậy, có thể nói các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam có thể sản xuất khá đa dạng về các loại hàng may mặc, đáp ứng tốt cho nhu cầu đa dạng trên thế giới.
Áo thun, quần dài, áo Jacket có mức tăng trưởng cao, có kim ngạch xuất khẩu trên 1tỷ. Cao nhất là áo thun 1.5 tỷ năm 2007 tăng 62.41% so với năm 2006.thứ 2 là áo Jacket, tiếp theo là quần dài.các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn, 51.63 năm 2006 và 51.51 năm 2007.
Mức tăng trưởng các mặt hàng khác ngoài mặt hàng truyền thống ở trên năm 2007 tăng rất nhanh, 1808% còn năm 2006 chỉ là 1.18% .cho. Xét về tốc độ tăng trưởng kim ngạch, mặt hàng quần áo y tế là chủng loại có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong tháng 1/2008, .Các mặt hàng này không phải là các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu lớn của nước ta.
2.1.4. Số lượng và qui mô của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam
Theo thống kê năm 2007, toàn ngành có 2390 doanh nghiệp, tổ chức tham gia hoạt động xuất khẩu, tăng 85 doanh nghiệp so với năm 2006. Phần lớn kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng mạnh so với năm 2006, do năm 2007 là năm khởi sắc của toàn ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Bảng 2.1.3 Thống kê số lượng các doanh nghiệp Dệt may theo kim ngạch xuất khẩu
(Đơn vị : triệu USD)
trên 100
50-100
10-50
1-10
Dưới 1
Số lượng (doanh nghiệp)
4
15
174
638
1559
Tăng so với năm 2006
(doanh nghiệp)
2
4
50
47
Giảm 18
Như vậy, thông qua những kết quả đạt được của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam, chúng ta có thể thấy được những triển vọng của ngành trong các ngành xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Dệt may có thể nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hơn thế nữa để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới không thua kém các quốc gia khác. Để làm được điều đó, đòi hỏi ở chủ yếu ở bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực, chúng ta không thể làm được điều đó nếu không đánh giá được đúng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay. Phần tiếp theo, tác giả đưa ra những đánh giá về năng lực cạnh tranh Dệt may xuất khẩu Việt Nam theo các tiêu chí đã nêu ở chương 1.
2.2. Phân tích các năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam theo các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
2.2.1. Năng suất sản xuất
2.2.1.1. Khả năng chủ động nguồn nguyên liệu
Công nghiệp phụ trợ ngành Dệt May chưa phát triển, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong nhiều năm.
Theo nhận định của các nhà kinh tế, thì tình hình sản xuất bông của Việt Nam tụt hậu quá xa so với sự phát triển của ngành, mà bông lại là nguyên liệu chính phục vụ cho ngành Dệt.
Mỗi năm ngành Dệt phải nhập hàng tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22661.doc