Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Long Sơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EU : Liên minh châu ÂU( EUROPEAN UNION )
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
GSP : Thuế ưu đãi GSP
FOB : Free on Board – Giao hàng trên boong tàu
CIF : Cost, Insurance and Freight – Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
EVA : Cao su mềm
WTO : World Trade Organization
TQ : Trung Quốc
SX – KD : Sản xuất – Kinh doanh
DN : Doanh nghiệp
Thuế TNDN : Thuế thu nhập Doanh nghiệp
TSCĐ : Tài sản cố định
TSLĐ : Tài sản lưu động
NG : Nguyên giá Tài sản cố định
KH : Giá t... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Long Sơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Long Sơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rị khấu hao
GTCL : Giá trị còn lại của Tài sản cố định
ĐVT : Đơn vị tính
XNK : Xuất nhập khẩu
TL : Tỷ lệ
CL : Chênh lệch
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
HĐQT : Hội đồng quản trị
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
Bảng 1.1.Hệ thống sản xuất của Công ty cổ phần Long Sơn
7
2
Bảng 1.2.Nhà xưởng xây dựng mới
7
3
Bảng 1.3.Số lượng máy móc phục vụ cho sản xuất
8
4
Sơ đồ 1.1.Quy trình sản xuất giầy da
9
5
Bảng 1.4.Số liệu lao động qua các năm
11
6
Bảng 1.5.Tình hình nguồn vốn và tài sản của Công ty cổ phần Long Sơn
11
7
Sơ đồ 1.2.Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần Long Sơn
13
8
Sơ đồ 1.3. Quy trình xuất nhập khẩu theo phương thức thanh toán Tín dụng – chứng từ
16
9
Bảng 1.5.Lực lượng lao động bình quân
17
10
Biểu 1.1. Cơ cấu lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn
18
11
Bảng 2.1. Giá trị xuất khẩu Da - Giầy Việt Nam 2001-2006
26
12
Bảng 2.2.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Sơn giai đoạn 2005 – 2007
29
13
Bảng 2.3.Tình hình xuất khẩu giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 - 2007
31
14
Biểu 2.1.Sản lượng giầy dép tiêu thụ trên thị thường các nước của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 -2007
36
15
Bảng 2.4 .Tình hình máy móc thiết bị của Công ty tính đến 31/12/2007
34
16
Bảng 2.5.Tình hình tăng, giảm TSCĐ hữu hình của Công ty cổ phần Long Sơn tính đến 31/12/2007
38
17
Biểu 2.2.Biểu đồ % TSCĐ của Công ty cổ phần Long Sơn
39
18
Bảng 2.6 .Tình hình nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
40
19
Bảng 2.7.Tình hình lao động của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007 phân theo trình độ giáo dục, đào tạo
41
20
Biểu 2.4.Biểu đồ cơ cấu lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn
42
21
Bảng 2.8.Một số mẫu giầy của Công ty cổ phần Long Sơn so với các Doanh nghiệp khác trong ngành Da - Giầy
47
22
Bảng 2.9.Tương quan mức giá giầy dép xuất khẩu trung bình của Công ty cổ phần Long Sơn so với một số Công ty khác
45
23
Sơ đồ 2.1.Kênh phân phối hiện tại của Công ty cổ phần Long Sơn
47
24
Sơ đồ 2.2.Kênh phân phối của Công ty giầy Thụy Khuê
48
25
Bảng 2.10.Tương quan sản lượng tiêu thụ trung bình của Công ty với một số công ty khác
56
26
Biểu 2.5.Sản lượng tiêu thụ trung bình của một số Công ty trong ngành Da - Giầy Việt Nam
56
27
Bảng 2.11.Sản lượng tiêu thụ của Công ty giai đoạn 2005 - 2007
52
28
Bảng 2.12.Sản lượng thụ sản phẩm theo mặt hàng của Công ty cổ phần Long Sơn
52
29
Biểu 2.6.Sản lượng tiêu thụ giầy dép theo chủng loại của Công ty giai đoạn 2005 - 2007
58
30
Bảng 2.13.Doanh thu tiêu thụ của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
58
31
Bảng 2.14.Lợi nhuận của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
54
32
Bảng 2.15.Tỷ suất lợi nhuận của Công ty cổ phần Long Sơn
54
33
Bảng 2.16.Năng suất lao động của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
61
34
Biểu 2.7.Năng suất lao động của Công ty giai đoạn 2005 – 2007
61
35
Bảng 3.1.Kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2008 -2010
65
36
Bảng 3.2.Lợi thế cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn
68
37
Mô hình 3.1.Mô hình SWOT đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của Công ty cổ phần Long Sơn
69
38
Sơ đồ 3.1.Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định về giá
74
39
Sơ đồ 3.2.Tiến trình xác định mức giá cơ bản
76
40
Sơ đồ 3.2. Kênh phân phối sản phẩm, hàng hóa của Công ty cổ phần Long Sơn
75
MỞ ĐẦU
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được đánh giá bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Trên cơ sở những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh , muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều hòa mình vào một nền kinh tế mở toàn cầu hóa. Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành mục tiêu chung cho nhiều nước. Để tiếp tục theo đuổi mục đích đó, Việt Nam không ngừng sản xuất và xuất khẩu các ngành hàng có thế mạnh của cả nước như gạo, café, cao su, hạt điều, thủy sản, dệt may, giầy dép, dầu khí…trong đó mặt hàng giầy dép chiếm phần quan trọng không nhỏ, đứng thứ tư trên thế giới về xuất khẩu giầy dép sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia.Năm 2005, Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu giầy dép sang các nước Nhật, Nga, các nước Đông Nam Á, Đông Âu, Trung Đông và châu Phi.Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giầy dép của ngành này trong vài năm gần đây đạt khá cao.Việt Nam hiện là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu giầy dép.Trong đó, 20% lượng giầy dép nhập khẩu của EU là từ Việt Nam, chiếm tới 80% tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành với trên 200 triệu đôi năm 2005, sau Trung Quốc.
Công ty cổ phần Long Sơn – Long Sơn Join Stock Company là một trong những doanh nghiệp rất trẻ của ngành Da - Giầy Việt Nam đã và đang từng bước có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành Da - Giầy của cả nước.Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa mạnh mẽ như ngày nay, Công ty phát huy thế mạnh về giầy dép xuất khẩu với các hoạt động chính như sản xuất, gia công, xuất nhập khẩu. Là một doanh nghiệp mới được hình thành nhưng Công ty cổ phần Long Sơn đã đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển, vấn đề mà Công ty hiện nay đang coi trọng là làm thế nào mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm giầy dép gia công của Công ty trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh hiện có. Nhận thức được tầm quan trọng của xu thế hội nhập và cạnh tranh cũng như mong muốn được đóng góp ý kiến để hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ Phần Long Sơn được phát triển và Công ty có thể đứng vững trong cạnh tranh em chọn đề tài : ”Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới”. Đề tài này không chỉ giúp em hiểu thêm về hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty giai đoạn 2003 – 2007 và có một cái nhìn toàn cảnh về năng lực cạnh tranh hiện tại của Công ty, đánh giá được lợi thế cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đó mà còn làm cơ sở cho Công ty hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu giầy dép, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị marketing của Công ty đồng thời nâng cao sự hiểu biết của em về thực tiễn để phục vụ những lý thuyết đã học.
Với những mục tiêu nghiên cứu ở trên, để thực hiện và phát triển đề tài chuyên đề được thực hiện dựa vào những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu sơ cấp trong Công ty bằng cách quan sát thực tế trong Công ty, phỏng vấn cá nhân. Thu thập số liệu thứ cấp: thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các niên giám thống kê, thông tin trên báo chí, trên internet.
- Phương pháp thống kê – tập hợp phân tích mô tả số liệu : dùng công cụ thống kê tập hợp tài liệu, số liệu của Công ty, sau đó tiến hành phân tích, so sánh,đối chiếu rút ra kết luận về bản chất, nguyên nhân của sự thay đổi.
- Phương pháp so sánh, tổng hợp: So sánh một chỉ tiêu với chỉ tiêu gốc đối với các số liệu kết quả kinh doanh , các thông số thị trường, các số liệu bình quân. Các số liệu so sánh đều phù hợp về thời gian, nội dung kinh tế, đơn vị đo lường, phương pháp tính toán, quy mô và điều kiện kinh doanh .
Đề tài nghiên cứu việc hoàn thiện nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép đối với Công ty cổ phần Long Sơn để nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn khi Công ty thâm nhập thị trường châu Âu(EU). Đề tài nghiên cứu và phân tích số liệu trong giai đoạn 2003 – 2007. Đối tượng khảo sát chủ yếu là các yếu tố bên trong của Công ty liên quan đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép gia công và năng lực cạnh tranh của Công ty.
Chuyên đề “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới “ gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về Công ty cổ phần Long Sơn
Chương II: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN
1.1.Quá trình hình thành và phát triển
1.1.1. Quá trình hình thành
Công ty cổ phần Long Sơn là một Công ty cổ phần được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0203000024, ngày 09 tháng 10 năm 2000 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hải Phòng cấp.
Ngành nghề kinh doanh của Công ty bao gồm:
Sản xuất, gia công giầy dép, đế giầy dép, túi da, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Sản xuất kinh doanh cống thoát nước; kinh doanh xăng dầu, gas hóa lỏng, bất động sản, vật liệu xây dựng, thiết bị giao thông.
Sản xuất bao bì vật liệu đóng gói.
Xây dựng các công trình dân dụng, nhà ở, dịch vụ thể thao, văn hóa.
Tên giao dịch quốc tế của Công ty : Long Son Join Stock Company
Địa chỉ: Thôn Song Mai, Xã An Hồng, Huyện An Dương, Thành phố Hải Phòng
Điện thoại: 0313971819 – 0313594064
Email: CP_Longson@yahoo.com.vn.
Vốn điều lệ: 10.000.000.000 VND
Tài khoản số: 4311.01.0042.01 Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng
1.1.2. Quá trình phát triển
1.1.2.1. Giai đoạn 1( 2000 – 2003 )
Ký kết hợp đồng với Công ty Grand Step Co, Ltd Taiwan để xây dựng nhà xưởng sản xuất giầy dép xuất khẩu tại thôn Song Mai – Xã An Hồng – Huyện An Dương – Thành phố Hải Phòng.
Công ty bắt đầu đi vào sản xuất với hai dây chuyền sản xuất giầy dép xuất khẩu vào tháng 5 năm 2001.
1.1.2.2. Giai đoạn hai ( 2004 – 2005 ):
Công ty mở rộng diện tích nhà xưởng: xây dựng thêm 2 nhà sản xuất và một nhà kho với diện tích 4580m2. Ngoài ra trong giai đoạn này , Công ty cổ phần Long Sơn còn đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Quán Toan - Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng bao gồm khu dân cư, khu thương mại, khu trường học, khu vui chơi giải trí…
1.1.2.3.Giai đoạn ba ( 2005 đến nay):
Trong giai đoạn này, Công ty cổ phần Long Sơn mở rộng thêm chi nhánh tại xã Kim Lương – Huyện Kim Thành – Tỉnh Hải Dương với diện tích 15.000m2 bao gồm hai nhà xưởng sản xuất và một khu văn phòng với tổng số vốn đầu tư tăng thêm trên 2 tỷ đồng.
Công ty cổ phần Long Sơn là Công ty chuyên sản xuất gia công giầy dép xuất khẩu. Hàng năm Công ty xuất khẩu trung bình trên 2 triệu đôi giầy các loại vào thị trường các nước trong và ngoài khối Liên minh châu Âu ( EU ). Với giá trị xuất khẩu trên 6 triệu USD một năm, Công ty đã tạo công ăn, việc làm cho gần 200 lao động/năm của các xã thuộc Huyện An Dương như: An Hồng, Lê Lợi… và một số xã lân cận thuộc Huyện Thủy Nguyên. Thu nhập bình quân của người lao động từ 1.000.000 – 1.300.000VND/ tháng.
1.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng dến năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn
1.2.1. Sản phẩm chủ yếu của Công ty
Sản phẩm chủ yếu của Công ty bao gồm các sản phẩm giầy dép các loại và các công trình xây dựng công cộng và dân dụng.
Sản phẩm giầy dép của Công ty gồm các loại: giầy thể thao; dép xăng đan; giầy cao cổ; mũ giầy; đệm lót mặt....
Các công trình xây dựng dân dụng và công trình công cộng bao gồm: khu chợ; nhà trẻ; nhà văn hóa; bể bơi; trường học....
1.2.2. Thị trường xuất khẩu
Thị trường các nước châu Âu ( EU) : là thị trường đầy tiềm năng có mức tiêu dùng cao nhất thế giới khoảng 6 đôi/ 1 người/ 1năm. Do đặc điểm của sản phẩm giầy dép luôn gắn với các trào lưu mốt, thời trang mà một số nước trong khối EU là những trung tâm thời trang của thế giới nên thị trường này đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã và kiểu dáng.
Thị trường các nước châu Á: đây là khu vực được coi là năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển ngày càng cao. Thị trường châu Á với số dân khoảng 3.548.000.000 người, chiếm 59% dân số thế giới nhưng chỉ tiêu dùng khoảng 1 – 2 đôi/ 1 người/ 1 năm. Do điều kiện tự nhiên và văn hóa tương đồng với Việt Nam nên việc sản xuất và xuất khẩu giầy dép sang thị trường các nước này có nhiều thuận lợi. Song thị trường châu Á lại mang tính cạnh tranh khốc liệt về mặt hàng giầy do có nhiều nước cùng sản xuất đặc biệt là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc.
1.2.3. Đối tác chủ yếu
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thực Nghiệp Lữ Việt ( Grand step Co, Ltd Taiwan ). Một số Công ty đặt hàng gia công chuyển tiếp với Công ty cổ phần Long Sơn như Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sao Sáng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hồng Hà....
1.2.4.Cơ sở vật chất , trang thiết bị
1.2.4.1. Hệ thống sản xuất của Công ty Cổ phần Long Sơn
Tính đến ngày 31/12/2007, hệ thống sản xuất của Công ty cổ phần Long Sơn bao gồm 11 phân xưởng với cơ cấu từng phân xưởng được thống kê trong bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1.Hệ thống sản xuất của Công ty cổ phần Long Sơn
Tên phân xưởng
Số lượng
Phân xưởng may
4
Phân xưởng hoàn chỉnh
3
Phân xưởng đế
1
Phân xưởng pha cắt
1
Phân xưởng kiểm tra chất lượng sản phẩm
1
(Nguồn: Phòng quản lý và điều hành sản xuất Công ty cổ phần Long Sơn)
Mỗi phân xưởng trong nhà máy của Công ty đều có một quản đốc phụ trách và các tổ sản xuất của phân xưởng đều có tổ trưởng, tổ phó. Ngoài ra còn có một số bộ phận trực thuộc như: cơ điện, bốc xếp, tạp vụ…Phân xưởng và các bộ phận đều được điều hành , quản lý trực tiếp của phòng tổ chức.
Bảng 1.2.Nhà xưởng xây dựng mới
Stt
Nhà xưởng xây dựng
Năm
2000
2003
2006
1
Nhà xưởng may
2160m2
2
Nhà phân xưởng hoàn chỉnh A+B
2160m2
3
Nhà kho
2160m2
4
Nhà phân xưởng hoàn chỉnh C
2160m2
5
Nhà phân xưởng Đế và Kho đế
960m2
6
Nhà điều hành 3 tầng
960m2
7
Nhà xưởng chung
960m2
(Nguồn: Phòng Quản lý và điều hành sản xuất Công ty cổ phần Long Sơn)
Tất cả các nhà xưởng đều xây dựng tường chịu lực, mái lợp tôn trần nhựa có độ thông thoáng cao. Nhà điều hành 3 tầng có khung chịu lực, mái bê tông cốt thép.
Tính đến cuối năm 2007, tổng diện tích nhà xưởng , nhà điều hành tại nhà máy Long Sơn mà Công ty đã xây dựng là 11.520 m2
1.2.4.2. Trang thiết bị:
Phần lớn máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất giầy dép trong các phân xưởng sản xuất của Công ty cổ phần Long Sơn đều được nhập khẩu từ Đài Loan, Hàn Quốc, công nghệ ở mức trung bình. Số lượng máy móc hiện nay của Công ty được thống kê trong bảng 1.3:
Bảng 1.3. Số lượng máy móc được sử dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất
Stt
Loại máy
Số lượng
1
Máy may
49 máy
2
Máy chặt
36 máy
3
Máy bồi
1 bộ
4
Máy nén khí
16 máy
5
Máy gồ mũi
6 máy
6
Máy ép
18 máy
7
Máy in xoa
18 máy
8
Máy mài
18 máy
(Nguồn: Phòng Quản lý và điều hành sản xuất Công ty cổ phần Long Sơn)
Số lượng máy có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ bao gồm 16 máy nén khí trong tổng số lượng máy móc, thiết bị của Công ty.
1.2.4.3. Quy trình sản xuất giầy da của Công ty cổ phần Long Sơn:
Sơ đồ 1.1.Quy trình sản xuất giầy da
Ép đế
Kỹ thuật
Kho nguyên liệu
Mài đế
Cán bồi
Chặt
Chuẩn bị may
Chuẩn bị
Gò hoàn chỉnh
Kiểm tra
Xuất kho
Nhập kho
1.2.5. Nguyên vật liệu
Nguyên liệu sử dụng để gia công giầy dép chủ yếu là do đối tác Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Hồng Kông… cung cấp
Nguyên phụ liệu gia công giầy dép các loại bao gồm:
Hộp giầy, túi PE - Đinh gót
Hạt chống ẩm - Kếp tẩy keo
Giấy gói - Đế giầy
Đinh ghim giầy - Da thật
Băng dính hai mặt - Giả da
Băng dính - Vải
Chỉ may - Sơn mực in
Keo - Lưới in
Nước xử lý - Bút vạch vẽ
Nylon lót - Giấy in mác
Bìa lót - Dầu bóng
Tem nhãn giầy - Xốp Eva
Khuy các loại - Giầy mẫu
Khóa các loại - Giẻ lau
Dây giầy - Dây đeo tem
Viền trang trí - Thùng carton
Chun - Dây trang trí
Chốt chặn - Nẹp cứng
1.2.6. Lực lượng lao động
Công ty cổ phần Long Sơn là một trong những doanh nghiệp trẻ của Thành phố Hải Phòng . Số lao động trong Công ty khá ổn định, bình quân khoảng 1290 người/ năm. Công ty có đội ngũ lao động trẻ độ tuổi từ 18 – 35 tuổi, lực lượng lao động chủ yếu thuộc các xã thuộc Huyện An Dương, Huyện Thủy Nguyên – Thành phố Hải Phòng và Xã Kim Xuyên - Huyện Kim Thành – Tỉnh Hải Dương. Ngoài ra Công ty cồn thu hút lao động và tạo công ăn, việc làm cho lao động nhập cư từ các tỉnh bạn như Thanh Hóa, Bắc Giang, Thái Bình…
Theo số liệu thống kê của Phòng Quản lý nhân sự tại Công ty cổ phần Long Sơn ta có bảng 1.4:
Bảng 1.4: Số liệu lao động qua các năm
Chỉ Tiêu
Năm
Tổng số lao động
2005
2006
2007
1.140
1.360
1.520
1.2.7.Tình hình nguồn vốn và tài sản của Công ty
Bảng 1.5.Tình hình nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
ĐVT: VNĐ
Chỉ tiêu
Thực hiện
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
I.Tổng giá tị tài sản
35.503.918.718
55.162.627.179
34.910.697.718
1.Giá trị TSCĐ
10.406.526.461
17.090.551.461
16.984.588.461
2.Giá trị TSLĐ
22.400.255.257
38.072.075.718
17.926.109.257
II.Tổng giá trị nguồn vốn
35.503.918.718
55.162.627.179
34.910.697.718
1.Vốn CSH
6.723.205.718
30.732.760.719
15.691.884.718
2.Vốn vay
28.780.713.000
24.429.867.000
19.218.813.000
(Nguồn : Phòng Kế toán – Tài vụ của Công ty cổ phần Long Sơn)
1.3. Nhiệm vụ, chức năng của Công ty
1.3.1. Nhiệm vụ
Theo quyết định của Nhà nước về việc thành lập doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần Long Sơn có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Tổ chức kinh doanh , nhập khẩu trực tiếp nguyên liệu gia công, tiến hành sản xuất, kinh doanh theo đúng ngành nghề, theo đúng mục đích hoạt động của Công ty.
Triển khai thực hiện các đơn hàng gia công giầy dép các loại.
Chủ động tìm hiểu thị trường, tìm hiểu khách hàng, ký kết hợp đồng kinh tế tiêu thụ sản phẩm .
Sản xuất , gia công theo đơn đặt hàng của khách hàng xuất nhập khẩu theo hợp đồng đã ký.
Bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu.
Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, chăm lo và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên.
Bảo vệ và phát triển doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh xã hội.
1.3.2. Chức năng
Công ty cổ phần Long Sơn có chức năng chính là sản xuất, gia công giầy dép xuất khẩu.
Xây dựng các công trình công cộng và công trình dân dụng.
Thực hiện việc hạch toán kinh doanh có hiệu quả, có tài khoản và con dấu riêng để thực hiện các giao dịch theo đúng quy định của Pháp luật.
1.4. Cơ cấu tổ chức của Công ty
1.4.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty:
Sơ đồ 1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần Long Sơn
Hội đồng quản trị
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Long Sơn
Ban giám đốc
Đài Loan
Ban giám đốc
Việt Nam
Việt Nam
Phòng
khách
hàng
Phòng trưng bày giầy mẫu
Phòng Quản lý
điều hành
sản xuất
Phòng Quản lý điều hành sản xuất
Phòng Kế toán - Tài vụ
Phòng Xuất nhập khẩu
(Nguồn : Phòng Giám đốc Công ty cổ phần Long Sơn)
Trong phạm vi Công ty cổ phần Long Sơn, việc tổ chức bộ máy quản trị phải đáp ứng được những yêu cầu chủ yếu sau:
Phải bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ của Công ty, phải thực hiện đầy đủ, toàn diện các chức năng quản lý doanh nghiệp.
Phải bảo đảm việc thực hiện nghiêm túc chế độ một thủ trưởng, chế độ trách nhiệm cá nhân trên cơ sở bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của tập thể lao động trong Công ty.
Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với những đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của Công ty.
Phải bảo đảm yêu cầu vừa tinh giản, vừa vững mạnh trong bộ máy quản lý.
Thực hiện đầy đủ những yêu cầu nói trên sẽ giúp Công ty cổ phần Long Sơn luôn vững mạnh, thích nghi với môi trường kinh doanh đầy biến động.
1.4.2. Hội đồng quản trị - Chủ tịch hội đồng quản trị
Thực hiện chức năng quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của toàn Công ty.
Kiểm soát mọi hoạt động của toàn Công ty đặc biệt là hoạt động bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Công ty, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và trách nhiệm đối vối xã hội.
Hội đồng quản trị có chuyên trách được quy định trong Luật doanh nghiệp.
1.4.3. Giám đốc Công ty
Là người điều hành cao nhất , có nhiệm vụ tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty.
Quản lý chỉ đạo điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh , phương hướng phát triển và các vấn đề khác của Công ty.
Chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng quản trị và cán bộ công nhân viên về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.4.4. Phòng Quản lý điều hành sản xuất - Quản lý nhân sự
Xây dựng chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh theo tháng, quý, năm.
Xây dựng kế hoạch tuyển dụng, tuyển chọn nhân lực đảm bảo lao động cho hoạt động sản xuất, gia công sản phẩm giầy da các loại theo Hợp đồng của đối tác kinh doanh .
Phân công công việc cho nhân viên theo hướng quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn theo yêu cầu cụ thể của công việc; phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực hiện công việc theo kế hoạch; báo cáo và chịu trách nhiệm trước giám đốc và Hội đồng quản trị của Công ty.
Đề xuất các phương án, các giải pháp quản lý sản xuất kinh doanh trình giám đốc phê duyệt.
1.4.5. Phòng Kế toán - Tài vụ
Quản lý tài chính của Công ty theo đúng Pháp lệnh kế toán thống kê và các quy định về hạch toán kế toán của Nhà nước và quy chế của Công ty.
Phối hợp với các phòng ban chuyên môn tổ chức nghiệm thu, thanh quyết toán các hợp đồng kinh tế để làm báo cáo tài chính theo đúng quy định hiện hành của các văn bản pháp luật.
Quản lý, cung cấp, xác nhận các số liệu, chứng từ liên quan đến tài chính của Công ty, phục vụ việc kiểm kê, giám sát, trình duyệt cơ quan có thẩm quyền theo định kỳ hoặc do đột xuất.
Chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về báo cáo tài chính của Công ty qua từng thời kỳ.
1.4.6. Phòng Xuất nhập khẩu
Là phòng tham mưu giúp giám đốc Công ty xây dựng, triển khai, quản lý, đôn đốc, giám sát việc tổ chức thực hiện kế hoạch hàng năm , hàng qúy, hàng tháng ; dự kiến đánh giá kết quả sản xuất của Công ty theo từng thời kỳ.
Phòng xuất nhập khẩu cùng với các phòng ban chức năng quản lý nghiên cứu các chỉ tiêu, định mức kinh tế thích hợp từng thời điểm cụ thể để có phương án thực hiện có hiệu quả cao nhất các kế hoạch sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ.
Đề xuất và lập các phương án kinh doanh thương mại, thực hiện kinh doanh , tìm kiếm và mở rộng thị trường
Đàm phán , ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với các đối tác.
Trưởng phòng xuất nhập khẩu được phép ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan, chứng từ thanh toán, hợp đồng xuất nhập khẩu với đối tác kinh doanh của Công ty.
Sơ đồ 1.3. Quy trình xuất nhập khẩu theo phương thức thanh toán Tín dụng – chứng từ
1.5. Kết quả khảo sát về lao động của Công ty cổ phần Long Sơn
1.5.1. Cơ cấu lao động của Công ty
Công ty cổ phần Long Sơn bất đầu hoạt động từ năm 2000, số lượng lao động trong công ty khá ổn định từ năm 2003 đến nay. Công ty có đội ngũ lao động trẻ : 1290 người độ tuổi từ 17 dến 44 tuổi chiếm khoảng 99% tổng số lao động trong Công ty. Công ty là một doanh nghiệp sử dụng lao động nữ chiếm tỷ lệ cao : trung bình khoảng 1185 người chiếm khoảng 92% tổng số lao động trong Công ty. Số lao động đã qua đào tạo trong Công ty chiếm tỷ lệ thấp: trung bình khoảng 196 người chiếm 15% tổng số lao động trong Công ty. Theo số liệu năm 2005, Công ty có khoảng 1070 người có trình độ phổ thông cơ sở chiếm 82% tổng số lao động trong Công ty. Nhìn chung, lực lượng lao động trong Công ty hiện nay còn khá trẻ nhưng về trình độ đào tạo còn thấp. Công ty đã và đang không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân được rèn luyện, được đào tạo để nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc, từ đó góp phần gia tăng lợi nhuận và nâng cao đời sống cho toàn bộ công nhân viên trong Công ty. Theo số liệu tổng hợp lao động của Công ty ngày 31/03/2007 của Công ty cổ phần Long Sơn ta có bảng 1.4:
Bảng 1.5.Lực lượng lao động bình quân
Đơn vị tính: Người
Stt
Chỉ tiêu
Nam
Nữ
Tổng số
1
Tổng số lao động trong Công ty
112
1045
1157
2
Số lao động đã lý hợp đồng lao động
112
1046
1157
- Học nghề
16
99
115
- HĐLĐ 3 năm
96
946
1042
3
Công nhân dưới 18 tuổi
17
67
84
(Nguồn Phòng Quản lý nhân sự Công ty cổ phần Long Sơn)
Biểu 1.1. Cơ cấu lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn
1.5.2. Hoạt động đào tạo và tuyển dụng của Công ty
Công ty cổ phần Long Sơn tuyển dụng lao động qua thông báo trong Công ty và một số phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình địa phương…Thông tin tuyển dụng cung cấp đầy đủ yêu cầu, chức danh công việc và điều kiện làm việc nên người lao động có thể nộp hồ sơ tuyển dụng một cách dễ dàng và nhanh chóng. Đối với những lao động đã có tay nghề, Công ty thử việc từ 10 ngày đến một tháng. Đối với lao động chưa qua đào tạo được Công ty tổ chức học nghề hai tháng( theo quyết định của Công ty từ tháng 5 năm 2003 ). Hình thức đào tạo trong Công ty chủ yếu là kèm cặp tại chỗ, trong thời gian đào tạo người lao động làm ra sản phẩm hoàn chỉnh sẽ được trả lương theo thỏa thuận. Số lao động có việc làm trong năm 2002 là 1302 người. Do mặt hàng gia công giầy xuất khẩu có tính thời vụ, thời gian làm thêm giờ nhiều và cạnh tranh trong thu hút lao động của các Công ty cùng ngành nghề nên sự biến động ở Công ty khá lớn và số lượng lao động trong Công ty biến động theo từng ngày, từng tuần và từng tháng.
1.5.3. Hoạt động thực hiện chế độ tiền lương và trả công cho người lao động
Công ty cổ phần Long Sơn có các quyết định về quản lý tiền lương và đơn giá tiền lương theo sản phẩm làm ra căn cứ tính lương cho người lao động. Tuy nhiên Công ty chưa có hệ thống thang lương và bảng lương theo từng chức danh ngành nghề.
Hình thức trả lương: trả lương theo hình thức khoán sản phẩm dựa trên cơ sở lương chính , ngày công và giờ công.
Các khoản phụ cấp mà Công ty cổ phần Long Sơn đang áp dụng là : Phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp độc hại; phụ cấp đứng máy.
Ngoài ra Công ty còn chi tiền ăn ca, tiền trợ cấp làm thêm và tiền làm đủ công hàng tháng cho công nhân. Người lao động luôn được trả lương trực tiếp và kịp thời, lương làm đêm của người lao động được xác định theo quy định trong Bộ luật lao động.
1.5.4. Hoạt động thực hiện kỹ thuật an toàn và bảo hộ người lao động
Công tác an toàn – vệ sinh lao động ban đầu được Công ty quan tâm như :
Thành lập hội đồng bảo hộ lao động
Trang bị phương tiện bảo hộ cá nhân
Đã đăng ký thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động
Có hệ thống đảm bảo vệ sinh nhà xưởng, quạt gió và ánh sáng
Tuy nhiên cho đến năm 2003, hầu hết các chế độ bảo hộ lao động chưa được Công ty thực hiện nghiêm chỉnh như:
Bộ máy hội đồng bảo hộ lao động và an toàn viên đã có nhưng chưa hoạt động và chưa tổ chức huấn luyện về An toàn – Vệ sinh lao động cho cán bộ công nhân viên
Chưa thực hiện chế độ kiểm tra và an toàn, bảo hộ lao động
Chưa khám sức khỏe định kỳ hàng năm cho người lao động
1.6.Thuận lợi, khó khăn của Công ty cổ phần Long Sơn trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới
1.6.1. Những thuận lợi
Công ty cổ phần Long Sơn là một trong những doanh nghiệp trẻ của ngành Da - Giầy Việt Nam, sự phát triển không ngừng trong thời gian qua cùng với lớn mạnh của các doanh nghiệp trong ngành đã tạo nhiều động lực cho doanh nghiệp phát triển hơn nữa trên cơ sở đổi mới cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, nâng cao hiệu quả của các hoạt động quản trị.
Công ty là thành viên của Hội doanh nghiệp trẻ thành phố Hải Phòng, điều đó đã tạo cho doanh nghiệp nhiều cơ hội được giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành; tham gia các hoạt động nhằm quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp thuộc Hội doanh nghiệp trẻ thành phố Hải Phòng như Hội chợ thương mại, Hội chợ triển lãm, Diễn đàn phát triển doanh nghiệp…do Hội phối hợp với Sở Công nghiệp và Sở Thương mại của thành phố Hải Phòng tổ chức.
Vị trí của Công ty cổ phần Long Sơn thuộc địa phận Huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 12 km về phía nam nên thuận tiện trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu cũng như việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài của Công ty.
Việc không ngừng hoàn thiện kế hoạch kinh doanh , cập nhật, nắm bắt thông tin thương mại trên các phương tiện thông tin đại chúng trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và kinh tế khu vực giúp Công ty có thể vượt qua thử thách, khó khăn và tận dụng cơ hội kinh doanh đưa doanh nghiệp vững bước đi lên, sánh vai với các doanh nghiệp cùng ngành trong cả nước.
1.6.2. Những thách thức, khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới đã đề cập ở trên, Công ty cổ phần Long Sơn còn phải đối mặt với không ít thử thách và khó khăn trong một số hoạt động như:
Đào tạo và tuyển dụng nhân sự có trình độ tay nghề và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc đang là một trong những điều kiện để Công ty nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Thu hút nguồn vốn đầu tư từ các đối tác trong và ngoài nước nhằm giải quyết khó khăn về nguồn vốn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị thường tài chính.
Mở rộng mối quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài.
Tìm hiểu thông tin thương mại, tìm hiểu và phát hiện những xu hướng tiêu dùng các sản phẩm giầy da ở từng quốc gia trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới.
Hội nhập cả về kinh tế và văn hóa với các đối tác kinh doanh trong và ngoài nước.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động marketing và hậu cần kinh doanh trong Công ty.
Chương II: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 - 2007
2.1. Ngành Da - Giầy Vi._.ệt Nam
2.1.1.Bối cảnh chung ngành Da - Giầy Việt Nam
Ngành Da - Giầy Việt Nam đã phát triển rất nhanh và được xem là một trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế nước ta phát triển. Da - Giầy là một trong ba ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh nghiệp đang hoạt động, ngành Da - Giầy đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu hút khoảng 500.000 lao động hàng năm.
Hiện nay ngành Da - Giầy Việt Nam đứng thứ tư trong số 8 nước xuất khẩu trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, thế nhưng 90% sản phẩm của giầy da Việt Nam là hàng gia công.Kim ngạch xuất khẩu của ngành Da - Giầy vẫn đạt mức tăng trưởng đều đặn hàng năm.Tuy nhiên theo các chuyên gia, hiện nay ngành này đang phải đối mặt với bài toán hóc búa về thương hiệu, chiến lược phát triển và mất dần lợi thế.
Các doanh nghiệp nội địa ngành Da - Giầy Việt Nam đang có ba bất lợi lớn: Thứ nhất là không chủ động được nguồn nguyên liệu nên phụ thuộc vào khách hàng và các nhà cung cấp nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Thứ hai là tiềm lực khoa học công nghệ chưa mạnh nên không có sức cạnh tranh và doanh nghiệp phải làm gia công cho các Công ty liên doanh nước ngoài là chủ yếu.Và cuối cùng là công tác xúc tiến thương mại kém, nên hầu hết các doanh nghiệp sản xuất làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3.Như vậy, cái gọi là sức cạnh tranh, tiềm lực mạnh của ngành Da - Giầy đều thuộc về các Công ty lớn của Trung Quốc, Đài Loan…đặt tại Việt Nam.Theo Bộ Công Thương, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da thuộc. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn da này được xuất sang Trung Quốc và Thái Lan, phần còn lại thì không đủ sản xuất để xuất khẩu. Ngoài ra trong số 30% doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào sản xuất giầy da thì có tới 70% làm gia công vì thế giá trị lợi nhuận đích thực do ngành này mang lại không lớn.Và chưa đến 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng dạng FOB. Giầy vải vốn là mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam đang bị hàng của Trung Quốc chiếm chỗ và Việt Nam hiện đang xuất khẩu chủ yếu là hàng thể thao, giầy dép, hài đi trong nhà. Hiện nay, giầy Trung Quốc chiếm phần lớn là giầy thể thao( bằng vải hoặc bằng cao su đúc nguyên khối), kế đến là giầy thời trang giả da lót simili và một số ít dép xốp đi trong nhà bằng cao su mềm(EVA). Mặc dù hàng Trung Quốc chất lượng thật sự không cao nhưng với tốc độ mẫu mới ra liên tục, đủ màu sắc mà giá lại mềm nên đã thu hút được người tiêu dùng.
Điểm yếu của các Công ty sản xuất giầy Việt Nam là chưa có sự định hướng rõ rệt, chưa tạo được dấu ấn cho thương hiệu của mình dẫn đến người tiêu dùng có nhận thức khá mơ hồ về các thương hiệu.
Công ty cổ phần Long Sơn là một doanh nghiệp trẻ của ngành Da - Giầy Việt Nam cũng đang có được rất nhiều thuận lợi và phải đối mặt với không ít những thách thức do sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. Để có thể đứng vững và không ngừng phát triển, Công ty đang tiếp tục duy trì và hoàn thiện chiến lược kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ nhất định.
Thuận lợi và khó khăn của ngành Da - Giầy Việt Nam nói chung và của Công ty cổ phần Long Sơn nói riêng trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới và khu vực:
2.1.1.1. Thuận lợi:
Được EU dành cho thuế ưu đãi GSP, sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam bán tại các nước EU có mức giá cạnh tranh ( do thuế nhập khẩu thấp hơn các nước trong khu vực ). Lợi thế này các đối tác với Việt Nam đang hưởng lợi nhiều hơn chính các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhu cầu tiêu dùng lớn, ổn định và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng giá trị của đồng EURO.
Chất lượng sản phẩm giầy dép của Việt Nam phù hợp và đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng trong các nước EU.
Các nước EU mở rộng tạo thêm nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Da – Giầy Việt Nam xuất khẩu sang EU ( với chính sách đồng nhất của EU được thực thi từ tháng 5/2004 ).
Các lợi thế khác từ mối quan hệ Việt Nam – EU , giữa các doanh nghiệp Da – Giầy Việt Nam với các nhà nhập khẩu EU ( quan hệ trực tiếp và thông qua đối tác EU ).
2.1.1.2.Khó khăn, thách thức:
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng trong thời gian qua. Hiện tại chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu giầy dép của EU ( khi vượt qua 25%, EU sẽ có biện pháp mạnh để hạn chế ).
Sức ép do Trung Quốc gia nhập WTO, hiện tại sản lượng giầy dép của Trung Quốc tiêu thụ tại thị trường EU rất lớn với mẫu mã đa dạng, phong phú, giá cả rất cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu nhanh ( tuy chất lượng không được đảm bảo như giầy dép sản xuất tại Việt Nam. Khi chính thức Trung Quốc được thực thi các quy định của WTO ( sau năm 2005 ), các lợi thế đã tăng lên nhiều và các sản phẩm của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn.
Những hạn chế do phương thức gia công, các doanh nghiệp Việt Nam ít có quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng EU để nắm bắt xu hướng tiêu dùng, nhu cầu và những biến động của thị trường theo thời gian nhằm có chiến lược kinh doanh thích hợp.
Hạn chế về khả năng tự thiết kế, ra mẫu chào hàng, chủ động cân đối các điều kiện cho sản xuất ( từ nguồn vật tư trong nước ) và khả năng đáp ứng các yêu cầu của các nhà nhập khẩu ( về tiêu chuẩn sản phẩm, về môi trường và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ).
Các doanh nghiệp trong ngành sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nếu EU xem xét không cho phép được tiếp tục hưởng ưu đãi thuế quan ( GSP ), đặc biệt các đối tác sẽ di dời sản xuất tới các quốc gia có lợi thế xuất khẩu hơn trong khu vực.
2.1.2. Tình hình xuất khẩu hàng Da – Giầy Việt Nam
Việt Nam chiếm vị trí thứ tư trên thế giới về xuất khẩu hàng giầy dép sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, với kim ngạch đạt trên 2,6 tỷ USD trong năm 2004, tăng gần 15% so với năm 2003. Và năm 2005, ngành Da - Giầy Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 470 triệu đôi giáy dép với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành đạt 3,3 tỷ USD. Năm 2005, Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu với Nhật, Nga, các nước Đông Nam Á, Đông Âu, Trung Đông và châu Phi.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành này trong vài năm gần đây đạt khá cao. Việt Nam hiện là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu giầy dép. Trong đó, 20% lượng giầy dép nhập khẩu của EU là từ Việt Nam, chiếm tới 80% tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành với trên 200 triệu đôi năm 2002, đứng thứ 2 sau Trung Quốc.
Bảng 2.1. Giá trị xuất khẩu Da - Giầy Việt Nam 2001-2006
ĐVT: Triệu USD
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Giá trị xuất khẩu
1500
1600
1800
2250
2700
3039
3550
(Nguồn: Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam)
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giầy dép các loại trong tháng 10 năm 2006 đạt 280,9 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành 10 tháng đầu năm 2006 đạt 2,9 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2005.
Năm 2006, tình hình sản xuất kinh doanh của toàn ngành có nhiều biến động so với năm 2005, một phần do 3 tháng đầu năm 2006, nhiều doanh nghiệp phải ngừng sản xuất hoặc ít đơn hàng hơn do ảnh hưởng của vụ kiện chống bán phá giá các loại giầy có mũ từ da xuất xứ Việt Nam và Trung Quốc xuất khẩu vào các nước EU, một phần do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, sức ép của quá trình hội nhập ngày càng gia tăng, cùng với việc phải đáp ứng nhiều yêu cầu của các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng quốc tế (yêu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng và môi trường làm việc, đáp ứng các tiêu chuẩn về nhãn mác, yêu cầu hạn chế các hoá chất độc hại trong sản phẩm, yêu cầu thực hiện tốt Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và yêu cầu thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc tế...). Tuy nhiên, các biến động lớn nhất là thị trường và cơ cấu sản phẩm, cụ thể:
Theo đề án phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 2002-2010 đã được Bộ Công nghiệp( nay là Bộ Công Thương ) trình Chính phủ phê duyệt, để đạt được mục tiêu trên, ngành Da - Giầy sẽ cần phải đầu tư khoảng 12.000 tỷ đồng từ đây đến năm 2005 và 14.000 tỷ đồng giai đoạn 2005-2010. Với chiến lược phát triển này, ngành Da - Giầy dự kiến sẽ sản xuất được khoảng 50% nguyên liệu cho sản xuất giầy vào năm 2005 và tăng lên 80% vào năm 2010. Các chuyên gia của ngành này cho biết, mặc dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu nhưng lợi nhuận thu về từ ngành Da - Giầy chỉ đạt ở mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn gia công hàng cho các đối tác nước ngoài. Nguyên vật liệu sản xuất trong ngành Da - Giầy (chiếm đến 80% giá trị gia tăng của sản phẩm) hiện nay đang là khâu yếu nhất của ngành Da - Giầy Việt Nam, trong đó đặc biệt là khâu chế biến da, nguyên liệu chính cho ngành sản xuất giầy. Các loại giầy như giầy thể thao, giầy nữ là những mặt hàng Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh do có thị trường tiêu thụ lớn.
Thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp trong ngành song có nhiều biến động do ảnh hưởng vụ kiện, sức mua và cơ cấu sản phẩm thay đổi, đồng thời phụ thuộc nhiều vào các đối tác đặt hàng, hợp tác sản xuất và sức ép về thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu và số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng đáng kể. Chỉ tính riêng trong 8 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng trưởng 37%. Thị trường Hoa kỳ được nhiều doanh nghiệp trong ngành hướng tới, một phần do tác động vụ kiện, một phần do nhu cầu đa dạng, phong phú, và quan hệ song phương được cải thiện, các doanh nghiệp chuyển hướng nhằm đa dạng hoá thị trường, hạn chế rủi ro khi bị áp thuế phá giá cao tại thị trường EU, đặc biệt tranh thủ các lợi thế về ưu đãi thuế quan, cải thiện quan hệ thương mại khi VN chính thức gia nhập WTO. Tuy nhiên, để xâm nhập thị trường Hoa kỳ, các doanh nghiệp cần tìm kiếm đối tác tin cậy, gắn với các kênh phân phối lớn và các nhãn hiệu giầy nổi tiếng (Hiện tại, gần 80% lượng hàng tiêu thụ thụ tại Hoa kỳ do các nhà phân phối lớn chi phối, trên 50% lượng giầy tiêu thụ tại Hoa kỳ là hàng hiệu. Thị trường Nhật vẫn là thị trường yêu cầu chất lượng cao và khó tính, hiện tại kim ngạch xuất khẩu giầy dép vào Nhật chiếm tỷ trọng rất thấp và khó có khả năng tăng trưởng nhanh trong thời gian tới đây. Để xâm nhập thị trượng này, các doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho sản xuất, sẵn sàng thực hiện các lô hàng nhỏ và đáp ứng nhanh yêu cầu, đồng thời sản xuất các loại giầy có chất lượng cao. Thị trường Mêhicô, tuy chiếm tỷ trọng không lớn (Năm 2005 đạt 105,257 triệu USD), song có dấu hiệu sẽ bị kiện phá giá do tốc độ xuất khẩu từ Việt Nam vào Mehicô tăng nhanh, giá cả thấp (các doanh nghiệp và đối tác tranh thủ xuất khẩu qua thị trường này để vào Hoa Kỳ và các nước lân cận với lợi thế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)). Các thị trường khác (như Đông Âu, các nước Nam Phi...) đã và đang được các doanh nghiệp quan tâm khảo sát và tìm hiểu, song hạn chế của thị trường này là khâu thanh toán, rủi ro cao.
Hàng Việt Nam khó có thể cạnh tranh với Trung Quốc về mặt giá cả trên hầu hết các thị trường. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của nước ta cần đặc biệt chú trọng những sản phẩm có chất lượng cao để tạo ra lợi thế cạnh tranh riêng. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Công nghiệp( nay là Bộ Công Thương ), giá trị gia tăng trong xuất khẩu mặt hàng này còn thấp (bình quân khoảng 25%) do phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào theo đơn hàng của các tập đoàn lớn. Vấn đề này đòi hỏi ngành trong năm 2005 và những năm tới phải có những giải pháp nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước cao hơn. Ngoài ra, các thị trường khác như Nhật Bản, Đông Âu và Nam Phi cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp trong ngành đang hướng tới. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam vẫn đang tiếp tục tìm kiếm những giải pháp tích cực để đề suất và kiến nghị Uỷ ban Châu Âu xem xét lại quyết định áp thuế càng sớm, càng tốt, đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp trong ngành Da - Giầy Việt Nam, đặc biệt trong quá trình hội nhập.
2.2.Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn
2.2.1.Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn
2005 – 2007
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn được tổng hợp và đánh giá qua Bảng 2.2:
Bảng 2.2.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần
Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
ĐVT: 1000VNĐ
Stt
Các chỉ tiêu
Thực hiện
So sánh
2005
2006
2007
2006/2005
2007/2006
1
Doanh thu thuần
28.922.489
27.318.568
41.315.412
0,94
1,51
2
Giá vốn hàng bán
(CPSX)
24.665.639
23.741.178
34.154.054
0,96
1,44
3
Chi phí quản lý kinh doanh
4.225.857
3.402.416
6.911.551
0,805
2,03
4
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
30.993
174.973
249.807
5,76
1,43
5
Thuế TNDN phải nộp
8.678
49.992
69.946
5,76
1,399
6
Lợi nhuận sau thuế
22.315
125.981
179.861
5,04
1,43
(Nguồn: Phòng Kế toán – Tài vụ Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn ta có thể nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực song lại chưa ổn định. Cụ thể là:
Doanh thu thuần năm 2006 giảm 6% so với doanh thu thuần năm 2005 tương ứng với số tiền giảm là 1.603.921.000VNĐ, nhưng đến năm 2007 doanh thu thuần lại tăng 51% so với năm 2006 tương ứng với số tiền tăng lên là 13.996.844.000VNĐ.
Giá vốn hàng bán năm 2006 giảm 4% so với giá vốn hàng bán năm 2005 tương ứng với số tiền giảm là 924.461.000VNĐ, giá vốn hàng bán năm 2007 lại tăng 44% so với giá vốn hàng bán năm 2006 tương ứng với số tiền tăng lên là 10.412.876.000VNĐ.
Chi phí quản lý năm 2006 giảm 19,5% nhưng năm 2007, khoản chi phí này lại tăng lên 103% so với chi phí quản lý năm 2006 tương ứng với số tiền tăng lên là 3.509.135.000VNĐ.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn năm 2006 tăng lên tới mức 476% so với năm 2005 tương ứng với số tiền tăng lên là 144.580.000VNĐ, năm 2007 khoản lợi nhuận này tăng lên 43% so với năm 2006 tương ứng với số tiền tăng là 74.834.000VNĐ.
Khoản đóng góp của Công ty cổ phần Long Sơn vào Ngân sách Nhà nước tăng từ 8.678.000VNĐ (2005) lên đến 48.992.000VNĐ(2006) và 69.946.000VNĐ(20070, điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đóng góp một phần làm tăng GDP của nước ta.
Lợi nhuận sau thuế của Công ty năm 2006 và 2007 đều tăng lên cụ thể là: năm 2006 tăng 404% so với năm 2005 tương ứng với số tiền tăng lên là 102.666.000VNĐ, năm 2007 tăng 43% so với năm 2006 tương ứng với số tiền tăng lên là 53.880.000VNĐ.
Về hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép các loại thì doanh thu thuần chiếm 7,69% so với tổng doanh thu thuần(2005), chiếm 93% so với tổng doanh thu thuần( 2006), chiếm 73,5% so với tổng doanh thu thuần(2007). Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh giầy dép của Công ty chiếm 56,1% năm 2005, 33,2% năm 2006 và 57,2% năm 2007 so với tổng lợi nhuận của Công ty. Từ đó, ta có thể thấy doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh giầy dép chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của Công ty. Tuy nhiên, Công ty chủ yếu nhận đặt hàng gia công các sản phẩm giầy dép từ đối tác nước ngoài nên còn phụ thuộc nhiều vào việc nhập nguyên, phụ liệu cho hoạt động sản xuất của Công ty và do đó lợi nhuận thu được tuy đã tăng nhưng chưa cao, hoạt động sản xuất chưa thực sự ổn định.
Hoạt động xuất khẩu giầy dép các loại là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn, lợi nhuận sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh giầy dép chiếm tới 56,12% ( năm 2005), 33,22% ( năm 2006 ), và chiếm 57,23% trong tổng lợi nhuận sau thuế của Công ty.Dưới đây là bảng tình hình xuất khẩu của Công ty:
Bảng 2.3.Tình hình xuất khẩu giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn
giai đoạn 2005 - 2007
ĐVT: Đôi
Stt
Thị trường tiêu thụ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Đức
1.155.032
903.318
1.042.843
2
Pháp
69.540
27.999
70.458
3
Bỉ
3.828
12.663
15.354
4
Canada
16.544
15.856
15.844
5
Hà Lan
161.071
110.328
81.980
6
Đan Mạch
12.837
22.517
2.706
7
Italia
264.937
205.191
170.844
8
Thụy Điển
74.592
74.881
144.924
9
Anh
16.791
52.700
6.300
10
Các nước khác
289.418
446.060
605.120
( Nguồn: Phòng Xuất – Nhập khẩu Công ty cổ phần Long Sơn )
Trong thời gian qua, Công ty cổ phần Long Sơn vẫn duy trì việc xuất khẩu giầy dép sang các nước thuộc thị trường châu Âu ( EU ) và không ngừng tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước ngoài khối Liên minh EU. Nhìn chung, thị trường xuất khẩu lớn của Công ty cổ phần Long Sơn vẫn là thị trường các nước như Đức, Anh. Tuy nhiên, sản lượng giầy dép xuất khẩu sang các nước không đều qua các năm, do có sự biến động về số lượng giầy dép ký kết trong hợp đồng với các đối tác nước ngoài và do sự biến động về giá cả nguyên, phụ liệu cho hoạt động gia công. Biểu 2.1; 2.2; 2.3 sẽ cho ta thấy sản lượng giầy dáp xuất khẩu sang thị trường các nước của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007:
Biểu 2.1.Sản lượng giầy dép tiêu thụ trên thị thường các nước của Công ty cổ
phần Long Sơn giai đoạn 2005 -2007
Tại thị trường các nước Anh, Đức, Pháp vẫn được Công ty duy trì và mở rộng, tuy nhiên thị trường Bỉ, Canada và Đan Mạch vẫn chưa được chú trọng. Sản lượng giầy dép xuất khẩu sang các nước này chỉ chiếm khoảng 0,7 – 1,2% so với tổng sản lượng xuất khẩu sang các nước thuộc thị trường châu Âu.
2.2.2.Phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty thông qua các yếu tố
nội lực
2.2.2.1.Nguồn lực vật chất và tài chính
Nguồn lực vật chất của Công ty cổ phần Long Sơn không chỉ biểu hiện ở hệ thống phân xưởng, nhà máy của Công ty mà còn được biểu hiện thông qua số lượng máy móc, thiết bị được sử dụng vào hoạt động sản xuất, gia công sản phẩm giầy dép các loại của Công ty:
Bảng 2.4 .Tình hình máy móc thiết bị của Công ty tính đến 31/12/2007
Stt
Tên thiết bị
Nước sản xuất
Số lượng
Giá trị còn lại
1
Máy may
Nhật
49 máy
85%
2
Máy chặt
Nhật
36 máy
80%
3
Máy bồi
Hàn Quốc
1 bộ
88%
4
Máy nén khí
Hàn Quốc
16 máy
91%
5
Máy gồ mũi
Nhật
6 máy
87%
6
Máy ép
Hàn Quốc
18 máy
86%
7
Máy in xoa
Hàn Quốc
18 máy
90%
8
Máy mài
Nhật
18 máy
87%
(Nguồn : Phòng Quản lý và điều hành sản xuất Công ty cổ phần Long Sơn)
Nhìn chung, máy móc thiết bị trong toàn Công ty cổ phần Long Sơn phần lớn là được nâng cấp, sửa chữa và mua sắm mới, dây chuyền sản xuất được đồng bộ hóa do đối tác Đài Loan cung cấp do đó đảm bảo cho hoạt động gia công, sản xuất giầy dép xuất khẩu trong Công ty đạt hiệu quả cao nhất.
Tổng giá trị máy móc, thiết bị và khấu hao tài sản cố định được sử dụng và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn được thống kê trong Bảng 2.5:
Bảng 2.5.Tình hình tăng, giảm TSCĐ hữu hình của Công ty cổ phần Long Sơn tính đến 31/12/2007
Khoản mục
Nhà cửa,
vật kiến trúc
Máy móc,
thiết bị
Phương tiện
vận tải,
vật truyền dẫn
Tổng cộng
1.Nguyên giá TSCĐ
26.779.991.161
1.370.508.300
1.534.469.000
29.684.968.461
2.Giá trị khấu hao
2.091.059.000
127.821.000
88.000.000
2.306.888.000
3.Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình
15.188.840.161
425.705.300
1.370.043.000
16.984.588.461
Biểu 2.2.Biểu đồ % TSCĐ của Công ty cổ phần Long Sơn
Vốn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh và là yếu tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh của Công ty. Trong thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn đạt được nhiều thành tựu đáng kể do đó mà nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn cũng tăng lên và thay đổi qua các năm:
Bảng 2.6 .Tình hình nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
ĐVT: VNĐ
Chỉ tiêu
Thực hiện
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
I.Tổng giá tị tài sản
35.503.918.718
55.162.627.179
34.910.697.718
1.Giá trị TSCĐ
10.406.526.461
17.090.551.461
16.984.588.461
2.Giá trị TSLĐ
22.400.255.257
38.072.075.718
17.926.109.257
II.Tổng giá trị nguồn vốn
35.503.918.718
55.162.627.179
34.910.697.718
1.Vốn CSH
6.723.205.718
30.732.760.719
15.691.884.718
2.Vốn vay
28.780.713.000
24.429.867.000
19.218.813.000
(Nguồn : Phòng Kế toán – Tài vụ của Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ thể hiện sự tương quan giữa giá trị tài sản và giá trị nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn như sau:
Biểu đồ 2.3.Tài sản và nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn
2.2.2.2.Nguồn nhân lực
Lực lượng lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn phần lớn là lao động trẻ, nhiệt tình, sáng tạo nhưng nếu phân theo trình độ giáo dục, đào tạo ta có thể nhận thấy Công ty còn thiếu một đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp và đội ngũ công nhân lành nghề. Cơ cấu lao động của Công ty được thống kê trong Bảng 2.7:
Bảng 2.7.Tình hình lao động của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn
2005 – 2007 phân theo trình độ giáo dục, đào tạo
ĐVT: Người
Trình độ
Năm
2005
2006
2007
Đại học, sau đại học
25
40
60
Cao đẳng, trung cấp
45
60
80
THPT
1070
1260
1380
(Nguồn: Phòng Quản lý nhân sự Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng số liệu về lao động của Công ty ta có Biểu 2.4 cho thấy cơ cấu lao động của Công ty cổ phần Long Sơn thay đổi từ năm 2005 đến năm 2007 như sau:
Biểu 2.4.Biểu đồ cơ cấu lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn
Theo bảng và biểu đồ trên ta thấy: Hện tại số nhân lực có trình độ đại học, sau đại học trong Công ty cổ phần Long Sơn chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng số công nhân viên trong Công ty, số nhân lực có trình độ cao đẳng, trung cấp cũng chỉ chiếm khoảng 6% trong khi đó số nhân lực có trình độ trung học phổ thông thì chiếm tới 90% tổng số công nhân viên trong Công ty.
2.2.2.3.Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn. Chiến lược kinh doanh chỉ ra đường lối, phương hướng phát triển của Công ty trong ngắn hạn cũng như dài hạn, làm căn cứ cho việc huy động các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu chiến lược đã định. Tại Công ty cổ phần Long Sơn, chiến lược kinh doanh thể hiện thông qua chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, chiến lược định hướng khách hàng. Các chiến lược này đã góp phần giúp Công ty nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường các nước châu Âu( EU ) trong thời gian qua:
- Về chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm: Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, Công ty cổ phần Long sơn đã quan tâm đế yếu tố chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của Công ty có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động giá rẻ, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm chưa cao , nhiều sản phẩm còn đi sau các Công ty khác trong ngành như Công ty giầy Thụy Khuê, Công ty Giầy Thượng Đình, Công ty cổ phần giầy Hà Nội…về kiểu dáng và màu sắc.
- Về chiến lược phân phối: Công ty cổ phần Long Sơn vẫn áp dụng hình thức kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng. Với phương thức này, Công ty không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường. Hiện nay, Công ty đã tận dụng được các đại lý để phân phối bán lẻ, mà chưa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường gồm đặc tính của các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, tiềm năng, đối thủ cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính mùa vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm...), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thông, vận chuyển..). Xác lập hệ thống này chưa hình thành được chiến lược về kênh phân phối chuẩn.
- Về chiến lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp: Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của Công ty đã được quan tâm chú trọng song vẫn còn ở trình độ thấp, giản đơn và chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Công ty chưa có trang Web riêng để quảng bá hình ảnh và sản phẩm của Công ty, chưa dành chi phí cho việc quảng cáo sản phẩm giầy dép các loại trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài.
- Về chiến lược cạnh tranh: Trong thời gian qua, Công ty cổ phần Long Sơn chủ yếu sử dụng công cụ cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm nhưng chưa có hiệu quả cao. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, thị trường các sản phẩm giầy đã trở nên hết sức sôi động với sự tham gia của nhiều loại hình sản xuất, của nhiều doanh nghiệp lớn, nhỏ khác nhau trên thế giới. Công ty cổ phần Long Sơn đã và đang không ngừng phấn đấu, tồn tại, phát triển bền vững, sử dụng một cách linh hoạt các công cụ cạnh tranh của mình. Một số công cụ cạnh tranh được Công ty tiếp tục sử dụng là: Chất lượng sản phẩm; chính sách giá cả; hệ thống phân phối; chính sách Marketing.
2.2.3.Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm giầy dép thông qua các công cụ cạnh tranh
2.2.3.1.Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Nhận thức được chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh chủ yếu nên Công ty đã chú trọng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của các đối tác xuất nhập khẩu của Công ty thông qua việc mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị; không ngừng cải tiến, đổi mới quy trình công nghệ sản xuất mặt hàng giầy dép các loại; có kế hoạch mua và bảo quản nguyên liệu, phụ liệu chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu về chất lượng như thỏa thuận trong hợp đồng với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là đối tác khó tính như Pháp và Canada.
Trên một góc độ nào đó thì giá cả là nhân tố thể hiện chất lượng sản phẩm nghĩa là sản phẩm có giá cả càng cao thì chất lượng càng tốt. Nhưng nếu xét trên một góc độ khác, giá cả được xác định dựa trên cơ sở khai thác lợi thế về năng suất lao động, năng suất của máy móc tạo nên. Hơn nữa chất lượng của sản phẩm còn phụ thuộc và cảm nhận chủ quan của mỗi đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó việc đánh giá chất lượng các sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Công ty cổ phần Long Sơn, chúng ta phải xem xét tất cả các thuộc tính cấu thành nên chất lượng sản phẩm như công dụng của sản phẩm, tính tiện dụng hay tính hữu ích do sản phẩm mang lại. Đặc biệt là phải xem xét, đánh giá các yếu tố có liên quan đến việc hình thành chất lượng sản phẩm của Công ty như yếu tố chính xác về thời gian, số lượng, giá cả và điều kiện vận chuyển đã ký kết trong hợp đồng gia công của Công ty. Theo những số liệu về tình hình xuất khẩu và thực hiện các hợp đồng gia công của Công ty giai đoạn 2003 – 2007 , số lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định của đối tác nước ngoài mà Công ty đã ký kết hợp đồng đạt gần như 100%, chỉ có một số rất ít kiện hàng bị gửi trả lại do có 2 đến 3 sản phẩm bị lỗi. Hầu hết các đơn hàng đều được thực hiện theo đúng kế hoạch, Thủ tục Hải quan cũng được giải quyết thuận tiện và nhanh chóng.
Về chất lượng các sản phẩm giầy dép nói chung của Công ty cổ phần Long sơn có thể được đánh giá trên một số khía cạnh sau:
- Tính năng :
+ Thông thoáng : có các lỗ khí tạo sự thoát hơi nước của mồ hôi, đảm bảo không bị ẩm ướt và không có mùi, đồng thời làm giảm nhiệt độ phát sinh trong giầy, tạo mát mẻ và thoải mái .
+ Độ cứng của đế ngoài : có khả năng chịu được lực va đập, độ mài mòn cao, nhưng vẫn đảm bảo tính êm dịu, không gây cảm giác đau bàn chân.
+ Tính mềm dẻo : tạo sự đàn hồi, cảm giác dễ dàng, thoải mái khi vận động do sử dụng loại vật tư mềm, đàn hồi tốt, nhưng vẫn đảm bảo độ bền theo tiêu chuẩn đã đăng ký.
+ Ôm chân : phần quai được thiết kế chính xác vừa vặn với cổ chân theo thông số bàn chân của từng vùng khác nhau tạo cảm giác an toàn khi sử dụng.
+ Ma sát : Phần đế ngoài được thiết kế các hoa văn đặc biệt, có độ ma sát cao, chống được trơn trượt, rất phù hợp với các hoạt động thể dục thể thao.
+ Trọng lượng : Sản phẩm giầy da có trọng lượng nhẹ vừa phải, phù hợp với mọi hoạt động đi lại hoặc thể thao, nhưng cũng đảm bảo tính mềm dẻo, che chở cho bàn chân tránh được va đập từ bên ngoài.
+ Tính thẫm mỹ : Sản phẩm giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn đã và đang phát triển và cho ra đời một số kiểu dáng mới lạ theo từng mùa và thị hiếu của từng khu vực khác nhau.
- Công dụng một số chủng loại sản phẩm giầy – dép :
+ Các loại sandal thể thao: Dùng để mang thông dụng ngoài trời cho những vùng khí hậu nóng, phù hợp tính thời trang, dã ngoại.
+ Dép da nữ: Dùng để mang trong những buổi tiệc hoặc dạ hội .
+ Giầy chạy (Jogging): có đặc điểm nhẹ, êm, thông thoáng, mũ quai có thể co dãn được; phần đế sử dụng PU, phylon, EVA,… thích hợp cho thể thao, chạy bộ.
+ Giầy tây: Dùng để mang thông dụng trong công sở, tiệc tùng, khiêu vũ, vv…
+ Giầy bóng rổ, bóng chuyền: có đặc điểm êm chân và thông thoáng , cổ quai vững chắc, có bề ngang rộng tạo sự thoải mái khi rơi từ tên cao xuống, thích hợp cho thể thao bóng rỗ, bóng chuyền.
+ Giầy Tennis: có đặc điểm êm chân và thông thoáng, có khả năng chịu lực tác dụng ngang cao, có túi khí giảm sốc thích hợp cho thể thao, giải trí tennis.
+ Giầy thông dụng: Gọi chung là giầy thể thao thông dụng, phù hợp tính thời trang sử dụng cho thể thao và dã ngoại.
Bảng 2.8.Một số mẫu giầy của Công ty cổ phần Long Sơn so với các doanh nghiệp khác trong ngành Da - Giầy
Khoản Mục
Công ty cổ phần
Long Sơn
Công ty giầy Thượng Đình
Công ty Biti’s
(1)
(2)
(3)
Giầy tây
Sandal thể thao
Giầy thể thao
2.2.3.2.Cạnh tranh bằng giá cả
Chiến lược giá cả cũng đóng vai trò then chốt trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty cổ phần Long Sơn. Mặc dù nó chỉ có hiệu quả trong một thời gian ngắn nhưng nó là công cụ cạnh tranh đắc lực, ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm giầy dép tiêu thụ trên thị trường EU của Công ty và quyết định ký kết hợp đồng gia công của đối tác nước ngoài. Để có thể đưa ra m._., năng động, nhiệt tình trong công việc phải được thực hiện song song với hoạt động đào tạo. Đào tạo nhằm mục đích tăng thêm hiểu biết cho người lao động đồng thời đổi mới phương pháp, cách thức, kỹ năng, thái độ đối với đồng nghiệp. Hoạt động đào tạo trong Công ty cổ phần Long Sơn vừa phải định hướng cho hiện tại vừa phải định hướng cho tương lai trên cơ sở xác định đúng đắn đối tượng đào tạo, kết hợp giữa đào tạo và đào tạo lại.
- Các kỹ năng cần thiết nên đào tạo cho nhân viên trong Công ty cổ phần Long Sơn:
Mở rộng nhận thức về bản thân
Xây dựng các mối quan hệ
Xác định rõ những kỳ vọng
Các kỹ năng nền tảng
Lập hồ sơ phạm vi hoạt động và xác định sự cần thiết của định hướng lãnh đạo
Xác lập đường lối lãnh đạo
Phát triển người khác thành lãnh đạo
Xây dựng cơ sở để đạt được sự cam kết
Gây dựng ảnh hưởng để đạt được sự ủng hộ tự nguyện của người khác
Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả
Các kỹ năng định hướng
Các kỹ năng gây ảnh hưởng
- Nội dung đào tạo đối với công nhân của Công ty:
Kỷ luật lao động trong Công ty
Phương pháp phòng cháy chữa cháy và vệ sinh nơi làm việc trong Công ty
Quy trình sản xuất, gia công sản phẩm
Văn hóa Công ty
KIẾN NGHỊ : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI SỞ THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG, BỘ CÔNG THƯƠNG VÀ
CHÍNH PHỦ
1. Các kiến nghị về thủ tục hành chính:
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho Công ty cổ phần Long Sơn trong việc hoàn thành thủ tục xuất nhập khẩu tại Cảng Hải Phòng để việc xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu nguyên, phụ liệu, máy móc, thiết bị được nhanh chóng và kịp thời.
- Giảm bớt sự chồng chéo trong việc kiểm tra, kiểm soát các cơ sở sản xuất và kinh doanh , tập trung vào những đầu mối cân thiết để tạo ra sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của của Công ty.
- Tạo môi trường pháp lý ổn định và lành mạnh.
2. Các kiến nghị với hoạt động hỗ trợ Thương mại của các cơ quan quản lý Nhà nước
- Hoạt động hỗ trợ thương mại từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước là vô cùng cần thiết đối với sự phát triển của Công ty cổ phần Long Sơn, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới và cạnh tranh gay gắt như ngày nay. Vì vậy :
- Bộ Công thương cần hỗ trợ các Công ty trong ngành Da - Giầy hơn nữa trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng để giúp các doanh nghiệp trong ngành giầy vượt qua các rào cản của thị trường nước ngoài.
- Bộ Công thương và Sở Công nghiệp Thành phố Hải Phòng cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến Thương mại và hỗ trợ, giúp đỡ Công ty cổ phần Long Sơn liên hệ thường xuyên với hệ thống thương vụ Việt Nam tại các nước trong việc cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài.
- Sở Công nghiệp Thành phố Hải Phòng nên thành lập Phòng trưng bày sản phẩm giầy của các Công ty thuộc Hội doanh nghiệp trẻ Hải Phòng để giới thiệu rộng rãi các sản phẩm giầy dép của Hải phòng với bạn hàng trong nước và quốc tế.
3.Về phía Chính phủ
- Cần cân nhắc, lựa chọn chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong thời gian nhất định với những phương pháp hợp lý nhằm tạo môi trường và tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển.
- Từng bước giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công, ổn định giá các hàng hóa đầu vào có tác động làm tăng chi phí sản xuất như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 7 năm hình thành và phát triển Công ty cổ phần Long Sơn đã không ngừng vươn lên mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, sản phẩm của Công ty ngày các phong phú và đa dạng về chủng loại và chất lượng.Nhưng do hạn chế về thông tin cũng như các nguyên nhân chủ quan khác nên năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường EU chưa cao.
Ngày này trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động nhất là trong giai đoạn Việt nam đang trên tiến trình hội nhập kinh tế thế giới theo cả chiều sâu và chiều rộng,để có thể đương đầu với những khó khăn mới Công ty cần có những biện pháp mới để nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của mình để có thể thâm nhập vào thị trường các nước phát triển khác ngoài các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu (EU).
Sự phát triển dựa trên lợi thế cạnh tranh hiện có và khai thác những lợi thế cạnh tranh tiềm ẩn của Công ty trên cơ sở hoạch định chiến lược kinh doanh cũng như chiến lược Marketing xuất khẩu, chiến lược cạnh tranh cụ thể trong từng giai đoạn nhất định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty huy động mọi nguồn lực một cách hiệu quả và nâng cao được vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và trên thế giới.
PHỤ LỤC
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguyễn Vĩnh Thanh
I -Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
1. Về vốn của doanh nghiệp
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vấn của doanh nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vấn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước (868.788 tỷ đồng). Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004, bình quân mỗi doanh nghiệp là 23,95 tỷ đồng), trong đó số doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng có 18.790 doanh nghiệp (chiếm 26,09% tổng số doanh nghiệp), doanh nghiệp có quy mô vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng là 12.954 doanh nghiệp (chiếm 17,99%), số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng là 24.737 doanh nghiệp (chiếm 34,35%), số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng là 5.496 doanh nghiệp (chiếm 7,63%), số doanh nghiệp có số vốn từ 10 đến 50 tỷ là 6.648 doanh nghiệp (chiếm 9,23%), số doanh nghiệp có số vốn từ 50 đến 200 tỷ đồng là 2.491 doanh nghiệp (chiếm 8,46%), số doanh nghiệp có vốn từ 200 đến 500 tỷ đồng là 586 doanh nghiệp (chiếm O,81%), số doanh nghiệp cọ vốn trên 500 tỷ đồng là 310 doanh nghiệp (chiếm 0,48% tổng số).
Như vậy, có thể thấy đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là điều đáng lo khi các chính sách - bảo hộ của Nhà nước đến năm 2006 hầu như không còn nữa vì theo lịch trình giảm thuế quan cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng bị các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại.
Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và việc huy động vốn trong dân vào đầu tư sản xuất, kinh doanh chưa được cải thiện. Các doanh nghiệp Nhà nước được ưu đãi hơn về vốn trước hết là được cấp vốn ban đầu từ ngân sách, cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh ... Còn các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu dựa vào vốn tự có của cá nhân. Với khả năng tiếp cận nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp có tình trạng phổ biến là chiếm đụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.
2. Hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
Về hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp: theo một điều tra của tác giả với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên, 84% số doanh nghiệp còn lại cho rằng công tác nghiên cứu thị trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, họ chỉ tiến hành nghiên cứu trước khi có ý định xâm nhập thị trường. Một số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, chỉ chưa đầy 10% số doanh nghiệp là thường xuyên thăm thị trường nước ngoài, chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước, 42% số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có cuộc đì thăm thị trường nước ngoài, và khoảng 20% không một lần đặt chân lên thị trường ngoài nước. Các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân thì khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài hầu như không có.
Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường và đã tiến hành nghiên cứu, song "lực bất tòng tâm", vốn ít, ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường rất hạn hẹp, khả năng thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn kém, hiệu quả không cao. Do khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của cán bộ còn yếu, lợi ích đem lại không đủ bù chi phí.
Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Các doanh nghiệp còn rất hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học, thống kê trong nghiên cứu thị trường. Đa số các doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được họ tiến hành phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo. Các thông tin sơ cấp về thị trường không có đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ động, không chắc chắn.
Về việc xác định thị trường mục tiêu: các doanh nghiệp thường lựa chọn thị trường mục tiêu theo cách phản ứng lại với thị trường, thấy cơ hội của đoạn thị trường nào hấp dẫn thì tập trung vào đoạn thị trường đó. Chẳng hạn, khi hạn hán mất mùa ở Inđônêxia làm xuất hiện nhu cầu nhập khẩu gạo thì họ tập trung vào đó. Cũng tương tự như với thị trường Irắc về đổi lương thực lấy dầu và trả nợ thì các doanh nghiệp lại tập trung vào đoạn thị trường này. Tình trạng phổ biến diễn ra là các doanh nghiệp không chủ động tiếp cận với thị trường để chọn ra cho mình một thị trường mục tiêu, để từ đó có kế hoạch thâm nhập, giữ vững hay mở rộng thị trường.
Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh như nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế, ngân hàng dữ liệu... còn hạn chế. Trình độ khai thác và sử dụng thông tin của cán bộ còn thấp, sự quan tâm chưa đúng mức của lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức không tương ứng... Còn có những mặt hàng của doanh nghiệp Nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối (ưu đãi độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế...), thậm chí nhiều doanh nghiệp cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần.
3. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp. Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa đặc thù như hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản phẩm nói chung còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, Da - Giầy, chế biến thực phẩm và đồ uống, sản phẩm thép và kim loại màu, Ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa... cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cán, lốp xe các loại... Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái... Ngoài ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng sẽ làm. phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như, chi phí vận chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm....
Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp như: điện, viễn thông, cảng biển, vận tải ở Việt Nam cũng được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực Chẳng hạn, cước viễn thông quốc tế Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực từ 80% - 50% (Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Singapo), cước vận tải đường biển container cao hơn 40% - 50% so vời Malaixia và Singapo. Theo thống kê sơ bộ, ngoài các khoản chi phí cho dịch vụ vận tải và chi phí thông thường khác, một doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển hoặc đường hàng không phải chịu thêm khoảng 20 loại phí khác, với cách tính phí cũng khác nhau ở mỗi cảng và mỗi đại lý vận tải (ví dụ như: phí đại lý, phí dỡ hàng, phí nâng hạ và chuyển bãi container, phí lưu kho bãi...). Tất cả các khoản chi phí này đều có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp.
Chiến lược phân phối.
Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương thức này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường. Hiện nay, có một số doanh nghiệp đã tận dụng được các đại lý để phân phối bán lẻ, mà chưa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường gồm đặc tính của các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, tiềm năng, đối thủ cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính mùa vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm...), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thông, vận chuyển..). Xác lập hệ thống này còn mang tính chất "phi vụ” chứ chưa hình thành được chiến lược về kênh phân phối chuẩn.
So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, kênh phân phối vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh , một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu.
Chiến lược truyền tin và xúc tiên hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với doanh nghiệp nước ngoài như Coca Cola là 20% và Sony là l0%, chất lượng quảng cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết quả điều tra của Cục xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại cho thấy, một số doanh nghiệp đã quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu, tuy nhiên mới chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu là vũ khí trong cạnh tranh, 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, còn 30% cho rằng thương hiệu sẽ giúp bán được hàng với giá cao hơn và đem lại tự hào cho người tiêu dùng. Trong khi đó có đến 90% người tiêu dùng lại cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho thương hiệu của doanh nghiệp còn quá ít, có 80% doanh nghiệp chưa có bộ phận chức năng lo quản lý nhãn hiệu, 74% doanh nghiệp đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu, 20% không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp cũng gặp phải những khó khăn: 23% doanh nghiệp cho rằng có khó khăn về vốn và tài chính, nạn hàng giả và vi phạm bản quyền (19%), cơ chế, chính sách, thủ tục... (14%), nguồn nhân lực (11,8%), xây dựng chiến lược và cách thực hiện (8%), thủ tục hành chính (7,2%), giá dịch vụ (6,3%). Nhiều doanh nghiệp thường xem nhẹ vai trò của thương hiệu sản phẩm hoặc thương hiệu doanh nghiệp nên không đăng ký thương hiệu tại nước nhập khẩu. Điều đó đã làm cho doanh nghiệp bị mất thương hiệu trên thị trường thế giời đối với một số sản phẩm như: nước mắm Phú Quốc, bia Sài Gòn, may Việt Tiến, khóa Việt Tiệp, cà phê Trung Nguyên, Vinataba, Bia Hà Nội, Vifon...
Tỷ lệ doanh nghiệp nối mạng Internet còn rất hạn chế (22,4% trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam). Bên cạnh đó số doanh nghiệp áp đụng thương mại điện tử còn quá ít, hiện chỉ có 2% doanh nghiệp có website, 8% tham gia có tính chất Phong trào, còn lại 90% doanh nghiệp chưa tham gia, chưa biết sử dụng (trong khi công nghệ thông tin và thương mại điện tử là công cụ giúp cho chi phí gia nhập thị trường quốc tế ngày càng giảm). Việc quảng cáo thông qua các Công ty quảng cáo ở nước ngoài hầu như không được các doanh nghiệp sử dụng, hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ khả năng tài chính và chưa được trang bị công nghệ để quảng cáo ở nước ngoài. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp chưa tiến hành quảng cáo sản phẩm của mình vì nhiều lý do khác nhau. Trong đó, có 50% doanh nghiệp không quảng cáo vì lý do chi phí cho dịch vụ quảng cáo quá lớn, 25% doanh nghiệp không quảng cáo vì quy mô của doanh nghiệp nhỏ nên chưa có nhu cầu quảng cáo và 12,5% doanh nghiệp không quảng cáo vì không tìm được tổ chức cung cấp dịch vụ thích hợp.
4. Năng lực quản lý và điều hành
Theo kết quả điều tra, có 40,6% doanh nghiệp đã áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong quản lý, giảm tối đa biên chế quản lý là 48,4%, tiết kiệm các chi phí gây lãng phí 73,7%, việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 9000 sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng qui trình công tác cho từng lao động và mối quan hệ dây chuyền giữa các lao động và bộ phận công tác nhằm hợp lý hóa sản xuất và quản lý, giảm biên chế hành chính, góp phần giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc thuê chuyên gia và đào tạo để ứng dụng ISO có thể đòi hỏi một số chi phí tương đối lớn ban đầu, coi như một khoản đầu tư để cải tiến quản lý. Có 32,0% doanh nghiệp đã quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ chủ quan, nhưng hiện đang có quá nhiều cấp, ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Việc phân cấp trên dưới, ngang đọc chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cùng ra sức "tăng cường quản lý", công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp hoạt động. Cơ chế "bộ chủ quản", "cấp chủ quản" đang gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Việc phân chia "quốc doanh trung ương", "quốc doanh địa phương' đã tạo nhiều bất hợp lý, phân biệt đối xử, ảnh hưởng đến kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong nội bộ mỗi doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với doanh nghiệp ngoài Nhà nước, nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính rườm rà chưa được sửa đổi đã làm cho doanh nghiệp không thể năng động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn chế trong tiếp cận với những kiến thức, phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu tiếp cận với thị trường thế giới. Khả năng quản lý cả về kỹ thuật và kinh doanh kém. Thiếu đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, đây là một trong những tồn tại lớn đối với các doanh nghiệp hiện nay. Biên chế bộ máy quản lý của doanh nghiệp Nhà nước gấp tới 2-3 lần so với doanh nghiệp ngoài Nhà nước cùng ngành nghề và quy mô, cùng có số tài sản cố định như nhau nhưng doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động gấp 10 lần doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
5. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D)
Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Qua điều tra, có 69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho R & D. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có ty lệ cao nhất chiếm 84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
Thực tế là nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh , trong điều hành chủ yếu vẫn là "xử lý tình huống" vời công việc hàng ngày, chưa thấy được yêu cầu của quản lý hiện đại nên chưa chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển.
6. Trình độ công nghệ
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen trong nhiều doanh nghiệp các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra.
Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ. 80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình 38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ớ mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, so với mức 5% ở ấn Độ hay 10% ở Hàn Quốc. Theo đánh giá của Bộ KH&CN thì đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh , hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%).
7. Nhân lực trong các doanh nghiệp
Nhiều ý kiến cho rằng, lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, trình độ dân trí của lao động Việt Nam cao, có truyền thống lao động cần cù, ham học hỏi, khéo tay, nhanh trí,.. Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng chi phí lao động tuy rẻ nhưng năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp (trên 60%), chủ yếu lại là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Do đó nếu so sánh lao động Việt Nam với lao động các nước trong khu vực thì có thể nói đây là điểm yếu của Việt Nam.
Nếu xét chi phí lao động thì chi phí lao động của Việt Nam cao hơn nhiều so với Inđônêxia, nếu xét tới lao động có trình độ kỹ thuật và có năng suất cao thì lao động Việt Nam lại không thể so sánh với Thái Lan, Malaixia, Singapo. Thêm nữa, phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo tay nghề cho người lao động (chiếm 85,06%), chứ không phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung, điều này dẫn đến chi phí đào tạo cho lao động cao, nhưng trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật của lao động thấp. Trong một khảo sát về lĩnh vực này, tỷ lệ đào tạo giữa Đại học, Trung cấp, Công nhân kỹ thuật là 110,8310,6. Một vấn đề thuộc chiến lược giai đoạn - đào tạo quốc gia được đặt ra là sớm khắc phục mô hình "hình tháp lộn ngược" này để lao động Việt Nam được đào tạo lành nghề, có năng suất cao chứ không phải chỉ vì "giá rẻ", thực sự trở thành một lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
8. Kết luận
Trên cả thị trường trong nước và quốc tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, nguyên nhân là do:
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ thông tin về thị trường, ra quyết định theo kinh nghiệm và theo cảm tính là chủ yếu.
Chưa đẩy mạnh ứng dụng chiến lược marketing tổng thể hoặc marketing đa dạng sản phẩm và đa thương hiệu.
Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể thì 90% các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ). Hơn nữa, có quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp giảm sút. Tình trạng các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng xuất khẩu đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh , đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh .
Nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp không xây dựng được mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài.
Văn hóa doanh nghiệp, văn minh thương mại, hệ thống dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu và yếu.
Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng còn ít.
Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp.
Chi phí kinh doanh còn cao, năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tất, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, công nghệ kinh doanh và khả năng tiếp cận đổi mới công nghệ kinh doanh còn lạc hậu,...
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa thực sự việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh , hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.”Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010, tầm nhìn đến năm 2020 ”, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Nam , Viện Nghiên cứu Thương mại.
2.”Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010 ”,Chủ nhiệm Phùng Thị Vân Kiều, Năm 2000.
3.” Thâm nhập vào thị trường EU – Những điều cần biết ”, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Nhà xuất bản Thống kê, 2004.
4.” Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp “, TS. Nguyễn Mạnh Quân, Nhà xuất bản Lao động, 2004.
5.” Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế “, Vũ Trọng Lâm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006.
6.”Phân tích chiến lược kinh doanh ”, Lê Đắc Sơn, Nhà xuất bản Thống kê, 2001.
7.”Marketing thương mại”, PGS.TS Nguyễn Xuân Quang, Nhà xuất bản Thống Kê, 1999.
8.”Quản lý chất lượng sản phẩm theo TQM và ISO 9000, PGS.TS Nguyễn Quốc Cừ, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, 2000.
9.“Quản trị chiến lược “, PGS.TS Lê Văn Tâm, Nhà xuất bản Thống kê.
10. “Simplicity: The new competitive advantage in a world of more, better, faster” : “ Ðơn giản: Lợi thế cạnh tranh mới trong một thế giới nhiều hơn, tốt hơn, nhanh hơn”. Tác giả Bill Jensen, 2001.
11. “Network companies and competiviveness: a framework for analysis” : “Mạng lưới các Công ty và sự cạnh tranh: Cơ sở để phân tích”. Tác giả Lakhal, Salem…, 1999.
12.Bài :“Da - Giầy Việt Nam tìm kiếm thị trường để giảm bớt khó khăn”, ,11/06/2005.
13.Bài :”Xuất khẩu giầy dép đạt gần 3 tỷ USD”, , 08/10/2007.
14.Bài :”Xuất khẩu giầy dép sang thị trường Trung Quốc 7 tháng đầu năm 2007 tăng mạnh”,
15.Trang web của Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam:
16. “Bạn đồng hành của năng suất lao động”,
17. “Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Phê duyệt dự án Quy hoạch phát triển ngành Da – Giầy thành phố đến năm 2010”, trang web của Bộ Công thương:
18.”Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da – Giầy đến năm 2010”,
19. “Bản tin khoa học công nghệ và và thương mại ngành Da – Giầy tuần từ 22 – 31/05/2005”, Trang web của Bộ Công nghiệp( nay là Bộ Công Thương )(nay là Bộ Công thương) Vụ Khoa học Công nghệ:
20. “Giải pháp phát triển ngành Da – Giầy giai đoạn 2006 – 2010”,
21.”Ngành Da – Giầy Việt Nam: “cần một chiến lược đầu tư dài hạn cho thị trường nội địa””, 09/03/2007.
22.”Ứng dụng vật liệu cao du blend để sản xuất giầy chất lượng cao”,
23.” Phân tích môi trường ngành với mô hình 5 áp lực, 29/07/2007.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11137.doc