Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO: ... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1776 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
khoa qu¶n trÞ kinh doanh th¬ng m¹i
&
¬
®Ò ¸n m«n häc
kinh tÕ th¬ng m¹i
§Ò tµi:
gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña
c¸c doanh nghiÖp ph©n phèi b¸n lÎ viÖt nam trong ®iÒu kiÖn lµ thµnh viªn cña wto
Gi¸o viªn híng dÉn : gs.ts. ®Æng ®×nh ®µo
Sinh viªn thùc hiÖn : trÇn m¹nh cêng
Líp : th¬ng m¹i 48a
Hµ Néi - 2009
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, toàn cầu hóa nền kinh tế là một yếu tố khách quan đối với sự phát triển của một quốc gia. Một trong những mức độ cao nhất, thể hiện sự hội nhập của mỗi quốc gia vào nền kinh tế thế giới là sự gia nhập tổ chức “WTO”.
Năm 2006 Việt Nam trơ thành thành viên chính thức của WTO, và theo lộ trình cam kết với WTO, chúng ta phải dần dần xóa bỏ những chính sách bảo hộ như cắt giam hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đối xử công bằng với tất cả các loại hình kinh tế…, nghĩa là khi là thành viên chính thức của WTO sẽ có sự tham gia và cạnh tranh của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với tiềm lực lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó thực trạng hiện nay của nền kinh tế Việt Nam khi trở thành thanh viên chính thức của WTO còn mang nặng tính bảo hộ và sức cạnh tranh kém.
Vì vậy, nâng vao doanh năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Giúp các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trước những tác đông bất lợi do Wto mang lại, mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế. Chính vì vậy, đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thanh viên của WTO” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
Cạnh tranh doanh nghiệp là đề tài rộng lớn và phức tạp.Vì thế, mặc dù em đã cố gắng nghiên cứu và tìm hiểu, song chắc chắn nội dung đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo để nội dung đề tài được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ
Khái quát năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để hiểu rõ khái niệm năng lực cạnh tranh, trước hết ta phải nắm được thế nào là cạnh tranh. Trên thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau diễn đạt khái niệm cạnh tranh.Lý do là thuật ngữ canh tranh được sử dụng và đánh giá cho tất cả cá doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả các khu vực lien quốc gia. Trong khi đó những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra khác nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét của doanh nghiệp hay của quốc gia. Nhưng đối với một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C. Mac đã đề cập tới cạnh tranh kinh tế giữa các nhà tư bản như sau: “ Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Theo các học giả kinh tế thuộc trường phái tư sản cổ điển thì: “ Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi, phản ứng, quá trình tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoat động nhất định, mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình.
Trong đại từ điển tiếng việt có ghi: Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hóa có thể hiểu cạnh tranh là một sự ganh đua giữa một nhóm người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của người còn lại. Điều kiện cho sự canh tranh trên thị trường là: có ít nhất hai chủ thể đối kháng và có sự tương ứng giữa sự cống hiến và phần được hưởng của mỗi thành viên trên thương trường.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, canh tranh doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm tạo lợi thế cho minh và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Để đánh giá sự canh tranh giữa các doanh nghiệp, người ta đánh giá thông qua “ Năng lưc cạnh tranh “.
Có nhiều cách tiếp cận năng lực canh tranh, theo lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp: ‘ Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh và được đánh giá có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi cá sản phẩm thay thế cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Theo diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì “ Năng lực canh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện canh tranh quốc tế “. Theo cách hiểu này thì năng lực cạnh tranh ở đây không chỉ là nguyên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà gồm cả ngành, quốc gia và khu vực, đây cũng là định nghĩa về năng lực cạnh tranh trong đó bao hàm nội dung của năng lực cạnh tranh, nội dung của định nghĩa này thiên về các mục tiêu xã hội nhiều hơn là mục tiêu về kinh tế, nói đến cái đich cuối cùng của cạnh tranh kinh tế đó là làm cho ngày càng nhiều người được thỏa mãn nhu cầu ở mức ngày càng cao.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thường mại thì: “ Năng lực canh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, mọt ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hay quốc gia khác đánh bại về năng lực kinh tế.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh là khả năng sử dụng thực lực và vận dụng các lợi thế của các chủ thể kinh tế, đó là khả năng đáp ứng ngày càng cao hơn nữa nhu cầu của con người, thưc chất năng lực canh tranh là sức cạnh tranh và khả năng canh tranh.
1.1.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực canh tranh của doanh nghiệp phân phối bán lẻ
1.1.2.1 Các chỉ tiêu đánh phản ánh năng lực thị trường
-Chỉ tiêu thị phần.
Thị phần của doanh nghiệp được tính theo công thức sau:
Si = Qi/Tổng Qi x 100%
Trong đó: Si là thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
Qi là tổng bán các sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường
Tổng Qi là tổng lượng sản phẩm cùng loại được bán ra trên thị trường
Thị phần của doanh nghiệp cang lớn, thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường càng lớn, phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp lớn. Thị phần của doanh nghiệp cang nhỏ, thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường càng nhỏ.
Chỉ tiêu doanh thu bán hàng
Doanh thu (TR) của doanh nghiệp được tính theo công thức sau:
TR = P x Q
Trong đó TR: Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp, P: Giá bán sản phẩm của doanh nghiệp, Q: Số lượng sản phẩm bán ra thị trương của công ty.
Chỉ tiêu về khách hàng
Tổng số khách hàng trong ngành, trong một thị trường nhất định, và tính chất của tưng khách hàng trong thị trường đó. Tỷ trong khách hàng tham gia kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp trên tổng lượng khách khách hàng tham gia trong ngành.
Các chỉ tiêu này phản ánh sức mạnh hệ thống kênh phân phối, khả năng phát triển kênh phân phối của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu về năng lực quản lý trên thị trường
Số lượng các chính sách, các chương trình, các kế hoạch marketing và bán hàng được thực hiện đầy đủ và thành công. Mức độ kiểm soát giá, kiểm soát hể thống kênh phân phối của doanh nghiệp. Khả năng xác định và triển khai thực hiện các chiến lược marketing.
Các tiêu chí này phản ánh khả năng quản lý của doanh nghiệp trên thị trường.
Chỉ tiêu về năng lực nghiên cứu và phát triển ( R & D )
Số lượng sản phẩm, dịch vụ mới trong một thời gian nhất định.
Thời gian sử dụng và thay thế công nghệ .
Chỉ tiêu phán ánh năng lực tài chính :
ROA được tính theo công thức sau:
ROA = ( Lãi ròng sau thuế / Tổng vốn đầu tư ) x 100%
Chỉ tiêu này cho biết khả năng hoan vốn của công ty từ các khoản vốn đầu tư, tỷ số càng cao phán ánh khả năng hoàn vốn của công ty càng cao.
Tỷ số hoàn vốn chủ sở hữu:
ROE = ( Lãi ròng sau thuế / Vốn chủ sở hữu ) x 100%
Tỷ số này cho biết khả nằn hồi vốn cho các chủ sở hữu, tỷ số này càng cao phán ánh khả năng thu hồi vốn của các nhà đầu tư – cổ đông càng lớn.
Tỷ số tổng công nợ trên vốn chủ sở hữu:
Được tính bằng phần trăm Tổng công nợ / Vốn chủ sở hữu.
Tỷ số thanh toán nhanh: Phản ánh khả năng chi trả của công ty với các khoản ngắn hạn bằng tài sản có tính thanh khoan cao. Tỷ số được tính bằng Phần trăm tiền mặt / nợ ngắn hạn.
Tỷ số thanh toán ngắn hạn: Được tính bằng phần trăm tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn. Tỷ số này đánh giá khả năng về vốn lưu động của công ty.
Kết luận: Nghiên cứu, phân tích tất cả những yếu tố cấu thành và tác động lên năng lực cạnh tranh của doanh sẽ cho ta thấy được những điểm mạnh và điểm yếu của từng doanh nghiệp, trên cơ sở đó có thể đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh của từng doanh nghiệp.
1.2 Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phân phối bán lẻ
1.2.1 Các nhân tố ngoài doanh nghiệp
1.2.1.1 Các nhân tố vĩ mô
- Điều kiên chính trị và môi trường luật pháp
Chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, ngược lại chính trị không ổn định sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp, những quy định có thể là cơ hội và cũng có thể là những khó khăn cho doanh nghiệp, hệ thống pháp luật đầy đủ minh bạch sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, làm nền tảng, cơ sở hình thành một môi trường kinh doanh hấp dẫn.
Các yếu tố về kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn bộ nền kinh tế: Tốc độ tăng trưởng của nển kinh tế là yếu tố hình thành và tác động vào cầu về hàng hóa và dịch vụ của doanh ngiệp. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong ngắn hạn đó là điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, tuy nhiên trong dài hạn lại tiềm ẩn nhiều mối đe dọa từ các đối thủ tiềm ẩn. Ngược lại, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, sức ép cạnh tranh của đối thủ hiện tại trong ngành gia tăng.
+ Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế: Một trong những tác động xấu của lạm phát đến nền kinh tế là lạm phát có thể gây ra những xáo trộn trong nền kinh tế, làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại. Trong dài han lạm phát sẽ làm cho đầu tư của doanh nghiệp rất thấp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, làm cho đầu tư bị thu hẹp và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng, vì vậy lạm phát cao sẽ làm ảnh hưởng xấu đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ lãi suất: Tỷ lệ lãi suất thấp và ổn định là điều kiện thuân lợi cho doanh nghiệp phát triển và ngược lại là yếu tố bất lợi cho doanh nghiệp.
+Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái luôn tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, như các doanh nghiệp tham gia vào xuất- nhập khẩu, các doanh nghiệp sử dụng đầu vào hay tiêu thụ đầu vào hay tiêu thụ đầu ra ra nước ngoài.
+ Độ mở của nên kinh tế: Trong môi trương của nền kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh manh mẽ đến từ nhiều nền kinh tế sẽ thúc đẩy lỗ lực vươn lên của doanh nghiệp trong cạnh tranh ngày càng nhanh hơn, những thay dổi trong môi trường cạnh tranh quốc tế có thể tạo ra những nguy cơ, những cơ hội cho các doanh nghiệp trong việc mở rông hoạt đông của mình. Độ mở của nền kinh tế càng lớn thì khả năng cạnh tranh của các doan nghiệp ngày càng được hoàn thiện hơn.
Cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ:
Cơ sở hạ tâng kinh tế bao gồm toàn bộ hệ thống cơ sở kỹ thuật của xã hội. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các chi phí đầu vào của doanh nghiệp, hay tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế.
Khoa học công nghệ phát triển giúp các doanh nghiêp phân phối bán lẻ tiến hanh thuận lợi hơn trong các hoạt động giao dịch và thông tin. Doanh nghiệp nao sử dụng hiệu quả những thành quả khoa hoc ky thuật sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh lơn trên thương trường.
Nhân tố môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội và dân cư:
Lợi thế tự nhiên là điều kiện khó có thể thay thế được, điều kiên tự nhiên thuân lợi, là lợi thế lớn cho doanh nghiệp, ngược lai sẽ là khó khăn cho phát triển doanh nghiệp.Bên cạnh điều kiện về tự nhiên là các điều kiện về văn hóa xã hội và dân số, nghiên cứu về văn hóa và dân số của một nên kinh tế cho ta thấy được xu hướng tiêu dùng của xã hội về sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Yếu tố dân số phần nào cho ta biết những thông tin để nghiên cứu và xác định cầu.
Xu hướng toàn cầu hóa cạnh tranh và áp lực gia tăng:
Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế là tất yếu, cũng như là những yếu tố khác tác động năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, toàn cầu hóa mang lại nhiều áp lực như áp lực cạnh tranh tăng mạnh so nhiều đối thủ cạnh tranh hơn trong cùng một phân khúc thị trường, đối thủ cạnh tranh mạnh hơn, tính chất cạnh tranh ở mức độ cao hơn; Bên cạnh đó mối đe dọa là những điều kiện thuận lợi, doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường, sẽ nhanh chóng tiếp thu được trình đọ khoa học kỹ thuật, trình đọ quản lý.
1.2.1.2 Các nhân tố thuộc môi trường ngành
- Tốc độ tăng trưởng ngành
Giống như tốc độ phát triển của nền kinh tế, tốc độ phát triển ngành và các nhanh liên quan cũng tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo hai hướng, vừa là yếu tố thuận lợi vừa là yếu tố không thuận lợi.
Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành
Để nghiên cứu mức độ cạnh tranh của mộ ngành, chúng ta sử dụng mô hình phân tích 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter như sau:
Sự đe dọa của đối thủ tiềm ẩn
Cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh đang hoạt đông trong ngành
Sức ép người mua
Sức ép từ nhà cung cấp
Sự đe dọa của các sản phẩm thay thế
Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực canh tranh trong ngành
+ Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp
Các nhân tố ảnh hưởng đến áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp bao gồm: số lượng, quy mô của các nhà cung cấp, khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp và thông tin về nhà cung cấp.
Kết luân: Trong tất cả các ngành, nhà cung cấp cũng luôn gây ra áp lực cạnh tranh nhất định cho các doanh nghiệp và mức độ áp lực càng cao khi các nhà cung cấp có quy mô càng lớn, sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực khan hiếm và sự gây áp lực sẽ giảm đi khi các nhà cung cấp là các nhà sản xuất nhỏ lẻ như nông dan, thợ thủ công.
+ Áp lực từ khách hàng
Bao gồm áp lực khách hàng mua buôn, từ khách hàng mua lẻ, và từ các khách hàng mua khác.
+ Áp lực từ đối thủ tiềm ẩn
Theo Michael porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng có thể gây ảnh hưởng tới ngành, tới doanh nghiệp trong tương lai không xa. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố của chính ngành đó cụ thể như: rào cản của ngành, sức hấp dẫn của ngành được phản ánh qua số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp tham gia trong ngành.
+ Áp lực từ sản phẩm thay thế
Sản phẩm và dịch vụ thay thế được hiểu là sản phẩm và dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịc vụ trong ngành, và áp lực canh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, bên cạnh đó còn có các nhân tố về giá cả, chất lượng, các yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng gây anhar hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thê.Khi nghiên cứu áp lực từ sản phẩm thay thế cần lưu ý đến: tính bất ngờ, khó dự bào sản phẩm thay thế và chi phí chuyển đổi khi sử dụng sản phẩm thay thế.
+ Áp lực của nội bộ ngành
Chính các doanh nghiệp dang kinh doanh trong ngành cũng sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại ngành, tạo một cường độ cạnh tranh lớn hơn, nhìn chung một ngành thì các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh lên các đối thủ trong ngành. Áp lực cạnh tranh của nội bộ ngành phụ thuộc vào tình trạng nhu cầu của ngành và cấu trúc ngành.
+ Áp lực từ các bên liên quan
Về cơ vản thì trên đây chúng ta đã xem xét áp lực cạnh tranh đến ngành theo mô hình phân tich của M.Porter, tuy nhiên trên thực tế chúng ta đều thấy ngoài các yếu tố đó ra còn có các yếu tố áp lực từ phía các bên liên quan như: Từ chính phủ, từ cộng đồng, từ các hiệp hội, từ các chủ nợ và nhà tài trọ, từ các cổ đông.
1.2.2 Các nhân tố trong nội bộ doanh nghiệp
Giá trị đầu ra của một doanh nghiệp thường được đo bằng mức doanh thu của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, để phân tich toàn bộ quá trình hình thành giá trị của doanh nghiệp cho khách hàng, người ta thường dùng chuỗi giá trị để phân tích, phương pháp phân tích này được Michael Porter mô tả dưới đây: (Hình 1.2)
Theo mô hình này, các hoạt động của một doanh nghiệp bao gồm các hoạt động trực tiếp và các hoạt động hỗ trợ. Các hoạt động trực tiếp bao gồm hoạt động marketing, hoạt động bán hàng, hoạt động sản xuất, cung ứng nội bộ và các dịch vụ; các hoạt động gián tiếp bao gồm hoạt động về cơ sở hạ tầng, các hoạt động về quản trị nhân lực, các hoạt động về phát triển công nghệ và mua sắm.
Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp thường được tính bằng cách lấy tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ đi tổng chi phí của doanh ngiệp, phản ánh lượng giá trị mà doanh nghiệp tạo ra được trong một thời gian nhất định. Để lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp phải tìm mọi phương pháp để tạo ra giá trị gia tăng với chi phí thấp hơn các đối thủ của mình trong cùng một giới hạn về chất lượng hoặc tiêu thụ sản phẩm với giá cao hơn thông qua cách
Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp
Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Mua sắm
Cung ứng nội bộ
Cung ứng bên ngoài
Marketing và Bán hàng
Dich vụ
Giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng
Hình 1.2: Mô hình chuỗi giá trị doanh nghiệp của Michael Porter
Làm khác biệt hóa sản phẩm của mình, quá trình tạo ra giá trị gia tăng của một doanh nghiệp được mô tả như mô hình trên.
1.3 Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến phân phối bán lẻ
Trong lĩnh vực phân phối, VN không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quí cho nước ngoài.
Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, ximăng, phân bón... chỉ mở cửa thị trường sau ba năm. Quan trọng nhất, VN hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở điểm bán lẻ từ thứ hai trở đi phải được sự cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Cụ thể:
- Đối với kinh doanh thương mại trong nước: phải thành lập liên doanh với doanh nghiệp VN và phần đóng góp không vượt quá 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2008, bỏ qui định về 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2009 cho phép lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Sau khi gia nhập WTO, các công ty phân phối nước ngoài được phép ủy nhiệm cho các chi nhánh, các dịch vụ bán buôn và bán lẻ các mặt hàng ngoại trừ ximăng và clinker, lốp xe, giấy, máy kéo, các loại xe có gắn động cơ, ôtô và xe máy, sắt thép, các thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón. Kể từ 1-1-2009, các công ty phân phối nước ngoài được phép phân phối các loại máy kéo, xe có động cơ, ôtô và xe máy. Ba năm sau khi gia nhập, các công ty có thể kinh doanh không hạn chế các mặt hàng trên. Tuy vậy, việc lập các điểm bán lẻ từ thứ hai trở lên sẽ phải xin phép cho từng mặt hàng cụ thể.
* Đối với việc nhượng thương quyền:
Các công ty cũng sẽ phải lập liên doanh với đối tác VN và không nắm giữ quá 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2008, hạn chế về 49% được bãi bỏ. Kể từ 1-1-2009, được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.
1.4 Tác động của gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam
“Việc gia nhập WTO đem lại rất nhiều cơ hội cho Việt Nam mà một trong những cơ hội và cũng là thách thức lớn là việc Việt Nam phải thực hiện cam kết WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối bán lẻ“.
Ông Nguyễn Thành Biên, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã nhận định như vậy tại Hội thảo "Việt Nam- WTO: Mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ phân phối và bán lẻ" do Ủy ban hợp tác kinh tế quốc tế phối hợp với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam tổ chức ngày 13-10 tại Hà Nội.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên, hoạt động dịch vụ phân phối, bán lẻ có tầm quan trọng với nền kinh tế Việt Nam bởi lĩnh vực này đóng góp tới trên 15% vào GDP hàng năm. Sau khi gia nhập WTO, hệ thống phân phối và bán lẻ của Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ và căn bản với việc xuất hiện những nhà phân phối, bán lẻ chuyên nghiệp cùng hệ thống bán hàng tiện lợi, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội bán lẻ Việt Nam cho biết: Thời gian qua, đã có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp phân phối và bán lẻ Việt Nam vươn lên và phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, sự có mặt và kinh doanh thành công của một số doanh nghiệp phân phối và bán lẻ nước ngoài tại thị trường Việt Nam cũng đã tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn, kích thích các doanh nghiệp Việt Nam phát triển trong một môi trường kinh doanh bình đẳng tất cả cùng có lợi. Hơn nữa, hoạt động phân phối, bán lẻ trên thị trường Việt Nam chưa bao giờ phát triển sôi động như vào thời điểm này góp phần to lớn vào việc đẩy nhanh lưu thông, phân phối các loại hàng hoá, sản phẩm của doanh nghiệp và nông dân trong cả nước.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ hoạt động trên thị trường Việt Nam. Xu hướng đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ phân phối đang tăng nhanh với sự lớn mạnh của các nhà phân phối nội địa cũng như sự hiện diện nhiều hơn các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài.
Cùng đó, cạnh tranh trên thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam tăng cao khi xuất hiện nhiều tập đoàn quốc tế. Hiện, các tập đoàn bán lẻ lớn như Metro của Đức, Casino của Pháp, Parkson...đều đã có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự hiện diện của nhiều doanh nghiệp phân phối và bán lẻ nước ngoài đang đặt ra nhiều thách thức như sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém; sự thu hẹp thị phần của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ảnh hưởng đến công việc làm ăn của hàng vạn người buôn bán nhỏ, xu hướng tiêu dùng hàng ngoại và sức ép nhập siêu gia tăng...
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIÊN
LÀ TRÀNH VIÊN CỦA WTO
2.1 Khái quát chung về hệ thống các doanh nghiệp phân bán lẻ Việt Nam từ trước 2006 và từ 2007 đến nay
2.1.1 Giai đoạn từ 2006 trở về trước
Theo số liệu của bộ thương tháng 8 năm 2006, kênh phân phối bán lẻ chiếm khoảng 10% tổng mạng lưới phân phối bán lẻ của cả nước. trong đó kênh phân phối hiện đại của Việt Nam ( Thông qua hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích …) mới chiếm khoảng 16%, còn lại kênh phân phôi truyền thống như chợ, tiệm tạp hóa, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ… chiếm khoảng 84%. Qua đây ta thấy, hàng hóa Việt Nam còn được phân phối chủ yếu qua chợ và cửa hàng tạp hóa truyền thống. Siêu thị chưa nhiều. Từ đó cho thấy, tâm lý tiêu dùng của người dân chưa quen với phương thức phân phối hiện đại.
Có thể nói, giai đoạn từ năm 2006 chở về trước là giai đoạn của kênh phân phối bán lẻ truyền thống. Còn đối với kênh phân phối bán lẻ hiện đại thì phần lớn còn rất non trẻ. Trong khi đó tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực phân phối khoảng 72%, cao hơn rất nhiều so với những ngành khác như: Công nghiệp
20%, Thủy sản: 1%, Nông-lâm-ngư nghiệp: 7%. Mà đa phần các nhà phân phối trong nước vốn ít (55% có vốn dưới 100 triệu đồng). Quy mô doanh nghiệp nhỏ. Hệ thống phân phối yếu kém. Nguồn nhân lực chưa qua đào tạo nhiều. Việc chuyên môn hóa và tính năng quản trị doanh nghiệp chưa thật sự được tập trung do khởi nghiệp từ kinh doanh nhỏ đi lên. Xác định lợi thế cạnh tranh và tập trung vào xây dựng hệ thống phân phối là yếu tố bức thiết, quyết định sự thành, bại của doanh nghiệp thời nay.
Quy mô về vốn của nhà phân phối Việt Nam: 14% trên 100 tỷ đồng. 31% dưới 500 triệu đồng. 55% dưới 100 triệu đồng.
Năm 2006 cả nước đã có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động trên 30/64 tỉnh, thành, nhưng quy mô chưa lớn, trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh chưa theo được chuẩn mực quốc tế. Mới chỉ có một số đơn vị có phương thức kinh doanh và phân phối tương đối chuyên nghiệp như Tổng công ty Thương mại Sài Gòn SATRA với 40 doanh nghiệp trực thuộc, chuỗi siêu thị Citimax, hệ thống Maxi Mart, G7Mart, Co.opMart … Hầu hết các nhà bán lẻ trong nước đều thiếu kinh nghiệm, nguồn lực, trình độ, chuyên môn, vốn và thương hiệu.
Trong giai đoạn này, dù thị trường chưa chính thức mở, cũng đã và sẽ có sự góp mặt của một số một số nhà kinh doanh bán buôn và bán lẻ hàng đầu thế giới đã và sẽ có mặt tại Việt Nam như: Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc), Tesco (Anh), Walmart (Mỹ), Dairy Farm (Singapore)... Các nhà kinh doanh này với tiềm lực rất lớn về cả vốn và kinh nghiệm là một thách thức lớn mà các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam phải vượt qua.
2.1.2 Giai đoạn từ 2007 tới nay
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, là một ngày lịch sử của đất nước. Sự kiện này đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp phân phối bán lẻ và các doanh nghiệp phân phối bán lẻ nói riêng.
Sau khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp đã xây dựng được mạng lưới bán lẻ văn minh và hiện đại hơn trước nhiều. Siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng giá rẻ, cửa hàng nhượng quyền, cửa hàng tự chọn, cửa hàng phức hợp, trung tâm mua sắm… sánh vai về tiêu chuẩn với các nước mọc lên khắp nơi. Song không vì thế mà nó đã đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn quốc tế. Xét về các tiêu chí như vị trí, quy mô diện tích, thiết kế, xây dựng, trang thiết bị nội, ngoại thất, tiện nghi vận hành, hàng hoá, giá cả, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ khách hàng…, các mô hình này chưa hội đủ những tiêu chuẩn là cơ sở bán lẻ văn minh.
Ngày 1/9/2009 Việt Nam sẽ chính thức mở cửa thị trường bán lẻ, cũng chính là thời điểm mà các doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Walmart (Mỹ), Big C của Bourbon (Pháp)… với tiềm lực tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, tính chuyên nghiệp cao, có khả năng cung cấp hàng hóa rộng khắp với mức giá hấp dẫn đang chiếm lĩnh thị trường hiện đại. Cuối năm 2008, NPP và bán lẻ điện tử Best Denki (Nhật Bản) thông qua hợp đồng nhượng quyền của Carings, đã đi vào hoạt động với siêu thị điện máy tại tòa nhà Lotte ở quận 7, TP Hồ Chí Minh. Đến đầu năm 2009, Tập đoàn Metro (Đức) đã xây dựng 8 trung tâm phân phối hàng hóa tại các thành phố lớn trên cả nước… Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam với quy mô vốn ít và năng lực cạnh tranh kém, do phần lớn các doanh nghiệp đều phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà lên. Do vậy, phần lớn ý kiến đều cho rằng các DN phân phối Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam
Tạp chí cộng sản điện tử - Thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá cao bởi yếu tố đông dân, với gần 90 triệu người và đang đứng thứ 13 trên thế giới, lại có nền kinh tế đang có mức tăng trưởng khá, thu nhập bình quân đầu người (GDP) vượt ngưỡng 1000 USD và nền chính trị ổn định, đã trải qua hơn 20 năm đổi mới… Bởi vậy, Việt Nam là thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới trong năm 2008, được đánh giá là vượt cả Ấn Độ, Trung Quốc, Nga.
Trong năm 2004 – 2005 chi tiêu của người dân Việt Nam tăng 16-18,5%, chi tiêu bình quân đầu người đạt 5,7 triệu đồng (gấp đôi so với mức 2,8 triệu đồng của năm 2000). Doanh số bán lẻ tăng 20%, đạt 335 nghìn đồng (tương đương 21 tỉ USD). Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành đạt 15 – 20%/năm. Tính đến năm 2007 tổng doanh thu bán lẻ đã đạt 44 tỷ USD, tăng 25% so với 2006, 11 tháng 2008 tăng trên 30,7% so với cùng kỳ năm 2007.
Tính đến cuối năm 2005, cả nước có 9.063 chợ; trong đó 6.788 chợ ở nông thôn và 2.275 chợ ở khu vực thành thị. Cũng tính đến năm 2005, cả nước có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động tại 30/64 tỉnh, thành, phần lớn tập trung ở Hà Nội (50) và thành phố Hồ Chí Minh (60). Những năm gần đây số lượng siêu thị, trung tâm thương mại tăng nhanh chóng. Đến nay Vịệt Nam có 400 siêu thị, 60 trung tâm thương mại và gần 2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến năm 2010 số siêu thị, trung tâm thương mại tăng lần lượt là 62,5% và 150%.
Đáng chú ý là các Tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài cũng đã có mặt tại Việt Nam như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Seiyu, Parkson (Malaysia). Số siêu thị và Trung tâm thương mại liên doanh với nước ngoài chưa đến 10% nhưng lượng hàng hoá lưu thông rất lớn (khoảng 60%).
Tuy nhiên, hệ thống phân phối và bán lẻ tại Việt Nam còn nhiều yếu kém. Những yếu kém này được bộc lộ ở nhiều mặt. Nhìn tổng quát, hệ thống thương mại bán lẻ của nước ta hiện nay còn mang nặng tính đại lý. Hình thức này tuy có thuận lợi là cần ít vốn, phát huy lợi thế lao động dồi dào về số lượng, còn thấp về trình độ kinh doanh, còn thiếu thốn về địa điểm kinh doanh, ít bị rủi ro.... nhưng bản chất là “đi làm thuê” nên hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào bên cung cấp, lợi nhuận thu được rất nhỏ bé.
Một yếu kém khác là hệ thống bán lẻ của Việt Nam sau khi chuyển đổi từ hệ thống cửa hàng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán mang nặng tính phân phối theo định lượng, tem phiếu của thời bao cấp sang cơ chế thị trường, được bung ra, nhưng lại mang nặng tính tự phát, cạnh tranh với nhau nhưng thiếu lành mạnh, phong cách bán hàng chưa thoát khỏi tâm lý của người buôn bán nhỏ; tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm, buôn gian bán lận, bán hàng giả, trốn thuế, không niêm yết giá, nói thách... diễn ra khá phổ biến. Đó là chưa kể tình trạng buôn bán theo kiểu chụp giật, nâng giá theo kiểu "té nước theo mưa" mỗi khi Nhà nước buộc phải nâng giá như mấy đợt nâng giá xăng dầu trong thời gian qua, hoặc găm hàng chờ tăng giá, lạm dụng vị thế độc quyền nhà nước...
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam cũng đang rất thiếu các chuyên gia cao cấp để quản lý và điều hành những doanh nghiệp tầm cỡ trong ngành phân phối bán lẻ. Mặt khác, tính chuyên nghiệp của hệ thống phân phối trong nước hiện rất yếu, thể hiện ở việc tổ chức hệ thống phân phối ở từng địa phương, khu vực và toàn quốc chưa đồng bộ, chặt chẽ từ khâu thu mua kiểm định, sơ chế đến đóng gói và bán ra. Công tác xúc tiến thương mại, dự báo thông tin thị trường …chưa được quan tâm và chưa chuyên nghiệp, hơn 60% đơn vị kinh doanh chưa sử dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý và kinh doanh, khoảng 20% mới xây dựng được trang web ở mức độ đơn giản … Trong khi các nhà bán lẻ nội địa chạy đua từng ngày một để mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường, thì các nhà quản lý vẫn còn ngồi vạch kế hoạch quy hoạc._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2279.doc