Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam

Lời mở đầu Việt Nam có điều kiện khí hậu phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây mía. Ngành mía đường Việt Nam trong những năm qua đã góp phần đáng kể cho việc thay đổi bộ mặt kinh tế- xã hội của nhiều vùng nông thôn Việt Nam. Kể từ khi thực hiện chương trình 1 triệu tấn đường, ngành mía đường của nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc. Trong giai đoạn 1995-2002 sản lượng đường công nghiệp bình quân hàng năm tăng 33.9%, nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng đã tăng mạnh nhưng vẫn cao

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn mức tăng sản lượng khoảng 10-11%. Việc cầu vượt xa cung đã tạo điều kiện cho tình trạng đường nhập lậu ngày càng gia tăng, gây mất ổn định cung cầu đường trong nước, gây ra nhiều khó khăn cho ngành mía đường Việt Nam. Hơn nữa trong những năm tới, Việt Nam phảI cam kết mở cửa thị trường nội địa theo yêu cầu cắt giảm thuế nhập khẩu và bãI bỏ hàng rào phi thuế quan của khu vực tự do mậu dịch ASEAN và tổ chức thương mại quốc tế WTO.Việc gỡ bỏ bảo hộ sản xuất sẽ gây áp lực lớn hơn cho các doanh nghiệp mía đường Việt Nam. Thứ trưởng thường trực Bộ thương mại Phan Thế Ruệ cho biết khi Việt Nam gia nhập WTO không những mức thuế giảm xuống, các rào cản phi thuế quan dần được gỡ bỏ mà cả quyền kinh doanh (nhập khẩu- phân phối) cũng được giao cho các doanh nghiệp nước ngoàI “Cục diện ngành mía đường sẽ thay đổi và ở đó chỉ có những doanh nghiệp sản xuất đường với giá thành hạ, chất lượng cao và tổ chức hệ thống phân phối tốt mới có thể tồn tại được, số còn lại không cạnh tranh được sẽ chết” Bài viết của em về vấn đề: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam” gồm những nội dung sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Chương II: Thực trạng và phương hướng nâng cao năng lực của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam Nhằm tập trung đánh giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam và tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với ngành khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và thực hiện những cam kết AFTA. Tuy nhiên với thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và trình độ nhận thức còn hạn chế chắc chắn bài viết của em còn nhiều thiếu xót. Vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của thầy để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I cơ sở lý luận chung về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp I. Khái niệm về năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là tất cả những yêú tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, doanh nghiệp sản xuất không theo quan hệ cung cầu trên thị trường, mà theo kế hoạch do nhà nước đặt ra. Vì vậy doanh nghiệp không cần chú ý đến và không có khái niệm cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải làm thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường .Môi trường kinh doanh ngày càng mở rộng sự tham gia của các thành viên kinh tế càng nhiều .Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã rút ngắn khoảng cách về không gian làm cho các doanh nghiệp ơơr các quốc gia khác nhau vẫn có thể cạnh tranh trực tiếp với nhau không chỉ ở sản phẩm đầu ra mà còn cả việc cung ứng các sản phẩm đầu vào. Nhiều đối thủ ơơr nhiều nước, khu vực khác nhau với trình độ nhận thức và phản ứng trước thị trường khác nhau, lại cùng cạnh tranh với nhau sẽ mang lại cho bức tranh cạnh tranh nhiều màu sắc hơn Cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp và trong điều kiện môi trường kimh doanh biến đổi liên tục như n hiện nay , để thắng thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp không chỉ đơn thuần tập trung toàn bộ nguồn lực của mình vào một chiến lược cụ thể nào đó mà phải vận dụng tổng hợp các chiến lược: vốn , nhân lực , văn hoá doanh nghiệp … để tạo ra bản sắc riêng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp II. Các tiêu chí xác định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố : Công nghệ sản xuất Chất lượng sản phẩm Cung ứng nguyên vật liệu Kênh phân phối và chiến lược Marketing Tiềm năng , năng lực tài chính Nguồn nhân lực Văn hoá doanh nghiệp Yếu tố giá cả sản phẩm Thương hiệu sản phẩm 1. Công nghệ sản xuất 1.1. Khái niệm: Công nghệ là hệ thống các kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin - Công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất theo phương pháp xác định do con người sáng tạo ra và vận dụng vào quá trình sản xuất với hệ thống máy móc thiết bị kỹ thuật tương ứng - Theo nghĩa rộng công nghệ bao gồm những thành phần cơ bản Phần thông tin của công nghệ là các kiến thức được tổ chức như : khái niệm, phương pháp ,kỹ thuật ,thông số ,công thức , bí quyết …. Nhờ các kiến thức cụ thể này người ta mới có cách thức cụ thể để tiến hành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ Yếu tố con người là năng lực của con người về công nghệ như : kỹ năng, kinh nghiệm ,tính sáng tạo, khả năng làm chủ công nghệ . Phần kỹ thuật của công nghệ là các phương tiện vật chất bao gồm : cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, công cụ, phương tiện … phù hợp với đòi hỏi của công nghệ cụ thể Phần tổ chức của công nghệ là các thiết chế tạo nên khung tổ chức của công nghệ như thẩm quyền ,trách nhiệm , các quan hệ … Theo nghĩa hẹp, công nghệ chỉ bao hàm các kiến thức đã được tổ chức một cách khoa học như: các khái niệm, phương pháp ,thông số,… Và các yếu tố vật chất bao gồm mọi phương tiện vật chất gắn liền với công nghệ như: thiết bị, máy móc, công cụ ,vật liệu… 1.2. Vai trò và tác động của công nghệ đối với đời sống kinh tế- xã hội a. Vai trò của công nghệ : Công nghệ là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển xã hội loài người. Trong nền kinh tế thị trường ,công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ nhất .Nhờ công nghệ tiên tiến hơn ,chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn, năng suất cao hơn, chi phí sản xuất giảm từ đó hạ giá thành sản phẩm tạo ra ưu thế cạnh tranh trên thi trường Công nghệ là một trong ba yếu tố tạo ra sự tăng trưởng kinh tế : Tích luỹ tư bản, dân số và lực lượng lao động, tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ thông qua đổi mới công nghệ tạo ra năng suất cao. Công nghệ là phương tiện hữu hiệu nhất để nâng cao các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của một quốc gia. b. Vai trò của công nghệ đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước và đối với doanh nghiệp Thực tế cho thấy những quốc gia có nền kinh tế phát triển đều là những nước có nền công nghệ hiện đại trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế đặc biệt là trong những ngành mũi nhọn như:Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông, Công nghiệp Quốc phòng… Các sáng chế công nghệ tạo ra những ngành ngề mới nhưng cũng làm mất đi những ngành nghề cũ. ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, các quốc gia phải khai thác tối đa tàI nguyên để tạo vốn và đào tạo nguồn nhân lực. Do vậy ở giai đoạn này cùng với kết quả của công nghiệp hoá, sự tăng lên của công nghệ, năng lực công nghệ là sự suy giảm các nguồn tài nguyên. Nhưng nhờ thành tựu của khoa học, một số nguồn tài nguyên có thể được phục hồi đồng thời sẽ tạo ra và sử dụng nhiều nguồn năng lượng mới, tàI nguyên mới phục vụ cho nhu cầu cuộc sống đáp ứng tốt nhất cho sự phát triển và đI lên của xã hội. ở các doanh nghiệp cũng vậy. Công nghệ là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Nó là động lực quan trọng và mạnh mẽ để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ chi phí thấp, giá thành sản phẩm hạ. Thực tế chỉ ra rằng trong các chiến lược để thắng thế trong cạnh tranh như: Lợi thế kinh tế của quy mô, khác biệt hoá sản phẩm….Công nghệ là yếu tố giữ vai trò then chốt. Công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao với chi phí thấp từ đó hạ giá thành sản phẩm giúp cho doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh thị trường, có thị phần lớn vượt qua đối thủ cạnh tranh. Công nghệ càng hiện đại sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, vượt trội với kiểu dáng mẫu mã phong phú và ngày nay khi giá cả không còn là yếu tố tiên quyết trong quá trình ra quyết định mua sắm của người tiêu dùng thì kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phảm sẽ đóng vai trò thúc đẩy. Người tiêu dùng sẽ không ngần ngại khi bỏ ra một khoản chi phí nhỏ hơn nhiều so với lợi ích mà họ nhận được. Vì vậy chiến thắng sẽ thuộc về doanh nghiệp biết nắm bắt tốt thị hiếu liên tục thay đổi của người tiêu dùng đồng thời ứng dụng tốt sự tiến bộ của khoa học công nghệ vào việc tạo ra sản phẩm thoả mãn tốt nhất những nhu cầu đó. 2. Chất lượng sản phẩm 2.1 Khái niệm và đặc điểm về chất lượng sản phẩm a. Khái niệm: Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về sản phẩm và theo mỗi cách tiếp cận đó sẽ hình thành một cách hiểu về chất lượng sản phẩm như : - Theo cách tiếp cận sản phẩm thì chất lượng sản phẩm được coi là đại lượng mô tả những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó - Theo cách tiếp cận sản xuất người ta quan niệm chất lượng sản phẩm được xác định trên cơ sở sự hoàn hảo và phù hợp của hệ thống sản xuất với các đặc tính sẵn có của sản phẩm - Theo cách tiếp cận người tiêu dùng cho rằng chất lượng sản phẩm là tổng thể các đặc trưng kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng trong những điều kiện người tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn - Theo tổ chức tiêu chuẩn thế giới ISO: “Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những biểu hiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn b. Đặc điểm : Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế – kỹ thuật – xã hội vận động và phát triển theo sự phát triển của thời gian, và mang cả hai sắc thái khách quan và chủ quan. - Tính chất khách quan của chất lượng sản phẩm biểu hiện ở khẳng định tính chất , đặc điểm nội tại thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm, thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng trong những điều kiện cụ thể - Tính chất chủ quan của chất lượng sản phẩm biểu hiện rõ nét ở sự phụ thuộc của chất lượng sản phẩm vào các giải pháp thiết kế , kiểm tra , nghiệm thu trong quá trình sản xuất sản phẩm 2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm a. Trên góc độ người tiêu dùng Tuỳ theo các loại sản phẩm mang các đặc trưng cụ thể khác nhau , người tiêu dùng thường tìm đến các phương pháp đánh giá chất lượng sản phẩm khác nhau Chất lượng “cảm nhận “ là chất lượng mà người tiêu dùng cảm nhận được từ sản phẩm thông qua quá trình đánh giá dựa trên tính chất bề ngoài của sản phẩm Chất lượng “đánhgiá “ là chất lượng khách hàng có thể kiểm tra trước khi mua thông qua những đặc tính có thể đo lường được dễ dàng và phù hợp với người tiêu dùng Chất lượng “kinh nghiệm” là chất lượng mà khách hàng chỉ có thể đánh giá thông qua tiêu dùng sản phẩm Chất lượng “tin tưởng” : người tiêu dùng dựa vào tiếng tăm của doanh nghiệp cung cấp mà :tin tưởng “ vào chất lượng của dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng. b. Trên góc độ người sản xuất Chất lượng sản phẩm thường được đánh giá trên cả ba phương diện: Markettinh, kỹ thuật và kinh tế . Trên cơ sở đó , người sản xuất đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua các chỉ tiêu , các thông số kinh tế – kỹ thuật cụ thể. Các nhóm tiêu thức phản ánh cụ thể các vấn đề gắn với chất lượng như : Tính năng tác dụng Các tính chất cơ, lý hoá Các chỉ tiêu thẩm mỹ Tuổi thọ Độ tin cậy Độ an toàn Tính dễ sử dụng 2.3 Vai trò của chất lượng sản phẩm Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của đất nước . Khả năng cạnh tranh của mỗi nước phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước đó . Đảm bảo và nâng cao chất lượng sẩn phẩm là điều kiện không thể thiếu để có thể tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở ngay thị trường trong nước cũng như ở thị trường khu vực và quốc tế . Đây là điều kiện để doanh nghiệp tăng doanh thu , giảm chi phí kinh doanh và làm tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Tạo uy tín, danh tiếng bền vững cho nghiệp. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp khi mà cung không đáp ứng đủ cầu, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết, tình trạng khan hiếm hàng hoá liên tục diễn ra. Nhà sản xuất, các doanh nghiệp không quan tâm đến việc cảI tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên trong môI trường kinh tế cạnh tranh ngày càng sôI động như hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp cùng cạnh tranh nhau để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và có rất nhiều yếu tố để doanh nghiệp dành thắng lợi trong cuộc chạy đua đó. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng khi mà khách hàng ngày càng có nhiều sự lựa chọn để thoả mãn nhu cầu. Họ đã đứng ở vị trí chủ động của cuộc chơI vì vậy họ luôn đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao, tiện dụng với chi phí vừa phải. Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, tạo uy tín danh tiếng bền vững cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy ở những công ty mà sản phẩm do họ sản xuất ra có chất lượng cao mang đẳng cấp quốc tế đã tạo ra uy tín, danh tiếng cho chính họ trong cuộc chạy đua đầy gian khổ như hiện nay. Sản phẩm có chất lượng cao chính là tấm giấy thông hành để doanh nghiệp đI vào bất cứ một thị trường nào. Ngày nay người ta quan tâm đến hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM, quản lý chất lượng một cách đồng bộ trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất từ nghiên cứu thị trường đến các dịch vụ sau bán. Đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm chi phí kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường tạo uy tín và danh tiếng lâu dàI cho doanh nghiệp. 3.Cung ứng nguyên vật liệu 3.1. Vị trí của hoạt động cung ứng nguyên vật liệu Cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinhdoanh ở doanh nghiệp.Và bao gồm ba nội dung chủ yếu là mua sắm, vận chuyển và bảo quản nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là một trong các yếu tố sản xuất cơ bản, là điều kiện cơ bản đảm bảo cho hoạt động sản xuất có hiệu quả, với nhiều chủng loại và số lượng khác nhau. ở những doanh nghiệp sản xuất, giá trị của nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành thì hoạt động cung ứng nguyên vật liệu có hiệu quả sẽ càng góp phần rất quan trọng vào việc tăng hiệu quả kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp thương mại cung ứng hàng hoá đầu vào là điều kiện tiền đề để tiêu thụ chúng: mua sắm đúng, dự trữ đúng sẽ tiêu thụ tốt với hiệu quả cao và ngược lại ,mua sắm không đúng, dự trữ không phù hợp vừa gây khó khăn, gián đoạn cho hoạt động tiêu thụ, vừa làm giảm hiệu quả của việc tiêu thụ hàng hoá Kinh doanh càng phát triển, phạm vi hoạt động càng rộng lớn , thị trường không phải trong phạm vi một tỉnh ,một vùng mà rộng ra phạm vi cả nước, khu vực và quốc tế thì hoạt động cung ứng nguyên vật liệu càng trở nên quan trọng tạo nên những lợi thế vô cùng to cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng. 3.2 Vai trò của hoạt động cung ứng nguyên vật liệu Giá trị nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm nên việc đảm bảo cung ứng đúng, đầy đủ về số lượng, chủng loại và chất lượng nguyên vật liệu có ý nghĩa hết sức quan trọng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất. Nội dung của hoạt động cung ứng nguyên vật liệu: +Mua sắm +Vận chuyển +Dự trữ Việc mua sắm nguyên vật liệu giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc đảm bảo nguyên vật liệu cung cấp cho quá trính sản xuất, từ đó đáp ứng đầy đủ các đơn dặt hàng của khách hàng và đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Nếu doanh nghiệp lựa chọn được người cung cấp nguyên vật liệu đáng tin cậy với chất lượng tốt, chi phí vừa phảI, đáp ứng đúng thời gian, số lượng, chủng loại và chất lượng thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động sản xuất trong mọi tình huống ngay cả khi nhu cầu sản phẩm trên thị trường biến động mạnh, nguyên vật liệu khan hiếm doanh nghiệp vẫn có thể đáp ứng nhu cầu thị trường tạo được uy tín đối với khách hàng . Mặt khác việc duy trì tốt mối quan hệ tốt với người cung ứng doanh nghiệp sẽ được cung cấp nguyên vật liệu với giá cả phải chăng, chi phí nguyên vật liệu thấp, giá thành sản phẩm hạ tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng hơn so với đối thủ cạnh tranh nhờ giá thành hạ, chi phí thấp và luôn cung cấp hàng hoá đúng số lượng,chủng loại và đúng thời gian quy định giữ được chữ tín trong kinh doanh. Hoạt động vận chuyển của doanh nghiệp là việc tham gia có kế hoạch của các phương tiện vận chuyển để vận chuyển sản phẩm hàng hoá. Chi phí vận chuyển chiếm một tỷ lệ khá lớn trong giá thành sản phẩm do vậy việc lựa chọn phương tiện, phương thức vận chuyển hợp lý có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp không những chỉ trong việc giảm chi phí,hạ giá thành sản phẩm mà còn ở thời gian đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngày nay khi mà thời gian đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng được xem là một trong những vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp thì việc lựa chọn được một phương thức vận chuyển hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ cùng với những sản phẩm chất lượng cao, chi phí thấp. Trong môi trường kinh doanh đầy biến động với những bất ổn về thị trường cung cấp nguyên vật liệu dẫn đến những nguy cơ không có lợi cho doanh nghiệp. Hoạt động dự trữ sẽ giảm thiểu được các rủi ro đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: khan hiếm nguyên vật liệu, hàng hoá, giá cả tăng cao, chất lượng nguyên vật liệu không phù hợp… Vì vậy việc xây dựng bố trí hệ thống kho tàng sẽ nhằm mục tiêu đáp ứng được yêu cầu sản xuất với tổng chi phí kinh doanh mua sắm, vận chuyển, lưu kho tối thiểu từ đó đáp ứng được yêu cầu sản xuất với chi phí kinh doanh hợp lý. Giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng khi môi trường kinh doanh luôn biến động không ngừng. Mặt khác hoạt động lưu kho còn mang ý nghĩa đầu cơ khi các loại nguyên vật liệu trở nên khan hiếm, giá cả tăng cao. 4. Chiến lược vốn. Trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt. Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược huy động vốn. Một trong những yếu điểm của các doanh nghiệp Việt Nam hiệ nay là thiếu vốn trong khi đó một số ngân hàng thương mại lại thừa vốn. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho được phương án king doanh khả thi. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân hàng, các công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu. Đây là nguồn vốn rẻ, ổn định giúp doanh nghiệp thực hiện những dự án kinh doanh lớn đòi hỏi thời gian dài. Vốn là yếu tố cần thiết đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành liên tục với hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là ta phải huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kì. Các nguồn cung ứng vốn của doanh nghiệp gồm: tự cung ứng và cung ứng bên ngoài. -Vốn tự cung ứng bao gồm: khấu hao TSCĐ, tích luỹ tái đầu tư và điều chỉnh cơ cấu tầi sản. Ưu điểm của phương thức này là doanh nghiệp chủ động hoàn toàn, không bị phụ thuộc vào bên ngoài. Doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng vốn trong dài hạn với chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp và sự nỗ lực tự cung ứng vốn luôn được coi là một yếu tố quan trọng để người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn. Tuy nhiên phương thức này có hạn chế là quy mô cung ứng vốn nhỏ, nguồn vốn bổ sung có giới hạn. - Phương thức cung ứng từ bên ngoài gồm: Cung ứng vốn từ ngân sách nhà nước, phát hành cổ phiếu, vay vốn từ các ngân hàng thương mại, liên doanh liên kết… ưu điểm của phương thức huy động vốn này là lượng vốn lớn thời gian vay dài tuy nhiên doanh nghiệp phải chịu chi phí vốn cao, không chủ động trong việc sử dụng vốn. Vốn là cơ sở để doanh nghiệp tiến hành mở rộng quy mô sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư trang thiết bị máy móc. Là phương tiện doanh nghiệp tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển… Từ đó tạo ra được đội ngũ lao động lành nghề, tạo ra được những sản phẩm chất lượng cao có chi phí hợp lý, kiểu dáng mẫu mã đẹp đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Và trong cuộc chạy đua để dành lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường vốn là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động xúc tiến, các chương trình Marketing, các hoạt động nghiện cứu phát triển tạo ra công nghệ , sản phẩm mới… Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng để doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động chiến lược và tác nghiệp giúp doanh nghiệp thắng thế trong cạnh tranh. 5. Chiến lược nguồn nhân lực. Con người là yếu tố chính của tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất kỳ tổ chức nào cũng được tạo thành bởi các thành viên là con người hay nguồn nhân lực.Người lao động có kỹ năng sẽ góp phần nâng cao sức mạnh của tổ chức từ đó giúp tổ chức đứng vững trong cạnh tranh. Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức, vận hành tổ chức và quyết định sự thành bại của tổ chức. Ngày nay khi môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các tổ chức muốn tồn tại hay phát triển buộc phải cải tổ tổ chức mình theo hướng gọn nhẹ, năng động trong đó yếu tố con người mang tính chất quyết định. Lực lượng lao động có kỹ năng đã và đang trở thành lợi thế cạnh tranh của tổ chức và chiến lược nguồn nhân lực là điều kiện cần thiết để tổ chức tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh. Để quản trị nguồn nhân lực một cách hiệu quả ta cần quan tâm đến những vấn đề sau: Kế hoạch hoá nguồn nhân lực. Thiết kế, phân tích công việc. Thù lao lao động. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lựtc. Lực lượng lao động có kỹ năng đã và đang trở thành lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ quản lý năng động, chuyên nghiệp, đội ngũ công nhân lành nghề sẽ điều hành và tổ chức các hoạt động tác nghiệp trong doanh nghiệp tốt từ đó xây dựng cho mình một mô hình văn hoá doanh nghiệp hiện đại, năng động với chế độ làm việc ổn định. Xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp như một đại gia đình hướng tới một tinh thần đồng đội cao từ đó đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Lực lượng lao động của doanh nghiệp được đào tạo và có môI trường phát triển toàn diện sẽ có những sáng kiến cảI tiến kỹ thuật, mẫu mã chất lượng sản phẩm…trong quá trình sản xuất từ đó giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. 4. Kênh phân phối và chiến lược Marketing 4.1 Kênh phân phối - Kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau thamgia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Có hai loại kênh phân phối là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp Các trung gian thương mại tham gia vào kênh phân phối như : nhà bán buôn, nhà bán lẻ , đại lý và môi giới , nhà phân phối … Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng . Nhờ mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian , địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất với những người tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ. Một doanh nghiệp có kênh phân phối sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm mà còn giúp doanh nghiệp tiến hành các hoạt động xúc tiến, khuếch trương cho những sản phẩm mà doanh nghiệp sẽ tung ra thị trường. Đẩy mạnh các chương trình truyền thông, quảng bá hình ảnh sản phẩm đến với người tiêu dùng rõ nét hơn, hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh. Thu hút khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp mà không phảI của đối thủ cạnh tranh. Mặt khác thông qua kênh phân phối, doanh nghiệp sẽ thu thập được những thông tin cần thiết để lập chiến lược phân phối, soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá đưa những hình ảnh về sản phẩm, về công ty đến với khách hàng hiệu quả nhật vượt qua đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Kênh phân phối càng mở rộng, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng lớn vì sự vươn rộng của kênh phân phối sẽ giúp cho khách hàng tiếp cận với công ty, với sản phẩm của công ty nhiều hơn. Qua đó công ty cũng thu thập nhiều thông tin về khách hàng, về nhu cầu thị hiếu của họ để đáp ứng một cách tốt nhất. 4.2. Chiến lược Marketting: Marketting là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thoã mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không tìm cách gắn hoạt động kinh doanh của mình với thị trường vì chỉ có như vậy doanh nghiệp mới hy vọng tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường. Marketting đã kết nối các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường, nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường, nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Marketting phản ánh một chức năng cơ bản của kinh doanh và có mối liên hệ thống nhất hữu cơ với các chức năng khác. Nó chỉ ra cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản như: + Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng hoá ở đâu? + Họ cần loại hàng hoá như thế nào? Đặc tính của hàng hoá ra sao? Cách bao gói? Có cần thay đổi gì không?… + Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Có phù hợp không? Khi nào thì nên tăng giảm? + Doanh nghiệp nên tự tổ chức bán hàng hay dựa vào lực lượng khác? + Làm thế nào để khách hàng biết đến mua và yêu thích hàng hoá của doanh nghiệp? + Hàng hoá của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán không? Doanh nghiệp có khả năng cung ứng loại dịch vụ nào? Marketing giúp doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ tốt hơn đối thủ cạnh tranh và được khách hàng chấp nhận. Marketing tìm ra những nhu cầu của khách hàng chưa được thoả mãn đồng thời khám phá ra những nhu cầu tiểm ẩn chưa được biết đến để tìm ra những hướng kinh doanh mới. Marketing biến những nhu cầu tiềm ẩn chưa được khám phá để biến thành cơ hội kinh doanh của mình. Nếu một doanh nghiệp có bộ phận Marketinh tốt họ sẽ nhạy bén trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường, chạy trước đối thủ cạnh tranh một bước chắc chăn sẽ dễ dàng hơn để dành thế chủ động trong cạnh tranh. 5. Yếu tố giá cả sản phẩm 5.1 Định nghĩa về giá cả Giá cả biến số duy nhất của Marketing-mix tạo doanh thu cho doanh nghiệp. Các quyết định về giá luôn gắn với kết quả tài chính của doanh nghiệp. Trong hoạt động trao đổi, mong muốn bán được sản phẩm với giá cao là một trong những biểu hiện đặc trưng trong hành vi thoả thuận về giá cả của người bán Thông tin về giá cả luôn giữ vị trí số một trong việc đề xuất các quyết định kinh doanh nói chung và các quyết định về giá cả nói riêng Với người mua: giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó - Với người bán: Giá cả một hàng hoá, dịch vụ là khoản thu nhập mà người bán nhận được nhờ việc tiêu thụ sản phẩm đó 5.2 Chiến lược giá Chiến lược giá bao gồm toàn bộ các quyết định về giá mà người quản trị giá phải soạn thảo và tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp thưo đuổi .Chiến lược giá bao gồm các nội dung cơ bản như : Nắm bắt và dự báo một cách chính xác mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến tác động đến các quyết định về giá Xác định mức giá chào hàng , giá bán , chiết khấu , giá bán sản phẩm mới …Xác định những mức giá cụ thể cho từng mặt hàng , kiểu kênh phân phối , thời gian và địa điểm tiêu thụ Ra các quyết định về thay đổi giá bao gồm các quyết định điều chỉnh và thay đổi giá theo môi trường kinh doanh luôn biến đổi Lựa chọn những ứng xử thích hợp trước những hoạt động cạnh tranh qua giá cả của đối thủ cạnh tranh Tuỳ theo từng thị trường, mục tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà doanh nghiệp đưa ra các chiến lược giá riêng. Giá là yếu tố tác động trực tiếp đến quyết định mua sắm của ngươI tiêu dùng. ở những thị trường nhạy cảm về giá chỉ một sự thay đổi nhỏ trong giá cả sản phẩm sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến lượng sản phẩm tiêu thụ. Vì vậy khi các chiến lược giá được đưa ra nó được xem như là công cụ hữu hiệu nhất để doanh nghiệp dành chiến thắng trong cạnh tranh. 6.Thương hiệu sản phẩm 6.1.Khái niệm thương hiệu Có rất nhiều khái niệm về thương hiệu, ở đây ta tìm hiểu khái niệm thương hiệu của hiệp hội Marketing Mỹ Thương hiệu là một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ thiết kế... hoặc tập hợp các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của người bán hoặc một nhóm người bán với hàng hoá, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh Thương hiệu được cấu thành bởi hai phần +Phần phát âm được: là những yếu tố có thể đọc được, tác động vào thính giác của người nghe như: tên công ty, tên sản phẩm, các khẩu hiệu........ +Phần không phát âm được: là những yếu tố không đọc được mà chỉ có thể cảm nhận được bằng thị giác như: hình vẽ, biểu tượng, màu sắc,kiểu dáng thiết kế.... Thương hiệu là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm làm cho chúng được nhận biết dễ dàng và khác biệt hoá so với sản phẩm cùng loại. 6.2 .Chức năng của thương hiệu Thương hiệu bản thân nó có ý nghĩa nhiều hơn cái tên của mình và được tạo dựng dựa trên tập hợp tất cả các nguồn lực của công ty. Thương hiệu sản phẩm có các chức năng chủ yếu như sau: - Chức năng phân đoạn thị trường - Tạo nên sự khác biệt trong suốt quá trình phát triển của sản phẩm Thương hiệu được biết đến khi sản phẩm đã được tung ra thị trường, mặc dù được bảo hộ độc quyền nhưng các thương hiệu vẫn bị cuốn theo cạnh tranh nếu họ không muốn đánh mất mình trên thị trường.Thương hiệu đóng vai trò như một tấm lá chắn bảo hộ cho sự đổi mới dưới dạng bảo hộ sở hữu trí tuệ - Đưa sản phẩm khắc sâu vào tâm trí khách hàng Phần hồn của một thương hiệu chỉ có thể được cảm nhận thông qua sản phẩm và các chương trình quảng cáo về nó. Nội dung của một sản phẩm sẽ được khách hàng biết và cảm nhận thông qua các hoạt động này khi nó được truyền tải một cách nhất quán cùng với thông điệp. Hồi ức đóng vai trò quan trọng trong việc hành thành nhận thức về một thương hiệu và nó giải thích tại sao hình ảnh một thương hiệu có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy việc nhận biết một thương hiệu ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng về nhận thức của khách hàng về sản phẩm trong tương lai - Tạo nên định hướng và ý nghĩa cho sản phẩm Thương hiệu chứa đựng trong nó thông tin về sản phẩm. Một thương hiệu lớn ngoài việc thiết lập một thông điệp của sản phẩm tới khách hàng còn phải có khả năng thích ứng với thời đại và thay đổi linh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV293.doc
Tài liệu liên quan