Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ

- 1 - MỞ ĐẦU Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Cạnh tranh trong giai đoạn mở cửa nền kinh tế thị trường là một yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp và của mỗi quốc gia. Ngày nay những lợi thế riêng của một quốc gia không chỉ là những lợi thế truyền thống về đất đai, nhân lực, nguồn lực v.v.. nữa mà phần lớn đó chính là chiến lược phát triển, cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp. Ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ của thành phố Hồ Chí Min

pdf71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1896 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nói riêng và của Việt Nam nói chung thật sự chỉ mới khởi sắc và trở thành một trong những ngành xuất khẩu dẫn đầu của Việt Nam trong những năm gần đây. Mặt khác trong xu thế hội nhập kinh tế của Việt Nam ra thị trường thế giới, thị trường Mỹ là một thị trường rất lớn, đầy tiềm năng và cũng là thị trường tiêu thụ rất khó tính đối với tất cả các nước và việc chiếm thị phần trên thị trường này chỉ được quyết định bởi khả năng và năng lực cạnh tranh của từng quốc gia, từng doanh nghiệp. Vấn đề cạnh tranh và tìm cách nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình chính là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia và của từng doanh nghiệp. Chúng ta nên nhớ rằng “người chiến thắng hôm qua chưa chắc giành thắng lợi vào ngày mai”, do đó việc vận dụng các giải pháp, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và của doanh nghiệp ngày hôm nay chính là yếu tố quyết định đến chiến thắng ngày mai. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn này chính là tìm hiểu, phân tích vị thế cạnh tranh hiện tại của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh so với khu vực và thế giới và những nguyên nhân chủ yếu quyết định đến lợi thế cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp để từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho từng doanh nghiệp và những kiến nghị để phát triển ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của thành phố Hồ Chí Minh sang thị - 2 - trường Mỹ - một thị trường tiềm năng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường của mình. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là duy vật biện chứng, dựa vào quan sát, phân tích và nhận định (thông qua các cơ quan chức năng, các chuyên gia, các kết quả nghiên cứu đã công bố) về vai trò và vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp, thông qua khảo sát một số doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận để tìm hiểu thêm nguyên nhân, những khó khăn và dựa vào những kinh nghiệm thức tế mà người viết có được trong nhiều năm liền hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu đồ gỗ để từ đó tổng hợp ra, rút ra kết luận và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất, khả thi nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường Mỹ. Phạm vi nghiên cứu được gói gọn trong những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm gỗ vừa và nhỏ ra thị trường thế giới (có thể bao gồm hoặc không bao gồm thị trường Mỹ) và nằm trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Bố cục: Bài luận văn được chia ra làm 3 chương, nội dung từng chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh, tình hình xuất khẩu hàng gỗ sang thị trường Mỹ Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ. - 3 - CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH 1.1.1. Khái niệm về lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh là lợi thế so với các đối thủ khác có được bằng cách cung cấp cho người tiêu dùng những giá trị lớn hơn bằng hoặc là cung cấp với giá thấp hơn hoặc cung cấp giá trị dịch vụ lớn hơn phù hợp với giá cao hơn. Cần nên hiểu rằng cạnh tranh không phải loại trừ đối thủ cạnh tranh để từ đó không dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, dùng những thủ đoạn xảo quyệt nhằm tạo cho mình một vị thế độc tôn tranh trên thị trường, để khách hàng không có thể có sự lựa chọn nào khác. Cạnh tranh là một tiến trình đổi mới không ngừng, nếu doanh nghiệp nào bằng lòng với vị thế cạnh tranh hiện tại của mình thì chắc chắn sẽ rơi vào tụt hậu. Do đó doanh nghiệp luôn luôn phải gia tăng không ngừng vị thế cạnh tranh của mình, luôn luôn có sự biến đổi và đổi mới, ngày càng tạo ra những giá gia tăng thêm cho khách hàng. 1.1.2. Các quan điểm về lợi thế và chiến lược cạnh tranh 1.1.2.1. Quan điểm của Adam Smith Theo quan điểm của Adam Smith, nguồn gốc của quá trình thương mại giữa hai hay nhiều quốc gia là do quốc gia đó có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối về một ngành nào đó so với quốc gia khác. Lợi thế cạnh tranh có được tính bằng thời gian hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm nào đó ngắn hơn so với các quốc gia khác. 1.1.2.2. Quan điểm của David Recardo Theo học thuyết của David Recardo, các quốc gia không có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối vẫn có thể có lợi thế cạnh tranh tương đối, và việc mua bán trao đổi giữa hai quốc gia vẫn có thể thực hiện được nhờ vào lợi thế cạnh tranh này. - 4 - Lợi thế cạnh tranh tương đối được tính bằng tỷ lệ tiêu hao nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm A so với sản phẩm B của một quốc gia (quốc gia 1) thấp hơn quốc gia khác (quốc gia 2) và ngược lại quốc gia 2 sẽ có tỷ lệ tiêu hao nguồn lực giữa sản phẩm B so với sản phẩm A là thấp hơn quốc gia 1 mặc dù có thể quốc gia 1 có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cả hai sản phẩm A và B so với quốc gia 2. Do đó quốc gia 1 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm A và quốc gia 2 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất ra sản phẩm B và hai quốc gia tiến hành trao đổi cho nhau thì cả hai quốc gia đều có lợi. Tuy nhiên theo quan điểm của hai quốc gia thì việc cạnh tranh chỉ được xét trên hai quốc gia mà thôi. Trên thực tế, không chỉ có 2 quốc gia cạnh tranh lẫn nhau mà thị trường thế giới có sự tham gia của tất cả quốc gia trên thế giới và lý luận của David Recardo đã bỏ qua chi phí vận chuyển giữa 2 quốc gia. Tuy nhiên đây là cơ sở cho việc mua bán trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới. 1.1.2.3. Quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh Quốc gia – Mô hình viên kim cương. Michael Porter là giáo sư quản trị kinh doanh tại khoa kinh doanh đại học Harvard và là chuyên gia hàng đầu về chiến lược kinh doanh và tính cạnh tranh quốc tế. Theo quan điểm truyền thống, các lý thuyết kinh tế đề cập các yếu tố sau cho vấn đề tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các khu vực và quốc gia: - Đất đai - Vị trí địa lý - Tài nguyên thiên nhiên - Lao động và - Dân số địa phương - 5 - Porter cho rằng sự phát triển lâu dài giữa các ngành công nghiệp khó có thể dựa trên 5 yếu tố trên. Chiến lược, cấu trúc, cạnh tranh của doanh nghiệp Các điều kiện yếu tố đầu vào Các điều kiện của cầu Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan Hình 1.1: Mô hình viên kim cương của Michael Porter Michael Porter đã đưa ra mô hình phân tích tại sao một vài quốc gia lại có lợi thế cạnh tranh hơn các quốc gia khác. Mô hình này đưa ra các yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, các yếu tố này được xem như là “viên kim cương của Michael Porter – Porter’s Diamond”. Lý thuyết này cho rằng điểm tựa quốc gia của một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Điểm tựa này cung cấp các yếu tố cơ bản, hỗ trợ các tổ chức trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Porter đưa ra bốn yếu tố trong mô hình viên kim cương của mình như sau (xem hình 1.1): - Các điều kiện của yếu tố đầu vào: Hiện trạng của một quốc gia liên quan đến các yếu tố sản xuất như lao động kỹ năng, cơ cấu hạ tầng v.v… chúng có liên quan đến cạnh tranh cho những ngành riêng. Các yếu tố này có thể chia thành các nhóm như nguồn nhân lực (trình độ học vấn, chi phí lao động, sự cam kết v.v…), các nguồn nguyên liệu (nguồn - 6 - nguyên liệu tự nhiên, không gian v.v…), nguồn kiến thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố này cũng bao gồm các yếu tố như chất lượng nghiên cứu trường đại học, sự bãi bỏ các quy định của thị trường lao động, khả năng chu chuyển nhanh của thị trường chứng khoán của quốc gia v.v… Các yếu tố quốc gia này thường cung cấp những lợi thế cạnh tranh đầu tiên và từ đó lợi thế cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở này. Mỗi quốc gia có một nhóm các điều kiện yếu tố cụ thể vì thế nên mỗi quốc gia sẽ phát triển những ngành công nghiệp mà nhóm điều kiện các yếu tố đầu vào của nó là tối ưu. Điều này cũng giải thích được sự tồn tại của các quốc gia gọi là “quốc gia có nguồn lao động rẻ”, các nước nông nghiệp (đất nước rộng lớn với nguồn tài nguyên đất đai dồi dào). Michael Porter chỉ ra rằng các yếu tố này không phải có từ thiên nhiên hay được thừa hưởng mà nó có thể thay đổi hay phát triển. Ví dụ như các sáng kiến về chính trị, tiến bộ công nghệ hoặc thay đổi về văn hóa xã hội có thể hình thành nên những yếu tố đầu vào của quốc gia. - Các điều kiện của cầu: Các điều kiện của cầu ảnh hưởng đến việc hình thành nên các điều kiện yếu tố đầu vào của quốc gia. Chúng tác động đến không gian, xu hướng cải tiến và phát triển sản phẩm. Theo Porter các nhu cầu được thể hiện bởi ba đặc tính chính sau: sự hỗn hợp (sự hỗn hợp giữa nhu cầu và sở thích người tiêu dùng), phạm vi và tốc độ phát triển, phạm vi và tốc độ phát triển và các cơ chế mà nó truyền những sở thích từ thị trường trong nước sang thị trường nước ngoài. - Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan: Một ngành công nghiệp thành công trên toàn thế giới có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các ngành hỗ trợ hoặc có liên quan. Những ngành công nghiệp cung cấp có tính cạnh tranh sẽ tăng cường sức mạnh cho việc đổi mới và quốc tế hóa các ngành ở những giai đoạn sau trong chuỗi hệ thống giá trị. Bên - 7 - cạnh những nhà cung cấp, những ngành công nghiệp có liên quan cũng rất quan trọng. Đây là những ngành công nghiệp có thể sử dụng và phối hợp các hoạt động riêng lẻ với nhau trong chuỗi giá trị hoặc chúng có liên quan đến những sản phẩm bổ sung (ví dụ như phần cứng, phần mềm v.v…) - Chiến lược, cơ cấu, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp: Đây là điều kiện của một quốc gia mà nó quyết định cách các công ty được thành lập, được tổ chức và được quản lý và nó quyết định các đặc điểm của cạnh tranh trong nước. Ở đây các lĩnh vực văn hóa đóng một vai trò quan trọng. Ở các quốc gia khác nhau, các yếu tố như cơ cấu quản lý, đạo đức làm việc, các tác động qua lại giữa các công ty được hình thành khác biệt nhau. Điều này sẽ cung cấp những lợi thế và bất lợi thế cho những ngành công nghiệp riêng. Các mục tiêu tập thể tiêu biểu nhất liên quan đến các mô hình cam kết của công nhân là một yếu tố tối quan trọng. Nó bị ảnh hưởng mạnh của cấu trúc sở hữu và sự kiểm soát. Ví dụ như các công ty tư nhân hoàn toàn hoạt động khác biệt so với các công ty nhà nước. Porter cho rằng các đối thủ cạnh tranh trong nước và việc tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trong một quốc gia có thể giúp cung cấp các tổ chức các cơ sở để đạt được lợi thế cạnh tranh trên quy mô toàn cầu. Porter cho rằng các ngành kinh tế của quốc gia sẽ thành công nếu “hệ thống kim cương” này vận hành thuận lợi. Tác động tương hỗ của các nhóm nhân tố này thúc đẩy sự phát triển của ngành và lợi thế của một yếu tố này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và phát triển các nhóm yếu tố khác. 1.1.2.4. Hệ thống chuỗi giá trị của Michael Porter: Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động mà tổ chức thực hiện, liên kết chúng tới vị thế cạnh tranh của tổ chức. - 8 - Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động trong và xung quanh tổ chức và liên hệ chúng tới việc phân tích các thế mạnh cạnh tranh trong tổ chức. Vì thế nó đánh giá các giá trị nào mà các hoạt động riêng rẽ sẽ tăng thêm cho sản phẩm và dịch vụ của tổ chức. Ý tưởng này được xây dựng dựa trên các yếu tố bên trong của tổ chức hơn là sự tập hợp các yếu tố về máy móc, thiết bị, con người và tài chánh. Chỉ có những điều này được sắp xếp vào hệ thống và các hoạt động hệ thống, thì điều hoàn toàn có thể xảy ra là khách hàng có thể trả cho nó một cái giá cao hơn. Porter cho rằng khả năng để thực hiện những hoạt động riêng biệt này và để quản lý kết nối giữa các hoạt động này là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Cơ sở hạ tầng Quản trị nguồn nhân lực Phát triển công nghệ Khả năng thu mua Hình 1.2. Mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter Hậu cần đầu vào Hoạt động Hậu cần đầu ra Tiếp thị và bán hàng Dịch vụ C ác h oạ t đ ộn g hỗ tr ợ Porter phân biệt các hoạt động chính yếu và các hoạt động hỗ trợ. Các hoạt động chính yếu liên quan trực tiếp đến việc tạo ra và phân phối các sản phẩm và dịch vụ. Chúng có thể phân thành 5 nhóm: hậu cần đầu vào (bao gồm việc tiếp nhận, bảo quản, kiểm soát hàng tồn kho, vận chuyển v…), hoạt động sản xuất (bao gồm vận hành máy móc, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm tra và tất cả các hoạt động khác tạo nên giá trị mà nó truyền giá trị từ khâu đầu vào đến sản phẩm cuối cùng), hậu cần đầu ra (hoạt động đòi hỏi việc cung cấp thành phẩm đến tay khách hàng: kho bãi, hoàn tất đơn hàng, vận chuyển, quản trị phân phối), tiếp thị và bán hàng (các hoạt động liên quan đến việc tìm cách Các hoạt động chính - 9 - làm cho khách hàng mua hàng bao gồm lựa chọn kênh phân phối, quảng cáo, khuyến mại, bán hàng, chính sách giá cả, quản trị bán lẻ v.v…) và dịch vụ (các hoạt động duy trì và gia tăng giá trị sản phẩm bao gồm hỗ trợ khách hàng, dịch vụ sửa chữa, lắp đặt, đào tạo, phụ tùng, nâng cấp v.v…). Mỗi một yếu tố này sẽ được liên kết để giúp đỡ các hoạt động nhằm cải tiến hiệu quả. Có 4 lĩnh vực của hoạt động hỗ trợ: khả năng thu mua được (thu mua các nguyên liệu, dịch vụ, phụ tùng, văn phòng, máy móc v.v…), phát triển công nghệ thông tin (nhằm để hỗ trợ cho các hoạt động của chuỗi giá trị như nghiên cứu và phát triển, tiến trình tự động, thiết kế, tái thiết kế v.v…), quản lý nguồn nhân lực (các hoạt động liên quan đến tuyển dụng, phát triển, đào tạo, bồi thường cho nhân viên và quản lý v.v…) và cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp (bao gồm quản trị tổng quát, quản trị kế hoạch, luật pháp, tài chính, kế toán, đối ngoại, quản trị chất lượng v.v…) 1.1.2.5. Quan điểm của Michael Porter về chiến lược cạnh tranh Khi bàn về lợi thế cạnh tranh của các công ty trong cùng ngành thì Michael Porter đã đưa ra 4 chiến lược nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ như sau: • Chiến lược khác biệt hóa (Differentiation) Chiến lược khác biệt hóa tập trung vào chọn lựa một hay nhiều tiêu chuẩn được sử dụng bởi người tiêu dùng trên thị trường và định vị công việc kinh doanh duy nhất để đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Với chiến lược này thường kết hợp với việc bán hàng hóa với giá cả cao hơn thông thường là để phản ánh chi phí sản xuất cao hơn và giá trị gia tăng tăng thêm cho người tiêu dùng. Sự khác biệt hóa thường cung cấp với giá cao, phần tăng lên cao hơn chi phí sản xuất tăng thêm, điều này có thể tạo cho người tiêu dùng lý do chính đáng để mua sản phẩm có sự khác biệt hóa. • Chiến lược sản xuất với giá thấp (Cost Leadership) - 10 - Với chiến lược này, mục tiêu của doanh nghiệp, công ty là trở thành người sản xuất với giá thấp nhất trong ngành dựa vào quy mô sản xuất lớn. Nhiều phân khúc thị trường trong ngành được cung cấp với mục tiêu giảm thiểu chi phí. Nếu giá bán được bằng hoặc gần ngang với mức trung bình của thị trường thì nhà sản xuất với chi phí thấp sẽ có lợi nhuận cao nhất. Chiến lược này thường áp dụng cho các công ty hoạt động có quy mô lớn, cung cấp những sản phẩm tiêu chuẩn với ít sự khác biệt hóa. • Chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa (Differentiation Focus) Trong chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa, công ty nhắm vào sự khác biệt hóa chỉ trong một hoặc một số nhỏ các phân khúc thị trường mục tiêu. Nhà sản xuất sẽ có cơ hội cung cấp cho khách hàng đặc biệt cần phân khúc này sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn khác so với các đối thủ cạnh tranh tập trung vào nhóm khách hàng lớn hơn. Để thực hiện được chiến lược này, cần phải xác định được khách hàng cần và muốn sự khác biệt này. • Chiến lược tập trung vào chi phí (Cost Focus) Với chiến lược này công ty tìm kiếm lợi thế về giá hạ chỉ trong một lượng nhỏ phân khúc thị trường. Sản phẩm cơ bản và tương tự như các sản phẩm khác với giá bán cao hơn. Chiến lược này gọi là chiến lược ăn theo (me too). 1.1.3. Cái nhìn mới về cạnh tranh. 1.1.3.1. Cách nhìn của Michael E. Porter Ngày nay với chiến lược ăn theo hầu như không còn phù hợp nữa, các công ty nên tìm ra con đường để phát triển và xây dựng lợi thế hơn là chỉ tìm cách xóa bỏ bất lợi thế. Các công ty với chiến lược giá hạ nghĩ rằng họ phải có được thị phần lớn, đó là cách để chiến thắng. Tuy nhiên vẫn có những công ty với thị phần nhỏ nhưng vẫn đạt được lợi nhuận lớn. Do đó cách nghĩ trên là sai lầm. Để một chiến lược phát huy tác dụng tối đa của nó thì cần phải gắn liền với sự tiến hóa của ngành đó. - 11 - Với chiến lược khác biệt hóa, điều quan trọng là phải tạo ra sự khác biệt không chỉ bao hàm các tính chất bất lợi mà còn bao hàm tính chất bất lợi khi so sánh với các chiến lược khác. Có nghĩa là công ty phải làm sao tạo ra sự khác biệt mà các công ty khác khó có thể sao chép được, nếu không thì sản phẩm của công ty sẽ bị sao chép một cách dễ dàng. Ngày nay với nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, công ty cần phải thích nghi với sự thay đổi, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, từ công nghệ đến phương pháp quản lý. Quan sát một số công ty lớn chúng ta cũng thấy rằng họ thường không thay đổi chiến lược cạnh tranh của họ nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng có sự thay đổi liên tục các chi tiết trong sản phẩm của họ, chi tiết dịch vụ nhằm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy nhiên đôi khi cần thay đổi chiến lược cạnh tranh của mình khi nhu cầu của nhóm khách hàng lớn thay đổi, ví dụ như đời sống kinh tế của khách hàng ngày càng được tăng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm và dịch vụ tốt hơn ngày càng được nâng lên, do đó công ty cần phát hiện kịp thời những phân khúc thị trường mới để thực hiện chiến lược cạnh tranh của mình cho phù hợp. Hiện nay vai trò của công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định chiến lược cạnh tranh của một công ty, công nghệ mới sẽ xóa sạch những lợi thế tiềm năng và vì thế lợi thế còn lại sẽ ngày càng quan trọng hơn. 1.1.3.2. Những vấn đề lưu ý về lợi thế cạnh tranh Mục đích của các doanh nghiệp hiện nay là tìm cách để nâng cao vị thế cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới, theo trình bày của Tôn Thất Nguyễn Thiêm – tiến sĩ xã hội học, kinh tế - trong giáo trình thị trường cơ cấu và chiến lược thì để gia tăng vị thế cạnh tranh của một doanh nghiệp, doanh nghiệp cần phải tập trung vào các vấn đề về: chất lượng về sản phẩm, thời gian, không gian, dịch vụ, thương hiệu và giá cả. • Chất lượng sản phẩm: - 12 - Khi bàn về chất lượng sản phẩm ông cho rằng đổi mới chất lượng sản phẩm liên tục là một cách để chứng minh với thị trường thực lực của doanh nghiệp vừa làm nản chí đối thủ cạnh tranh, hơn nữa việc đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm biến đổi ngày càng cao nhu cầu của khách hàng. Việc thay đổi thường xuyên chất lượng và chi tiết sản phẩm cũng nằm trong nội dung chiến lược khác biệt hóa của Michael Porter. • Chất lượng thời gian: Thời gian là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, khi tung ra một sản phẩm mới, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nhanh, vì thời cơ không chờ một ai cả, nếu không sẽ không kịp với các đối thủ. Thời gian cần phải đảm bảo để hàng hóa có mặt trên thị trường đúng thời điểm, đúng theo nhu cầu của khách hàng, đó là điều sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên cần phải đảm bảo rằng thời gian kịp lúc nhưng phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ tăng thêm. • Chất lượng không gian: Không gian ở đây chính là không gian khách hàng cần để thỏa mãn nhu cầu của mình chứ không phải không gian mà doanh nghiệp cần để trưng bày và bán sản phẩm. • Chất lượng dịch vụ Nhằm để tạo nên lợi thế cạnh tranh cho công ty mình, chất lượng dịch vụ cần phải được chú trọng đúng mức, hãy luôn ghi nhớ khách hàng là thượng đế, do đó cần phải chú trọng 3 yếu tố chính trong chất lượng dịch vụ đó là cơ sở vật chất, con người và dịch vụ hậu mãi. Trong đó cần quan tâm nhiều đến dịch vụ hậu mãi và thực hiện đúng như những gì đã cam kết với khách hàng. • Chất lượng thương hiệu Đó chính là tiếng tăm của thương hiệu, tiếng tăm của doanh nghiệp được định hình qua một quá trình mà doanh nghiệp chứng minh được với khách hàng là sản phẩm dịch vụ của họ đã mang lại một giá trị gia tăng nhất định. Do đó các doanh nghiệp cần nâng cao thương hiệu của mình trên thị trường, xây dựng cho - 13 - mình hình ảnh thương hiệu của mình trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới. • Chất lượng giá cả Giá cả phải hợp lý và hợp thời, phù hợp với chất lượng sản phẩm và dịch vụ mà công ty cung cấp trên thị trường phù hợp với từng chiến lược cạnh tranh mà công ty đang theo đuổi. 1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ THẾ CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM. Hiện tại năng lực cạnh tranh của Việt Nam được xếp vào thứ 77 trên 104 nước vào năm 2004, đều này có nghĩa là năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ đạt ở mức trung bình và đã tụt 17 hạng so với năm 2003 (đạt 3.23 điểm năm 2004). So với nước dẫn đầu về năng lực cạnh tranh – Phần Lan đạt 5.95 điểm thì năng lực cạnh tranh chúng ta càng thua xa. Bảng 1.1.: So sánh năng lực cạnh tranh của một vài quốc gia trên thế giới Quốc gia Thứ tự GCI- 2004 Điểm 2004 Thứ tự GCI- 2003 Thứ tự BCI Thứ tự chiến lược và hoạt động công ty Thứ tự chất lượng môi trường cạnh tranh quốc gia Phần Lan 1 5.95 1 2 1 5 Mỹ 2 5.82 2 1 2 2 Đức 13 5.28 13 3 1 5 Singapore 7 5.56 6 10 13 8 Malaysia 31 4.88 29 23 28 23 Thái Lan 34 4.58 32 37 36 36 Trung Quốc 46 4.29 44 47 39 47 Indonesia 69 3.72 72 44 38 46 Philippines 76 3.51 66 70 50 77 Việt Nam 77 3.47 60 79 81 79 Nguồn: Diễn đàn kinh tế Thế Giới (WEF) – Global Information Technology report 2004-2005 - 14 - Cần phải nói thêm rằng năng lực cạnh tranh thể hiện qua chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (GCI), chỉ số GCI của chúng ta cũng thua xa một số nước Đông Nam Á như Singapore (xếp hạng 7 đạt 5.56 điểm), Malaysia (xếp hạng 31 đạt 4.88 điểm), Thai Lan (xếp hạng 34 đạt 4.58 điểm), Indonesia (xếp hạng 69 đạt 3.72 điểm) và Philippines (xếp hạng 76 đạt 3.51 điểm). Năm 2003 năng lực cạnh tranh của Việt Nam đứng trên Philippines nhưng đến năm 2004 năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì tụt hơn Philippines đến 7 bậc. Ngoài chỉ tiêu này, năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng được đo bằng chỉ số cạnh tranh kinh doanh (BCI), chiến lược và hoạt động của công ty và chất lượng của môi trường cạnh tranh quốc gia. Trong các chỉ tiêu này thì Việt Nam cũng thua xa so với các nước trong khu vực. Trong bảng 1.1 sẽ cho ta thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước đứng đầu trên thế giới và ở trong khu vực. Môi trường kinh doanh quốc gia của Việt Nam được đánh giá chưa phải là môi trường kinh doanh tốt, chỉ xếp hạng 79 trên tổng cộng 103 nước được xem xét. Môi trường kinh doanh cũng một phần ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một quốc gia. (Để tham khảo vị thế cạnh tranh của các nước khác, xin xem phụ lục 1) 1.3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM GỖ MỸ 1.3.1. Một vài thông số kinh tế của nước Mỹ. - Dân số: Theo nguồn U.S. Bureau of Economics Analysis thì dân số hiện tại của nước Mỹ là 293.655.404 người (năm 2004), ước tính đến năm 2050 dân số đạt đến 403,943,147 người. Điều này cũng chứng tỏ được rằng Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớn. - Tổng diện tích: 9,629,091.00 km2, diện tích này bằng một nửa diện tích của nước Nga, bằng 3/10 diện tích của Châu Phi, bằng một nửa diện tích của - 15 - Nam Mỹ, lớn hơn Trung Quốc một ít và rộng gấp 2.5 lần diện tích của Đông Âu. - Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ (GDP): 46.939,80 tỷ USD (năm 2004) - Thu nhập bình quân đầu người được thể hiện qua bảng 1.2. Bảng 1.2: Thu nhập bình quân quốc dân trên đầu người của Mỹ Năm 2001 2002 2003 2004 Thu nhập- GDP /người (USD) 30,575.00 30,804.00 31,472.00 32,937.00 - Cán cân vãng lai của Mỹ luôn luôn bị âm, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thu nhập nước ngoài luôn luôn thấp hơn lượng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản chi thu nhập cho nước ngoài. Theo như sơ đồ bên dưới, thì các giao dịch của cán cân vãng lai luôn luôn ở mức âm và ngày càng tăng, ví dụ như năm 2000 âm 100 tỷ USD thì năm 2004 âm gần 200 tỷ USD. Giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ Đơn Vị: tỷ USD Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thanh toán thu nhập Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thu nhập Cán cân vãng lai Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ Hình 1.3. Sơ đồ giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ - Xét về chênh lệch giữa xuất và nhập hàng hóa thì Mỹ luôn luôn ở trong tình trạng nhập siêu, theo như sơ đồ bên dưới, càng ngày Mỹ nhập siêu càng - 16 - lớn, như năm 1999, hàng tháng Mỹ nhập siêu khoảng 20 tỷ USD thì đến năm 2005 có tháng Mỹ nhập siêu lên đến 60 tỷ USD. Cán cân thương mại về hàng hóa và dịch vụ (hàng tháng, số liệu đã điều chỉnh) Đơn vị: Tỷ USD Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ Hình 1.4. Sơ đồ cán cân thương mại về hàng hóa dịch vụ của Mỹ 1.3.2. Thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ của Mỹ. Thị trường Mỹ là một trong những thị trường quan trọng nhất thế giới, triển vọng để buôn bán với thị trường Mỹ rất có ý nghĩa quan trọng đối với những nhà xuất khẩu mặt hàng gỗ. Do đó các nhà xuất khẩu gỗ trên thế giới sẽ có cơ hội rất lớn để gia tăng quan hệ làm ăn với đối tác Mỹ nếu họ biết nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ. Chỉ giữa năm 1996 và 2000, tốc độ tăng trưởng tăng thêm của hàng nhập khẩu Mỹ đối với mặt hàng tiêu dùng (furniture) tăng thêm 19.5%. Lượng hàng nhập khẩu các sản phẩm gia dụng bằng gỗ đều gia tăng dần qua các năm, đặc biệt là lượng hàng gia tăng từ các nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc là một trong những nước dẫn đầu và ngày một gia tăng thị phần của mình trên thị trường Mỹ trong những năm gần đây. - 17 - Theo như các số liệu dự báo thị trường, lượng tiêu thụ hàng furniture ở Mỹ sẽ gia tăng 25.5% từ năm 2005-2010 trong khi ở Liên Minh Châu Âu người ta dự đoán tốc độ này chỉ gia tăng 12% (theo nguồn www.csilmilano.com) Việc chi tiêu vào các sản phẩm gia dụng của dân Mỹ khác nhau ở các bang, việc chi tiêu hàng năm cao nhất được ghi nhận ở các bang miền Tây nước Mỹ, mức chi tiêu này cao hơn mức chi tiêu trung bình của nước Mỹ. Hiện tại California được xem là thị trường quan trọng nhất về furniture của nước Mỹ. Hai bang Texas và Floria là hai bang lớn của Mỹ đang tăng trưởng một cách đáng kể và là những thị trường đang hấp dẫn các nhà xuất khẩu Furniture. Theo số liệu thống kê ngoại thương Mỹ thì Canada là nước xuất khẩu sang Mỹ lớn nhất về mặt hàng gỗ, với 4 tháng đầu năm năm 2005 họ đã xuất sang Mỹ tổng kim ngạch đạt 4,771,379,000 USD, tăng hơn cùng kỳ năm 2003 là 11.39%, kế đến là Trung Quốc với tổng kim ngạch trong 4 tháng đầu năm 2005 là 647,358,000 USD, tăng 42.14% so với cùng kỳ năm 2004. Như vậy có thể nói rằng Trung Quốc là nước đang ngày một chiếm dần thị phần của Mỹ đối với mặt hàng gỗ. So với các nước Đông Nam Á, thì Việt Nam đứng sau Indonesia, Malaysia và Philippines. Trong 4 tháng đầu năm năm 2005 thì kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 13,312,000 USD tăng 35.45% so với cùng kỳ năm 2004 và đứng ở vị trí thứ 29 trên thế giới (tính trong 4 tháng đầu năm năm 2005). 12.86% 8.80% 61.80% 16.54% Châu Á Châu Âu Canada Còn lai Nguồn: Số liệu thống kê ngoại thương của Mỹ. Hình 1.5. Sơ đồ thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ Mỹ - xếp theo tiêu chuẩn NAICS-321 - 18 - (Lưu ý: Tiêu chuẩn NAICS là tiêu chuẩn “hệ thống phân loại công nghiệp Bắc Mỹ, 321 là mã dành cho hàng gỗ - wooden furniture) Nhìn chung thị trường tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ của Mỹ rất lớn và là một tiềm năng cho những nhà xuất khẩu, tính trong 4 tháng đầu năm năm 2005 lượng hàng gỗ Mỹ nhập khẩu đạt 7,720,699,000 USD tăng 17.6% so với cùng kỳ năm 2003, trong đó thị trường Mỹ nhập khẩu lớn nhất là Châu Mỹ (Canada, Mexico). Cũng theo số liệu tính toán từ bảng phụ lục 2 ta nhận thấy, lượng hàng nhập khẩu của Mỹ từ châu Á trong 4 tháng đầu năm 2005 chỉ đạt 12.86% so với trên toàn thế giới. Trong khi đó lượng hàng nhập khẩu gỗ của Mỹ từ Châu Âu chỉ đạt được 8.8%, chỉ tính riêng thị trường nhập khẩu từ Canada đã chiếm đến 61.80%. (Vui lòng xem số liệu trong bảng phụ lục 2). 1.3.3. Một số lưu ý khi tham gia kinh doanh buôn bán với thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường tương đối khó tính, tuy nhiên nếu các doanh nghiệp biết được và tìm hiểu các quy định, yêu cầu của Mỹ khi xuất khẩu sản phẩm hàng hóa sang thì việc kinh doanh thì họ sẽ vượt qua được rào cản này. Ở đây người nghiên cứu xin đưa ra một số điểm mà các doanh nghiệp cần phải lưu ý như sau: - Các quy định về kê khai hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ, sự kê khai phải chính xác, rõ ràng và đầy đủ thông tin. - Những quy định về bao bì hàng hóa, nhãn mác, đóng gói và những lưu ý khi sử dụng sản phẩm nếu sản phẩm có thể gây nguy hiểm trong sử dụng. - Những quy định về hóa đơn thương mại, cách ghi tên hàng, hàng hóa và những quy định về chất lượng, xử lý hàng hóa v.v… (Để tìm hiểu thêm một vài quy định cụ thể về hàng hóa xuất sang thị trường Mỹ, xin mời xem phụ lục 3 – Một số quy định của Mỹ về nhập khẩu sản phẩm gỗ) - 19 - CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GỖ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 2.1. Tình hình xuất khẩu các sản phẩm gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh vào thị truờng Mỹ trong thời gian qua. Ngành chế biến gỗ của Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng thời gian gần đây đã vươn lên thành một trong bảy ngành dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ ra thị trường Mỹ. Nhìn chung Mỹ là thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ cho cả nước nói riêng và cho các tỉnh phía Nam nói chung. Hiện tại Bình D._.ương được xem là tỉnh có doanh số xuất khẩu các sản phẩm gỗ cao nhất cả nước, kế đến các tỉnh có doanh số xuất khẩu gỗ cũng khá cao đó là Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai. Cùng với EU và Nhật Bản, Mỹ hiện tại là nhà nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về mặt hàng gỗ (trong đó chủ yếu là khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương, Đồng Nai). Trong năm 2004, xuất khẩu hàng furniture của Việt Nam sang Mỹ đạt 374 triệu USD so với chỉ 1 triệu USD năm 1998, xếp hạng thứ 10 những nhà xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ ĐV: Triệu USD 1 4 9 13 79 177 374 0 100 200 300 400 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Nguồn: US Department of Commerce Hình 2.1. Sơ đồ kim ngạch xuất khẩu hàng furniture của Việt Nam sang Mỹ - 20 - Qua sơ đồ trên ta nhận thấy tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng gia tăng một cách đáng kể, năm 2003 từ 177 triệu USD đã tăng lên 374 triệu USD trong năm 2004 (tăng 111,23%) Trong xu thế phát triển chung của toàn nước đối với mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, có thể nói doanh số xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2005 đã tăng lên 119.35% so với cùng kỳ năm 2004. Kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh trọng điểm phía Nam theo đó cũng gia tăng đáng kể. Bảng dưới đây liệt kê thị trường các nước mà doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu sang trong 5 tháng đầu năm 2005 và so với cùng kỳ năm 2004. Bảng 2.1. Thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam. Đơn vị: Nghìn USD Thị trường Tháng 5/05 5 tháng 2005 5 tháng 2004 % thay đổi Mỹ 39.644 191.312 87.218 119,35 Nhật Bản 15.592 87.542 65.444 33,77 Anh 8.609 58.182 53.182 9,40 Đức 3.924 36.487 24.910 46,48 Pháp 3.356 29.978 21.480 39,56 Hà Lan 2.685 23.989 16.842 42,44 Trung quốc 7.193 22.811 7.811 192,03 Hàn Quốc 3.817 19.172 12.876 48,90 Tây Ban Nha 2.598 15.261 9.538 60,00 Đài Loan 2.802 15.156 22.513 -32,68 Úc 2.693 11.950 9.835 21,51 Bỉ 1.720 10.108 8.607 17,44 Italy 849 8.645 5.266 64,15 Đan Mạch 754 7.261 8.546 -15,03 Thuỵ Điển 706 7.011 4.904 42,97 Canada 1.912 6.932 4.344 59,57 Hi Lạp 714 5.671 3.962 43,13 Phần Lan 252 5.647 4.844 16,58 Nguồn: Vinanet - 21 - Nhìn vào bảng trên ta cũng nhận thấy được rằng lượng tăng xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam sang Mỹ đang ở mức rất cao, điều này cũng khẳng định được rằng Mỹ là thị trường xuất khẩu rất có triển vọng mà Việt Nam cần phải đầu tư và thâm nhập vào. Theo thương vụ Việt Nam tại Mỹ, ước tính trong năm 2005 lượng hàng gia dụng gỗ của Việt Nam sang Mỹ ước tính đạt khoảng 500-550 triệu USD, tăng gần 50% so với năm 2004 (năm 2004, kim ngạch nội thất đồ gỗ nước ta sang thị trường này là khoảng 360 triệu USD) Hiện nay, nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã bắt đầu có xu hướng chuyển nguồn cung cấp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Với diễn biến mới này, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm gỗ Việt Nam trong những tháng tới sẽ có bước đột phá mạnh. Thời gian qua, số lượng các nhà nhập khẩu gỗ Hoa Kỳ sang khảo sát tình hình sản xuất gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tăng và nhiều doanh nghiệp đã đặt hàng đem về Hoa Kỳ để giới thiệu và tìm hiểu phản ứng của thị trường. Sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ mới xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ từ cuối năm 2001 và hiện sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ đứng thứ 12 tại thị trường này, chiếm 0,86% tỷ trọng trong khối lượng nhập khẩu đồ gỗ tại đây. Yêu cầu của đối tác Mỹ đặt ra cho hàng xuất khẩu rất cao. Họ thường khảo sát thị trường xem xét nhà xưởng, năng lực sản xuất rồi mới đi đến quyết định đặt hàng Khi soạn thảo hợp đồng, hầu hết các doanh nghiệp Mỹ đều đưa ra những quy định rất rõ ràng về chủng loại gỗ, kích cỡ sản phẩm... Theo như kết quả khảo sát điều tra của tôi và một số bạn ở cơ sở II, trường Đại Học Ngoại Thương thực hiện trong tháng 4 năm 2005, số lượng doanh nghiệp điều tra là 370 doanh nghiệp của một số doanh nghiệp trên địa bàn - 22 - thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận thì có đến 82% doanh nghiệp có doanh số xuất khẩu tăng đều trong 3 năm gần đây. Cũng theo số liệu điều tra này thì số doanh nghiệp xuất sang thị trường Mỹ rất cao (121 doanh nghiệp chiếm 17.5%), chỉ sau các nước EU (158 doanh nghiệp, chiếm 23.2%) (Xem phụ lục 4, kết quả khảo sát các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và khu vực lân cận) Hiện nay trên cả nước có khoảng 1200 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến khoảng 50% và chiếm đến khoảng 70% năng lực chế biến và tốc độ phát tăng trưởng trên 70%/năm. Do đó có thể khẳng định rằng thành phố Hồ Chí Minh là một trong những khu vực đứng đầu về xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ. 2.2. Ưu thế của thành phố Hồ Chí Minh, ưu thế khác biệt so với các khu vực trong nước. Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 6,6% dân số so với cả nước. Qua 10 năm phát triển (1991 – 2000), tỷ trọng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục gia tăng, điều này cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất của cả nước, là nơi có nhiều cơ hội để các doanh nghiệp phát triển. Bảng 2.2: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế của Hồ Chí Minh so với cả nước qua 5 năm. Các chỉ tiêu so với cả nước 1990 1995 2000 1. GDP 13,66% 16,67% 19,3% 2. Giá trị sản xuất công nghiệp 26,24% 28,55% 29,69% 3. Giá trị dịch vụ 20,09% 22,12% 24,74% 4. Bán lẻ của Thành phố 23,41% 28,76% 28,32% 5. Tổng thu ngân sách trên địa bàn 22,6% 34% - 23 - Chỉ tiêu so với cả nước năm 1990 Chỉ tiêu so với cả nước năm 1995 Chỉ tiêu so với cả nước năm 2000 Hình 2.2. Sơ đồ so sánh các chỉ tiêu của thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước qua các năm Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn Cơ cấu khu vực kinh tế trong GDP của thành phố Hồ Chí Minh cũng rất khác biệt so với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, đây cũng là một lợi thế cho các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh: Bảng 2.3: So sánh cơ cấu kinh tế của Hồ Chí Minh so với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước năm 1995 và 2000. Khu vực kinh tế 1995 2000 TPHCM VKTTĐPN Cả nước TPHCM VKTTĐPN Cả nước Khu vực I (Nông lâm ngư nghiệp) 3,3% 5,9% 27,2% 2,3% 5,3% 25,4% Khu vực II (Công nghiệp – Xây dựng) 38,9% 49,7% 28,8% 41,1% 55,5% 34,5% Khu vực III (Dịch vụ) 57,8% 44,4% 44,1% 54,6% 39,2% 40,1% Tốc độ tăng trưởng GDP, công nghiệp và dịch vụ của TPHCM, VKTTĐPN và cả nước giai đoạn 2001 – 2010 - 24 - Bảng2.4: So sánh tốc độ tăng trưởng của Hồ Chí Minh so với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước và dự báo cho thời kỳ 2006-2010. Giai đoạn 2001-2005 2006-2010 TPHCM VKTTĐPN Cả nước TPHCM VKTTĐPN Cả nước 1. Tốc độ tăng GDP 11% 12% 7% 13% 8% 2. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 13% 15% 10% 12,7% 14% 11% 3. Tốc độ tăng dịch vụ 9,6% 10% - 13,5% 15% - Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn Một Thành phố có số dân trên 7 triệu người vào năm 2010 và mức sống tương đối cao (thu nhập bình quân/ đầu người vào năm 2010 là trên 3.000USD), Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tiêu thụ hàng hoá lớn nhất của cả nước. Từ nay đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đầu mối xuất nhập khẩu lớn nhất của cả nước với hệ thống cảng biển khá phát triển. Việc hình thành các hệ thống giao thông quan trọng như tuyến đường Đông – Tây, đường Xuyên Á, cũng như việc mở rộng các tuyến đường trọng yếu trên địa bàn Thành phố, … đã mở ra cơ hội gia tăng hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, do tổng mức lưu chuyển hàng hoá gia tăng cũng như gia tăng khách du lịch bằng đường bộ. Với vị thế về vị trí địa lý và với vai trò là trung tâm phát triển của cả nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ có rất nhiều ưu thế về lợi thế cạnh tranh so với các vùng khác trong nước. 2.3. Phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh. 2.3.1. Các yếu tố nội tại tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh. - 25 - 2.3.1.1. Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ. Hoạch định chiến lược là một quy trình xác định các định hướng lớn cho phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh của mình. Việc ứng dụng quy trình hoạch định chiến lược, hầu như cho đến nay mới chỉ là "mảnh đất riêng" của các doanh nghiệp lớn. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng hoạch định chiến lược có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa quan tâm đến công tác này. Theo số liệu thống kê của diễn đàn kinh tế thế giới, trong bảng báo cáo công nghệ thông tin toàn cầu 2004-2005, chiến lược và hoạt động công ty của Việt Nam đứng hạng 81 trên thế giới, thua xa Singapore xếp hạng 13, Malaysia xếp hạng 28, Trung Quốc xếp hạng 39 và Phillipines xếp hạng 50. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ vừa và nhỏ không có chiến lược cạnh tranh rõ ràng, có một số doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh, và chỉ làm hàng theo yêu cầu của khách hàng, theo những mẫu mã đã có sẵn từ phía khách hàng. Tuy biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường lớn và tiềm năng, các công ty vẫn cứ hoạch định là thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng không có một chiến lược khả thi để thâm nhập vào thị trường này. Có thể quy cho những nguyên nhân sau: - Do không có thời gian: ở các doanh nghiệp nhỏ, người chủ doanh nghiệp thường là người điều hành trực tiếp, do đó thời gian của họ chủ yếu được giành cho việc giải quyết những vấn đề tác nghiệp hàng ngày và hầu như không còn thời gian để quan tâm tới việc hoạch định dài hạn. - Do không quen với việc hoạch định chiến lược: có nhiều chủ doanh nghiệp chưa nhận thức được công dụng của hoạch định chiến lược hoặc họ cho rằng chiến lược không có liên quan nhiều đến tình trạng kinh doanh của họ. - 26 - - Do thiếu kỹ năng: các chủ doanh nghiệp nhỏ, do hạn chế về trình độ nên thường thiếu những kỹ năng cần thiết để bắt đầu hoạch định một chiến lược, ngoài ra họ cũng không muốn tốn tiền để thuê tư vấn. - Do thiếu niềm tin: có nhiều chủ doanh nghiệp vốn rất nhạy cảm với những thông tin quan trọng liên quan đến công việc kinh doanh của họ và họ thấy không thoải mái khi phải chia sẻ những tính toán chiến lược của mình cho nhân viên hoặc người ngoài. Những lý do trên làm cho hoạch định chiến lược ngày càng trở nên mờ nhạt trong quan niệm của các nhà quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vậy làm thế nào để hoạch định chiến lược thực sự có một chỗ đứng như nó cần phải có trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do không có chiến lược cạnh tranh rõ ràng nên việc khẳng định và cũng cố vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới là một vấn đề khó khăn và cần phải khắc phục. 2.3.1.2. Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên liệu gỗ, nguyên liệu đầu vào tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nguồn nguyên liệu gỗ hiện tại có được từ nguồn nguyên liệu gỗ trong nước (từ rừng trồng và rừng tự nhiên) và nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu. Nếu như năm 1990 Việt Nam khai thác bình quân 1,8 triệu m3 gỗ một năm thì từ năm 2000 đến nay khai thác bình quân 300.000m3 gỗ rừng tự nhiên. Theo đánh giá của các chuyên gia, thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 70% năng lực sản xuất các sản phẩm gỗ xuất khẩu trong cả nước, do đó nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu cũng rất cao (chiếm đến 70%) Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng tự nhiên hiện có của Việt Nam là 9.44 triệu ha, trữ lượng 720,9 triệu m3 gỗ. Để bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững, Chính phủ đã giới hạn khai - 27 - thác gỗ từ những rừng tự nhiên tại địa phương chỉ khoảng 300.000 m3 mỗi năm trong giai đoạn 2000 đến 2010, chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, sản xuất đồ gỗ trong nước (250.000 m3) và sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu (50.000 m3). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang triển khai chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng và cho đến năm 2010 Việt Nam sẽ có thêm 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất. Bảng 2.5. Sản lượng gỗ khai thác của Việt Nam qua các năm Năm Tổng số ( Nghìn m3 ) Chỉ số phát triển ( Năm trước =100 ) - % 1990 3445.5 105.6 1991 3209.6 93.2 1992 2686.5 83.7 1993 2883.8 107.3 1994 2853.2 98.9 1995 2793.1 97.9 1996 2833.5 101.4 1997 2480.0 87.5 1998 2216.8 89.4 1999 2122.5 95.7 2000 2375.6 111.9 2001 2397.2 100.9 2002 2504.0 104.5 2003 2500.0 99.8 Nguồn: Tổng cục thống Kê Để bù đắp sự thiếu hụt về nguyên liệu gỗ rừng tự nhiên, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 250.000 đến 300.000 m3 gỗ từ các nước lân cận và tăng cường sử dụng gỗ rừng trồng, ván nhân tạo để sản xuất hàng xuất khẩu. Nguồn gỗ nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á như Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia thường không ổn định do chính sách lâm sản của các quốc gia này luôn thay đổi, trong khi nguồn nhập khẩu từ các quốc gia khác như New Zealand, Australia, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Mỹ, Châu Phi lại - 28 - cách xa về địa lý nên giá thành nguyên liệu bị đội lên rất cao, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Cho đến nay, nguồn gỗ nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là từ Malaysia (60 triệu USD), Lào (36 triệu USD), Campuchia (29 triệu USD), Indonesia (18 triệu USD)... Song thực tiễn nhiều năm qua đã chỉ ra: các quốc gia có rừng tự nhiên trong khu vực như Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia v.v... ngày càng hạn chế tối đa việc khai thác xuất khẩu gỗ do nguồn tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt và do tác động từ các khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Hơn thế nữa, thế giới trong xu thế quản lý rừng thương mại đã có hàng loạt biện pháp, trong đó biện pháp hữu hiệu nhất là quản lý bằng hệ thống chứng chỉ được cấp với rừng trồng và được thế giới công nhận như hệ thống FSC (Forest Stewardship Council) với 28 triệu ha; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 với 103 triệu ha; sáng kiến rừng bền vững Mỹ (the American Sustainable Forestry Initiative) với 38 triệu ha và Hội đồng chứng nhận rừng Châu Âu Pan (Pan European Forest Certification Council) với 43 triệu ha. Sử dụng phổ biến nhất là hệ thống chứng chỉ của tổ chức FSC bởi các tiêu chí của tổ chức phi chính phủ này là: quản lý tài nguyên thế giới bền vững, vì lợi ích lâu dài các mặt: xã hội, môi trường, kinh tế nhằm đảm bảo rừng trên thế giới được bảo vệ cho các thế hệ sau. Để vào được các thị trường lớn như: EU, Mỹ, khối liên hiệp Anh, các sản phẩm gỗ xuất khẩu của các nước - trong đó có Việt Nam phải có một trong những chứng chỉ trên và thuận lợi nhất là sử dụng chứng chỉ FSC. Do đó, việc cân nhắc nhập khẩu hàng gỗ từ các quốc gia có rừng FSC là một trong những tiêu chí lựa chọn thị trường nguyên liệu gỗ của Việt Nam. Thị trường gỗ của Malaysia, New Zealand, Nam Phi và Mỹ chính là các thị trường Việt Nam đang hướng tới. Bên cạnh đó, tiềm năng thị trường nguyên liệu gỗ của một số quốc gia khác như Brazil cũng nên được định hướng. - 29 - Bảng 2.6. Kim ngạch nhập khẩu gỗ của Việt Nam từ các nước/khu vực (đvt:1.000 USD) Nước/khu vực Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Campuchia 11.698 17.580 28.022 28.9000 Indonesia 20.431 22.718 14.475 17.3000 Lào 36.024 34.778 36.181 Malaysia 27.560 30.438 61.448 59.500 Thái Lan 9.295 5.753 11.114 Singapore 11.018 2.779 5.222 Đài Loan 4.361 6.399 11.265 New Zealand 2.796 4.154 8.885 Mỹ 745 4.934 16.658 17.3000 Các nước khác 27.654 31.779 56.417 Tổng cộng 151.582 161.312 249.687 250.000 Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khu rừng nào có chứng chỉ rừng (FSC), trong khi đó nhu cầu sử dụng các sản phẩm có chứng chỉ nguồn gốc xuất xứ ngày một cao ở hầu hết các thị trường lớn. Do những tác động của con người như khai thác lâm sản (hợp pháp và bất hợp pháp), chuyển đổi đất lâm nghiệp sang trồng trọt và chăn nuôi, xây dựng, đô thị hóa v.v... nên diện tích rừng tự nhiên đã và đang bị giảm đi đáng kể. Theo ước tính của FAO, hàng năm diện tích rừng tự nhiên trên toàn cầu mất đi khoảng 9 triệu ha (FAO, 2001). Ở Việt Nam, năm 1943 tổng diện tích rừng cả nước khoảng 14,3 triệu ha song đến năm 2001 diện tích rừng chỉ còn khoảng 11,3 triệu ha và diện tích đất không có rừng khoảng 8 triệu ha. Môi trường sống của nhiều loài động, thực vật rừng cũng biến mất hoặc bị thoái hóa nghiêm trọng. Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường luật pháp, tham gia các công ước... thì không thể bảo vệ được diện tích rừng tự nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay, được cả - 30 - cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng. Chứng chỉ rừng (Forest Certification) chính là sự xác nhận bằng văn bản – giấy chứng chỉ rằng một đơn vị quản lý rừng được cấp chứng chỉ đã đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững. Giấy chứng chỉ này là thông điệp bảo đảm với người tiêu dùng và tất cả những ai quan tâm đến bảo vệ rừng và môi trường rằng sản phẩm rừng của đơn vị được cấp chứng chỉ đã được sản xuất trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài, không ảnh hưởng đến các chức năng sinh thái của rừng và môi trường xung quanh và không làm suy giảm tính đa dạng sinh học. Hiện nay, nhiều người tiêu dùng đã nhận thức được tầm quan trọng của các mặt hàng đồ gỗ được cấp chứng chỉ rừng, thậm chí hội người tiêu dùng tại Anh, Hà Lan còn có xu hướng tẩy chay sử dụng các loại hàng không có nguồn gốc xuất xứ. Nhu cầu đối với gỗ nhiệt đới đã được chứng chỉ ở thị trường châu Âu và Mỹ đã vượt quá cung. Hiện có hơn 8.000 sản phẩm trên khắp thế giới có mang biểu trưng của chứng chỉ rừng (FSC) từ cửa gỗ đến lược chải đầu, từ văn phòng phẩm đến giấy toilet. Ngày nay, mạng lưới lâm sản toàn cầu, một nhóm các tổ chức và công ty cam kết sản xuất và buôn bán gỗ và lâm sản đã được chứng chỉ, đã có mạng lưới ở 18 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới với hơn 600 thành viên. Theo kết quả thống kê nhu cầu sử dụng hàng có chứng chỉ rừng đã gia tăng với tỷ lệ 2-3% mỗi năm ở Anh. Ở Hà Lan có 500 công ty cùng với nhà nhập khẩu gỗ nhiệt đới lớn nhất ở châu Âu và lớn thứ 2 trên toàn thế giới, hiện đã cam kết chỉ mua sản phẩm đã có FSC. Các mạng lưới bán lẻ rất lớn từ Anh và Mỹ cũng hoạt động với vai trò xúc tác cho những thay đổi bởi họ đang gia tăng yêu cầu các nhà cung cấp của họ cung cấp cho họ gỗ đã được chứng chỉ. - 31 - Có thể nêu đây mục tiêu dài hạn của IKEA, một tập đoàn đang hoạt động mạnh tại Việt Nam, là đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm gỗ tại IKEA đều có nguồn gốc từ các khu rừng đã được xác định là quản lý tốt. Bước đầu tiên trong việc đạt được mục tiêu này là yêu cầu tất cả những nhà cung cấp lâm sản thực hiện các yêu cầu tối thiểu sau: Gỗ sử dụng phải được sản xuất tuân thủ theo luật pháp và các quy định về hoạt động lâm nghiệp hiện hành; Gỗ sử dụng không được khai thác từ các khu rừng cổ xưa hoặc có giá trị bảo tồn cao, trừ phi khu vực rừng đó đã được chứng chỉ theo các nguyên tắc và tiêu chí của FSC hoặc một hệ thống tương tự. Bước thứ 2 để đạt được mục tiêu này là nới rộng các yêu cầu trên đối với các nhà cung cấp các lâm sản khác. Để kiểm tra các thành tựu đạt được sau khi thực hiện các bước trên, IKEA sẽ thiết lập một hệ thống cho phép theo dõi hành trình gỗ trong sản phẩm nó tạo thành đến các đơn vị quản lý rừng cụ thể. 2.3.1.3. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp Có thể nói rằng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu gỗ. Chất lượng nguồn nguyên liệu tốt thì sẽ dẫn đến chất lượng của sản phẩm tốt. Theo đánh giá của các đối tác nước ngoài thì sản phẩm gỗ của Việt Nam so về chất lượng và kiểu dáng thì không thua kém gì so với các sản phẩm của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia v.v… Tuy nhiên vấn đề quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được thực hiện một cách chặt chẽ. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ các khâu riêng biệt của quá trình sản xuất, các khâu của quá trình sản xuất thường bao gồm: - Khâu kiểm tra nguồn nguyên liệu gỗ, kiểm tra chất lượng sản phẩm gỗ, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm gỗ từ khâu sấy gỗ, ra phôi v.v…. Các vấn đề mà hầu hết các doanh nghiệp không đạt được về mặt chất lượng như độ ẩm của sản phẩm, độ đồng màu của sản phẩm, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm - 32 - v.v… Hiện nay theo quy định chung của các khách hàng Mỹ, độ ẩm của sản phẩm gỗ thành phẩm an toàn là nhỏ hơn 12% cho sản phẩm trong nhà và nhỏ hơn 16-17% cho sản phẩm ngoài trời (độ ẩm này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên mua và bán). Do đó việc kiểm tra độ ẩm gỗ ngay từ khâu ra phôi là rất quan trọng, vì giải pháp để khắc phục giảm độ ẩm của sản phẩm khi là thành phẩm là rất khó khăn. Vấn đề này được giải quyết từ khâu sấy gỗ. - Khâu kiểm tra từng khâu trong quá trình sản xuất, từng công đoạn một. - Khâu kiểm tra thành phẩm, đóng gói v.v… Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chú trọng nhiều đến khâu kiểm tra chất lượng cho từng công đoạn và các sai sót trong quá trình sản xuất trong từng khâu là khó phát hiện được. Ngoài ra chất lượng của các thành phần phụ (accessories) cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm mà vấn đề này chưa được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Với nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ FSC ngày một lớn không chỉ ở các nước Châu Âu mà là ở Mỹ là một nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao, trong khi số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được chứng chỉ này không nhiều, đây là lý do khiến cho việc thâm nhập vào thị trường Mỹ khó khăn so với các doanh nghiệp lớn khác như Scancom, Ikea v.v… và các nước trong khu vực. Với cùng một loại gỗ như gỗ dầu (Keruing), nhưng loại gỗ có nguồn gốc FSC luôn luôn mắc hơn gỗ không có nguồn gốc FSC (đôi khi mắc hơn đến 1.5 lần) nhưng các công ty nước ngoài sẵn sàng mua với loại gỗ FSC. Điều kiện để doanh nghiệp có thể sản xuất và cung cấp sản phẩm với loại gỗ FSC (thông thường sản phẩm được đóng biểu tượng FSC lên) thì bắt buộc doanh nghiệp phải có chứng chỉ công nhận của quốc tế - chứng chỉ COC (Chuỗi hành trình của sản phẩm) và phải có số COC. Ngoài cạnh được công nhận - 33 - chứng chỉ COC, doanh nghiệp phải kiểm soát chuỗi hành trình sản phẩm qua các khâu sau: - Thu mua nguyên liệu gỗ - Đầu vào tốt - Kiểm tra trong sản xuất - Hàng hóa thành phẩm và lưu kho. - Việc bán hàng Ngoài ra doanh nghiệp phải có chứng từ phù hợp chứng minh thành phẩm có nguồn gốc từ rừng trồng và được xuất trình cho cơ quan thẩm tra khi có yêu cầu. Theo kết quả thống kê của tôi và sinh viên Trường Đại Học Ngoại Thương thực hiện trên các doanh nghiệp phía Nam, chỉ có khoảng 40% số doanh nghiệp cho rằng chất lượng sản phẩm gỗ là một trong những lợi thế cạnh tranh của họ. 2.3.1.4. Khả năng cạnh tranh về mặt giá cả của doanh nghiệp Có thể nói giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Giá cả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào giá thành để sản xuất ra sản phẩm. Đối với những mặt hàng gỗ tiêu dùng thông dụng, những mặt hàng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể làm được thì giá cả là công cụ cạnh tranh chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài. Các yếu tố đầu vào quyết định đến tính cạnh tranh của giá cả bao gồm: - Nguồn nhân công của doanh nghiệp: Có thể nói nguồn lực lượng lao động của cả nước nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng tương đối rẻ, đây là một lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Malaysia, - 34 - Đài Loan, Hồng Kông, Singapore v.v… Một số lượng rất lớn các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sang thị Trường Mỹ là doanh nghiệp nước ngoài như Đài Loan, Singapore v.v… họ qua Việt Nam để tận dụng lợi thế cạnh tranh giá lao động rẻ. Tuy nhiên với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay chỉ ở mức khoảng trên 500 USD/năm, thì điều này cũng chứng tỏ được rằng giá lao động của Việt Nam tương đối rẻ. Ở thành phố Hồ Chí Minh, giá thuê công nhân chỉ khoảng 1.5USD- 2 USD một ngày trong khi đó giá thuê nhân công ở các tỉnh miền Trung lại càng thấp hơn chỉ khoảng 1USD/ngày. Thu nhập đầu người của Việt Nam thua xa các nước Việt Nam đang đối đầu trong cạnh tranh quốc tế trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, v.v… Chỉ số GNI cũng một phần nào phản ánh được giá cả lao động của các nước trong khu vực, mức độ phát triển của một quốc gia và thu nhập của mỗi người dân và tất nhiên là chi phí lao động luôn luôn gắn liền với thu nhập bình quân trên đầu người. Qua bảng thống kê trong phụ lục 5 có thể dễ dàng nhận thấy GNI/người của Việt Nam (năm 2003) chỉ có 480 USD/năm, trong khi Trung Quốc là 1,094 USD, Malaysia là 4,164 USD và cũng dễ dàng nhận thấy rằng so với các nước trong khu vực (trừ Campuchia, Lào và Myanma), GNI/người của Việt Nam thấp hơn nhiều các nước này, điều này cũng phản ánh chi phí lao động của Việt Nam so với các nước này rất cạnh tranh, đặc biệt là nguồn lao động thủ công. Ở đây cũng xin nói rõ rằng chi phí lao động thủ công chính là yếu tố chính cấu thành nên chi phí của sản phẩm đối với mặt hàng gỗ, đều này cũng là một yếu tố chính quyết định khả năng cạnh tranh của ngành hàng chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam nói chung và của Hồ Chí Minh nói riêng. - Giá cả nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp: Theo như phân tích ở trên, nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào gỗ nhập khẩu. Có đến 80% nhu cầu về gỗ phải nhập khẩu từ các nước láng giềng như Indonesia, Malaysia, Lào, Cam pu chia v.v… và hầu như - 35 - tất cả gỗ mang nguồn gốc rừng trồng (FSC) phải được nhập từ Bắc Mỹ, Ba Lan, Phần Lan, Châu Phi, v.v… Do đó có thể khẳng định rằng giá cả nguyên liệu của Việt Nam cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực và điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm và giảm tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Trong những năm gần đây theo đánh giá của các doanh nghiệp ở phía Nam, giá nhập khẩu gỗ tăng từ 10-30%, điều này sẽ tăng thêm giá thành sản xuất sản phẩm, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ. Theo thời báo kinh tế ngày nay (ngày 19/05/2005), giá các loại gỗ MDF tăng từ 210 USD lên 250 USD/m3. Các loại gỗ thông mua từ Bắc Âu tăng từ 180 USD lên 205 USD/m3. Các loại ván, gỗ nguyên liệu khác như Falcat tăng từ 265 USD lên 330 USD/m3, PB tăng từ 130 USD lên 160 USD/m3… Mặt khác với nhu cầu sử dụng gỗ FSC ngày càng cao trong khi đó ở Việt Nam chưa có khu rừng nào đạt được chứng chỉ FSC, cho nên tất cả nguyên liệu gỗ FSC phải được nhập từ nước ngoài, do đó giá cả nguyên liệu rất cao do phải tốn tiền vận chuyển, chi phí nhập khẩu v.v… Cũng theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, có đến 64% doanh nghiệp cho rằng giá cả nguyên liệu gỗ nhập khẩu cao hơn so với trong nước. Có thể quy cho việc tăng giá gỗ gồm một số nguyên nhân sau: - Đa số khách hàng nước ngoài chỉ ưa chuộng các sản phẩm có nguồn gỗ đặc chuẩn nên các loại gỗ trong nước không đáp ứng được yêu cầu. - Cầu đang vượt cung về nguyên liệu gỗ xuất khẩu, do các nguyên nhân sau: + Trên khắp thế giới người ta ngày càng quan tâm đến việc khai thác bất hợp lý rừng, đặc biệt là việc phá huỷ rừng nhanh chóng từ các rừng nhiệt đới. Điều này có nghĩa là việc cung cấp gỗ cứng từ những rừng này giảm dần trong - 36 - khi nhu cầu về gỗ trên thị trường thế giới ngày một tăng nhanh, đẩy giá nhập khẩu gỗ tăng cao. + Tốc độ trồng rừng chậm hơn nhiều so với tốc độ gia tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thế giới, do đó nhu cầu gỗ vượt xa khả năng cung cấp. + Hai nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc gia tăng số lượng nhập khẩu nguyên liệu, sự tăng trưởng nhanh kinh tế ở Trung Quốc và Hàn Quốc khiến cho nhu cầu sản phẩm tăng nhanh, do đó làm tăng nhanh lượng cầu trong khi cung không đổi. - Giá cả nhiên liệu ngày một leo thang dẫn đến chi phí vận chuyển tăng lên, chi phí vận chuyển tăng lên từ 10-20 USD/m3. - Giá cả các yếu tố liên quan đến giá thành/giá cả sản phẩm: Giá các sản phẩm hỗ trợ cho các sản phẩm gỗ cũng tăng lên trong thời gian qua. Không chỉ giá các loại nguyên liệu gỗ tăng cao, giá các phụ liệu kèm theo như sắt, thép sử dụng trong chế biến đồ gỗ nội thất cũng tăng chóng mặt, giá inox tăng hơn 40% so cùng kỳ. Với mức tăng này giá thành sản phẩm gỗ xuất khẩu tại các công ty tăng thêm 15% - 20%. Nơi nào chế biến mặt hàng sử dụng nhiều phụ liệu, mức tăng có thể lên đến 30%. Ngoài ra các chi phí khác như chi phí điện nước, chi phí điện thoại, chi phí thuê văn phòng v.v…. cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá cả sản phẩm và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện tại chi phí điện thoại đường dài và quốc tế của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực, trong khi đó điện thoại nội hạt theo thống kê của ngân hàng Thế Giới thì Việt Nam thuộc loại thấp, thấp hơn so với mức trung bình của Châu Á Thái Bình Dương và thế giới. Tuy nhiên Philippines vẫn là nước ưu đãi về chi phí điện thoại nội hạt, theo số liệu thống kê của ngân hàng Thế Giới, năm 2003 chi phí điện thoại nội hạt của Việt Nam tương đương với Malaysia và Singapore (0.02 USD/3’), trong khi đó Thái Lan là nước có chi phí điện thoại mắc nhất trong khu vực (0.07USD/3’) - 37 - Còn về chi phí điện, giá điện kinh doanh ở Việt Nam tuy không cao nhưng chất lượng của dịch vụ cung cấp còn bị hạn chế, trung bình gây thêm tổn thất về chi phí điện của doanh nghiệp từ 10-15% Chi phí cho thuê ._.ện thuận lợi cho việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng như xuất khẩu sản phẩm gỗ từ rừng trồng, gỗ nhập khẩu. Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã xây dựng các mức thuế suất cụ thể, có phân biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu được làm từ nguyên liệu gỗ có xuất xứ khác nhau. Sản phẩm xuất khẩu được làm từ gỗ rừng tự nhiên chịu thuế suất cao hơn sản phẩm làm từ gỗ rừng trồng. Gỗ rừng tự nhiên có mức thuế suất bình quân là 5-10%, sản phẩm từ gỗ rừng trồng thuế suất 0%. Về nhập khẩu, trừ gỗ nhập khẩu từ Campuchia phải có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương mại hai nước, các doanh nghiệp được nhập khẩu theo nhu cầu, không phải xin giấy phép của các cơ quan quản lý và được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp nhất hiện hành (0%). Ngoài ra, các chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển, chính sách thưởng xuất khẩu cũng là động lực thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam. 3.1.3. Mục tiêu phát triển ngành gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, theo quyết định số 140/2002/QĐ-UB ngày 03/12/2002 thì chương trình mục tiêu ngành chế biến gỗ cũng đã triển khai và thực hiện một số kế hoạch liên quan đến việc trồng rừng, xây dựng trung tâm thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp, trung tân đào tạo công nghiệp chế biến gỗ, đầu tư đổi mới công nghệ, thực hiện quy trình quản lý chất - 54 - lượng và chứng chỉ rừng (xem chi tiết trong phụ lục 7 và các văn bản pháp quy của Trung Ương và thành phố trong phụ lục 8) 3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh sang thị trường Mỹ. 3.2.1. Giải pháp 1: chiến lược phát triển của doanh nghiệp. * Cơ sơ đề xuất giải pháp. - Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ (đặc biệt là vừa và nhỏ) ở thành phố Hồ Chí Minh chưa có chiến lược phát triển cụ thể. - Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng chưa có chiến lược cụ thể. - Hầu hết các doanh nghiệp chưa chú trọng đến phát triển mẫu mã, sản phẩm mới, chưa có hoặc chưa chú trọng bộ phận R&D. - Chưa xác định cụ thể điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để từ đó có những giải pháp phát triển phù hợp. * Thực hiện. Chiến lược kinh doanh và chiến lược cạnh tranh khi tham gia và gia nhập vào thị trường Mỹ thông qua việc doanh nghiệp phân tích các yếu tố trong ma trận SWOT. Có nghĩa là doanh nghiệp phải nhận biết các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Các doanh nghiệp cần phải xác định chiến lược kinh doanh và chiến lược cạnh tranh dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cho mình. Để xây dựng chiến lược cho mình, ba giai đoạn chủ yếu sau phải tuân theo: Phân tích Hoạch định Thực thi - 55 - Dựa vào những phân tích trong chương 2, chứng tỏ thị trường Mỹ là một thị trường rất lớn và tiềm năng cho Việt Nam nói chung và cho khu vực thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Do đó các doanh nghiệp nên phân tích, hoạch định và thực thi chiến lược thâm nhập và cạnh tranh hàng hóa của mình trên thị trường Mỹ một cách cụ thể. Một điều mà ai cũng thừa nhận rằng mặt hàng gỗ Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực nhưng thị phần của Việt Nam vào thị trường Mỹ chưa cao, điều này tùy thuộc rất lớn vào cách tiếp cận của các doanh nghiệp vào thị trường Mỹ. Theo tôi các doanh nghiệp cần xác định các yếu tố quan trọng sau của mình sau đó lựa chọn cho mình chiến lược cạnh tranh cho phù hợp. - Xác định thế mạnh / điểm yếu của doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải xác định cho được thế mạnh thực sự của mình mà nó có thể có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ là gì. Hầu hết các doanh nghiệp đều có lợi thế về chi phí lao động rẻ, điều này hoàn toàn đúng với hầu hết đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Tuy nhiên các doanh nghiệp cần rút ra bài học từ Trung Quốc, một nước có chi phí sản xuất khá rẻ về mặt hàng gỗ và đã bị Mỹ áp dụng thuế nhập khẩu để chống bán phá giá. Ngày nay không phải chiến lược cạnh tranh với chi phí rẻ là chiến lược tối ưu. Các doanh nghiệp cần nên nghiên cứu tập trung vào chiến lược kinh doanh khác như chiến lược khác biệt hóa. Cần phải xác định sản phẩm của doanh nghiệp mình có những đặc biệt gì hơn so với đối thủ và có thể thỏa mãn nhu cầu của một số khách hàng đặc biệt hay không. Dựa vào việc xác định thế mạnh cạnh tranh của mình, doanh nghiệp có thể chọn các chiến lược cạnh tranh nhằm vào thế mạnh canh tranh của mình. Các chiến lược cạnh tranh có thể chọn lựa xin xem chương 1- các chiến lược cạnh tranh của Michael Porter. Để thực hiện tốt vấn đề hoạch định chiến lược, trước hết, đó là thiện chí hay sự cam kết của ban lãnh đạo trong việc tư duy dài hạn và luôn tính đến các suy nghĩ này trong từng hành động, điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo một mặt - 56 - phải giành thời gian cho việc tổ chức các cuộc họp riêng về chủ đề chiến lược cũng như giành mối quan tâm thường trực cho việc cân nhắc các quyết định hàng ngày trong khuôn khổ các lựa chọn dài hạn của doanh nghiệp; Bên cạnh đó, cần cụ thể hoá các mục tiêu và phương tiện cho việc thực hiện chiến lược, không chỉ dừng lại ở lời phát biểu trịnh trọng về chiến lược hay các giải pháp chung chung, mà cần phải đưa ra được một loạt các mục tiêu, quyết định và hành động theo các lịch trình cho chính họ lập ra; Cuối cùng là thiện chí có tính toán của mọi cấp độ quản lý, nhằm tránh nguy cơ không thừa nhận của các cán bộ cấp dưới. Các phương pháp đơn giản và chặt chẽ cần được thích ứng một cách linh hoạt nhất với doanh nghiệp, bởi vì việc ưa chuộng các phương pháp chính thống hoặc có quá nhiều ràng buộc thường dẫn đến thất bại. - Xác định các cơ hội và nguy cơ của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần xác định và tận dụng cơ hội của môi trường bên ngoài, đánh giá các nguy cơ để có biện pháp hạn chế nó. Nguy cơ mà các doanh nghiệp thường gặp đó chính là cạnh tranh của các đối thủ trong nước và các nước trong khu vực. Sơ đồ sau sẽ giúp doanh nghiệp xác định được lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mình: Những lợi thế cạnh tranh lâu dài Xu hướng thị trường và sản phẩm Điểm mạnh dịch vụ và sản phẩm Các cơ hội trên thị trường Kỹ năng và năng lực Phân tích môi trường Phân tích khách hàng Phân tích cạnh tranh Kiểm toán nội bộ - 57 - Ngoài ra, nhằm thâm nhập và mở rộng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần phải tiếp cận theo những hướng sau đây: Đẩy mạnh khâu nghiên cứu thị trường (R&D), quảng bá sản phẩm, thiết kế những sản phẩm mới phù hợp với thị trường. Xác định được thị hiếu tiêu dùng của thị trường Mỹ qua nghiên cứu, tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè, các tổ chức xúc tiến thương mại v.v… để từ đó xem sản phẩm của mình, chất lượng sản phẩm đã phù hợp với thị trường này chưa. Tham gia hội chợ triển lãm là cách tốt nhất để quảng bá hình ảnh sản phẩm và thương hiệu của mình đối với nhà nhập khẩu/ phân phối và tiêu dùng Mỹ. Hàng năm, Mỹ tổ chức khá nhiều các hội chợ triển lãm chuyên ngành hàng gỗ, đây là cơ hội để cọ xát giữa người mua và người bán trên chính thị trường Mỹ. Có thể tham khảo một số hội chợ ngành hàng gỗ tại Mỹ như sau: Thời gian Tên hội chợ Địa điểm Thành phố 26-28/1 Surfaces. Floor Covering Show USA Las Vegas 28-30/1 Orlando Furniture and Accessory Market USA Orlando 6-8/2 Edison Furniture & Accessory Market USA Edison 17-18/2 Carolinas Industrial Woodworking Expo - Cabinets, industrial woodworking, furniture USA Greensboro 15-16/4 Mid-Atlantic Industrial Woodworking Expo - Furniture, cabinet, industrial wood products, woodworking machinery USA Ft. Washington 27-28/4 Las Vegas International Hotel & Restaurant Show - Furniture, furnishings, fixtures USA Las Vegas 14-17/5 ICFF International Contemporary Furniture Fair USA New York 14-17/9 the Chicago Fair in USA from September 14 through 17 USA Chicago - 58 - Ngoài ra, việc tiếp cận thị trường Mỹ cũng nên được thực hiện qua nhiều nguồn khác nhau như các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam, phòng thương mại, Bộ thương mại của Việt Nam, đại sứ quán, thương vụ của Việt Nam ở Mỹ hoặc từ website, internet v.v… Qua cuộc khảo sát ta thấy hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc thâm nhập, tìm kiếm khách hàng qua các tổ chức xúc tiến của chính phủ và phi chính phủ. * Hiệu quả của giải pháp. - Doanh nghiệp tự xác định cho mình chiến lược phát triển phù hợp (dài hạn, trung hạn và ngắn hạn), xác định được ma trận SWOT cho riêng mình để có những giải pháp phù hợp trong từng giai đoạn phát triển. - Doanh nghiệp xác định chiến lược cạnh tranh phù hợp tùy theo những đặc điểm riêng của mình. Ví dụ chiến lược tập trung vào sự khác biệt đối với những doanh nghiệp nhỏ, thu hút một phân khúc thị trường nhất định, giá có thể cao nhưng tạo được sự khác biệt hóa trong sản phẩm, chiến lược giá hạ áp dụng cho những doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn, sản xuất đại trà, những mặt hàng thông dụng v.v… - Có kế hoạch thâm nhập, mở rộng sang thị trường Mỹ. 3.2.2. Giải pháp cho nguồn nguyên liệu đầu vào. * Cơ sở đề xuất giải pháp. - Giá cả nguyên liệu gỗ cao. - Doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào - Doanh nghiệp thường khó xác định được nhu cầu nguyên liệu gỗ hàng năm. * Thực hiện. - Các doanh nghiệp cần phải chủ động trong nguồn nguyên liệu gỗ, phải bảo đảm nguồn nguyên liệu đúng chất lượng, thời gian cung cấp kịp thời cho - 59 - sản xuất. Để thực hiện tốt khâu chuẩn bị nguồn nguyên liệu cho sản xuất, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt khâu thống kê và dự báo nhu cầu cho từng năm cho từng loại gỗ, từ đó có thể chủ động hơn trong khâu thu mua nguyên liệu. - Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ mua nguyên liệu thường qua rất là nhiều khâu trung gian, do đó chất lượng thường không đảm bảo, giá cả đội lên rất cao. Do đó các doanh nghiệp nên liên kết lại với nhau để nhập khẩu gỗ với số lượng lớn, giảm chi phí nhập khẩu và tận dụng giá rẻ với số lượng lớn. - Các đối tác để liên lạc nhập khẩu gỗ, thông tin từ thị trường, nhà cung cấp có thể tìm hiểu qua các trang web chuyên ngành, từ cục xúc tiến thương mại v.v… * Hiệu quả của giải pháp. - Ổn định được nguồn nguyên liệu đầu vào. - Giảm đáng kể chi phí nhập khẩu nguyên liệu, giảm chi phí nguyên liệu. 3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. * Cơ sở đề xuất giải pháp. - Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng đều. - Thiếu đầu tư máy móc nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm. * Thực hiện. - Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải được tiến hành từ khâu nguyên liệu đến khâu sản xuất và thành phẩm. Yêu cầu của thị trường Mỹ về chất lượng sản phẩm rất cao, đặc biệt là hàng hóa nội thất, gỗ chủ yếu để sản xuất mặt hàng này là gỗ cao su và gỗ thông, yêu cầu của Mỹ là gỗ phải không có độc tố, chất lượng gỗ và sản phẩm phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tiêu dùng. Để đảm bảo chất lượng hàng hóa đạt tiêu chuẩn sang thị trường Mỹ, các doanh nghiệp phải thực hiện công việc kiểm tra chất lượng sản phẩm ở từng công đoạn một cho đến khi đóng gói và xuất khẩu. - 60 - - Việc đầu tư máy móc thiết bị cũng là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm. - Các doanh nghiệp cũng rất cần phải nghiên cứu các quy định về thủ tục và chất lượng sản phẩm khi xuất sang thị trường Mỹ để từ đó có được những thông tin cần thiết để đáp ứng nhu cầu của đối tác, đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất khẩu. - Cần phải đào tạo kiến thức cho cán bộ công nhân viên về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và yêu cầu họ phải tuân theo. - Nguồn nhân lực cần phải ổn định và phải qua đạo tạo về tay nghề mới bảo đảm được chất lượng của sản phẩm. * Hiệu quả của giải pháp. - Nâng cao và cải tiến chất lượng sản phẩm. - Khắc phục những lỗi ngay từ đầu trong giai đoạn sản xuất để giảm thiểu tổn thất xảy ra. 3.2.4. Giải pháp nâng cao thương hiệu và hình ảnh doanh nghiệp * Cơ sở đề xuất giải pháp. - Thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được biết đến. - Các doanh nghiệp chưa coi trọng việc phát triển thương hiệu - Các sản phẩm xuất khẩu thường qua trung gian và mang thương hiệu nước thứ ba. * Thực hiện. Các doanh nghiệp đã đến lúc nên coi trọng thương hiệu của sản phẩm mình và có chiến lược cụ thể để giới thiệu thương hiệu của sản phẩm mình trên thị trường quốc tế và Mỹ. Để dễ dàng hơn trong việc nâng cao thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế các doanh nghiệp nên thực hiện các yêu cầu sau: - 61 - - Liên lạc với hội bảo hộ thương hiệu Việt thành phố Hồ Chí Minh, trang web thương hiệu Việt hay phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để có sự hỗ trợ trong kế hoạch nâng cao thương hiệu của mình. Tháng bảy năm 2005. thành phố Hồ Chí Minh đã thí điểm chọn một số doanh nghiệp có nhiều năm đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao và có chiến lược xuất khẩu rõ ràng và thị trường xuất khẩu ổn định để ủng hộ tài chính trong việc quảng bá thương hiệu Việt, trong thời gian tới chương trình này sẽ được tiến hành rộng rãi. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp có thể quảng bá danh hiệu của mình. - Luôn luôn đề cao thương hiệu doanh nghiệp trong xuất khẩu, sử dụng thương hiệu, nhãn mác của mình trên sản phẩm và tránh sử dụng thương hiệu hay nhãn mác của người mua đối với những mẫu mã hàng hóa độc quyền của mình. - Nâng cao hình ảnh, chất lượng của công ty, công ty nên tập trung nâng cao hình ảnh chất lượng sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất của mình. Đối tác Mỹ chỉ có thể yên tâm làm ăn với công ty nào đã đạt chứng chỉ chất lượng sản xuất nhà máy. Do đó các doanh nghiệp nên hệ thống và sắp xếp lại quy trình sản xuất, liên lạc với tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để được đánh giá nhà máy, mục đích là đạt được các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO). - Chứng chỉ COC cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá doanh nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ FSC và tạo ra các sản phẩm gỗ FSC. Đây là một yêu cầu ngày càng lớn của các đối tác và người tiêu dùng Mỹ nói chung và Châu Âu nói riêng. Các doanh nghiệp cũng nên liên kết với các cơ quan quốc tế để được đánh giá và xét được cấp chứng chỉ này khi có nhu cầu. - Phong cách hoạt động chuyên nghiệp (có trang web để quảng bá hình ảnh sản phẩm của mình, các bảng báo giá, cơ sở dữ liệu khoa học v.v…) cũng là cách để nâng cao chất lượng thương hiệu của mình. * Hiệu quả của giải pháp. - 62 - - Càng ngày nâng cao thương hiệu của Việt Nam sang thị trường Mỹ. - Giảm khâu mua bán qua trung gian và chuyển sang bán trực tiếp cho khách hàng qua việc phát triển thương hiệu. 3.2.5. Giải pháp đối với nguồn nhân lực cho doanh nghiệp * Cơ sở đề xuất giải pháp. - Các doanh nghiệp chưa chú ý đến tầm quan trọng của nguồn nhân lực - Nguồn nhân lực nhìn chung chưa ổn định. - Chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực. * Thực hiện. Theo như trình bày trong mục 2.2.3.5, chất lượng nguồn nhân lực của thành phố Hồ Chí Minh ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên nhìn chung các doanh nghiệp chưa có chế độ, chính sách thỏa đáng để giữ người tài, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực chưa cao và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của nguồn nhân lực đến sự phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần lưu ý đến tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong xu thế hội nhập và cạnh tranh của ngành ngày càng diễn ra nhanh chóng và gay gắt. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Khối lượng thông tin và tri thức nhân loại tăng nhanh với gia tốc lớn. Điều này vừa khiến cho vòng đời của thông tin nhanh chóng bị rút ngắn lại, thông tin nhanh chóng bị lạc hậu, nhưng với khối lượng đồ sộ của thông tin bắt buộc hoạt động của con người phải tăng tốc, phải được nâng cấp để bắt kịp sự biển đổi này. Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nguồn vốn tư bản, nguồn lao động dồi dào v.v… hiện không còn là yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững, lợi thế cạnh tranh mà yếu tố chính tạo nên sự phát triển lâu dài và bền vững đó chính là nguồn vốn trí thức, nguồn nhân lực của doanh nghiệp. - 63 - Những tiêu chuẩn về nguồn nhân lực ngày nay có chiều hướng thay đổi từ cần cù, trung thành, có trách nhiệm chuyên sang có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng ăn nói diễn đạt v.v.... Do đó các doanh nghiệp cần lưu ý những đặc tính này của nguồn nhân lực đặc biệt là trong đội ngũ kinh doanh của mình. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc cạnh tranh giữa các quốc gia rất gay gắt và do đó việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với trong nước và trong nước với nước ngoài cũng khá gay gắt, phần thắng chỉ nghiêng về các quốc gia/ doanh nghiệp có nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo tốt. Do đó vấn đề tuyển chọn chất lượng nguồn nhân lực trong khâu đầu vào của doanh nghiệp cần được chú trọng cao, nhằm đảm bảo được chất lượng hoạt động của doanh nghiệp sau đó. Doanh nghiệp cần phải có chính sách phù hợp để ổn định nguồn nhân lực bởi vì đa số các doanh nghiệp thuê lao động theo mùa khi có nhu cầu, do đó rất bị động trong việc kiểm soát nguồn nhân lực. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thực hiện việc ký kết hợp đồng dài hạn với công nhân viên và không có chính sách thỏa mãn nhằm thu hút, giữ nhân tài, do đó sự thay đổi nguồn nhân lực trong công ty là rất lớn, gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp… Cần phải có chương trình bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao trình độ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Cần phải có quỹ để đào tạo nguồn nhân lực, tạo nên môi trường hoạt động ngày càng chuyên nghiệp…Nhằm để đào tạo tốt nguồn nhân lực, các doanh nghiệp nên cử cán bộ tham gia những khóa đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, kết hợp với các tổ chức, trung tâm đào tạo để tiến hành phối hợp đào tạo cho cán bộ công nhân viên của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể hỗ trợ về mặt tài chính cho cán bộ công nhân viên tham gia các khóa học về ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ v.v… - 64 - * Hiệu quả của giải pháp. - Giúp doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực và coi trọng việc ổn định nguồn lực trong công ty trong việc quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Nguồn nhân lực được nâng cao theo hướng chuyên môn hóa, am hiểu về kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ. 3.2.6. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ cho doanh nghiệp * Cở sở đề xuất giải pháp. - Chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp nhìn chung chưa cao, chưa mang tính chuyên nghiệp - Phục vụ những yêu cầu, thắc mắc của khách hàng thường là chậm trễ, không đúng lúc. - Thời gian giao hàng thường chậm trễ và thiếu những thông tin giao dịch cần thiết cho khách hàng về chi tiết đơn hàng. * Thực hiện. Theo sơ đồ chuỗi giá trị của Porter, dịch vụ là một khâu quan trọng trong việc gia tăng giá trị cho doanh nghiệp. Dịch vụ ở đây nên hiểu rộng hơn không chỉ là dịch vụ ở khâu hậu mãi mà là dịch vụ ở tất cả các khâu của quá trình. Chất lượng dịch vụ cần phải được chú tâm ở tất cả các khâu từ khâu chào giá, marketing, bán hàng, hậu mãi… Dịch vụ cần phải chú ý vào khâu phục vụ đúng lúc, đúng thời điểm, và mức độ chuyên nghiệp trong khâu phục vụ khách hàng, hiểu biết sâu về sản phẩm, chức năng v.v…Để nâng cao chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần chú ý những điểm sau: - Tăng cường khâu quản trị một cách hiệu quả, quản lý theo phong cách hiện đại và chuyên nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của công ty. - 65 - - Luôn luôn coi trọng yếu tố thời gian trong kinh doanh và luôn giữ uy tín với khách hàng, ví dụ như thời gian thực hiện xong bảng chào hàng, thời gian giao hàng đúng hạn v.v… Ví dụ như doanh nghiệp có thể đưa ra quy định tất cả các email, yêu cầu khách hàng phải được phản hồi trong vòng 24 tiếng đồng hồ. - Bảo đảm rằng thông tin cung cấp cho khách hàng là chuẩn xác, có sự chuyên môn hóa trong đội ngũ nhân viên để tạo điều kiện cho phong cách phục vụ nhu cầu khách hàng được tốt hơn. Ví dụ như trước khi giao hàng phải thông báo giao hàng (pre-shipment advice) và sau khi giao hàng phải thông báo kịp lúc chi tiết giao hàng (shipment advice). Trong trường hợp giao hàng trễ, phải thông báo cho khách hàng và yêu cầu họ chấp nhận giao trễ ít nhất là một tuần trước ngày xuất hàng được quy định trong đơn hàng v.v… - Có sự huấn luyện, đào tạo cho nhân viên để hiểu thấu và nắm bắt được công việc mình làm, phải có sự phối hợp nhịp nhàng, khoa học giữa các phòng ban trong việc phục vụ khách hàng. - Công nhân viên phải có trình độ chuyên môn nhất định, có óc sáng tạo phù hợp với công việc mình làm nhằm tạo điều kiện tốt hơn trong khâu dịch vụ cung cấp cho khách hàng. * Hiệu quả của giải pháp. - Chất lượng phục vụ khách hàng của doanh nghiệp mang tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hơn. - Phục vụ đúng lúc theo đúng tiêu chí “on time” chứ không phải “in time”. 3.2.7. Giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp * Cơ sở đề xuất giải pháp. - Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Chỉ có đầu tư công nghệ mới có khả năng cạnh tranh cao và thâm nhập thị trường cao. - 66 - - Công nghệ sản xuất gỗ của Hồ Chí Minh nhìn chung còn lạc hậu, đa số là sản xuất thủ công, năng suất thấp. * Thực hiện. Sơ đồ sau đây sẽ thể hiện vai trò của công nghệ trong sự kết hợp với vai trò của công nghệ trong quá trình sản xuất để tạo nên lợi thế cạnh tranh. Công nghệ: Áp dụng công nghệ phù hợp Công nghệ tiên tiến, sử dụng hiệu quả yếu tố đầu vào, đổi mới công nghệ Quản trị: Phù hợp quản trị sản xuất với chiến lược sử dụng công nghệ nhằm giảm chi phí của quá trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm Nâng cao chi phí đầu tư cho máy móc thiết bị dẫn đến: - Giảm chi phí lao động - Giảm chi phí năng lượng - Giảm chi phí nguyên vật liệu - Nâng cao độ tin cậy trong quá trình sản xuất Giảm chi phí quá trình sản xuất dẫn đến: - Giảm chi phí sản phẩm không đạt chất lượng - Giảm chi phí tồn trữ - Nâng cao hiệu quả sản xuất Chi phí sản xuất thấp Chất lượng sản phẩm và dịch vụ tăng Thời gian sản xuất ngắn hơn Nâng cao lợi thế cạnh tranh Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ qua biểu đồ trên, các doanh nghiệp cần phải đầu tư vào công nghệ để phục vụ trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh. Các lưu ý khi đầu tư công nghệ sản xuất: - 67 - - Dựa vào nhu cầu sản xuất thực tế và nhu cầu đặt hàng thực tế và dự báo nhu cầu cho tương lai để quyết định đầu tư cho công nghệ. - Dựa vào năng lực tài chính hiện tại và khả năng thanh toán để quyết định đầu tư. - Có thể tham gia các hội chợ công nghệ đồ gỗ tổ chức hàng năm ở thành phố Hồ Chí Minh để xem công nghệ (máy móc) sản xuất nào là phù hợp cho doanh nghiệp. - Có thể tìm kiếm, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ với các đối tác nước ngoài. - Kết hợp hiệu quả giữa đầu tư công nghệ và quản trị sản xuất để đạt được hiệu quả tối ưu, nâng cao năng lực cạnh tranh. * Hiệu quả của giải pháp. - Giúp doanh nghiệp hiểu được tầm quan trọng của đầu tư công nghệ trong sản xuất. - Giúp doanh nghiệp lựa chọn quyết định đầu tư công nghệ thích hợp. 3.3. Một vài kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng. 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước. 9 Tạo nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước, chất lượng cao thay thế nhập khẩu đáp ứng các đơn đặt hàng lớn. Với 3 xu hướng nguyên liệu chính: gỗ nhân tạo, gỗ có chứng nhận FSC và gỗ tái chế, các tiêu chuẩn về môi trường sẽ được thị trường đặt ra ngày càng nhiều cho thương mại đồ gỗ, kể cả việc xác định tính hợp pháp và khả năng tái sinh của khu vực khai thác. Do đó, đối với các sản phẩm gỗ khai thác tại Việt Nam cần mời các tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiểm tra việc quản lý khai thác gỗ và cấp chứng chỉ xác nhận gỗ được khai thác. Đặc biệt, việc xây dựng và các tiêu chí quản lý rừng bền vững, các - 68 - khu rừng có chứng chỉ FSC cần được tiến hành nhanh chóng, triệt để nhằm đạt được một số lợi thế cho ngành lâm nghiệp Việt Nam. 9 Nâng cao nhận thức toàn diện về vai trò, vị trí mới của sản phẩm gỗ trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực quốc gia. 9 Nâng cao vai trò, chức năng của các hiệp hội ngành nghề, trước hết là ngành hàng gỗ Việt Nam trong hiệu quả liên kết chuỗi doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia. 9 Thành lập Ban chỉ đạo (hoặc Ban chủ nhiệm) cấp thành phố để thúc đẩy tiến độ đầu tư chương trình mục tiêu phát triển ngành chế biến gỗ. 9 Nhà nước ban hành mới và chỉnh sửa các luật hiện có để tạo sự thống nhất giữa luật và các văn bản dưới luật, phù hợp với hệ thống luật quốc tế và những cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm tạo môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, giúp các doanh nghiệp cả Việt Nam và các đối tác Hoa Kỳ yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh, tích cực đầu tư và tìm kiếm các đối tác thương mại tại Việt Nam. 9 Việt Nam chuẩn bị sẵn sàng các hành trang cần thiết để đối phó thắng lợi với các vụ tranh chấp thương mại có thể sẽ xảy ra trong tương lai cho ngành gỗ. Chúng ta, một mặt, phải học cách thích ứng với thực tiễn kinh doanh quốc tế, trong đó các tranh chấp thương mại là hiện tượng bình thường, bằng cách phối hợp chặt chẽ với các bị đơn khác để có tiếng nói thống nhất phản đối đơn kiện; thuê khoán tư vấn pháp lý giỏi... Mặt khác, phát huy vai trò của các hiệp hội xuất khẩu Việt Nam trong việc phối kết hợp các doanh nghiệp trong nước, các nhà nhập khẩu hàng của Việt Nam ở Hoa Kỳ, người tiêu dùng Hoa Kỳ, kể cả các chính khách... Tiến hành những cuộc tuyên truyền vận động về sản phẩm của Việt Nam không hề bán phá giá, về lợi ích của việc tăng cường trao đổi buôn bán sản phẩm giữa hai bên... - 69 - 9 Nên nhanh chóng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất gỗ ở Việt Nam nói chung và ở Hồ Chí Minh nói riêng có cơ hội thúc đẩy thương mại với các nước trên thế giới và Mỹ. 9 Có kế hoạch đào tạo lâu dài nguồn nhân lực nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vì chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia là một yếu tố quan trọng quyết định nên sự phát triển lâu dài và tạo nên lợi thế cạnh tranh cho quốc gia đó. Việc cải tiến nguồn nhân lực có thể được thực hiện từ khâu giáo dục đào tạo, công tác quản lý giáo dục của Việt Nam… 9 Cần phải có sự hỗ trợ về mặt tài chính, tín dụng để doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính thực hiện chính sách quảng bá sản phẩm, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. 3.3.2. Kiến nghị đối với các cơ quan chức năng thành phố. 9 Ngành Lâm nghiệp cần nên nhanh chóng đăng ký, lập hồ sơ và hoàn tất hồ sơ để được công nhận của thế giới nguồn gốc gỗ rừng trồng (FSC). 9 Về nguồn hàng nhập khẩu, các cơ quan chức năng (như hiệp hội v.v…) cần cung cấp thông tin đầy đủ về giá cả, thị trường gỗ nguyên liệu và nhà xuất khẩu gỗ khi doanh nghiệp có yêu cầu và có thể tư vấn cho doanh nghiệp thị trường nhập khẩu nguyên liệu nào là phù hợp khi có yêu cầu. 9 Tăng cường việc trồng rừng khai thác gỗ, tăng cường giao rừng cho dân theo chế độ khoán, khuyến khích người dân trồng rừng và gắn liền lợi ích trồng rừng cho người dân. 9 Đối với cục xúc tiến Thương mại cần phải phát huy vai trò của mình trong việc quảng bá hình ảnh, sản phẩm của các doanh nghiệp sang thị trường Mỹ. Hỗ trợ các doanh nghiệp về mặt tài chính và hướng dẫn, trợ giúp họ trong việc quảng bá sản phẩm sang thị trường Mỹ. 9 Các cơ quan chức năng (ví dụ như phòng Thương Mại) có thể tổ chức thường xuyên những khóa học ngắn hạn, những buổi hội thảo chuyên ngành gỗ - 70 - xuất sang thị trường Mỹ nhằm phổ biến kiến thức, các yêu cầu của thị trường Mỹ, thị hiếu v.v… và giải đáp thắc mắc cho các doanh nghiệp. 9 Chú trọng xúc tiến xuất khẩu, đăng ký vào bảo hộ thương hiệu. Nâng cao vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện chiến lược nâng cao thương hiệu và bảo hộ thương hiệu hàng Việt Nam tại thị trường Mỹ. 9 Thành lập các Viện nghiên cứu sản phẩm, thị trường gỗ, thị trường tiêu thụ sản phẩm, tư vấn thông tin giá cả, bạn hàng v.v… 9 Các bộ ngành có thể phối hợp với các trường đào tạo kỹ thuật thành lập các trung tâm đào tạo lành nghề mộc nhằm bổ sung lực lượng nghề mộc cho các doanh nghiệp. 9 Kiến nghị Sở Công nghiệp thành phố chủ trì và triển khai nhanh các dự án về đổi mới công nghệ, thiết bị phục vụ ngành chế biến gỗ theo Quyết định của UBND thành phố. 9 Quy chuẩn thống nhất các thông số kỹ thuật kiểm tra chất lượng sản phẩm gỗ theo ISO 9000, ISO 1400… - 71 - KẾT LUẬN Lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa là một yếu tố quyết định đến sự phát triển và thịnh vượng của mỗi doanh nghiệp. Tận dụng được những lợi thế vốn có của mình, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trên Tp. Hồ Chí Minh cần phải có chính sách, chiến lược phát triển của mình để giành được lợi thế cạnh tranh không những ở trong nước mà còn so với các nước trong khu vực và thâm nhập vào thị trường Mỹ - một thị trường đầy hứa hẹn nhưng khó tính. Tuy nhiên việc thành công hay không khi thâm nhập vào thị trường này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tận dụng hết khả năng, thế mạnh của mình, biết đón lấy những thời cơ, cơ hội một cách tốt nhất. Qua đề tài nghiên cứu này, hy vọng các doanh nghiệp biết cách vận dụng các giải pháp một cách tốt nhất tùy theo tình hình thực tế của mình mà có những chiến lược phát triển, cạnh tranh phù hợp nhất khi tham gia vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, vì thời gian nghiên cứu có giới hạn, chắc chắn đề tài này có nhiều thiếu sót, kính mong sự đóng góp của quý thầy cô, các bạn và các doanh nghiệp để cho đề tài nghiên cứu này ngày càng được hoàn thiện hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1377.pdf
Tài liệu liên quan