LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động sản xuất kinh doanh để thu được lợi nhuận và không ngừng gia tăng lợi nhuận luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, không phải doanh nghiệp nào cũng thành công. Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề khác nhau, kinh doanh trong những điều kiện khác nhau lại thực hiện lợi nhuận theo những đặc điểm khác nhau. Do đó, nghiên cứu về lợi nhuận ở mỗi doanh nghi
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1780 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao lợi nhuận tại Công ty TNHH ToTo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp là điều rất cần thiết để hiểu hơn về thực trạng và khả năng của doanh nghiệp nhằm mục tiêu đưa doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trong tương lai
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về lợi nhuận của doanh nghiệp
Đánh giá thực trạng lợi nhuận của Công ty TNHH Toto Việt Nam trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2007
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị để nâng cao lợi nhuận của Công ty trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là lợi nhuận của doanh nghiệp trong phạm vi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn từ năm 2004-2007
Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp đi từ tổng hợp đến chi tiết, phân tích các chỉ số, chỉ tiêu lợi nhuận, so sánh các chỉ số này qua các năm để có thể rút ra được các kết luận.
Những đóng góp của luận văn
Hệ thống một số lý luận cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp
Phân tích lý giải thực trạng và những hạn chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH ToTo Việt Nam
Đề xuất một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty TNHH To To Việt Nam
Kết cấu của luận văn
Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng lợi nhuận tại công ty trách nhiệm hữu hạn ToTo Việt Nam
Chương III: Giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty TNHH ToTo Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP
Lợi nhuận của doanh nghiệp.
. Khái niệm về lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tuỳ theo quan điểm và trường phái khác nhau đã có những khái niệm khác nhau về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mác cho rằng: “Lợi nhuận là phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất”
Theo C. Mác thì “ Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị hàng của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hau lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận?
Trong giai đoạn kinh tế học hiện đại, nhà kinh tế học P.A. Samuelson phát biểu: “ Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi ra” . Cụ thể hơn là: “ Lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng số chi phí của một doanh nghiệp”.
Trước đây, quan niệm của các nhà kinh tế học CNXH cho rằng: Lợi nhuận dưới chủ nghĩa xã hội là thu nhập thuần tuý của xã hội XHCN. Còn hiện nay thì định nghĩa “ Lợi nhuận của quá trình kinh doanh là phần chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và chi phí chi ra để đạt được thu nhập đó”
Như vậy, xét về mặt lượng thì dần dần các định nghĩa đều đi đến một quan điểm thống nhất là lợi nhuận là phần thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra, là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư do lao động xã hội tạo ra.
. Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh:
Là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận này là khoản chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ và thuế phải nộp theo quy định ( trừ thuế thu nhập doanh nghiệp)
Trong đó:
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
Các khoản phí thu thêm ngoài giá bán ( nếu có), trợ giá, phụ thu, theo quy định của nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối với hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ
Giá trị của sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng, trao đổi hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp như: điện sản xuất ra dùng cho nhà máy sản xuất điện, sắt thép thành phẩm để sửa chữa công ty sản xuất sắt thép…
Chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm: Các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên, nhiên, vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền lương và các khoản chi phí có tính chất lương, các khoản trích nộp theo quy định của nhà nước như bao hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác.
Lợi nhuận của các hoạt động khác:
Là lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường của doanh nghiệp. Là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí các hoạt động khác và thuế phải nộp theo quy định ( trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Thu nhập từ các hoạt động khác bao gồm các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường.
Thu nhập từ hoạt động tài chính bao gồm: các khoản thu nhập từ các hoạt động liên doanh , liên kết, góp vốn cổ phần, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay ( trừ lãi tiền vay phát sinh từ nguồn vốn vay đầu tư xây dựng cơ bản)., tiền lãi trả chậm của bán hàng trả góp, tiền hỗ trợ lãi suất tiền vay của nhà nước trong doanh nghiệp, th từ hoạt động mua bán chứng khoán ( công trái, trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu), hoạt động nhượng bán ngoại tệ hoặc chênh lệch về tỷ giá nghiệp vụ ngoại tệ theo quy định của chế độ tài chính, hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán, tiền cho thuê tài sản đối với doanh nghiệp cho thuê tài sản không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên.
Thu nhập từ các hoạt động bất thường là các khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường xuyên ngoài các khoản thu đã được quy định như thu tiền bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa, bán công cụ dụng cụ đã phân bổ hết giá trị, các khoản phải trả nhưng không trả được từ phía chủ nợ, thanh lý tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập dự phòng, số dư chi phí trích trước, thu về chiết khấu thanh toán, các khoản thuế phải nộp ( trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) được nhà nước giảm.
Chi phí từ hoạt động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động tài chính bao gồm:
Chi phí liên doanh, liên kết và các khoản chi phí phát sinh trong hoạt động liên doanh, liên kết ( không thuộc chi phí của liên doanh, liên kết)
Chi phí cho thuê tài sản
Chi phí về mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu kể cả các khoản tổn thất trong đầu tư nếu có
Dự phòng giảm giá chứng khoán
Chênh lệch tỷ giá ngoại tệ theo quy định của bộ tài chính
Chi phí về lãi phải trả cho vốn huy động trong kỳ
Chi phí bất thường là những khoản chi phí xảy ra không thường xuyên gồm có:
Chi phí nhượng bán thanh lý tài sản cố định
Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ khó đòi
Các chi phí bất thường khác
Như vậy, để xác định lợi nhuận, doanh nghiệp phải xác định được doanh thu và chi phí. Và lợi nhuận giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế lợi nhuận được coi là đòn bảy kinh tế quan trọng đồng thời còn là một chi tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
. Sự cần thiết phải nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, là mục tiêu của bất cứ một doanh nghiệp hoạt động trong một linh vực nào. Nó có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế quốc dân:
Đối với doanh nghiệp:
Thứ nhất, lợi nhuận là chỉ tiêu phán ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói đến doanh nghiệp là phải nói đến lợi nhuận dù doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào, hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh nào. Đã có một thời gian chúng ta nhầm lẫn coi cụm từ “ lợi nhuận” là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Nhưng sau khi thực thi chính sách kinh tế mở, lợi nhuận đã được hiểu theo đúng ý nghĩa của nó. Và Nhà nước luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thu được nhiều lợi nhuận.
Thứ hai, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp chất và lượng phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp, người quản lý có thể xem xét đánh giá các mặt hoạt động của doanh nghiệp, từ khâu sản xuất, tiêu thụ, công tác quản lý… để có thể đưa ra các quyết định quản lý trong thời gian tới.
Thứ ba, lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, bù đắp các rủi ro trong kinh doanh, thực hiện khuyến khích vật chất cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Lợi nhuận có thể dùng để bù đắp nhưng hư hao mất mát vốn sản xuất, bù đắp những khoản chi phí chưa được tính vào giá thành qua đó thực hiện tái sản xuất giản đơn. Mặt khác thông qua việc trích lập quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính… doanh nghiệp có điều kiện mua sắm thêm máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, thực hiện tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra, thông qua việc trích lập quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng doanh nghiệp có thể cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên, từ đó khơi dậy lòng nhiệt tình, say mê công việc, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật…
Đối với các nhà đầu tư:
Để có thể huy động vốn của các nhà đầu tư ( các ngân hàng, các đối tác liên doanh, liên kết…) bản thân các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. Đối với các nhà đầu tư, mục tiêu của họ là tìm kiếm thu nhập trên số vốn mà họ bỏ ra. Vì vậy, khi bỏ vốn đầu tư họ đều phải có sự xem xét đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động của doanh nghiệp để có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Để làm được điều đó các nhà đầu tư cần phân tích tình hình thực tế chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận cao sẽ tạo được niềm tin cho nhà đầu tư, thu hút được nhiều vốn với chi phí thấp, ngược lại tất yếu sẽ có sự chuyển dịch vốn từ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sang doanh nghiệp có hiệu quả hơn.
Đối với toàn bộ nền kinh tế:
Nếu có sự so sánh nền kinh tế là một cơ thể sống thì các doanh nghiệp chính là các tế bào của cơ thể đó. Tế bào có khoẻ mạnh thì cơ thể mới phát triển bền vững được chính là các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước thông qua việc nộp thuế. Nhà nước cũng sẽ có nguồn thu quan trọng để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Điều này cũng tác động ngược trở lại đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Đây là mối quan hệ nhân quả rất khăng khít tạo nên sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
Các chỉ tiêu phản ảnh mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là một chi tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Nếu chỉ đánh giá chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu lợi nhuận riêng biệt thì không thể phản ánh được đầy đủ và chính xác doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác. Do vậy để đánh giá chất lượng hoạt động của doanh nghiệp nói chung và đánh giá năng lực tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp nói riêng, các nhà kinh tế phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận
Chỉ tiêu tuyệt đối:
Số tuyệt đối = Lợi nhuận thực hiện - Lợi nhuận kế hoạch
Chỉ tiêu này cho biết chênh lệch tuyệt đối giữa số lợi nhuận thực tế đạt được và lợi nhuận đặt ra theo kế hoạch. Số chênh lệch tuyệt đối càng dương, chứng tỏ lợi nhuận thực hiện ≥ lợi nhuận kế hoạch tức là doanh nghiệp hoạt động trong kỳ càng hiệu quả.
Chỉ tiêu tương đối:
Lợi nhuận sau thuế
- Tỷ suất lợi nhuận thuần =
x 100%
Doanh Thu
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận sau thuế trên một trăm đồng doanh thu. Nó phản ánh mức lợi nhuận mà hàng hoá bán ra của doanh nghiệp mang lại khi tiêu thụ hàng hoá. Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ lợi nhuận trên doanh số bán ra càng lớn.
Lãi gộp
- Hệ số lãi gộp =
Doanh thu
Lãi gộp là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá vốn. Không tính đến chi phí kinh doanh, hệ số lãi gộp thể hiện khả năng trạng thái chi phí, đặc biệt là chi phí bất biến, để đạt lợi nhuận.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh và tỷ lệ chi phí kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp sẽ có một hệ số lãi gộp ( hoặc tỷ lệ lãi gộp thích hợp)
- Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi (EBIT)
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
- Hệ số EBIT =
Lãi vay
Hệ số EBIT nói lên mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi vay hàng năm. Lợi nhuận của doanh nghiệp trước hết phải cao hơn số tiền lãi vay. Việc không trả được khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Lợi nhuận sau thuế
- Doanh lợi tài sản (ROA) =
x 100%
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hệ số này càng cao thể hiện sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản càng hiệu quả.
Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
Lãi ròng
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. ROE cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu lợi nhuận ròng cho chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi xem xét việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
Vốn chủ sở hữu là một phần của tổng nguồn vốn, hình thành nên tài sản. Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào ROA. Điều này thể hiện qua phương trình Dupoint
ROE = ROA x Đòn bày tài chính
Đòn bảy tài chính hay còn gọi là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài vào của doanh nghiệp ( còn gọi là đòn cân nợ ), là chỉ tiêu thể hiện cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Tổng tài sản
Đòn bẩy tài chính =
Vốn chủ sở hữu
Đòn bảy tài chính càng lớn càng có sức mạnh làm cho tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu tăng cao khi hoạt động hiệu quả; ngược lại chính đòn bẩy tài chính lớn sẽ là động lực làm giảm mạnh tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu khi khối lượng hoạt động giảm. Khi doanh thu tăng lên và doanh nghiệp đang có lãi, một sự tăng nợ vay sẽ làm cho ROE tăng cao. Ngược lại, khi khối lượng hoạt động giảm và thua lỗ, tăng nợ vay sẽ làm ROE giảm đi nghiêm trọng, khi đó ROE sẽ lệ thuộc chủ yếu vào đòn bẩy tài chính.
Do đó, phương trình Dupoint sẽ được viết lại như sau:
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
Tổng tài sản
ROE =
x
x
Doanh thu
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
Phương trình này cho thấy môi quan hệ và tác động của các nhân tố là các cỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản (vốn); cho phép phân tích lượng hoá những nhân tố ảnh hưởng đến suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu bằng các phương pháp loại trừ; đề ra các quyết định phù hợp và hiệu quả căn cứ trên mức độ tác động khác nhau của từng nhân tố khác nhau làm tăng tỷ suất sinh lợi.
Biện pháp ROE là: tăng doanh thu và giảm tương đối chi phí, tăng số vòng quay tài sản: thay đổi cơ cấu tài chính: tỷ lệ nợ vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
1.2.1. Các nhân tố chủ quan
1.2.1.1. Uy tín và thương hiệu của sản phẩm công ty trên thị trường
Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Uy tín, thương hiệu của sản phẩm kinh doanh phản ánh kết quả của quá trình tham gia thị trường, đáp ứng các nhu cầu thị trường, đã được khách hàng thừa nhận về thương hiệu, uy tín. Trong mỗi hoạt động kinh doanh thường có một hoặc một vài thương hiệu và uy tín và thương hiệu của sản phẩm tương ứng trên thị trường, ví dụ hoạt động kinh doanh ôtô có tập đoàn General Motor, tập đoàn Toyota… Với thương hiệu và uy tín của sản phẩm, có ảnh hưởng đến doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí quảng bá thương hiệu, tạo uy tín doanh nghiệp trên thị trường. Đây là một điểm lợi thế của doanh nghiệp. Vì vậy để góp phần tăng lợi nhuận, doanh nghiệp cần thực hiện khai thác lợi thế của nhân tố này trong các giải pháp tăng lợi nhuận.
1.2.1.2. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Khối lượng tiêu thụ ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Khối lượng hàng hoá tiêu thụ tác động về mặt lượng đối với doanh thu ( Doanh thu = Giá bán x Khối lượng hàng hoá tiêu thụ). Với giá bán không đổi, khối lượng hàng hoá tiêu thụ tăng sẽ làm tăng lợi nhuận. Hơn thế nữa, lợi nhuận lại rất nhạy cảm với khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Chỉ một sự thay đổi nhỏ của khối lượng hàng hoá tiêu thụ cũng dẫn tới sự thay đổi lớn lợi nhuận.
1.2.1.3. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ
Ngày nay, một doanh nghiệp sản xuất có thể có nhiều loại mặt hàng khác nhau hoặc nhiều sự lựa chọn khác nhau cho cùng một loại hàng hoá nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thị trường. Trong từng thời điểm nhất định, khối lượng hàng hoá tiêu thụ của từng loại hàng hoá đó khác nhau sẽ làm thay đổi lợi nhuận thu về của doanh nghiệp. Nếu tăng tỷ trọng bán ra nhưng mặt hàng có mức lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng bán ra những mặt hàng có mức lợi thấp thì tổng lợi nhuận sẽ tăng lên mặc dù tổng khối lượng hàng hoá tiêu thụ không thay đổi.
1.2.1.4. Giá bán và doanh thu
Giá cả là yếu tố quan trọng ( là biến nội sinh) ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tiêu thụ và doanh thu. Về lý thuyết kinh tế, giá cả và lượng cầu có quan hệ nghịch biến khi xét đến hành vi người tiêu dùng - thể hiện đường cầu dốc xuống trên đồ thị phẳng. Khi giá tăng, lượng cầu giảm và ngược lại, khi giá giảm lượng cầu sẽ tăng. Đó cũng là sự lựa chọn sáng suốt của người tiêu dùng.
Trong khi đó quan hệ giữa giá cả và lượng cung là thuận biến đối với ứng xử nhà sản xuất - thể hiện đường cung hướng lên trên. Khi giá tăng, lượng cung sẽ tăng (từ các nhà sản xuất cũ và các nhà sản xuất mới tham gia tìm kiếm lợi nhuận) và ngược lại, khi giá giảm, lượng cung sẽ giảm ( một số nhà sản xuất rút khỏi thị trường).
Với các điều kiện khác không thay đổi, một sự thay đổi về giá sẽ được kỳ vọng làm thay đổi lượng cầu - tạo sự di chuyển dọc theo đường cầu, tuỳ vào độ co giãn của cầu so với giá của từng loại hàng hoá khác nhau.
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, giá cả sẽ thay đổi cho đến khi lượng cung bằng lượng cầu ( Qs = Qd ). Tức là, thị trường luôn có xu hướng tiến đến sự cân bằng (E). Ta có sơ đồ tổng quát sau
Giá cả (P)
Đường cung (S)
Đường cầu (D)
Sản lượng (Q)
Qo
0
E
Po
Đồ thị 1: Điểm cân bằng thị trường
Giữa giá cả của hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng hàng hoá đó có mối quan hệ nhất định thể hiện qua độ co giãn của cầu so với giá bán.
Đối với một số hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, thì cầu hoàn toàn không co giãn hoặc co giãn rất ít so với giá cả, tức là giá cả hầu như không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến nhu cầu tiêu dùng hàng hoá đó. Tuy nhiên đối với một số hàng hoá trung lưu hoặc cao cấp thì cầu có thể co giãn nhiều hoặc co giãn hoàn toàn, cầu phụ thuộc rất lớn hoặc phụ thuộc hoàn toàn vào giá bán của hàng hoá đó.
Việc tiêu dùng của một hàng hoá cũng phụ thuộc rất lớn vào giá cả của các hàng hoá liên quan. Đối với hàng hoá thay thế, khi giá hàng hoá thay thế tăng, dẫn đến tăng cầu, làm cho giá cả tăng lên. Đối với hàng hoá bổ sung, khi giá hàng hoá bổ sung tăng lên, dẫn đến giảm lượng cầu, lamg cho giá cả giảm xuống.
Tóm lại, đối với những hàng hoá mà cầu co giãn nhiều so với giá cả (độ co giãn >1), giá giảm sẽ làm doanh thu tăng và ngược lại, khi cầu co giãn ít so với giá cả (độ co giãn <1), thì giá giảm, doanh thu cũng giảm. Còn khi cầu co giãn 1 đơn vị, doanh thu là cực đại.
Tuy nhiên, giá bán hàng hoá phụ thuộc rất lớn vào giá thành sản phẩm. Vì vậy, để đạt được mức giá bán hợp lý và cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phấn đấu để hạ giá thành sản phẩm.
1.2.1.5. Chất lượng hàng hoá và bao bì hàng hoá
Một trong ba vấn đề lớn mà trước khi bước vào kinh doanh, các chủ doanh nghiệp luôn phải xem xét đến đầu tiên là trả lời cho câu hỏi “ Sản xuất ra cái gì?”. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, thì nhu cầu người tiêu dùng ngày càng phong phú, đòi hỏi một hàng hoá ngày càng hoàn hảo. Với xu hướng xã hội đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về chất lượng hàng hoá mà còn về mẫu mã bao bì hàng hoá, thì việc tiêu thụ hàng hoá phụ thuộc rất lớn vào việc đáp ứng nhu cầu đó.
Tuỳ từng chủng loại hàng hoá, ở khu vực địa lý khác nhau, mức sống của người dân khác nhau, thị trường tiêu dùng sẽ yêu cầu một chất lượng và mẫu mã khác nhau. Để tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá của mình, doanh nghiệp phải xác định được thị trường mục tiêu để sản xuất ra những hàng hoá với mẫu mã và chất lượng hợp lý. Điều này phụ thuộc rất lớn vào việc tự đánh giá của doanh nghiệp trong việc xác định thị trường và đánh giá các đối thủ cạnh tranh.
Nếu chất lượng hàng hoá được đảm bảo, doanh nghiệp sẽ có cơ hội dành được uy tín của thị trường và thu được doanh thu cao.
Tuy nhiên, nhà sản xuất phải chú ý đến giá thành và sự phù hợp giữa chất lượng và giá cả. Vì sẽ không thể có một giá rẻ cho mọi chất lượng.
1.2.1.6. Chính sách và chiến lược bán hàng của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, đây là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại trong tiêu thụ hàng hoá. Thực tế đã cho thấy, hàng hoá của một doanh nghiệp có thể bằng hoặc thua kém chất lượng hơn đối với hàng hoá cùng loại của một doanh nghiệp khác nhưng với một mức giá bán tương đương, hàng hoá của doanh nghiệp đó lại có doanh thu tiêu thụ cao hơn rất nhiều. Mà điều này chính là do khâu tiếp thị và giới thiệu, quảng bá hàng hoá, nhất là đối với những hàng hoá tiêu dùng thông thường.
Chi phí bán hàng bao gồm tổng hợp các loại chi phí liên quan đến việc bán hàng, đưa hàng hoá đến với người tiêu dùng. Nó bao gồm các loại chi phí như chi phí cho quảng cáo, khuyếch trương, khuyến mại. Chi phí này giảm làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng nhưng ngược lại có thể làm lợi nhuận doanh nghiêp giảm xuống do doanh thu bán hàng giảm. Vì vậy, việc tăng hay giảm chi phí này phải căn cứ và đặc điểm của hàng hoá và tình hình thị trường trong từng giai đoạn. Nếu doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh tốt thì chi phí cho việc quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm có thể tăng hoặc giảm vào từng thời kỳ nhất định.
Việc tổ chức bộ máy nhân sự cho bán hàng, mạng lưới đại lý, bố trí cửa hàng ..v… cũng có ảnh hưởng lớn đến doanh thu tiêu thụ. Tuỳ từng loại hàng hoá, việc bố trí cửa hàng cung cấp ở nhiều nơi, đặt gần người tiêu dùng, hay vị trí sang trọng, đẹp và thuận tiện sẽ khuyến khích tiêu dùng hàng hoá.
1.2.1.7. Công tác tổ chức sản xuất
Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá thành của hàng hoá. Một doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh tốt từ khâu đầu vào đến khâu đầu ra thì sẽ giảm giá thành cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đòi hỏi phải tổ chức tốt trên một số linh vực sau:
- Công tác thu mua nguyên vật liệu: đảm bảo tổ chức tốt từ khâu mua đến sử dụng và bảo quản.
Chi phí nguyên vật liệu
=
Khối lượng hàng hoá
x
Mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một hàng hoá
x
Đơn giá nguyên vật liệu
Có nhiều vấn đề ảnh hưởng tới yếu tố nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Trước hết về mặt vốn, tiền mặt của doanh nghiệp phục vụ cho việc thu mua các yếu tố đầu vào. Nếu doanh nghiệp có sẵn sàng một lượng vốn lưu động cần thiết để thu mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất thì việc thu mua sẽ diễn ra thuận lợi hơn, doanh nghiệp sẽ có cơ hội mua được nguyên liệu với chi phí rẻ hơn. Về mặt thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào, doanh nghiệp phải tìm được một thị trường đầu vào sẵn có, chất lượng tốt, tiết kiệm được chi phí vận chuyển. Về năng lực vận chuyển, bảo quản, kho bãi của doanh nghiệp đối với nguyên vật liệu cũng phải đảm bảo sao cho thuận lợi nhanh chóng, đảm bảo khả năng bảo quản chất lượng của nguyên vật liệu trong một thời gian nhất định.
Tóm lại, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí nguyên vật liệu nếu quản lý tốt được mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một hàng hoá. Ngoài ra, để có được nguyên vật liệu với giá cả ít biến động và có thể kiểm soát được, doanh nghiệp cần liên tục nghiên cứu, khảo sát thị trường để giữ ổn định nguồn cung cấp.
- Công tác bố trí vận chuyển và bốc xếp
Chi phí vận chuyển phụ thuộc vào các nhân tố: khối lượng hàng hoá, quãng đường vận chuyển và đơn giá vận tải.
Chi phí vận chuyển
=
Khối lượng vận chuyển
x
Quãng đường vận chuyển
x
Đơn giá vận tải
Doanh nghiệp có thể tính toán và kiểm soát quãng đường và đơn giá vận tải. Việc tổ chức vận chuyển hợp lý, tối ưu sẽ giảm thiểu được quãng đường vận chuyển cũng như xác định từng loại phương tiện vận chuyển phù hợp cũng có thể tiết kiệm được cước phí vận tải. Giảm chi phí này cũng là mục tiêu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên điều này, không đồng nghĩa với việc giới hạn phạm vi tiêu dùng sản phẩm.
Chi phí bốc xếp lệ thuộc vào công tác tổ chức vận chuyển ( trung chuyển, thay đổi phương tiện vận tải), nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của khối lượng bốc xếp, số lần bố xếp, đơn giá bốc xếp.
Chi phí bốc xếp =
Khối lượng bốc xếp x
Số lần x
Đơn giá bốc xếp
Tuỳ thuộc vào năng lực của nhà quản trị, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí này dựa vào việc bố trí số lần bốc xếp hợp lý.
Chi phí cho mức hàng hoá dự trữ
Doanh nghiệp luôn phải duy trì một hàng hoá dự trữ hay hàng tồn kho nhất định. Lượng hàng này phải bảo đảm không để tình trạng thiếu hụt, tránh tình trạng không đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng, bỏ qua cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên lượng tồn kho quá lớn lại làm ứ đọng vốn ( tăng chi phí sử dụng vốn) và tăng chi phí bảo quản hàng tồn kho, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp phải duy trì lượng tồn kho phải luôn kịp thời và vừa đủ. Vì vậy, doanh nghiệp cần có bên cạnh các nhà cung cấp uy tín và bằng hợp đồng lâu dài, ổn định.
Để đảm bảo nguồn cung cấp nguyen vật liệu tiết kiệm chi phí, đảm bảo chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất thường có những kế hoạch gìn giữ nguồn hàng thông qua việc lựa chọn nhà cung cấp; đầu tư, ứng trước cho các nhà cung cấp hoặc trực tiếp tổ chức sản xuất nguyên vật liệu.
Để xem xét lượng hàng hoá có hợp lý không, các nhà kinh doanh phải quan tâm đến việc phân tích luân chuyển hàng hoá, thông qua các chỉ tiêu sau:
Một là, chỉ tiêu vòng luân chuyển hàng hoá ( vòng quay hàng tồn kho), được tính bằng Giá vốn hàng bán/Hàng tồn kho.
Hai là, chỉ tiêu kỳ luân chuyển ( số ngày cho 1 vòng luân chuyển hàng hoá), được tính bằng 360/Số vòng quay hàng tồn kho.
Số quay hàng tồn kho càng cao, tức là số ngày cho một vòng luân chuyển hàng hoá càng ngắn thì càng tốt. Tuy nhiên, số vòng quay quá cao lại có thể là do có trục trặc trong khâu cung cấp, hàng hoá dự trữ không kịp cung ứng kịp thời cho khách hàng, gây mất uy tín doanh nghiệp.
1.2.1.8. Công tác tổ chức tài chính
Công tác huy động và sử dụng vốn
Công tác này có hiệu quả tức là phải đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và giảm bớt chi phí sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn kinh doanh được tài trợ bằng nợ vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn. Nguồn vốn vay được phải chịu khoản trả lãi, được là một loại chi phí. Chi phí cho tiền vay phụ thuộc vào số tiền vay, thời gian vay và lãi suất vay.
Chi phí lãi vay =
Số tiền vay x
Thời gian vay x
Lãi suất
Chi phí này hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch về tài chính của doanh nghiệp trong từng giai đoạn. Khối lượng vay, thời gian vay phải được tính toán theo hướng tiết kiệm, phù hợp với nhu cầu vốn, thời gian vay vốn và lãi suất. Sử dụng vốn vay sai mục đích là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mất cân đối nguồn vốn và phá sản các doanh nghiệp.
Công tác khấu hao tài sản cố định
Tài sản cố định là tư liệu sản xuất tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh trong nhiều chu kỳ mà không thay đổi hình thái vật chất ban đầu và giá trị hao mòn được chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh dưới hình thức khấu hao.
Khấu hao chịu ảnh hưởng bởi hai nhân tố là nguyên giá tài sản cố định và tỷ lệ trích khấu hao. Nguyên giá tài sản cố định biến động là do sự tăng giảm tài sản cố định trong kỳ do các hoạt động như chuyển nhượng, thanh lý, góp vốn liên doanh, hư hỏng mất mát, mua sắm, biếu tặng v.v.. tỉ lệ trích khấu hao tuỳ thuộc vào phương pháp khấu hao do doanh nghiệp lựa chọn và phải phù hợp với quy định của pháp luật.
1.2.1.9. Công tác tổ chức lao động
Công tác tổ chức lao động, sử dụng con người của doanh nghiệp càng khoa học thì càng tăng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó làm cho doanh nghiệp phát huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân người lao động, giảm được chi phí tiền lương do phát huy năng suất của người lao động nhưng vẫn đảm bảo được thu nhập cho họ.
Theo C.Mác, tiền lương là nhân tố để tái sản xuất sức lao động. Đối với doanh nghiệp, tiền lương là chi phí hợp lý. Mức tiền lương cao là nhân tố quyết định đến việc thu hút được người lao động. Tuy nhiên chi phí tiền lương phụ thuộc rất lớn vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước đây, ở các nước tư bản chủ nghĩa, những nhà tư sản luôn lấy việc bóc lột người lao động để thu được lợi nhuận cao là phổ biến. Nhưng ngày nay, để có lợi nhuận cao, mọi doanh nghiệp luôn hướng đến việc đảm bảo thu nhập cho người lao động và giữ chi phí tiền lương ở mức độ hợp lý.
1.2.2. Các nhân tố khách quan
1.2.2.1. Các chính sách của Nhà nước
Doanh thu và chi phí của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của các chính sách do Nhà nước ban hành như các chính sách về thuế, các chính sách về tỷ giá hối đoái và thị trường tài chính tiền tệ; các chính sách về bảo hộ.v.v… Đây là những chính sách quản lý nền kinh tế mà Nhà nước thường hay đưa ra để điều tiết vĩ mô các vấn đề nền kinh tế phát sinh. Mỗi chính sách trên có tác động ở một mức độ nhất định đến doanh nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tác động đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Các yếu tố xã hội
Nhu cầu, thu nhập và những thay đổi về tập quán tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu tiêu thụ một hàng hoá. Khi những yếu tố này thay đổi, tuỳ từng loại hình hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá sẽ tăng lên hoặc ngược lại. Trong đó, nhu cầu tiêu dùng là một hàm số của thu nhập và có mối quan hệ thuận biến với thu nhập. Tuy nhiên, theo lý thuyết của nhà kinh tế học Keynes thì khi thu nhập tăng thì tiêu dùng có xu hướng ._.tăng, tuy nhiên sự gia tăng tiêu dùng không nhiều như là tăng thu nhập, mà phần còn lại là để tiết kiệm.
Thu nhập tăng => Nhu cầu tiêu dùng tăng
Thu nhập giảm => Nhu cầu tiêu dùng giảm.
Tuỳ thuộc vào loại hàng hoá là thuộc nhu cầu tối thiểu hay cao cấp mà chúng sẽ có những ứng xử khác nhau trước sự thay đổi của thu nhập.
Nếu hàng hoá thuộc nhu cầu thiết yếu:
Nhu cầu tối thiểu
O
Thu nhập
Đồ thị 2: Xu hướng tiêu dùng hàng hoá thiết yếu
Đối với hàng hoá này, thu nhập tăng ban đầu làm cho tiêu dùng những hàng hoá thiết yếu như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng v.v… tăng nhưng sẽ chỉ tăng tăng đến mức bão hoà và dừng lại.
Nếu hàng hoá thuộc nhu cầu trung lưu:
Thu nhập tăng làm cho nhu cầu về những hàng hoá trung lưu như đồ may mặc, nhà ở, trang thiết bị sinh hoạt, phương tiện đi lại cá nhân, một số nhu cầu tinh thần .v.v… tăng chậm, sau đó tăng nhanh và bão hoà.
Nhu cầu trung lưu
O
Thu nhập
Đồ thị 3: Xu hướng tiêu dùng hàng hoá trung lưu
Nếu hàng hoá thuộc nhu cầu cao cấp:
Thu nhập tăng, ban đầu làm cho việc tiêu dùng những hàng hoá cao cấp như nhà ở cao cấp, phương tiện cá nhân sang trọng, giải trí, du lịch, thời trang ..v.v…tăng chậm, sau đó tăng nhanh và tăng không giới hạn.
Nhu cầu cao cấp
O
Thu nhập
Đồ thị 4: Xu hướng tiêu dùng hàng hoá cao cấp
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế và cạnh tranh cũng gây ra rất nhiều thay đổi về doanh thu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Do đó nó cũng ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao lợi nhuận của một số tập đoàn trên thế giới
1.3.1. Tạo dựng và nâng cao lợi nhuận của một số tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới.
1.3.1.1. Tập đoàn Nokia
Là công ty hàng đầu trong lĩnh vực truyền thông di động trên thế giới, Nokia được thành lập năm 1865 tại Phần Lan, ban đầu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giấy, cao su, hang điện tử. Năm 1968, Nokia bắt đầu chuyển sang thị trường mạng truyền thông di động. Từ đó, Nokia đã thiết lập một nhãn hiệu hàng đầu tại nhiều thị trường trên thế giới và công việc kinh doanh cũng được mở rộng đáng kể tại tất cả các khu vực, đặc biệt là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Theo thống kê, doanh thu bán hàng của công ty liên tục tăng qua các năm từ 2004 đến 2007 từ 29,284 triệu Euro năm 2004 lên 51,099 triệu Euro năm 2007 và tương ứng lợi nhuận cũng tăng theo từ 3,192 năm 2004 lên 7,205 triệu euro năm 2007. Bảng thống kê cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty đang rất tốt. Nguyên nhân có được kết quả thành công của Nokia như hiện nay là Công ty sản xuất các dòng điện thoại từ cao cấp tới bình dân, có một chuỗi cung cấp tuyệt vời và một nguồn vốn lớn.
Có thể nói cách thức quản lý chuỗi cung cấp của Nokia tốt hơn so với bất kỳ một công ty nào trên thế giới. Bên cạnh đó Nokia có sự khởi đầu thuận lợi tại những thị trường đang tăng trưởng nhanh như Trung Quốc, Ấn Độ. Công ty còn có khoản vốn 9.5 tỷ USD tiền mặt mà không hề nợ nần. Do đó Nokia có thể đầu tư những khoản lớn hơn rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trong việc phát triển các sản phẩm mới và chiếm lĩnh thị trường mới.
Nhờ những lợi thế đó, mà thị phần hiện nay của Nokia đã đạt mức 37%. Nhiều chuyên gia cho rằng, con số này có thể tăng lên trong những năm tới. Tuy vậy công ty cũng đã phải trải qua một số giai đoạn khủng hoảng. Năm 1995, hệ thống sản xuất của nokia gần như sụp đổ dưới sức nặng của sự tăng trưởng nhanh chóng. Năm 2003, Nokia chậm chạp trong việc đưa ra các mẫu máy gập và có màn hình màu nên từ quí I/2004 thị phần Nokia giảm từ 34.6% xuống còn 28.4%. Với các lợi thế của mình Nokia đã có khả năng tự vệ tốt hơn nhiều trước các củ sốc. Các lợi thế đó là:
Nokia cung cấp sản phẩm cho mọi khách hàng:
Một bài học Nokia học được, đó là không nên phụ thuộc quá nhiều vào một vài mẫu sản phẩm bán chạy. Nên Nokia xây dựng chỗ đứng cho Công ty trên cả thị trường bình dân và cao cấp. Dành cho đối tượng khách hàng kỳ vọng vào công nghệ mới nhất như trình duyệt internet, nghe nhạc, bộ phận tín hiệu GPS vệ tinh và khả năng kết nối Wi-Fi… Mẫu điện thoại bình dân của Nokia cũng có nhiều tính năng nên Công ty thu hút được một lượng lớn khách hàng có thu nhập thấp.
Nokia cũng đang sở hữu một chuỗi cung cấp và hệ thống sản xuất của hãng hoạt động cực kỳ hiệu quả. Nokia đã đầu tư hàng trăm triệu USD để xây dựng các hệ thống phân phối và mạng lưới bán lẻ tại các nước đang phát triển. Nhờ vậy đây là hãng điện thoại di động số một ở Trung Quốc, Ấn Độ và đang tăng trưởng mạnh ở châu Phi, thị trường hứa hẹn sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới.
Bên cạnh đó hãng cũng duy trì được kiểm soát đối với chi phí thông qua việc sử dụng chung linh kiện giữa các thiết bị và thiết kế những mẫu điện thoại có ít linh kiện hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Bảng 5: Thống kê doanh thu, lợi nhuận của nokia từ năm 2004 - 2007
Triệu ERU
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Lợi nhuận
3192
3616
4306
7205
Doanh thu thuần
29,284.40
34,113.21
41,009.52
51,099.29
LN/DT thuần (%)
10.9
10.6
10.5
14.1
1.3.1.2. Tập đoàn Toyota ( Nhật Bản)
Bảng 6 : Thống kê doanh thu, lợi nhuận của Toyota từ năm 2004 - 2007
Triệu yên
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Lợi nhuận
1,162,098.00
1,171,260.00
1,372,182.00
1,644,032.00
Doanh thu thuần
17,294,160.00
18,551,526.00
21,036,909.00
17,677,763.44
LN/DT thuần (%)
6.72
6.31
6.52
9.3
Toyota khởi nghiệp không mấy tên tuổi bằng việc sản xuất xe ôtô tải và xe con năm 1937. Công ty thua lỗ nặng năm 1938, những từ sau đó công ty liên tục phát triển và là hiện đang là một trong số công ty kinh doanh hiệu quả nhất. Có thể thấy trong bốn năm từ năm 2004 đến năm 2007 công ty Toyota đã có mức tăng trưởng lợi nhuận khá tốt và ổn định. Tuy năm 2007 doanh thu có giảm so với năm 2006 nhưng lợi nhuận công ty vẫn tăng và đạt mức tỷ suất lợi nhuận cao nhất trong 4 năm 9,3%. Có được những thành công như vậy là ngoài nhưng nỗ lực bán hàng còn do công ty đã có công tác quản lý chi phí tốt.
Kể từ khi được thành lập Toyota luôn hướng đến một nguyên tắc cơ bản là đóng góp cho sự phát triển của xã hội thông qua vận hành một hệ thống sản xuất mang lại chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao. Những giá trị trong quản lý và những phương thức kinh doanh của Toyota được biết đến với tên gọi “ Hệ thống sản xuất Toyota” (TPS).
TPS không chỉ là cải tiến kỹ thuật để đạt tốc độ nhanh hơn mà chính là khả năng phát triển dựa trên sự tiết kiệm tối đa trong sản xuất, giảm thiểu hàng tồn kho, cắt giảm chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả của trang thiết bị máy móc, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá tốt hơn. Ở đó nhân công luôn được khuyến khích hơn và mỗi người có thể tự hào về vai trò và trách nhiệm của họ.
Hai điểm quan trọng trong TPS là:
Sản xuất đúng thời điểm: là một loạt các nguyên tắc, công cụ và kỹ thuật hỗ trợ tối đa vào quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm đúng số lượng và đảm bảo thời hạn nhất định với mục đích rút ngắn thời gian sản xuất, giảm lãng phí. Chỉ những chi tiết tốt nhất mới được di chuyển sang khâu tiếp theo và sản xuất không được quá mức quy định. Nhờ thế lượng tồn kho không cần thiết sẽ bị xoá bỏ hoàn toàn, nhà máy sẽ không cần đến việc tạo nhiều nhà kho, giảm chi phí lưu kho, tránh lãng phí, hao hụt trong sản xuất.
Tự kiểm soát lỗi: Đây là bộ máy kiểm soát lỗi có cài đặt một thiết bị tự dừng hoạt động. Nhờ vậy dây truyền có thể tự kiểm soát trục trặc, sự cố bất thường trong máy móc và dây truyền sản phẩm. Nhờ vậy chất lượng sản phẩm được bảo đảm ngay tại từng công đoạn.
Nhờ bí quyết này, Toyota đã sản xuất ra được những chiếc xe ô tô chất lượng và giá thành thấp, mang lại những thành công như ngày nay với mức tăng trưởng cao và lợi nhuận khổng lồ.
1.3.1.3. Tập đoàn Intel ( Mỹ)
Bảng 7 : Thống kê doanh thu, lợi nhuận của Intel từ năm 2004 - 2007
Triệu USD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Lợi nhuận
7,516.00
8,664.00
5,044.00
6,976.00
Doanh thu thuần
34,209.00
38,826.00
35,382.00
38,334.00
LN/DT thuần (%)
21.97
22.31
14.26
18.20
Thành lập năm 1968, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Intel đã nhanh chóng đạt được thành công trong chiến lược kinh doanh của mình với mô hình lợi nhuận thời gian. Do đặc điểm của ngành công nghệ thông tin nên Intel luôn đánh giá cao vai trò của tốc độ. Tốc độ cao nghĩa là lợi nhuận cao. Lợi thế của người tiên phong cho phép nhà cải cách tích luỹ doanh thu vượt trội trước khi những kẻ bắt chước bắt đầu làm xói mòn lợi nhuận. Intel luôn là nhà sản xuất tiên phong trong việc tung ra thị trường những sản phẩm mới độc đáo và bán ở mức giá cao cho đến khi xuất hiện sự bắt chước trên thị trường. Do đó Công ty luôn thu được một khoản lợi nhuận dồi dào trong khoảng thời gian ngắn. Bí quyết duy trì lợi nhuận của Intel là sự cải cách không ngừng. Khi giá trị dịch chuyển theo xu hướng giảm dần thì công ty phải đưa ra sự cải cách tiếp theo để gia nhập lại vào vùng lợi nhuận.
Trong quá trình hoạt động, Intel cũng đã phải trải qua những khó khăn. Đó là khi mới thành lập, do thiếu kinh nghiệm nên có giai đoạn Công ty không có đủ tiền mặt để thanh toán các hoá đơn. Ngay sau đó họ không thể mua thêm nguyên vật liệu để sản xuất và trả lương người lao động. Công ty đứng trên bờ vực phá sản. Lúc này công ty đã phải phân tích tình hình và tìm ra giải pháp tự cứu mình: Họ rà soát lại các khoản phải thu và hối thúc khách hàng thanh toán, cố gắng biến các khoản phải thu thành tiền sớm hơn. Họ đàm phán và thuyết phục các nhà cung cấp cho thanh toán chậm bằng việc chứng minh công ty đang kinh doanh có lãi và đang nỗ lực thu hồi nợ. Ngay trước mắt họ đã tìm đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhằm mục đích huy động được khoản vốn ngắn hạn đảm bảo cho chu kỳ sản xuất kinh doanh được liên tục.
Sau sự cố này, Intel còn nhận thấy việc quản lý luồng tiền và dự kiến được lượng tiền cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam
Bài học về nghệ thuật quản lý chi phí:
Các Công ty nên sử dụng các mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận và doanh số bán hàng để khích lệ sự cần thiết và gắn kết với hoạt động quản lý chi phí theo định hướng tăng trưởng bền vững.
Phần lớn các công ty không thấy được hoạt động quản lý chi phí cần có sự gắn kết với chiến lược kinh doanh, chứ chưa nói đến đó là nền tảng cho sự tăng trưởng. Vì vậy ban quản trị cần công bố những mục tiêu cơ bản và mang tính thách thức cao nhất để toàn thể công ty hiểu rõ nhu cầu cần áp dụng một phương thức cắt giảm chi phí mới. Các công ty chỉ có thể đạt được mức tăng trưởng lợi nhuận như mong muốn bằng việc cắt giảm chi phí nhưng đồng thời vẫn tăng doanh số bán hàng, qua đó tạo ra một mối liên kết giữa hai nhiệm vụ quan trọng này.
Chỉnh sửa các mục tiêu cắt giảm chi phí cho phù hợp với thực tế chi phí hiện tại và các chiến lược kinh doanh cụ thể. Một mặt công ty cần đặt ra các mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận hấp dẫn để động viên các nhà quản lý cắt giảm những chi phí khác nhau nhằm phục vụ tăng trưởng, nhưng mặt khác cũng cần xác định rõ bao nhiêu phần trăm trong tổng lợi nhuận thu được từ việc cắt giảm chi phí, và bao nhiêu phần trăm có được từ những nỗ lực cải thiện phát triển kinh doanh khác. Công ty cũng nên làm bài toán: các mức chi phí cắt giảm so sánh như thế nào với các mức chi phí cho các hoạt động kinh doanh khác của công ty, so sánh như thế nào với mức chi phí tương tự của đối thủ cạnh tranh, mức chi phí nào là cần thiết để trợ giúp các mục tiêu tăng trưởng dự định và đảm bảo hoạt động kinh doanh không bị ảnh hưởng.
Cần phân biệt chi phí tốt và chi phí xấu: phần quan trọng của nghệ thuật quản lý chi phí nằm ở việc đặt ra các mục tiêu cắt giảm chi phí và tăng trưởng. Đó chính là thách thức làm thế nào để cắt giảm chi phí theo phương thức hợp lý nhất mà không làm mất đi các năng lực thiết yếu hay giảm thiểu tính cạnh tranh của công ty. Chìa khoá hoá giải thách thức này chính là việc phân biệt các loại chi phí đóng góp cho tăng trưởng lợi nhuận và những chi phí có thể cắt giảm để chuyển phần tiết kiệm được sang khu vực tăng trưởng, sinh lời của hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn như, các nhà quản lý sẽ tự đặt ra câu hỏi: yếu tố nào trong các chi phí bán hàng và quản lý là cần thiết để giữ vị thế cạnh tranh hiện tại? Yếu tố nào là không cần thiết? Liệu những chi phí nhằm tài trợ giúp đội ngũ bán hàng có thể cắt giảm được không? Còn các chi phí quản lý nhân sự, chi phí tài chính kế toán thì sao? Những yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận hiện tại là gi? Và việc tái đầu tư đem lại những lợi ích nào?
Xây dựng những điều kiện cho việc quản lý chi phí hiện tại. Công ty xây dựng hệ thống báo cáo tài chính có trọng điểm, qua đó cung cấp các chi tiết về khu vực chi phí cụ thể trong từng bộ phận kinh doanh. Công ty giới thiệu các phương pháp mới để giám sát hoạt động của các chi phí cùng những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa việc chi tiêu không đúng chỗ. Công ty lên danh sách nhóm “ các chi phí trung tâm” dưới sự quản lý trực tiếp của ban quản trị cấp cao. Nhóm chi phí này bao gồm các chi phí cho hoạt động chức năng chủ chốt lẫn các hoạt động kinh doanh quan trọng. Mục đích là nhằm quản lý tốt hơn các chi phí quan trọng để nhận ra khoản ngân sách có thể tiết kiệm hiệu quả hơn nữa nhưng vẫn đảm bảo được những mục tiêu cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động kinh doanh của công ty.
Chiến lược quản trị dòng tiền tạo lợi nhuận:
Đòn bẩy là khả năng huy động nhiều vốn hơn vào hoạt động kinh doanh so với mức đầu tư của chủ đầu tư, nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn những khoản vốn riêng lẻ của chủ đầu tư. Sức mạnh của một công ty phụ thuộc vào nguồn tiền mặt dồi dào. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp thất bại vì lý do thiếu tiền mặt. Lưu chuyển tiền tệ trong mỗi công ty là một quá trình liên tục, gồm 6 giai đoạn, ở đó tiền mặt được sử dụng cho quá trình xây dựng , thành lập công ty hình thành của cải cho công ty, sau đó doanh nghiệp sử dụng tín dụng để tăng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiến hành sản xuất ra sản phẩm, tiếp theo bán sản phẩm ra thị trường và thu tiền về. Ở giai đoạn thu tiền, công ty sẽ có câu trả lời cho câu hỏi quan trọng “ Doanh nghiệp có thu được lợi nhuận trong các hoạt động kinh doanh của mình được hay không?” và “ Doanh nghiệp có dự kiến được số vốn lưu động cần thiết để thực hiện chu kỳ lưu chuyển tiền tệ không?”. Vậy giai đoạn tín dụng còn được gọi là sử dụng đòn bẩy để gia tăng nguồn vốn tự có giúp doanh nghiệp tăng trưởng tốt. Nói cách khác công ty sẽ vay tiền từ các tổ chức tín dụng thương mại để gia tăng nguồn vốn hiện có, đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tiền mặt
Thu hồi tiền
Thành lập
Của cải
Tín dụng
Sản phẩm
Bán hàng
Điểm xuất phát
Điểm kết thúc
Mô hình 8: Chu kỳ lưu chuyển tiền tệ của một doanh nghiệp
Và khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, điều đầu tiên doanh nghiệp nên nhìn lại chu trình lưu chuyển tiền tệ của mình. Xem xét khó khăn đang phát sinh ở giai đoạn nào. Liệu có phải do công ty chưa quản trị tốt sự hoạt động của dòng tiền gây nên tình trạng thiếu vốn lưu động. Từ đó công ty cần có các biện pháp khắc phục hợp lý để đảm bảo chu kỳ lưu chuyển tiền diễn ra liên tục và bền vững.
Để quản trị tốt dòng tiền khi gặp khó khăn, các nhà quản lý công ty nên tuân theo ba nguyên tắc sau:
Tìm kiếm mọi cơ hội trì hoãn thanh toán bằng tiền mặt, đặc biệt là những khoản mua sắm lớn
Dự kiến lượng tiền mặt cần thiết trong khoảng thời gian càng dài càng tốt
Cân đối hợp lý các nguồn tiền mặt bổ sung từ trước.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY TNHH TOTO VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về Công ty trách nhiệm hữu hạn ToTo Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty
Được thành lập năm 1917, Toto là nhà sản xuất hàng đầu Nhật Bản về thiết bị vệ sinh và thiết bị dẫn nước kim loại. Trọng tâm mọi hoạt động kinh doanh của Toto là cung cấp các sản phẩm dịch vụ nhằm nâng cao vệ sinh, tiện nghi và thuận lợi cho nhà ở và các khu vực công cộng khác.
Các sản phẩm của Toto bao gồm từ thiết bị vệ sinh, vòi nước, bồn rửa cho đến các thiết bị phòng tắm, bình nước nóng và các thiết bị nhà bếp. Và giờ đây Toto đang bước và thế kỷ 21 với tầm nhìn chung rộng lớn Toto đang có những kế hoạch mở rộng tập trung vào việc hoàn thiện môi trường tự nhiên.
Trong khi đó, Việt Nam là một trong những thị trường xuất khẩu của sản phẩm Toto. Để đưa các sản phẩm Toto trở nên quen thuộc và gần gũi với cuộc sống con người Việt Nam, năm 1996 Toto quyết định thành lập văn phòng đại diện tại TP HCM. Kể từ đó, cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam, nhãn hiệu Toto càng trở nên nổi tiếng và có mặt khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Là thị trường lớn đầy tiềm năng, một đất nước của những người thợ tài hoa và cần cù lao động, chính là cơ sở để Toto quyết định xây dựng nhà máy vào tháng 3/2002 tại Hà Nội. với số vốn đầu tư là 33 triệu USD của tập đoàn Toto Nhật Bản.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh, cùng với chiến lược mở rộng thị trường của tập đoàn Toto, Công ty TNHH Toto
Việt Nam quyết định khởi công xây dựng nhà máy thứ 2 để nâng cao khả năng cung ứng hàng hóa cho thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Nhà máy này được xây dựng tại Lô F1, khu công nghiệp Thăng Long, Đông Anh, Hà Nội. Nhà máy thứ 2 có tổng vốn đầu tư 52 triệu USD ( 100% vốn đầu tư từ Toto Nhật Bản) với diện tích 46.000 m2, sản lượng trung bình 750.000 sản phẩm/năm, thu hút khoảng 1.000 nhân viên lao động, sản xuất, đã đi vào hoạt động từ tháng 9/2006. Đây là nhà máy đầu tiên ở Đông Nam Á được lắp đặt dây chuyền sản xuất với quy mô lớn, sử dụng khuôn đúc Plastic đúc sản phẩm, sản phẩm sẽ xuất khẩu, trong đó thị trường chính sẽ là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản.
Với khẩu hiệu “Đam mê sự hoàn hảo”, các sản phẩm của Toto luôn được giới kiến trúc sư đánh giá cao về kiểu dáng và chất lượng, tạo đẳng cấp cho công trình.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của công ty
Toto Việt nam là thành viên của Toto Nhật bản, một trong những nhà sản xuất thiết bị vệ sinh hàng đầu thế giới. Với số vốn đầu tư lên đến 75 triệu USD, công ty đã xây dựng được 2 nhà máy sản xuất tại khu công nghiệp Thăng Long, với dây chuyền sản xuất dưới công nghệ hiện đại của Nhật Bản, áp dụng các tiêu chuẩn công nghệ của Nhật JIS và tiêu chuẩn chất lượng ISO các nhà máy đang dần dần đi và sản xuất ổn định cung cấp cho thị trường xây dựng các sản phẩm chất lượng Hiện nay, tổng số nhân viên của công ty là 1,900 người, trong đó có 140 nhân viên khối văn phòng, còn lại là khối sản xuất.
Bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty được quản lý theo mô hình sau: Chịu trách nhiệm cao nhất là Tổng giám đốc. Điều hành các phòng xuất nhập khẩu, chăm sóc khách hàng, logistic, kinh doanh bán hàng, marketing là giám đốc kinh doanh. Điều hành phòng sản xuất, phòng kế hoạch sản xuất, phòng kỹ thuật có giám đốc sản xuất. Giám đốc tài chính điều hành phòng hành chính và phòng tài chính. Phòng sản xuất được chia thành các bộ phận sản xuất nhỏ như thí nghiệm, men, đúc, lò, kiểm tra. Phòng tài chính cũng chia thành bộ phận tài chính và bộ phận quản lý kế toán. Hiện công ty có 140 nhân viên khối văn phòng đều có trình độ chuyên môn. Ngoài ra quy trình sản xuất còn được điều hành dưới sự kiểm soát của các chuyên gia Nhật Bản.
Sơ đồ 9: Bộ máy tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của công ty
Tổng giám đốc
Giám đốc kinh doanh
Giám đốc sản xuất
Phòng sản xuất
Giám đốc tài chính và hành chính
Phòng kế hoạch sản xuất
Phòng kỹ thuật
Phòng xuất nhập khẩu
Phòng chăm sóc khách hàng
Phòng lôgcstic
Phòng kinh doanh bán hàng
Phòng Marketing
Phòng hành chính
Phòng tài chính
Bộ phận thí nghiệm
Bộ phận Đúc
Bộ phận men
Bộ phận Lò
Bộ phận kiểm tra
Bộ phận bảo dưỡng
Bộ phận tài chính
Bộ phận quản lý kế toán
TSCĐ và thuế
Kế toán thanh toán
Kế toán tiền mặt
Kế toán ngân hàng
Kế toán phải thu
Kế toán chi phí
2.1.3. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Là doanh nghiệp sản xuất sứ vệ sinh có 100% vốn đầu tư của Nhật bản cho nên có thể nói hiện nay công ty đang sở hữu một dây chuyền, một công nghệ sản xuất đồ sứ vệ sinh hoàn chỉnh và hiện đại nhất tại Việt Nam, ngay sau khi đưa vào vận hành đã cho ra sản phẩm hoàn chỉnh ngay. Kể từ khi thành lập năm 2002, công ty đã sản xuất ra được hàng nghìn tấn sản phẩm mỗi năm, đưa vào thị trường Việt nam những sản phẩm tiện dụng và đẹp mắt.
Doanh nghiệp hoạt động dựa trên tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc của luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài và các văn bản pháp lý liên quan đến quản lý thuế và quản lý tài chính. Hàng năm doanh nghiệp vẫn đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng tiền thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà thầu nước ngoài, thuế nhập khẩu, và thuế GTGT.
Hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh chính của công ty là sản xuất phần sứ. Một phần trong số khối lượng sản phẩm sản xuất ra được lắp ráp với các phụ kiện khác thành sản phẩm hoàn chỉnh và bán trên thị trường nội địa. Một phần khối lượng sản phẩm sứ được công ty xuất khẩu sang các thị trường Nhật, Mỹ, Nam Á… Bên cạnh đó, công ty còn thực hiện hoạt động nhập khẩu các sản phẩm sứ vệ sinh cao cấp, các sản phẩm sen vòi, và các thiết bị phòng tắm khác từ Nhật, Thái Lan, Malaysia để cung cấp cho thị trường trong nước.
Với quyền lợi gắn chặt với số vốn bỏ ra, chủ đầu tư nước ngoài luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên luôn có các phương án kinh doanh cùng với các cơ chế quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên nhìn một cách khách quan sau 6 năm vào thị trường Việt Nam, với số vốn đầu tư 75 triệu USD, thì hiệu quả đem lại thật sự chưa cao, và đó đang là bài toán với các nhà quản lý của công ty cũng như chủ đầu tư Nhật bản.
2.1.4. Khái quát hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH Toto Việt Nam giai đoạn 2004-2007
2.1.4.1. Tình hình sản phẩm sản xuất kinh doanh của công ty
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các công trình xây dựng không chỉ đòi hỏi về chất lượng công trình mà còn đòi hỏi về mặt thẩm mỹ, do vậy nội thất trong mỗi công trình luôn có vị trí quan trọng trong ngành xây dựng.
Với khuynh hướng góp phần làm đep cho ngôi nhà của khách hàng, các sản phẩm của Toto có chất lượng khá tốt với nước men bóng sáng, kiểu dáng trang nhã, đặc biệt luôn hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường, nên các sản phẩm có tính tiết kiệm nước cao.
Trên thị trường nội địa Công ty cung cấp các sản phẩm vệ sinh với năm màu cơ bản trắng, xanh, be, hồng, mận. Ngoài ra còn có các sản phẩm sứ khác như chậu rửa mặt, bồn tắm, các phụ kiện sứ cho phòng tắm và các loại sen vòi nóng lạnh cao cấp được nhập khẩu từ Nhật.
Không chỉ tập trung vào thị trường trong nước, Công ty cũng sản xuất rất nhiều các sản phẩm sứ, xuất sang các thị trường Nhật Bản, Mỹ, Nam Á… Và trong tương lai không xa thị trường phía nam trung quốc cũng đang là mục tiêu hướng đến của công ty.
Bảng 10: Kết cấu khối lượng sản phẩm sản xuất năm 2007
Loại hàng hoá sản xuất
Tỷ trọng khối lượng sản phẩm sản xuất (%)
Hàng XK
68.70
Thị Trường Mỹ
29.00
Thị Trường Nhật
49.00
Thị Trường khác
22.00
Hàng nội địa
31.30
2.1.4.2. Tình hình quy mô sản xuất của công ty
Năm 2002, công ty khởi công xây dựng nhà máy thứ nhất với công suất thiết kế là 500,000 sản phẩm/năm. Đến tháng 6/2003 nhà máy đi vào vận hành, trung bình mỗi tháng sản xuất được 10,000 sản phẩm. Phần lớn số sản phẩm này để đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu.
Với lợi thế có nguồn nguyên liệu sẵn có, giá nhân công rẻ, Công ty đã quyết định đầu tư, xây dựng thêm nhà máy thứ 2, đặt ngay cạnh nhà máy một. Nhà máy được khánh thành vào tháng 9/2006. Với công suất thiết kế là 750,000 sản phẩm/năm, gấp 1.5 lần nhà máy một, sử dụng một dây truyền đúc plastic hiện đại nhất Đông Nam Á. Nhà máy không chỉ sản xuất ra các sản phẩm cho xuất khẩu mà còn cung cấp cho thị trường nội địa.
Sau khi nhà máy hai đi vào hoạt động, khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng thêm nhiều, đạt 50,000 sản phẩm/tháng. So với mục tiêu kế hoạch thì công ty mới hoạt động chưa đến 50% công suất.
Quy mô sản xuất hiện nay của công ty vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
2.1.4.3. Thị trường hoạt động kinh doanh của công ty
Hiện nay ở Việt nam, các doanh nghiệp tham gia và thị trường sứ vệ sinh cũng khá nhiều, với rất nhiều sản phẩm phong phú và đẹp mắt, nhưng có thể kể đến các doanh nghiệp chiếm thị phần lớn như : Tổng công ty gốm sứ Việt Nam Vilacera, Công ty TNHH Inax - Việt Nam, Công ty TNHH American – Standard, Công ty TNHH Toto Việt Nam, Công ty TNHH Caesar Việt Nam… ngoài ra còn có các sản phẩm cao cấp của châu âu nhập khẩu từ Ý và Thuỵ sỹ… Trong đó Vilacera là doanh nghiệp việt nam, với thế mạnh là đã hoạt động lâu năm trên thị trường, tuy nhiên các sản phẩm của Vilacera được đánh giá chất lượng không cao và mẫu mã không đẹp mắt, nhưng có ưu thế giá rẻ. Thị phần của Vilacera chủ yếu ở nông thôn Việt Nam. Ba công ty còn lại cũng đã có mặt ở Việt Nam hơn 10 năm và cũng đều được đầu tư bằng nguồn vốn và công nghệ và cơ chế quản lý từ các nước tiên tiến Nhật, Mỹ, Đài Loan, nên sản phẩm mang chất lượng và kiểu dáng cao hơn, giá cả cũng tương đối hợp lý nên thị phần chủ yếu nằm ở các khu vực thành thị, đặc biệt Inax khá được ưa chuộng ở Miền Bắc, American Standard rất được ưa chuộng ở miền Nam. Trên thế giới Toto được đánh giá cao và là thương hiệu có tên tuổi, ở Nhật Toto là công ty hàng đầu ở Nhật về công nghệ sản xuất sứ vệ sinh, ở Trung quốc, Mỹ, các sản phẩm của Toto cũng rất được ưa chuộng, bởi theo đánh giá, vì Toto có kiểu dáng và chất lượng cao cấp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Toto là công ty mới thành lập nên công ty gặp rất nhiều khó khăn từ các đối thủ. Thị phần của công ty hiện nay trên thị trường Việt nam mới chỉ là con số rất nhỏ chiếm khoảng 5%. Giá bán các sản phẩm của công ty lại tương đối cao chưa thực sự phù hợp với mức thu nhập của người dân Việt Nam.
Hiện tại công ty vẫn ưu tiên dành hết công suất cho các sản phẩm xuất khấu. Nhưng chắc chắn trong tương lai gần, Công ty đã xác định sẽ phải cạnh tranh khốc liệt để giành thị phần từ các công ty Vilacera, Inax, American Standard. Ban lãnh đạo công ty luôn tin rằng, cùng với danh tiếng của sản phẩm Toto, cùng với nỗ lực của toàn thể công ty, Toto cũng sẽ đạt được thành quả như đã từng đạt được trên thị trường Nhật hay Trung Quốc.
Biểu đồ 11: Thị phần trên thị trường thiết bị vệ sinh Việt nam hiện nay
2.1.4.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Từ khi chính thức nhận được giấy phép thành lập vào năm 2002, giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2003 là giai đoạn xây dựng cơ bản của Công ty. Đến cuối năm 2003 dây truyền sản xuất của công ty mới được hoàn thành và chính thức sản xuất ra sản phẩm vào đầu năm 2004. Vì vây, trong giai đoạn 2004-2005 Công ty đang dần dần đưa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vào ổn định và tiến hành xây dựng thêm nhà máy hai.
Bảng 12: Kết quả hoạt động SXKD của Toto qua các năm 2004 - 2005
Đơn vị :
USD
Stt
Chỉ Tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Chênh lệch 2005 so 2004
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
1
Vốn CSH
4,510,162
35,658,009
31,147,847
691
2
Tổng doanh thu
8,736,311
15,473,651
6,737,340
77
3
Các khoản giảm trừ doanh thu
(21,603)
4
Doanh Thu Thuần
8,736,311
15,452,048
6,715,737
5
Giá vốn hàng bán
(8,327,827)
(13,378,857)
(5,051,030)
61
6
Lợi nhuận gộp
408,484
2,073,191
1,664,707
7
Thu nhập tài chính
20,327
926,956
906,629
8
Chi phí tài chính
(535,627)
(800,076)
(264,449)
49
9
Chi phí bán hàng
(1,414,551)
(2,557,770)
(1,143,219)
81
10
Chi phí hoạt động SXKD
(4,042,173)
(1,212,243)
2,829,930
(70 )
11
LN từ hoạt động SXKD
(5,563,541)
(1,569,942)
3,993,598
(72)
12
Thu nhập khác
82,675
239,131
156,456
189
13
Chi phí khác
(8,973)
(11,180)
(2,207)
25
14
LN trước thuế
(5,489,839)
(1,341,991)
4,147,847
(76)
15
Thuế thu nhập doanh nghiệp
-
-
-
16
LN sau thuế
(5,489,839)
(1,341,991)
Qua bảng trên ta thấy, vốn sản xuất kinh doanh năm 2005 tăng so với năm 2004 là 31,147,847 USD, tốc độ tăng là 691%. Đó là do ngay sau khi hoàn thành xây dựng nhà máy một năm 2003, Công ty tiếp tục tăng thêm vốn bằng nguồn vốn góp từ Tập đoàn là 27,000,000 USD và vốn đi vay từ Công ty tài chính Toto là 14,000,000 USD để nhằm mục đích xây thêm nhà máy thứ hai và phục vụ cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng tổng doanh thu lại chỉ tăng 6,737,340 USD đạt tốc độ 77%. Lợi nhuận sau thuế của hai năm của công ty đều bị lỗ năm 2004 là - 5,489,539 và năm 2005 công ty lỗ -1,341,847. so với năm 2004 công ty đã giảm lỗ được 4,147,847 do dây truyền sản xuất nhà máy một đã đi vào ổn định . Nhưng so sánh với một tốc độ tăng vốn cao thì tốc độ phát triển của công ty như vậy chưa phản ảnh đúng tiềm năng. Đó là do một số nguyên nhân:
Trong năm công ty chủ yếu vào tập trung xây dựng cơ bản nhà máy hai để hoàn thiện hai dây truyền sản xuất, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, cho nên vốn chủ yếu được đầu tư vào tài sản cố định, chi phí quản lý lớn năm 2004 là 4,042,173 USD và năm 2005 là 1,212,243 USD.
Chi phí bán hàng cao do trong thời gian này công ty chưa có sản phẩm mới nhiều mà chủ yếu là sản xuất theo một vài mẫu từ bên công ty mẹ. Bên cạnh đó công ty cũng phải tập trung cho quảng bá sản phẩm, khuếch trương thương hiệu.
Chi phí tài chính của công ty năm 2005 cũng tăng thêm gần gấp đôi năm 2004 do trong năm 2005 công ty tăng vốn từ nguồn vay công ty tài chính Toto 14,000,000 USD, cho nên chi phí tài chính phần lớn là từ lãi suất từ các khoản vay này.
Bảng 13: Kết quả hoạt động SXKD của Toto qua các năm 2005 - 2006
Đơn vị :
USD
Stt
Chỉ Tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Chênh lệch 2006 so 2005
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
1
Vốn CSH
35,658,009
40,595,626
4,937,618
14
2
Tổng doanh thu
15,473,651
31,210,406
15,736,756
102
3
Các khoản giảm trừ doanh thu
(21,603)
4
Doanh Thu Thuần
15,452,048
31,210,406
15,758,359
5
Giá vốn hàng bán
(13,378,857)
(25,874,959)
(12,496,102)
93
6
Lợi nhuận gộp
2,073,191
5,335,447
3,262,257
7
Thu nhập tài chính
926,956
278,322
(648,634)
8
Chi phí tài chính
(800,076)
(2,000,83._. hàng, song cho đến nay giá cả vẫn là yếu tố rất quan trọng. Việc định giá cao hay thấp trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm đó và do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty.
Mức giá của doanh nghiệp cần phải đảm bảo hai điều kiện:
Đủ thấp để khuyến khích khách hàng mua
Đủ cao để doanh nghiệp có lãi
Chính vì vậy, để có một quyết định sáng suốt, hợp lý về giá. Theo chúng tôi, một chính sách giá đúng đắn được công ty thông qua phải dựa trên cơ sở phân tích kỹ tình hình chi phí, thị trường ( nhu cầu, dung lượng, thị trường, mức giá, cạnh tranh ) và chính sách giá này được thiết lập để đạt được những mục tiêu đã định như sản lượng bán ra, lợi nhuận, doanh thu trong một kế hoạch kinh doanh tổng thể. Chính sách giá có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng quan trọng nhất là phải biết cách sử dụng linh hoạt và liên hoàn các mục tiêu trước mắt và lâu dài để đạt được những quyết định giá hợp lý. Đương nhiên những mục tiêu này sẽ được điều chỉnh qua từng giai đoạn, nhưng về nguyên tắc có hai mục tiêu cần quán triệt khi định giá: một là hướng vào chi phí và lợi nhuận, hai là hướng vào thị trường. Theo mục tiêu thứ nhất, những yếu tố bên trong công ty là quyết định. Ngược lại, theo mục tiêu thứ hai thì yếu tố khách quan có tầm quan trọng hơn và có ý nghĩa quyết định hơn. Xuất phát từ mục tiêu trên, công ty cần phải có quan điểm định giá như sau:
Định giá hợp lý đảm bảo cho công ty luôn thu được lợi nhuận, theo quan điểm này thì giá bán được định ở mức sao cho công ty có thể trang trải được toàn bộ chi phí và có được số lợi nhuận dựa trên cơ sở đơn vị sản phẩm hay phần trăm theo doanh thu, tức là giá bằng toàn bộ chi phí cộng lợi nhuận mục tiêu.
Đối với những sản phẩm mới đang cần thâm nhập thị trường thì phải có chính sách giá thăm dò. Chính sách giá thăm dò thị trường đảm bảo cho công ty có doanh thu tối đa. Quan điểm định giá này phụ thuộc vào các yếu tố như: mức độ mới của sản phẩm, cường độ nhu cầu trên thị trường và những mục tiêu thương mại của công ty là dài hạn hay ngắn hạn. Đối với những loại sản phẩm mới thì có hai phương pháp định giá. Một là, đầu tiên cần định giá thấp để cho phép sản phẩm đột nhập vào thị trường sâu hơn và có doanh thu bán tăng nhanh. Hai là, giá ban đầu đặt cao thì tỷ suất lãi trên 1 đơn vị cao nhưng khối lượng bán ra không lớn và đối tượng mua hàng bị hẹp lại và kết quả thường là doanh thu thấp. Một sự thăm dò nhu cầu như thế qua giá cao chỉ nên áp dụng khi sản phẩm thực sự là sản phẩm mới, không bị cạnh tranh, không có nguy cơ bị thị trường tẩy chay. Ban đầu giá cao dần dần giá giảm xuống để có thêm khách mới, mở rộng thị trường cho công ty.
Đối với những sản phẩm mà công ty giữ được độc quyền công nghệ trong vài ba năm thì ngay từ đợt đầu tiên phải tăng giá lên. Ngoài việc bù đắp được chi phí và có lãi thông thường, công ty phải thu được lợi nhuận độc quyền để cố gắng thu hồi lại vốn nhanh và thu hồi đầy đủ số vốn vào trước thời điểm mà các đối thủ cạnh tranh có thể đưa ra những sản phẩm tương tự, lúc này công ty lại hạ giá xuống và sẵn sàng bán phá giá bảo vệ thị trường.
Đối với những sản phẩm có khả năng dễ bị sao chép hoặc bắt chước công nghệ thì công ty phải tiếp cận thị trường bằng cách khác, bán hàng với giá thấp hơn một chút so với chi phí cộng với lợi nhuận bình quân. Như vậy rốt cuộc công ty vẫn thu được lợi nhuận cao.
Công ty cũng nên biết cách làm cho giá cả hấp dẫn hơn. Ví dụ như công ty đặt các mức giá lẻ, kết thúc bằng con số 5,7,9. Chiến lược giá này sử dụng dựa trên yếu tố tâm lý người tiêu dung. Người tiêu dung thường có xu hướng thích giá bé hơn. Hoặc công ty có thể đặt các mức giá khuyến mãi vào một đến hai đợt trong năm. Hoặc công ty có chính sách giảm giá khi khách hang mua với số lượng lớn, trả tiền trước, thanh toán nhanh.
3.2.1.3. Điều chỉnh kết cấu lượng hàng tiêu thụ
Qua phân tích cho thấy, hiện nay doanh thu từ các sản phẩm xuất khẩu của công ty nhiều hơn doanh thu từ bán hang trong nước. Nhưng những sản phẩm bán trong nước lại cho lợi nhuận cao hơn các sản phẩm xuất khẩu. Có hai nguyên nhân chính: một là các sản phẩm xuất khẩu luôn đòi hỏi chất lượng cao hơn nên chi phí sản xuất ra cũng lớn hơn chi phí sản xuất cho sản phẩm nội địa. Hai là hầu hết các sản phẩm được xuất khẩu theo kế hoạch của công ty mẹ sang các công ty trong tập đoàn nên giá bán rất thấp. Vì vậy, để tạo lợi nhuận mà không ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu công ty cần thúc đẩy hơn nữa hoạt động bán hàng trong nước.
3.2.2. Nhóm giải pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh.
Khi bắt tay vào xây dựng các chiến lược sản xuất kinh doanh, một điều vô cùng quan trọng mà không một công ty nào được phép bỏ qua là phải tính đến việc các chi phí sẽ được quản lý và sử dụng như thế nào, xem các đồng vốn bở ra hiệu quả đến đâu, có đem lại lợi nhuận và hiệu quả như bạn mong muốn không.
Muốn tăng trưởng và đẩy nhanh lợi nhuận, công ty cần không ngừng tìm kiếm các phương thức cắt giảm chi phí phù hợp, cắt giảm chi phí lựa chọn và phân biệt chi phí tốt và chi phí xấu để quản lý hiệu quả.
Vì vậy, việc gắn kết các chương trình cắt giảm chi phí với hoạt động quản lý chi phí rất quan trọng. Những lợi thế có được từ hoạt động cắt giảm chi phí chỉ bền vững nếu sau đó Công ty thực hiện một kế hoạch quản lý chi phí hiệu quả. Và cuối cùng nếu quản lý chi phí hiệu quả Công ty sẽ giảm thiểu được sự cần thiết phải liên tục đưa ra các kế hoạch cải thiện hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn.
3.2.2.1. Nguồn nguyên liệu mới, hạ giá thành sản phẩm
Phòng kế hoạch sản xuất phải phối hợp với phòng sản xuật cụ thể là bộ phận thí nghiệm thường xuyên có những thí nghiệm, phân tích đầy đủ các nguyên liệu đưa vào sản xuất để tìm ra những nguồn nguyên liệu giá rẻ mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm
Đồng thời bộ phận kiểm tra chất lượng nên được đầu tư thiết bị kiểm tra hiện đại nhằm luôn đảm bảo các sản phẩm xuất xưởng có chất lượng và có tiêu chuẩn cao hơn các sản phẩm cùng loại của các nhãn hiệu khác đang có trên thị trường, đảm bảo đúng thương hiệu Toto.
Công ty nên thường xuyên có các cuộc khảo sát, đề tìm kiếm được các nguồn nguyên liệu mới. Tiến hành ký hợp đồng dài hạn với những nguồn nguyên liệu giá rẻ và chất lượng để luôn đảm bảo nhà máy có nguồn cung cấp ổn định và giá cả hợp lý. Tiết kiệm được chi phí nhập khẩu, chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm.
3.2.2.2. Quản lý, tiết kiệm chi phí lưu thông
Bất cứ một doanh nghiệp nào có mục đích tối đa hoá lợi nhuận đều kỳ vọng sản xuất được mức sản lượng đã lựa chọn trong từng thời kỳ kinh doanh với chi phí thấp nhất trong điều kiện có thể. Nói một cách khác bằng cách bán bán ra cùng một mức sản lượng hàng hoá với chi phí thấp hơn để thu được lợi nhuận cao hơn.
Trước hết nói về giảm chi phí trong tổng chi phí của công ty thì chi phí cố định như chi phí cho bộ máy quản lý khó có thể giảm được trừ trường hợp giảm biên chế và giảm chi phí khác ngoài lương cho bộ phận này. Theo đà tiến bộ khoa học kỹ thuật, yêu cầu cập nhập của nền kinh tế tri thức ngày càng cao thì chi phí quản lý hành chính nhiều khi lại tăng lên. Giảm chi phí này quá mức đồng nghĩa với hà tiện cũng là hạn chế sự phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chi phí quản lý chỉ có thể là tiết kiệm ở mức tối đa cho phép nhưng vẫn mang lại hiệu quả.
Chi phí khả biến bao gồm giá vốn và chi phí bán hàng sẽ tăng theo số lượng sản phẩm bán ra. Vấn đề giảm chi phí đầu vào là phải lựa chọn giải pháp triển khai được sản xuất, gia công, thu mua với giá đầu vào hợp lý, vừa đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, vừa đem lại lợi nhuận tối đa cho công ty.
Trước hết để giảm chi phí cần phải tăng mức lưu chuyển hàng hoá, để đẩy mạnh lưu chuyển hàng hoá cần làm tốt công tác tiếp thị, tìm hiểu kỹ thị trường đưa hàng hoá đến tiêu thụ. Ngoài ra cần phải tổ chức tốt khâu thu mua và tạo nguồn hàng ổn định, có chất lượng cao và tạo uy tín với bạn hàng. Cải tiến các khâu liên quan như : chuẩn bị hàng, phương thức giao nhận, thanh toán, kiểm nghiệm… để đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá.
Trong khâu dự trữ hàng hoá phải xây dựng kế hoạch điều động hàng hoá đảm bảo tạo đủ nguồn hàng sao cho đủ về khổi lượng và kịp về thời gian giao hàng. Tránh hiện tượng thiếu hàng hoặc dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn, hàng xuống cấp, chi phí bảo quản tăng. Giải quyết được vấn đề này, công ty sẽ giảm bớt được chi phí vận tải, chi phí lưu kho bãi, chi phí bảo quản, thiếu hụt hàng hoá, đồng thời đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tăng nhanh vòng quay của vốn. Muốn vậy công ty phải nắm chắc tình hình kinh doanh, kế hoạch bán hàng để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn tránh tổn thât do vi phạm hợp đồng. Đối với hàng ứ đọng kém phẩm chất phải thường xuyên theo dõi xử lý kịp thời có thể hạ giá bán để thu hồi vốn nhanh, giảm chi phí bảo quản. Tổ chức tốt công tác bảo vệ và quản lý tôt việc thực hiện các định mức hao hụt cũng góp phần giảm chi phí lưu thông.
Bên cạnh đó để giảm chi phí lưu thông cần phải quản lý tốt công tác thực hiện kế hoạch chi phí lưu thông, tránh tình trạng buông lỏng. Lập các đinh mức chi phí theo từng sản phẩm. Hiện nay công ty mới chỉ đang sử dụng một công ty vận tải logitem là một công ty của Nhật nên cước vận chuyển khá cao, thiết nghĩ để cạnh tranh công ty nên sử dụng thêm công ty vận tải khác với phí vận chuyển thấp hơn. Với các hàng bán nội địa công ty có thể sử dụng các công ty vận tải trong nước như vinafco, safi, công ty giao nhận ngoại thương, với hàng xuất khẩu công ty có thể sử dụng logitem, NYK vì họ có kinh nghiệm trong vận chuyển hàng hoá đi Nhật và Mỹ.
Để tăng hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí, công ty còn phải có biện pháp giải quyết vốn lưu động, tạo ra vốn lưu động tự có để có thể giảm lãi vay, có thể đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá thông qua việc tăng tốc độ mua nhanh bán nhanh, bảo đảm tồn kho hợp lý để rút vốn lưu động của khâu dự trữ, đẩy nhanh việc thanh toán bằng việc áp dụng các hình thức chiết khấu thanh toán, như vậy sẽ hạn chế việc khách hàng chiếm dụng vốn, rút tiền về nhanh, giảm được tiền vay và lãi vay ngân hàng.
Tiết kiệm lao động quá khứ trong lưu thông bằng cách giảm thấp tiêu hao vật tư, nguyên liệu, nâng cao hiệu quả sự dụng máy móc thiết bị trong các khâu sản xuất kinh doanh.
Tiết kiệm lao động sống trong quá trình kinh doanh không qua tăng năng suất lao động, sử dụng lao động hợp lý, tổ chức lao động khoa học.
Tăng cường công tác quản lý tài chính, thường xuyên tự kiểm tra, và kiểm tra định kỳ nâng cao hiệu quả công tác quản lý.
Mở rộng lưu thông hàng hoá, giảm dự trữ hàng hoá đến mức cần thiết, tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá, mở rộng thị trường.
Triệt để tiết kiệm khi sử dụng nguyên liệu để sản xuất. Tối ưu hoá lượng vật tư dự trữ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Ngày nay trong thương mại quốc tế, phương tiện vận chuyển chính vẫn là đường biển và vận chuyển bằng container. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí, khi bán hàng thì giá cả phải tính toán sao cho khi bán hàng thì xếp đủ container, tránh trường hợp để hàng rỗng vẫn bị tính tiền vận chuyển, mà giá vận chuyển 1 container là từ 4000USD – 5000USD
3.2.2.3. Quản lý chi phí tài sản cố định
Là một công ty sản xuất nên tài sản cố định ở công ty là khá lớn
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2006
Năm 2005
Năm 2004
Tỷ lệ tài sản cố định/Tổng TS
59%
63%
71%
50%
Vì vậy chi phí khấu hao của khối lượng tài sản này tham gia vào tổng chi phí sản xuất của công ty cũng chiếm tỷ trọng lớn.
Trước hết để quản lý chi phí tài sản cố định, công ty cần quản lý hoạt động mua bán tài sản cố định như: kiểm soát giá mua vào hợp lý chưa, nguồn gốc xuất xứ, tiện ích của tài sản đó… Hiện nay phần lớn số tài sản của công ty được mua từ Nhật bản, với giá khá cao. Một lý do không thể không nói đến là các nhà đầu tư nước ngoài cố tình bán với giá cao để thu lợi. Công ty nên đàm phán lại trong các hợp đồng mua sắm để đạt được mức giá hợp lý.
Hai là công ty cần kiểm soát việc tính toán, phân bổ chi phí khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý. Chi phí khấu hao phải phù hợp với doanh thu đạt được trong kỳ kế toán, trong đó có sử dụng đến tài sản.
Mức khấu hao hàng năm tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh được xác định theo phương pháp khấu hao đường thẳng.
Nguyên giá TSCĐ
Mức khấu hao hàng năm của TSCĐ =
Thời gian sử dụng của TSCĐ
Theo quyết định 206/2003/QĐ/BTC Bộ trưởng Bộ Tài chính về “ chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ”, doanh nghiệp được lựa chọn phương pháp trích khấu hao phù hợp với từng loại tài sản cố định của Doanh nghiệp:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng: TSCĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng. Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả kinh tế cao được khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh được trích khấu hao nhanh là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý… Khi thực hiện khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
Khi chúng ta xác định được chi phí khấu hao, việc còn lại phải làm là chọn một phương pháp phân bổ chi phí đó cho các kỳ kế toán khi tài sản được sử dụng để tạo ra doanh thu. Quản lý được loại chi phí này thì Công ty cần chú ý lượng chi phí khấu hao được tính không phụ thuộc vào sự thao túng của cấp quản lý theo cách khiến thu nhập của công ty trong bất cứ kỳ kế toán nào cũng có thể bị sai lệch thất thường. Công ty cần kiểm soát những khoản được tính giống với khoản tụt giảm giá trị tài sản phải được đo trên nguyên giá tài sản cố định.
Một hiện tượng trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng tình khấu hao tài sản cố định nhanh để bù đắp cho trả nợ vốn vay đầu tư. Bên cạnh đó các tài sản cố định thường được mua từ nước ngoài với giá khá cao. Và các công ty cũng tranh thủ chính sách khuyến khích của nhà nước cho phép các doanh nghiệp mới thành lập được lỗ trong bốn năm đầu nên công ty thường chập nhận lỗ trong giai đoạn đầu. Vì vậy một trong những giải pháp giảm lỗ cho doanh nghiệp đó là quản lý tài sản cố định một cách chặt chẽ, từ giá mua đầu vào đến cách tính khấu hao hợp lý. Đảm bảo công ty mua đúng giá trị của tài sản cố định, và tính đủ, tính đúng mức chi phí khấu hao của tài sản. Làm đúng cũng là cách Công ty tránh bị phạt khi có các cơ quan kiểm tra nhà nước thanh tra.
3.2.3. Sử dụng đòn bẩy tài chính:
Trong cơ học chúng ta quen với khái niệm đòn bẩy, như một công cụ để khuếch đại lực nhằm biến một lực nhỏ thành một lực lớn hơn, tác động vào vật thể chúng ta cần dịch chuyển. Trong kinh tế, người ta sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính, hay là sử dụng các nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tăng khả năng sinh lợi của Công ty.
Vốn lưu động đang là nhu cầu rất cần thiết với tình trạng Công ty hiện nay. Công ty cần vốn để mua sắm nguyên vật liệu, hàng hóa, thuê thêm lao động, mở rộng quy mô sản xuất, để đầu tư cho phát triển sản phẩm, cho các chiến lược bán hàng mới. Vì vậy Công ty cần:
Tạo vốn:
Quá trình cung ứng các nguồn vốn cho hoạt động của doanh nghiệp được gọi là sự tài trợ, bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo nguồn và bảo đảm các nguồn lực tài chính để doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Các nguồn tài trợ đó là:
- Vốn tự có của doanh nghiệp
- Vốn tín dụng dài hạn
- Tài trợ nội bộ
- Các nguồn tài trợ ngắn hạn
Ngoài việc huy động các nguồn tài trợ trên, công ty phải đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn bằng cách đẩy nhanh khối lượng hàng hoá bán ra, đồng thời thu hồi vốn nhanh từ phía khách hàng, tránh nợ đọng dây dưa. Có nhiều biện pháp để khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn và thanh toán nhanh, đồng thời công ty cũng tìm những khách hàng cho công ty trả chậm và công ty có thể dùng vốn đó để đầu tư ngắn hạn.
Sử dụng vốn
Sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty. Để sử dụng vốn có hiệu quả, công ty cần sử dụng các nguồn tài trợ một cách có hiệu quả, công ty cần xem xét nên đi vay hay dùng vốn chủ sở hữu, vì nếu sử dụng hợp lý hai nguồn vốn này sẽ đem lại hiệu quả lớn cho công ty.
3.2.4. Nhóm giải pháp khác.
3.2.4.1. Thị trường tiêu thụ
Hoàn thiện chính sách bán hàng:
Việc tiêu thụ mặt hàng thiết bị vệ sinh này cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thương hiệu hay uy tín của nhà sản xuất. Bản thân người tiêu dùng rất khó phân biệt giữa các hãng sản xuất về chất lượng hàng hoá. Vì vậy họ thường tin tưởng vào nhãn hiệu hàng hoá đã được khẳng định trên thị trường. Chính vì vậy công ty nên chú trọng đến công tác tạo dựng uy tín và thương hiệu sản phẩm trên thị trường.
Công ty phải duy trì, củng cố, nâng cao khả năng tiêu thụ của các nhóm đại lý có tiềm năng, phát triển thêm đại lý mới phù hợp với nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng.
Công ty phải xây dựng được thương hiệu tốt. Để có lợi nhuận thì các doanh nghiệp phải thoả mãn nhu cầu tồi đa của người tiêu dùng. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tạo ra một giá trị thật sự trong các sản phẩm hàng hoá của mình được người tiêu dùng ghi nhận. Giá trị đó thể hiện qua thương hiệu.
Để phát triển thị trường, công ty nên thực hiện theo một số giải pháp marketing về thúc đẩy bán hàng, tuyên truyền quảng cáo, cụ thể như sau:
Một là xây dựng kênh phân phối, mở thêm các đại lý tiêu thụ tại các tỉnh, các cửa hàng bán lẻ tại thị trấn, thị xã. Kênh phân phối chính là người đồng hành với công ty trong việc tiêu thụ hàng hoá. Ở thị trường miền Bắc, có các hãng thiết bị vệ sinh có tên tuổi như Viglacera, Inax, thị trường miền Nam có American Standard đều đã gây dựng được thị trường cho sản phẩm của họ, do họ đã tham gia thị trường từ rất lâu, họ đã xây dựng được kênh phân phối trên từng khu vực địa lý. Ví dụ Inax bán hàng trực tiếp qua 2 tổng đại lý rất lớn tại Hà Nội và 1 tổng đại lý tại miền Trung và 2 tổng đại lý tại Miền Nam, sau đó các kênh phân phối cấp 2 sẽ mua hàng từ các tổng đại lý để bán cho các cửa hàng bán lẻ và người tiêu dùng theo đúng giá Inax quy định. Đội ngũ nhân viên bán hàng của Inax chịu trách nhiệm theo dõi doanh số bán của các đại lý để lên kế hoạch khuyến mãi và kế hoạch bán hàng, và thúc đẩy mở rộng thêm các đại lý, cửa hàng cấp 2. Trong khi đó Toto chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam được 5 năm, nhiều người tiêu dùng còn chưa biết đến thương hiệu nên việc xây dựng kênh phân phối là rất khó khăn. Để xây dựng kênh phân phối của mình tốt hơn, công ty nên tổ chức theo hướng tìm tới các đại lý cấp hai đang bán hàng cho các hãng kia, đưa ra các chương trình bán hàng hấp dẫn, mời họ làm đại lý cấp 1 bán hàng và trưng bày hàng của hãng. Dần dần Công ty sẽ xây dựng được thương hiệu và kênh phân phối trên thị trường.
Công ty cũng cần chú ý đến công tác quản lý hệ thống đại lý. Yêu cầu các đại lý khi đã ký hợp đồng thì chỉ trưng bày và bán sản phẩm công ty. Hiện nay trên thị trường cũng có rất nhiều sản phẩm giả mang nhãn mác ToTo, nhưng chất lượng kém. Công ty cần kiểm tra thường xuyên các đại lý xem có bán các loại sản phẩm này không, để xử lý kịp thời, tránh ảnh hưởng đến uy tín của công ty.
Bên cạnh đó Công ty cũng cần chú ý đến công tác tuyên truyền quảng cáo cho sản phẩm của hãng. Biện pháp phổ biến nhất là dựng các bảng hiệu quảng cáo tại các nơi công cộng, biển hiệu mang tên hãng tại các cửa hàng vật liệu xây dựng, xây dựng các đoạn phim quảng cáo bắt mắt, tài trợ cho các cuộc thi thiết kế các công trình xây dựng.
Yếu tố con người luôn đóng vai trò quan trọng, Công ty nên chú trọng hơn vào đội ngũ bán hàng, có chế độ đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên, xây dựng văn hoá kinh doanh cho đội ngũ bán hàng. Đó là cách thức đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng, đó là cách tư vấn cho khách hàng về vấn đề lựa chọn sản phẩm và các vấn đề chăm sóc khách hàng sau bán hàng. Cần phát triển một đội ngũ nhân viên bán hàng vừa có kiến thức về bán hàng, vừa có am hiểu về các sản phẩm thiết bị vệ sinh. Công ty rất cần các nhân viên có năng lực thực sự, vì vậy công ty cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng để thu hút những nhân viên có kinh nghiệm.
Khi hoàn thiện được chính sách bán hàng, và tạo dựng được thị trường, công ty sẽ tăng được lợi nhuận do doanh thu tăng và giảm thiểu được các chi phí phát sinh không cần thiết cũng như tối ưu hoá trong quản lý chi phí.
3.2.4.3. Tổ chức quản lý hiệu quả
Một đội ngũ nhân viên tốt mà quản lý tồi thì không tốt hơn một đội ngũ nhân viên tồi mà quản lý tốt. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ cần một đội ngũ nhân viên yếu kém mà phải khẳng định rằng khi có mộg đội ngũ quản lý chuyên nghiệp họ sẽ có khả năng đào tạo và phát triển đội ngũ nhân viên dưới quyền chở nên chuyên nghiệp. Vì vậy Công ty cần có chiến lược quy hoạch, phát triển, đào tạo hệ thống cán bộ quản lý đảm bảo đội ngũ cán bộ phải nắm chắc chuyên môn, quy trình sản xuất, hiểu rõ biến động thị trường, có khả năng phân tích tốt, tư duy logic để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới của công ty. Đồng thời liên tục cập nhập các phiên bản mới hoặc mua thêm các module cần thiết của hệ thống quản lý SAP công ty đang sử dụng. Cần có chiến lược sản xuất kinh doanh ngắn hạn cũng như chiến lược dài hạn để tạo thương hiệu trên thị trường Việt Nam.
3.2.4.4. Tổ chức lực lượng lao động hợp lý.
Định kỳ tổ chức cho cán bộ công nhân viên tham gia các lớp đào tạo tham quan trong và ngoài nước để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề trình độ quản lý, tin học, tài chính. Tổ chức đưa các đoàn sang thăm quan học hỏi cách thức quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh, các phương thức bán hàng ngay tại các công ty trong cùng tập đoàn.
Cần có các chế độ thời gian làm việc và phúc lợi với đội ngũ công nhân, để khuyến khích người lao động gắn bó với công ty, tăng năng suất lao động. Công ty nên hạn chế việc tăng ca quá nhiều gây căng thẳng cho lao động, chế độ ăn trưa, ăn ca đảm bảo sức khoẻ cho lao động. Chế độ tiền lương linh hoạt, giúp người lao động phấn khởi khi tham gia sản xuất. Năm 2006, rất nhiều cuộc đình công đã diễn ra tại khu công nghiệp Thăng Long, do những mâu thuẫn về điều kiện làm việc và ăn uống giữa người lao động và chủ đầu tư, làm ảnh hưởng khá nhiều đến tình hình sản xuất kinh doanh và uy tín của một số công ty.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý gọn nhẹ, chuyên nghiệp và năng động hơn.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Về phía Nhà nước và các cơ quan chức năng có liên quan
Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá tăng lên ( lạm phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Các công ty trở nên rất khó ra quyết định khi sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó lạm phát cũng làm cho việc lập kế hoạch trong tương lai bị khó khăn. Giá cả leo thang cũng gây tâm lý lo lắng cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng. Vì vậy ổn định giá cả phải luôn là mục tiêu của chính sách kinh tế hàng năm của Chính Phủ.
Doanh nghiệp cũng mong muốn có một sự ổn định lãi suất. Vì những biến động lãi suất cũng làm cho nền kinh tế bấp bênh, làm cho doanh nghiệp cũng khó lập kế hoạch cho tương lai. Biến động lãi suất cũng ảnh hưởng đến thị trường bất động sản và thị trường vật liệu xây dựng do vậy cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Với một doanh nghiệp mà doanh thu hiện chủ yếu là từ xuất khẩu thì biến động từ thị trường ngoại hối luôn ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của công ty. Vì vậy mong muốn của công ty là Chính phủ quan tâm đến các biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái.
Hiện nay, thị trường Việt Nam xuất hiện rất nhiều cơ sở gia công, làm giả, làm nhái các sản phẩm tiêu dung mang nhãn hiệu các hang tên tuổi, nhưng chất lượng rất kém, vậy đề nghị các cơ quan chức năng cần kiểm tra và can thiệp để tránh hiện tượng này vì các sản phẩm của công ty đều đã được bảo hộ quyền sang chế, và có tem chống hang giả.
Đối với Nhà nước và các cơ quan quản lý cấp trên, hiện cũng đang có một số vấn đề gây trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cần khắc phục.
Đối với chế độ kế toán ở nước ta, Nhà nước cần có các giải pháp cụ thể để hoàn thiện hơn nữa chế độ này, nhằm đảm bảo chế độ này luôn phù hợp với mọi thành phần kinh tế. Nhà nước luôn phải trú trọng đến những vướng mắc về chế độ kế toán có thể phát sinh để xử lý kịp thời. Củng cố và hoàn thiện pháp lệnh kế toán nhằm tạo nền tảng và cơ sở pháp lý để hoàn chỉnh chế độ kế toán.
Đối với công tác kiểm toán ở nước ta còn rất mới, do đó không thể tránh khỏi hạn chế. Các cơ quan kiểm toán nhà nước như: Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán bộ tài chính… cần thực hiện tôt nhiệm vụ của mình để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán, tăng cường sự kiểm tra đánh giá của Nhà nước, đảm bảo công tác kiểm toán của các cơ quan kiểm toán tiến hành tại các doanh nghiệp đúng thời hạn, đầy đủ các nội dung nghiệp vụ.
Ngoài ra, các cơ quan có chức năng của Nhà nước còn phải giải quyết một số vấn đề sau:
- Lĩnh vực ngân hàng cần có những điều chỉnh cơ chế tín dụng hợp lý, theo hướng kết hợp giữa thế chấp và tín dụng để các doanh nghiệp có thể dễ dàng vay vốn ngân hàng, giảm bớt các thủ tục phiền hà trong khi vay.
- Đơn giản các thủ tục, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp linh hoạt và tự chủ hơn trong việc cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản cũng như nhượng bán hay thanh lý tài sản tại các doanh nghiệp.
- Có chính sách đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ phân tích và quản lý tài chính. Hình thành nên đội ngũ chuyên viên tài chính để công tác phân tích tài chính và quản lý doanh nghiệp thực sự có hiệu quả.
- Có những điều chỉnh về thủ tục hành chính và pháp luật đối với các đối tác nước ngoài, để các doanh nghiệp có thể thực hiện việc liên doanh, liên kết, hợp tác mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có hiện tượng “ lãi thật, lỗ giả”. Họ sử dụng phương pháp “ chuyển giá” ( pricing transfer), tức là tìm mọi cách để không sinh lãi, nhưng thực tế công ty mẹ vẫn có lãi. Tình trạng đó kéo dài sẽ gây thất thu thuế cho nhà nước. Vì vậy nhà nước nên có các biện pháp kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp để xác định doanh nghiệp làm ăn lỗ thật hay giả.
3.3.2. Về phía doanh nghiệp.
Trước hết, Công ty phải xây dựng một phương pháp xác định lợi nhuận sao cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh hiện nay của doanh nghiệp. Nói một cách khác là phải xác định đúng đắn chỉ tiêu tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ kinh doanh. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải tính đúng, tính đủ doanh thu, giá thành sản phẩm. Theo tôi, để làm được điều đó cần phải xác định được các yếu tố như giá cả, tiền lương, tiền công, lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, khấu hao, vốn sản xuất kinh doanh. Trong thực tế, các doanh nghiệp đang tồn tại nhiều lý do cản trở mục tiêu này. Một là doanh nghiệp không phản ảnh được đầy đủ doanh thu của mình do sự biến động của giá cả thị trường, công tác thống kê kế toán chưa chặt chẽ, lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái thường xuyên thay đổi. Mặt khác chi phí chi ra chưa được tính toán đúng do chủ trương, định hướng của chính công ty như chi phí về khấu hao và quản lý tài sản cố định.
Tăng cường chất lượng công tác tài chính, đảm bảo các báo cáo tài chính chính xác, và kịp thời để ban giám đốc nắm được kết quả kinh doanh của công ty.
KẾT LUẬN
Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trong quá trình thực hiện đề tài “ Nâng cao lợi nhuận tại công ty TNHH TôT Việt Nam”, đối chiếu với mục đích, luận văn rút ra một số kết luận sau đây:
Đã khái quát hoá và phân tích có hệ thống những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Xác định đúng lợi nhuận sẽ phản ánh đúng thực chất kết quả kinh doanh đồng thời có điều kiện để thực hiện quá trình tái sản xuất.
Luận văn cũng phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất và lượng của lợi nhuận của doanh nghiệp.
Luận văn cũng có những phân tích tham khảo về các bài học tạo lợi nhuận của các tập đoàn sản xuất kinh doanh lớn trên thế giới và đưa ra bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam
Từ số liệu tài chính chân thực, mới nhất, được kiểm toán bởi công ty kiểm toán hàng đầu thế giới, luận văn đã phân tích và đánh giá toàn diện về thực trạng lợi nhuận của Công ty TNHH Toto trong thời gian qua. Luận văn đã khẳng định được những kết quả và phát hiện những tồn tại về thực trạng lợi nhuận của Công ty.
Luận văn đã đề ra các biện pháp chủ yếu, nhằm tăng lợi nhuận của Công ty trong thời gian tới. Các giải pháp về tối ưu hoá doanh thu, tối thiểu hoá chi phí, giải pháp về quản trị dòng tiền, giải pháp về thị trường, đều mục đích cải thiện thực trạng lợi nhuận cho Công ty. Bất cứ những lý luận nào cũng cần phải được thực nghiệm. Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp Công ty sẽ sử dụng trong thời gian tới để giúp Công ty nâng cao lợi nhuận.
Người viết cũng rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, giáo, các độc giả quan tâm để có những hiểu biết sâu sắc hơn, để bài luận văn hoàn chỉnh hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình tài chính doanh nghiệp. TS Lưu Thị Hương – Khoa ngân hang tài chính. ĐH Kinh tế quốc dân – Nhà xuất bản Thống Kê (2005)
Phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
Những vấn đề cơ bản về tài chính doanh nghiệp. Nhà xuất bản thống kê. Lưu Thị Hương, Vũ Duy Hào (2002)
Từ điển kinh tế chính trị - NXB sự thật – Hà Nội 1997
Giáo trình kinh tế học vi mô. TS Vũ Kim Dung
Từ tốt đến vĩ đại – Jim Collim
Phân tích tài chính – Chương trình giảng dạy kinh tế Fullright
Nghệ thuật quản lý chi phí – Hansen Mowen
Tư bản quyển 3 tập 1 – K. Mark. NXB sự thật
Tạp chí xây dựng tháng 6/2006, 12/2007
Vùng lợi nhuận
Tài chính cho nhà quản lý – Nhà xuất bản lao động XH
Tài chính doanh nghiệp – TS Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê
Báo cáo kiểm toán công ty TNHH Toto Việt Nam năm 2004 – KPMJ
Báo cáo kiểm toán công ty TNHH Toto Việt Nam năm 2005 - KPMJ
Báo cáo kiểm toán công ty TNHH Toto Việt Nam năm 2006 - KPMJ
Báo cáo kiểm toán công ty TNHH Toto Việt Nam năm 2007 - KPMJ
Luật đầu tư nước ngoài
Luật doanh nghiệp
Văn bản quản lý tài chính doanh nghiệp
QĐ206/2003 BTC - Quản lý TSCĐ và khấu hao TSCĐ
33 bí quyết làm tăng tài sản của doanh nghiệp – NXB Lao động XH
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-102.doc