Lời mở đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nông nghiệp và nông thôn nước ta nói chung, Hà Nam nói riêng đã có những chuyển biến lớn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp tỉnh Hà Nam đạt 5%/năm. Từ một tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có đủ lương thực tiêu dùng và có dự trữ đảm bảo an ninh lương thực và có sản phẩm hàng hoá.
Cùng với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, thị trường tiêu thụ nông sản đã
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bước đầu mở rộng và phát triển, tác động tích cực trở lại sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Một số nông sản làm ra tiêu thụ chậm, giá cả không ổn định làm thiệt hại đến lợi ích của người sản xuất và không khuyến khích người lao động. Vì vậy em chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010" và mong muốn góp phần tìm hiểu thị trường hàng hoá nông sản, định hướng sản xuất, phát triển thị trường cho những năm tới và đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đề tài được chia làm ba chương sau:
Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương II: Tình hình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002.
Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
Chương I
Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
I. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Quan niệm về tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như một hành vi thì hoạt động tiêu thụ nông sản là sự chuuyển giao hình thái giá trị của sản phẩm hàng hoá từ hàng sang tiền ( H -T) nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định. Không có mua thì không có bán, song xét về mặt giá trị, xét bản thân chúng H -T và T-H thì là sự chuyển hoá của một giá trị nhất định , từ một hình thái này sang hình thái khác , nhưng H -T lại là sự thựchiện giá trị thặng dư chứa đựng trong H. Như vậy , nếu hiểu theo quan niệm này thì tiêu thụ sản phẩm là sự chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm cho người mua và người bán thu đượctiền từ bán sản phẩm hay quyền thu từ người mua.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như môt khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất và kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích là tiêu thụ của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ là một quá trình thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một quá trình bao gồm từ việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, biến nhu cầu đó thành nhu cầu mua thực sự của người tiêu dùng, tổ chức sản xuất, chuẩn bị sản phẩm, tổ chức bán và các hoạt động dịch vụ khách hàng sau khi bán.
Theo hiệp hội kế toán quốc tế, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ, lao vụ đã thực hiện cho khách hàng là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời thu được tiền hàng hoá.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu thị trường, tổ chức tiếp nhận sản phẩm hàng hoá và xuất bán theo nhu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là khâu quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm mới tăng được vòng quay của vốn, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua tiêu thụ sản phẩm thực hiện được giá trị sử dụng của sản phẩm. Sau khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp không những thu được các khoản chi phi bỏ ra mà còn thu được lợi nhuận.
Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như : gạo, đậu tương, lạc, hạt điều, cà phê, chè, thịt, rau quả tươi và rau quả chế biến... được sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam với các mức độ khác nhau đã tác động đến sản xuất và tiêu thụ trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ.
Hà Nam là tỉnh nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, đất đai mầu mỡ được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền sản xuất chính của tỉnh, chiếm tới hơn 45,6% trong cơ cấu GDP của tỉnh.
Mấy năm vừa qua nhờ chuyển đổi cơ chế quản lý, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi giống và biện pháp thâm canh tăng vụ, nông nghiệp Hà Nam đã có những tiến bộ rõ rệt. Tổng sản lượng lương thực năm 2002 đạt 424.000 tấn, bình quân 450kg/ người/năm. Chăn nuôi gia súc gia cầm, thuỷ sản phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.
Trong những năm qua, cùng với mức tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ hộ đói nghèo của Hà Nam đã giảm từ 15,4% năm 2000 còn dưới 10% vào năm 2002. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nam là 256.800 đồng/người/tháng, chỉ bằng 87,05% so với mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước và bằng 91,6% của cùng đồng bằng sông Hồng.
Hà Nam đang phấn đấu: "Đẩy nhanh tốc độ phát triển nông thôn toàn diện theo hướng nâng cao chất lượng tăng giá trị sản xuất, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa mở rộng sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu". Dự báo đến năm 2010, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hà Nam chiếm khoảng 20 đến 26%GDP, tỷ trọng cơ cấu trong nông nghiệp thay đổi theo hướng tỷ trọng chăn nuôi tăng, sản lượng lương thực tiêu dùng còn khoảng 10000 tấn đến 150000 tấn lúa hàng hoá và nhiều loại nông sản hàng hoá khác.
Định hướng phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 của cả nước được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là:" Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng cường đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Đối với Hà Nam tuy là một tỉnh nhỏ, dân số không lớn, nông sản hàng hoá chưa nhiều nhưng vấn đề nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đã được đề cập trong báo cáo của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI là :" Mở rộng thị trường, tăng nhanh hàng hoá xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sản phẩm nông sản góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế...".
Nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản góp phần tạo công ăn việc làm tại chỗ cho nông dân, giảm khó khăn cho xã hội và hạn chế sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị vốn đã và đang dư thừa lao động, tạo điều kiện cho người dân gắn bó hơn với mảnh đất mà mình sinh sống.
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam, thể hiện thông qua tỷ trọng GDP nông nghiệp trong tổng GDP và các nguồn lực quốc gia.
Bảng 1: GDP phân theo ngành kinh tế năm 2000.
Ngành kinh tế
GDP theo giá hiện hành
(Tỷ đồng)
Cơ cấu GDP
(%)
Tăng trưởng GDP (2001 - 2002)
(%)
Tổng số cả nước
-Nông, lâm, ngư nghiệp
- Công nghiệp
- Dịch vụ - Thương Mại
399.942
101.724
137.750
160.259
100
25,43
34,49
40,07
7,67
4,22
11,47
7,36
Nhìn toàn bộ nền kinh tế, đóng góp của lĩnh vực nông nghiệp đã giảm tương đôi so với đóng góp trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tiềm năng phát triển nông nghiệp và nông thôn đã thu hút hơn 200 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với hơn 2,4 tỷ USD vốn đầu tư và hơn 1,5 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức. Thành tích của Việt Nam trong những năm qua chứng tỏ đầu tư vào sản xuất lượng thực và sản xuất nông sản để xuất khẩu là hướng đi đúng đắn, góp phần vào phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã xuất khẩu tới trên 80 nước trên thế giới. Một số nông sản đã được xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường truyền thống và các đối tác thương mại lớn. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Hà Nam là tỉnh đồng bằng thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng có quy mô vừa phải, diện tích tự nhiên 842,4 km2 gồm 5 huyện, 1 thị xã và 114 xã, phường mới được tái lập từ ngày 1/1/97. Hà Nam nằm cách Hà Nội 58 km, là cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội. Hà Nam có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, có nhiều sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu tạo ra mạng lưới giao thông thuỷ bộ thuận lợi cho việc giao lưu giữa các tỉnh trong cả nước.
Hà Nam nằm ở vị trí gần trung tâm của vùng Đồng Bằng Sông Hồng,phía Bắc giáp với Hà Tây, phía Đông giáp với Hưng Yên và Thái Bình, phía Đông Nam giáp với Nam Định, phía Nam giáp với Ninh Bình và chỉ có phía Tây giáp với Hoà Bình - một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc.
So với các tỉnh xung quanh, trừ Hoà Bình, Hà Nam đều có những nét tương đồng với các tỉnh còn lại như Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình về nhiều phương diện như trình độ phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên, đặc trưng văn hoá xã hội... Xuất phát từ những nét tương đồng đó, khả năng bổ xung lẫn nhau giữa Hà Nam với các tỉnh xung quanh trong quá trình phát triển của mình sẽ không lớn. Tuy nhiên, khả năng hợp tác giữa các tỉnh này trong sản xuất để đạt được tính kinh tế theo quy mô sẽ là hướng quan trọng cần quan tâm.
Với khoảng cách gần 60 km, mức độ ảnh hưởng tương tác giữa Hà Nội và Hà Nam mang tính trực diện, ở mức độ lớn và ảnh hưởng đó sẽ ngày càng lớn hơn cùng với sự phát triển của điều kiện giao thông, thông tin liên lạc và nhu cầu giao lưu của dân cư. Với vị trí trên trục giao lưu chủ yếu giữa Bắc và Nam của cả nước, Hà Nam có khả năng tiếp nhận được nhanh hơn so với nhiều tỉnh khác những ảnh hưởng cả theo ý nghĩa tích cực và tiêu cực từ bên ngoài trong quá trình phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.2. Đất đai.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 84328,5 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 47940 ha, đất lâm nghiệp chiếm 550 ha, bình quân một khẩu chỉ có 660 m2 đất nông lâm nghiệp. Đất đai của tỉnh gồm hai loại: Đất đồi và đất phù sa cổ, địa hình phức tạp, đất nông nghiệp chủ yếu là thấp, trũng, không bằng phẳng. Trong đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm 93%(chủ yếu trồng lúa, ngô, khoai, sắn), đất trồng cây lâu năm chiếm 1,4%, còn lại là đất cỏ dùng vào chăn nuôi và đất vườn liền nhà. Bình quân đất trên đầu người thấp đòi hỏi phải thâm canh, xen canh tăng vụ... để tăng sản lượng cây trồng. Nhìn chung đất đai của Hà Nam phù hợp với việc gieo trồng cây lúa và một số cây nông sản khác.
1.3. Nguồn nước.
Tài nguyên nước dồi dào là lợi thế quan trọng trong việc trồng lúa nước.Chất lượng nước của tỉnh Hà Nam được coi là tốt, không có độ xâm nhập mặn, giàu chất dinh dưỡng, thích hợp cho phát triển nông nghiệp.
Hệ thống sông ngòi chằng chịt là ưu thế lớn cho sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam. Tuy nhiên Hà Nam lại nằm trong khu vực trũng thấp của đồng bằng sông Hồng nên dễ xảy ra úng lụt nếu hệ thống tưới tiêu không đảm bảo.
1.4. Khí hậu.
Hà Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có số giờ nắng cao từ 1170-1600 giờ/năm. Lượng mưa hàng năm từ 1300 - 2200 mm. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 24,30C. Tháng nóng nhất là tháng 6, tháng 7( nhiệt độ trung bình lên tới 300C). Khí hậu Hà Nam thích hợp cho việc trồng lúa. Mùa đông lạnh khô có thể phát triển cây á nhiết đới như: rau, khoai tây. Có thể phát triển vụ đông tạo ra nhiều loại rau quả có giá trị.
2. Điều kiện xã hội.
2.1. Nguồn nhân lực.
Với dân số là 80 vạn người trong đó lao động là 384000 người (lao động nông nghiệp là 309000 người chiếm 80% lực lượng lao động). Hà Nam có nguồn nhân lực dồi dào, con người Hà Nam có trình độ và kỹ năng lao động tốt, gắn bó với nghề công. Đây là một lợi thế để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Bảng 2: Dân số Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002
Đơn vị: 1000 người
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
Thành thị
Tỷ trọng
Nông thôn
Tỷ trọng
731,4
50,4
6,89
680,5
93,11
771,6
57,6
7,47
714
92,53
779,4
60,9
7,81
718,5
92,19
786,6
62,3
7,92
724,3
92,08
792,5
62,6
7,90
729,9
92,10
809,3
63,0
7,83
734,6
92,17
815,8
64,3
7,8
751,5
92,2
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp, dân số phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn, tỷ lệ dân số đô thị khá thấp. Trong thời kỳ 1996 -2000, đồng thời với sự giảm tốc độ tăng dân số là sự giảm đáng kể tốc độ tăng của dân số nông thôn, nhưng tốc độ tăng dân số thành thị cũng bị suy giảm. Điều đó phản ánh xu hướng di chuyển của Hà Nam ra khỏi địa bàn tỉnh đang diễn ra ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Chính vì vậy, tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam vốn đã thấp lại càng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước: năm 1995 tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam là 7,41% và của cả nước là 16,66% ; năm 2000 là 7,83% và 20,14%.
Bảng 3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đơn vị: người
Năm
Nông-lâm-thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ thương mại
1996
2000
Tốc độ tăng bình quân1996-2000(%)
271.246
312.500
1,60
45.590
43.920
-0,44
28.056
32.360
1,56
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nam đã gia tăng nhanh, từ nhịp độ tăng bình quân 1,32%/năm trong giai đoạn 1991 - 1995 lên nhịp độ tăng bình quân 1,71%/năm trong giai đoạn 1996 - 2000. Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực kinh tế, trong giai đoạn 1996 -2000, tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng từ 78,65% năm 1996 lên 80,4% năm 2000, tỷ trọng lao động dịch vụ từ 8,13% lên 8,30%, trong khi đoá tỷ trọng lao động ngành công nghiệp.
Cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông của tỉnh được phát triển khá tốt so với tình trạng chung của các tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng, đặc biệt là đối với bậc học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Tuy nhiên, nếu so sánh chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam lại ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng và với cả nước.
Bảng 4: Số học sinh và tỷ trọng học sinh so với dân số năm 2000.
Phổ thông
THCN
ĐH-CĐ
CNKT
Số học sinh (người)
- Cả nước
17866673
143389
421418
134271
-Đồng Bằng Sông Hồng
3787599
36918
178308
42089
-Hà Nam
178717
1139
565
1446
Tỷ trọng so với dân số(%)
-Cả nước
23,00
0,19
0,55
0,18
-Đồng Bằng Sông Hồng
22,26
0,22
1,06
0,25
-Hà Nam
22,09
0,14
0,77
0,18
Nguồn :Số liệu thống kê cả nước - Niên giám thống kê 2001.
Như vậy, chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Về phương diện phát triển giáo dục và đào tạo, Hà Nam là tỉnh có truyền thống phát triển khá tốt và có sự vượt trội hơn so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra lợi thế so sánh của tỉnh Hà Nam so với các tỉnh khác trong vùng Đồng Bằng Sông Hồng và cả nước đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho tỉnh trong giai đoạn tới.
2.2. Cơ sở hạ tầng.
Cùng với xu hướng đầu tư và phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng của cả nước, Hà Nam đã phát triển khá tốt các điều kiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt cơ sở hạ tầng nông thôn.
Bảng 5: Các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng năm 2000.
Đơn vị:%
Cả nước
ĐB Sông Hồng
Hà Nam
1.Tỷ lệ xã có điện
2.Tỷ lệ xã có đường ô tô đến xã
3.Tỷ lẹ xã có đường ô tô đến thôn
4.Tỷ lệ xã có trường tiểu học
6. Tỷ lệ xã có trạm y tế
7.Số máy điện thoại trên 1000 dân
85,8
92,9
79,8
98,9
89,3
31,4
99,9
99,9
99,6
99,9
100
34,2
100
100
100
100
100
9,2
Nguồn: Số liệu thống kê cả nước.
Hệ thống thuỷ lợi của tỉnh tuy đã hoàn chỉnh nhưng do xây dựng đã lâu nên xuống cấp nghiêm trọng, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động. Hệ thống gioa thông thuỷ bộ trải khắp các xã, huyện nhưng cũng cần được nâng cấp. Các cơ sở thông tin, điện đã được xây dựng tương đối đến tất cả các xã. Các dịch vụ nông nghiệp đã đảm bảo phục vụ được nhu cầu của người nông dân. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật từng bước được áp dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh.
Như vậy, nếu xem các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng vừa phản ánh trình độ phát triển, vừa là những yếu tố cần thiết phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thì Hà Nam có lợi thế hơn so với mức trung bình của cả nước và của Đồng Bằng Sông Hồng.
2.3. Kinh tế xã hội
Hà Nam là một tỉnh mới được tái lập nên điểm xuất phát kinh tế thấp hơn một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, nhiều chỉ tiêu kinh tế thấp so với mức trung bình của cả nước. Cơ sở vật chất ký thuật nhỏ bé, trình độ trang thiết bị còn lạc hậu, sản phẩm làm ra kém chất lượng, sức cạnh tranh trên thị trường không cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ....Hà Nam lại nằm ở vùng trọng điểm Bắc Bộ, khu vực phát triển kinh tế với tốc đọ nhanh, tuy có điều kiện hội nhập song phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt (cả thu hút đầu tư lẫn tiêu thụ hàng hoá). Đó là những yếu tố hạn chế sự phát triển nông nghiệp trong đó có nông sản hàng hoá.
Trong giai đoạn 1996 -2002, Hà Nam đã đạt được nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm ở mức cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, nhưng do mức khởi đầu thấp và mức tăng trưởng quá thấp so với cả nước vào năm 1996, nên GDP bình quân đầu người của Hà Nam hiện nay vẫn thấp, chỉ bằng 50% so với GDP bình quân đầu người cả nước. Mức giảm về tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Hà Nam tuy khá nhanh nhưng cơ cấu giữa các ngành trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ thay đổi chút ít và trông trọt ( chủ yếu là cây lúa) vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn 1996 - 2002, mặc dù cơ cấu kinh tế của Hà Nam có chuyển nhanh, nhưng không có sự cải thiện lớn về năng lực sản xuất, chưa tạo được nhiều khả năng sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nhất là thị trường xuất khẩu.
3. Những cơ chế chính sách có liên quan.
Chỉ thị 100 về việc đổi mới hoạt động HTX và sản xuất, thực hiện khoán hộ trong nông nghiệp đã mở đầu sự đổi mới trong chính sách nông nghiệp. Nghị quyết 10/TW đã làm rõ hơn, xá lập quyền tự chủ và quyền lợi của hộ nông dân trong sản xuất.Luật đất đai năm 1993 đã xác lập quyền của hộ nông dân trên mảnh ruộng của họ trong thời hạn được giao. Luật đất đai sửa đổi năm 1998 xác định thêm những quyền cơ bản của người sử dụng đất.
Khi người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, họ tìm đến các giống cây con mới và các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất. Để đáp ứng yêu cầu này, nghị định 14/CP của chính phủ tháng 3 năm 1993 đã xác định cho hộ nông dân vay vốn và quyết định số 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/9/1999 quy định một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Cùng với các chính sách về thuế, về tín dụng, về khuyến nông... và gần đây là chính sách phát triển trang trại, các chính sách thương mại nông sản cũng được nhà nước quan tâm đổi mới : xoá bỏ tình trạng cát cứ, ngăn sông cấm chợ, mở rộng tự do lưu thông hàng hoá nông sản trong nước; mở rộng quyền xuất khẩu nông sản cho các thành phần kinh tế; tích cực chủ động hội nhập vào thương mại khu vực và quốc tế; cải tiến hàng rào thuế quan và biện pháp phi thuế quan.
III. Những thuận lợi và hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
1. Những thuận lợi để phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
Những thành tựu để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn vừa qua là những cơ sở kinh tế quan trọng trong phát triển thị trường của tỉnhvới quy mô ngày càng lớn hơn của cả cung và cầu hàng hoá, qua đó tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển các hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Về lý thuyết, sự phát triển của cung có tác động kích thích đến sự hình thành và phát triển của cầu, nhưng không phải là yếu tố quyết định đối với cầu, ngược lại, sự phát triển của cầu sẽ quyết định về quy mô và cơ cấu của cung. Trong mối quan hệ tương tác giữa cung và cầu đó, mỗi sự phát triển của yếu tố này sẽ tạo nên những ảnh hưởng lan truyền, tạo nên hiệu ứng phát triển của yếu tố khác trong giai đoạn tiếp theo. Thực tế phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nam trong giai đoạn vừa qua cho thấy đã có sự phát triển đáng kể của cả yếu tố cung và yếu tố cầu trên thị trường.
Vị trí địa lý của Hà Nam đã và đang trở thành yếu tố thuận lợi hơn cho quá trình phát triển kinh tế.Trong hoạt động thương mại, một trong những khâu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của nó là quá trình thực hiện lưu thông hàng hoá và chi phí kèm theo, đặc biệt là các chi phí cho vận chuyển và chi phí phát sinh do tổn thất trong quá trình vận chuyển. Vị trí của Hà Nam cùng với thực tế phát triển của các tuyến giao thông gắn với Hà Nam vừa qua có thể cho phép Hà Nam tiết kiệm được chi phí lưu thông hàng hoá giữa Hà Nam với các tỉnh khác.
Nguồn nhân lực và chất lượng giáo dục của nguồn nhân lực tỉnh Hà Nam đang và sẽ là lợi thế chủ yếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của Hà Nam. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thì việc phát triển nguồn nhân lực cũng trở nên cấp thiết hơn đối với các nền kinh tế và với mỗi doanh nghiệp đang và sẽ tham gia vào thị trường có tính cạnh tranh ngày càng cao. Dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nam đang có xu hướng tăng nhanh, tạo nên lực lượng lao động tương đối dồi dào và có trình độ giáo dục khá tốt.
Tuy nhiên, lợi thế này của Hà Nam cũng chỉ ở dạng tiềm năng, trong thực tế hiện nay thậm chí nó còn là áp lực đối với các nhà quản lý khi phải giải quyết việc làm có thu nhập ổn định cho người lao động. Vì vậy, để lợi thế này có thể trở thành hiện thực, Hà Nam cần tiếp tục coi trọng sự nghiệp giáo dục và quan trọng hơn là có định hướng và các chính sách thích hợp trong việc đào tạo kỹ năng, kiến thức cho người lao động và nuôi dưỡng, thu hút nhân tài vào mục tiêu phát triển chung của tỉnh.
2. Những hạn chế đối với việc phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
Khi trình độ phát triển về khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý thấp là trở ngại ban đầu kìm hãm sự phát triển của thị trường và các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, nhất là khi trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Sự sẵn có về tài nguyên hay chi phí thấp của các yếu tố đầu vào cho sản xuất có thể sẽ tạo nên sức cạnh tranh cho sản phẩm. Tính đa dạng về tài nguyên thiên nhiên của Hà Nam cũng rất hạn chế bởi độ phì của đất thấp, độ trũng của mặt bằng sản xuất không đồng đều gây khó khăn cho việc mở rộng quy mô sản xuất.
Bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế đã đạt được, Hà Nam còn đang đứng trước rất nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội. Nền kinh tế địa phương vẫn đang ở điểm xuất phát thấp so với các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và so với mức bình quân chung của cả nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh sẽ gặp không ít khó khăn, bởi vì Hà Nam không có nhiều nguồn tài nguyên cho phép chuuyển dịch nhanh chóng cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế. Chỉ tiêu huy động ngân sách từ GDP, khả năng tích luỹ đầu tư từ GDP của tỉnh trong nhiều năm qua luôn ở tình trạng thấp so với các tỉnh trong vùng và cả nước.
Chương II
Tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
I. tổng quan tình hình kinh tế của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002.
1.Thực trạng phát triển kinh tế của Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng, sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nam liên quan mật thiết với phát triển khu vực, đặc biệt là các tỉnh lân cận như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Hưng Yên. Nông nghiệp vẫn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các tỉnh lân cận Hà Nam, thể hiện tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn chiếm từ 43% - 50%. Cơ cấu kinh tế mang tính thuần nông độc canh. Số lao động đang sinh sống và làm việc ở nông thôn ở các tỉnh này chiếm trên 85%. Trong số lao động thường xuyên làm việc ở nông thôn thì có tới 80% số lao động làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong giai đoạn 1996-2002, tình hình kinh tế -xã hội của Hà Nam ổn định và có bước tăng trưởng khá: GDP tăng bình quân 9,1%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 1,6 lần so với năm 1996, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, trật tự xã hội được đảm bảo, quốc phòng an ninh được giữ vững. Cơ cấu kinh tế dần được chuyển dịch đúng hướng: giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Hà Nam đạt 8,1%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nước ( đạt 7,04%/năm) trong giai đoạn 1996-2002. Tuy nhiên, GDP tính bình quân đầu người của Hà Nam so với của cả nước trong giai đoạn này lại có xu hướng giảm rõ rệt, từ tỷ lệ 58,78% so với cả nước năm 1995 còn 49,48% vào năm 2002.
Bình quân trong giai đoạn 1996 -2000 công ty lương thực Hà Nam xuất khẩu được 10.000-15.000 tấn gạo một năm. Trong đó gạo trên địa bàn tỉnh với số lượng nhỏ, năm 1998 xuất bán cho IRắc được 1.000 tấn, năm 2000 xuất bán được 2000 tấn.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, Hà Nam cũng đạt được tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn so với cả nước. Trong giai đoạn 1996-2002, tốc độ tăng trưởng GDP của lĩnh vực công nghiệp - xây dựng đạt bình quân 20,52%/năm, của dịch vụ là 5,9%/năm và của nông nghiệp là 4,1%/năm. Do vậy, tỷ trọng trong GDP của lĩnh vực nông nghiệp đã giảm tới trên 11% và của công nghiệp, xây dựng tăng trên 12% trong giai đoạn 1996-2000, trong khi đó của cả nước tương ứng chỉ là gần 3% và 8%. Tuy nhiên, nền kinh tế Hà Nam chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp.
Bảng 5: Cơ cấu GDP của Hà Nam và cả nước.
(giá hiện hành )
Đơn vị:%
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1.Hà Nam
-Nông nghiệp
-Công nghiệp -XD
-Dịch vụ
100
52,64
16,26
31,1
100
49,58
18,83
31,59
100
48,29
19,11
32,6
100
48,00
20,05
31,95
100
43,65
25,69
30,66
100
41,31
28,51
30,18
2.Cả nước
Nông nghiệp
-Công nghiệp -XD
-Dịch vụ
100
27,2
28,8
49,0
100
27,8
29,7
42,5
100
25,8
32,1
42,1
100
25,8
32,6
41,6
100
25,4
34,5
40,1
100
24,3
36,6
39,1
Nguồn: Số liệu thống kê cả nước và Hà Nam.
Trong cơ cấu GDP của tỉnh, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 52,64% năm1996 xuống còn 43,65% năm 2000 và 41% năm 2002. Tuy giảm tỷ trọng trong cơ cấu GDP nhưng giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp ngày một tăng, cơ sở vật chất hạ tầng của nông thôn được cải thiện đáng kể, bộ mặt nông thôn ngày càng dổi mới thể hiện:
- Sản xuất nông nghiệp liên tục được mùa và năm sau cao hơn năm trước. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng bình quân 6,1%/năm, sản xuất lương thực đạt cao cả về tổng sản lượng và năng suất. Năm 2001 năng suất lúa đã vượt 10tấn/ha/năm. Từ tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có lương thực dự trữ và xuất khẩu.
-Bước đầu đã tạo được nhiều mô hình trồng cây nông nghiệp ngắn ngày, cây lương thực có giá trị kinh tế cao, mô hình chăn nuôi gia đình,mô hình vườn cây ăn quả đặc sản gắn với phủ xanh đất trống, đồi trọc theo chương trình 327 làm tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong ngành nông nghiệp.
- Chăn nuôi được duy trì và phát triển. Tốc độ phát triển đàn gia súc, gia cầm hàng năm tăng từ 2,7%-6,3%, sản lượng thuỷ sản có tốc độ tăng hàng năm từ 6,6%-15,4%.
-Gắn xây dựng mô hình vườn cây ăn quả, đặc sản, mô hình trồng cây công nghiệp, cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao, mô hình chăn nuôi gia đình với chương trình xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh giỏi đã góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo trong khu vực nônh thôn từ 15,3% năm 1997 xuống còn 10% năm 2002.
-Cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, cơ sở hạ tầng nông thôn được quan tâm và đầu tư đúng mức. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được củng cố phù hợp với lực lượng sản xuất và cơ chế chính sách mới.
Tuy nhiên phát triển nông nghiệp Hà Nam vẫn còn một số tồn tại: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành chưa rõ nét theo hướng CNH-HĐH; Chưa có vùng sản xuất tập trung, hiệu quả sản xuất còn thấp; đã có nhiều loại hàng hoá nông sản nhưng chất lượng thấp, số lượng chưa nhiều; tiêu thụ sản phẩm còn kém và đặc biệt là chưa có công nghiệp chế biến hàng nông sản.
2.Tình hình phát triển ngành nông- lâm- ngư nghiệp.
Nông- lâm - ngư nghiệp là lĩnh vực kinh tế chủ yếu của Hà Nam hiện nay, chiếm tới trên 40% trong GDP của tỉnh. Trong giai đoạn 1996-2000, trong lĩnh vực sản xuất này, tốc độ tăng giá trị sản lượng cao nhất thuộc về ngành thủy sản ( bình quân tăng 9,0%/năm), tiếp đến là ngành lâm nghiệp (7,0%/năm ) và thấp nhất là ngành nông nghiệp (3,65%/năm). Điều đó đã mang lại sự thay đổi về cơ cấu giá trị sản lượng của các ngành sản xuất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do giá trị sản lượng của các ngành sản xuất lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nên sự thay đổi về cơ cấu không lớn và tỷ trọng của ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tới trên 96% trong tổng giá trị sản lượng chung.
Bảng 6: Cơ cấu giá trị sản lượng
nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh Hà Nam.
Đơn vị:%
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
1. Nông nghiệp
2. Lâm nghiệp
3.Thuỷ sản
100
97,21
1,17
1,62
100
96,29
1,63
2,08
100
96,67
1,43
1,9
100
96,4
1,33
2,27
100
96,64
1,34
2,02
Nguồn: Số liệu thống kê Hà Nam.
Trong sản xuất nông nghiệp, giá trị sản lượng trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo số liệu năm 2002, trồng trọt chiếm 76,54%, chăn nuôi chiếm 22,56% và dịch vụ chỉ chiếm 0,9% trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1996 - 2002 của giá trị trồng trọt cũng đật được cao nhất với 3,7%/năm, tiếp đến là 3,23% /năm và dịch vụ là 3,28%. Như vậy, trong nông nghiệp vẫn có xu hướng thiên về sản xuất các sản phẩm trồng trọt.
Bảng 7: Hệ số giữa giá trị sản lượng nông nghiệp tăng
thêm và tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của tỉnh Hà Nam.
Đơn vị: %
1997
1998
1999
2000
2001
2002
._.
Các ngành nông nghiệp
-Trồng trọt
-Chăn nuôi
-Dịch vụ
62,26
67,54
47,45
36,00
63,00
67,59
49,86
35,00
63,53
68,10
51,04
35,00
63,37
67,11
50,97
35,67
63,11
67,06
50,07
35,67
63,24
67,09
50,45
35,23
Nguồn số liệu thống kê Hà Nam .
Cùng với xu hướng nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta trong những năm qua, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp của Hà Nam đã được nâng lên.
Trong nhóm hàng nông sản, các mặt hàng xuất khẩu chính của Hà Nam bao gồm: gạo, lạc nhân, đay tơ, long nhãn...Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng thường không ổn định qua các năm và chiếm tỷ lệ nhỏ so với sản lượng sản xuất trừ mặt hàng lạc nhân xuất khẩu.
II. Thực trạng sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
1. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ gạo.
Lúa gạo được trồng tại khắp các huyện, thị trong tỉnh với diện tích, năng suất và sản lượng năm sau cao hơn năm trước.
Bảng 8: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của Hà Nam
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
1997
70.973
40,53
287.665
1998
73.366
46,62
343.336
1999
74.332
48,89
363.431
2000
75.036
51,10
383.453
2001
75.823
52,2
395.796
2002
76.256
52,8
402.632
Nguồn : Cục thống kê Hà Nam. Trong vòng vài năm trở lại đây, năm 2002 so với năm 1997: Diện tích tăng 7,4%, năng suất tăng 30,3%, sản lượng tăng 39,9%.Năng suất lúa tăng cao là do thời tiết thuận lợi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên dẫn đến sản lượng tăng .Diện tích trồng lúa nhiều nhất là huyện Bình Lục, sau đó đến huyện Thanh Liêm, ít nhất là thị xã Phủ Lý . Năng suất lúa cao nhất là huyện Duy Tiên sau đó đến Lý Nhân và thấp nhất là thị xã Phủ Lý.
Cùng với việc tăng sản lượng lúa gạo, sản lượng các cây màu khác cũng tăng, tạo nên sự gia tăng về lương thực của cả tỉnh. Hiện nay Hà Nam đã có lương thực dự trữ và bước đầu có lương thực hàng hoá khoảng vài ngàn tấn nhưng lại nằm rải rác trong các hộ nông dân, thuận lợi cho việc bảo quản nhưng lại khó cho việc thu gom .
Năng lực chế biến lúa gạo của tỉnh còn hạn chế. Chỉ có một số dây chuyền xay xát lúa gạo để tiêu thụ trong tỉnh với công nghệ thô sơ và lạc hậu. Chất lượng chế biến chưa cao, tỷ lệ gạo nguyên hạt đạt 45-48%, dân đến hiệu quả kinh tế thấp. Năm 2002, để nâng chất lượng gạo xuất khẩu, công ty lương thực Hà Nam đã lắp đặt dây chuyền xay xát, đánh bóng gạo để xuất khẩu với số vốn đầu tư trên 1 tỷ đồng.
Bảng 9: Khối lượng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
Nông sản chính
Đơn vị tính
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Lương thực
1000 tấn
327,5
345,0
358,7
365
Thịt các loại
1000 tấn
16,3
15,5
12,8
10,5
Trứng các loại
Triệu quả
74,8
77,6
82,5
87,6
Rau xanh
1000 tấn
762
765
768
770
Quả tươi
1000 tấn
7,5
9,8
12,5
13,8
Lạc
1000 tấn
1,2
1,3
1,5
1,8
Nguồn : Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nam.
Việc tiêu thụ gạo của Hà Nam chủ yếu được thực hiện trong nội địa. Một phần gạo của Hà Nam được bán cho các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, một phần bán cho Hà Nội. Việc tiêu thụ gạo trong nội địa chủ yếu thông qua các tư thương, công ty lương thực Hà Nam tiêu thụ một phần. Trong năm 1998 công ty lương thực Hà Nam cũng đã xuất khẩu được hơn 1000 tấn gạo của Hà Nam thông qua tổng công ty lương thực miền Bắc .
Các hạn chế trong việc xuất khẩu , chế biến, tiêu thụ gạo của Hà Nam:
-Hà Nam có nhiều loại thóc gạo, có rất ít giống đạt chất lượng cao. Giống còn chạy theo năng suất và phù hợp với đồng đất trũng.
-Giá thành sản xuất gạo của tỉnh cao hơn giá thành của một số tỉnh lân cận do điều kiện đất đai, trình độ thâm canh. Việc tiêu thụ bị động do sản lượng lúa gạo ít. Thêm vào đó, nông dân trong tỉnh còn nặng về tâm lý tích trữ lúa gạo đề phòng lúc thất bát. Vì vậy rất khó cho việc thu mua và tiêu thụ lúa gạo.
-Trong tỉnh chưa có quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo, còn do hộ nông dân mạnh ai người nấy làm. Chưa có hệ thống thu mua thóc gạo từ tỉnh xuống đến xã. Tình trạng phân tán trong sản xuất và lưu thông là những trở ngại chính cho việc tiêu thụ lúa gạo của tỉnh.
-Công nghệ và thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu của chế biến gạo, phương tiện vận chuyển còn thô sơ. Mấy năm nay do được mùa liên tiếp nên mới có lương thực để trở thành hàng hoá. Cần phải có những chính sách để khuyến khích sản xuất, chế biến và tiêu thụ lúa gạo của tỉnh.
2.Sản xuất, chế biến và tiêu thụ đay.
Đay được trồng nhiều ở vùng bãi đồi ven sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên, Lý Nhân và một số vùng thuộc huyện Bình Lục.Trong mấy năm gần đâydiện tích đay ổn định khoảng 800 ha, sản lượng đay của tỉnh tăng lên do được mùa đay.
Bảng 10: Diện tích, sản lượng đay của Hà Nam .
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
1999
822
1828
2000
807
2339
2001
831
2376
2002
795
2432
Nguồn: Cục thống kê Hà Nam
Hà Nam là một trong những tỉnh trồng nhiều đay của cả nước. Hàng năm lượng đay của Hà Nam khoảng 2000 tấn dưới dạng đay tơ và đay bẹ. Việc bảo quản chủ yếu thực hiện trong các hộ dân. Đay của Hà Nam được bán chủ yếu cho hai nhà máy đay của Nam Định và Thái Bình để sản xuất bao tải đay đóng hàng nông sản xuất khẩu.
Trong việc sản xuất và tiêu thụ đay của tỉnh Hà Nam có một số vấn đề nổi lên:
-Chất lượng đay của tỉnh ta chưa đảm bảo do giống cũ, kỹ thuật chế biến kém và thiếu nước sạch.
-Thị trường nguyên liệu đay thất thường, phụ thuộc chủ yếu vào việc xuất khẩu các loại nông sản khác của cả nước như: cà phê, hạt điều, lạc...
-Việc sản xuất đay chủ yếu do tập quán và điều kiện đất đai của từng vùng huyện, xã. Việc sản xuất trồng trọt đay trong mấy năm qua đã đem lại hiệu quả kinh tế hơn trồng lúa. Việc trồng đay chủ yếu để tận dụng đất đai ở các bãi ven sông Hồng và tận dụng lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn.
-Quan hệ cung cầu về mặt hàng đay hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Giữa các nhà máy chế biến đay và các hộ nông dân chưa có sự ràng buộc, chưa có sự phối hợp chặt chẽ để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đay cho người nông dân. Vì vậy diện tích trồng đay cá xu hướng hẹp
3.Sản xuất, chế biến và tiêu thụ lạc.
Diện tích và sản lượng lạc của Hà Nam trong giai đoạn này đều tăng, năm sau tăng so với năm trước. Lạc được trồng nhiều ở 2 huyện Kim Bảng và Duy Tiên. Diện tích và sản lượng lạc của 2 huyện Kim Bảng và Duy Tiên chiếm gần 3/4 diện tích và sản lượng lạc của cả tỉnh. So với các tỉnh lân cận thì Hà Nam là tỉnh có diện tích trồng lạc và sản lượng lạc thấp nhất.
Bảng 11: Diện tích, sản lượng lạc của Hà Nam qua các năm.
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích (ha)
Sản lượng(tấn)
1999
692
920
2000
754
1327
2001
949
2084
2002
1042
2062
Nguồn : Cục thống kê Hà Nam
Trước đây tại Hà Nam có xí nghiệp ép dầu hoạt động có hiệu quả trong cơ chế bao cấp, nhưng những năm gần đây sản phẩm ép dầu, dầu lạc không đảm bảo chất lượng, khó cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả không có nên xí nghiệp đã chuyển hướng kinh doanh.
Với sản lượng trên 2000 tấn lạc vỏ một năm, tiêu dùngtrong dân chiếm khoảng 40%còn lại là lạc hàng hoá. Số lượng lạc hàng hoá một phần được bán cho các đơn vị ép dầu, một phần cho tiêu dùng hàng ngày của người dân. Nhìn chung cây lạc là cây trồng có hiệu quả kinh tế nhưng vì diện tích đất đai của Hà Nam ít, đặc điểm cây lạc thích nghi với từng loại đất nhất định, do đó việc mở rộng diện tích trồng lạc phải có thời gian để cải tạo đất và lựa chọn giống.
Một số hạn chế trong việc sản xuất, tiêu thụ lạc ở Hà Nam:
-Chưa có giống lạc phù hợp với đất đai, vỏ lạc còn dày, hạt teo nhăn nhiều, năng suất chưa cao. Chưa có giống lạc phù hợp với thị hiếu tiêu dùng -Chủ yếu là tiêu thụ nội địa nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Chưa có thị trường xuất khẩu trực tiếp, chủ yếu xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc.
-Sản phẩm tiêu thụ chủ yếu là thô và sơ chế với chất lượng chưa đảm bảo. Công nghệ chế biến gần như chưa có gì. Ngoài cây lạc, đỗ tương cũng được trồng ở nhiều nơi trong tỉnh. Huyện Lý Nhân và huyện Duy Tiên là hai huyện trồng nhiều đỗ tương nhất (trong năm 2000). Tổng diện tích và sản lượng đỗ tương của cả tỉnh trong mấy năm gần đây đều tăng. Thị trường tiêu thụ chủ yếu của Hà Nam là nội địa, nhìn chung công nghệ chế biến đỗ tương của tỉnh ta chưa có gì. Trong thời gian tới nếu muốn nâng cao hiệu quả sản xuất của đỗ tương thì phải cải tạo giống và quy hoạch thành vùng sản xuất.
4. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau quả.
4.1. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ các loại rau.
Diện tích trồng rau và sản lượng rau của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn này tương đối ổn định. Diện tích trồng rau khoảng 6000 ha -7000 ha, sản lượng rau khoảng 70.000 - 85.000 tấn trong một năm. Các loại rau có địa bàn gieo trồng khác nhau và thị trường tiêu thụ khác nhau.
* Khoai tây:
Khoai tây được trồng nhiều ở Duy Tiên, Lý Nhân. Là cây vụ đông, khoai tây được trồng trên diện tích từ 1.300-1.500 ha. Sản lượng những năm gần đây khoảng 14.000 tấn. Trước đây khoai tây, ngoài tiêu dùng trong nội địa thường được xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu. Từ ngày thị trường Đông Âu và Liên Xô tan rã, khoai tây của tỉnh ta chủ yếu tiêu dùng trong nội địa.
* Cây dưa chuột:
Hà Nam có điều kiện để phát triển việc sản xuất dưa chuột. Trong những năm gần đây dưa chuột được trồng nhiều ở Lý Nhân, Duy Tiên và Kim Bảng.
Năm 2000, diện tích trồng dưa chuột của tỉnh đã lên trên 200 ha, năng suất trung bình khoảng 20 tấn/ha.
Giống dưa chuột gồm nhiều loại: Dưa bao tử, dưa ta, dưa Nhật....Dưa chuột là loại cây vụ đông có giá trị tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay tỉnh Hà Nam chưa có cơ sở chế biến dưa chuột. Ngoài nhu cầu thay thế rau xanh hàng ngày, dưa bao tử và dưa chuột ta được bán cho các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu ở Nam Định và Hưng Yên để đóng hộp (lọ) xuất khẩu sang thị trường các nước: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo...Dưa chuột Nhật được bán cho các công ty xuất nhập khẩu của Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương để muối sơ chế xuất khẩu cho Nhật ( các đơn vị này có hệ thống bể muối sơ chế dưa với vốn đầu tư trên một tỷ đồng cho một cơ sở muối ). Dưa chuột xuất khẩu là mặt hàng có hiệu quả, nếu so với trồng lúa thường gấp khoảng 3 lần. Nhưng do thị trường còn hạn chế, cơ sở chế biến chưa có do đó chưa nhân ra diện rộng được.
* Nấm:
Nấm là loại " rau sạch" được sản xuất với nguyên liệu rẻ tiền ( rơm rạ ). Nấm được sản xuất ở nhiều địa phương với khả năng tận dụng lao động và tăng thu nhập cho người nông dân. Đây là mặt hàng có hiệu quả, đang mở ra triển vọng lớn. Nhu cầu sử dụng nấm ngày một nhiều ở cả trong và ngoài nước. Hiện nay Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và công ty xuất nhập khẩu - Du lịch và đầu tư xây dựng Hà Nam đã phối hợp với Viện Di truyền Nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để chuyển giao công nghệ trồng nấm và đang nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Chắc chắn trong những năm tới việc sản xuất nấm sẽ phát triển đáp ứng nhu cầu của cả trong và ngoài nước.
Ngoài ra, Hà Nam còn có thể trồng hàng loạt các loại rau khác như: cải bắp, hành tỏi, bí xanh,... để cung cấp cho nhu cầu rau xanh ngày càng tăng của cuộc sống và được tiêu thụ ở một số đô thị.
4.2 Về sản xuất, chế biến và tiêu thụ các loại quả:
Điều kiện Hà Nam có thể trồng nhiều loại cây ăn quả có giá trị. Diện tích và sản lượng cây ăn quả mấy năm gần đây đều tăng. Giá trị do cây ăn quả đem lại ngày một lớn. Diện tích trồng cây ăn quả năm 1999 là 3.659 ha tăng 92% so với năm 1996.
Bảng12: Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả
Diện tích(ha)
Cam, quýt, bưởi
Dứa
Nhãn, vải
1996
460
22
533
1997
493
20
573
1998
471
19
1515
1999
481
18
1762
Sản lượng(tấn)
1996
3068
92
1642
1997
3429
80
3325
1998
3322
76
7738
1999
3826
78
9775
* Cam, quýt, bưởi:
Diện tích trồng cam, quýt, bưởi nhìn chung ổn định, sản lượng hàng năm được trên 3000 tấn.
Cam, quýt, bưởi được trồng nhiều ở Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng và Thanh Liêm.
Việc tiêu thụ cam, quýt, bưởi chủ yếu phục vụ đời sống nhân dân trong tỉnh và các đô thị lân cận Hà Nam.
* Dứa:
Trước đây dứa được trồng nhiều ở khu vực đất đồi thuộc Kim Bảng, Thanh Liêm với sản lượng khoảng 100 tấn/năm.
Trong thời gian qua việc tiêu thụ dứa gặp nhiều khó khăn nên diện tích dứa bị thu hẹp. Hiện nay dứa có khả năng phát triển và mở rộng vì có hai nhà máy chế biến đồ hộp của Nam Định và Tam Điệp đang rất cần nguyên liệu dứa.
* Nhãn vải:
Diện tích và sản lượng của nhãn vải trong mấy năm gần đây đều tăng. Năm 1999 so với năm 1996: diện tích tăng 230%, sản lượng tăng gần 5 lần. Nhãn vải được trồng nhiều ở Kim Bảng, Duy Tiên và Lý Nhân. Ngoài việc tiêu thụ trong nước, nhãn vải của Hà Nam được xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Long nhãn là mặt hàng xuất khẩu truyền thống, có giá trị. Trước đây có năm Hà Nam xuất khẩu được 300 tấn long nhãn.
* Chuối:
Chuối được trồng nhiều trong các hộ nông dân trong tỉnh, chưa thành vùng tập trung, rất khó thu gom trở thành hàng hoá.
Thị trường tiêu thụ chuối chủ yếu trong nội địa. Trong những năm qua, cũng có thời kỳ Trung Quốc có nhu cầu về chuối xanh và Hà Nam tham gia xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch thông qua các tư thương nhưng số lượng không lớn.
Ngoài ra, Hà Nam còn có loại chuối đặc sản gọi là chuối ngự được trồng nhiều ở Hoà Hậu (Lý Nhân). Tuy nhiên loại chuối này khó có thể nhân rộng được vì chỉ chất đất của vùng Hoà Hậu mới trồng và duy trì được chất lượng của chuối.
Rau quả Hà Nam rất đa dạng và phong phú, song cũng có một số hạn chế trong việc sản xuất và tiêu thụ:
+ Các giống rau quả được sử dụng đại trà hiện nay có năng suất thấp, không ổn định, hình dáng kích thước và độ chín không đồng đều rất khó cho việc bảo quản, tiêu thụ dặc biệt là xuất khẩu.
+ Việc sản xuất rau quả do các hộ nông dân đảm nhiệm khó thu gom trở thành hàng hoá. Cơ sở sản xuất và lưu thông rau quả còn lạc hậu, thiếu phương tiện hiện đại, thiếu phương tiện vận chuyển và bảo quản.
+ Không có cơ sở chế biến nên khi vận chuyển đi tiêu thụ sẽ giảm chất lượng, tỷ lệ hư hỏng cao.
+ Mạng lưới tiêu thụ hàng rau quả hầu như chưa có gì. Nông dân phải tự sản tự tiêu do vậy thường xảy ra mất cân đối cung cầu về rau quả, giá cả lên xuống thất thường (nhất là lúc thời vụ) độ rủi ro trong sản xuất và kinh doanh rau quả cao.
+ Chưa hình thành vùng nguyên liệu từ phía các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ rau quả.
+ Tâm lý người nông dân còn chạy theo năng suất, xem nhẹ chất lượng sản phẩm, không thực hiện đúng quy trình sản xuất.....dễ làm giảm giá trị sản phẩm.
5. Về chăn nuôi, chế biến, tiêu thụ gia súc, gia cầm, thuỷ sản:
Trong những năm qua, nghành chăn nuôi cũng được tỉnh Hà Nam quan tâm tạo điều kiện phát triển. Tỷ lệ mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi trong nông nghiệp Hà Nam dần dần giảm xuống. Số lượng hầu hết các loại gia súc , gia cầm đều tăng.
Bảng 13: Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm qua các năm
( Đơn vị tính: Ngàn con)
Năm
Trâu
Bò
Lợn
Gia cầm
1996
10,1
23,8
229,0
1788,3
1997
8,8
23,9
245,9
1966,7
1998
7,8
23,4
251,6
2033,4
1999
6,5
24,9
268,2
2311,6
Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Hà Nam
- Đối với đàn trâu:
Trong những năm gần đây số lượng trâu giảm dần do áp dụng kỹ thuật cơ giới vào khâu làm đất. Năm 1996 đến năm 1999, tổng đàn trâu giảm 36%. Trâu được nuôi tương đối đồng đều ở các huyện trong tỉnh nhưng nhiều nhất ở Lý Nhân. Việc chăn nuôi trâu chủ yếu lấy sức kéo và lấy thịt.
- Đối với đàn bò:
Tổng số đàn bò qua mấy năm gần đây tương đối ổn định khoảng 24.000 con. Việc chăn nuôi bò cũng tương đối đồng đều ở các huyện trong tỉnh. Bò được chăn nuôi chủ yếu để lấy thịt. Huyện nuôi bò nhiều nhất là Lý Nhân. Thịt bò cũng được tiêu thụ chủ yếu trong nội địa, tại các trung tâm đô thị.
- Về đàn lợn:
Chăn nuôi lợn, ngày càng được chú ý hơn và có xu thế phát triển mạnh. Hàng năm tổng đàn lợn của tỉnh đêu tăng.
Lợn được nuôi nhiều ở Bình Lục và Lý Nhân. Nhìn chung nuôi lợn đều lãi nhưng mức độ lãi không cao.
Năm 1999, với tổng số đàn lợn 268.200 con cho số lượng thịt hơi 19.500 tấn, đã đủ cung cấp thịt lợn cho nhân dân trong tỉnh và bán ra cả tỉnh ngoài. Thị trường tiêu thụ thịt lợn của Hà Nam chủ yếu là Hà Nội và các đô thị. Hiện nay chưa có một doanh nghiệp nào trong tỉnh đứng ra tổ chức tiêu thụ thịt lợn cho nông dân.
Trong mấy năm qua có một lượng lợn sữa dù hạn chế được thu mua tại địa bàn tỉnh Hà Nam đem xuống giao cho công ty cổ phần chế biến nông sản xuất khẩu Nam Định để chế biến sau đó xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông.
- Về gia cầm:
Sản lượng gia cầm của tỉnh ta trong mấy năm qua đều tăng. Năm 1999 so với năm 1996 tăng 29% (năm 1999 số lượng gia cầm là 2311,6 ngàn con). Gia cầm được nuôi tương đối đồng đều trong các huyện. Ngoài lấy thịt việc chăn nuôi gia cầm còn cho chúng ta một lượng trứng đáng kể tăng chất lượng bữa ăn hàng ngày. Việc tiêu thụ gia cầm chủ yếu trong nội địa tại các trung tâm, thị xã, đô thị..
Nhìn chung về chăn nuôi gia xúc, gia cầm có những hạn chế sau:
+ Chưa có tập quán và công nghệ chăn nuôi hiện đại.
+ Chất lượng sản phẩm gia súc gia cầm không cao, không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Giá thành chăn nuôi cao, người nông dân chỉ lấy công làm lãi.
+ Sản xuất còn đơn lẻ, do các hộ nông dân đảm nhận vì vậy rất khó khăn cho tiêu thụ.
+ Giống, con năng suất thấp, khả năng lựa chọn giống mới yếu.
+ Vốn đầu tư cho chăn nuôi còn ít dẫn đến khả năng đột phá trong chăn nuôi gia súc, gia cầm chậm.
+ Chưa có cơ sở chế biến hiện đại đáp ứng yêu cầu thị trường.
- Về nuôi trồng thuỷ sản:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh ta trong vài năm qua đều tăng. Sản lượng năm 1999 đạt 4.120 tấn so với năm 1996 là 39%. Thuỷ sản chủ yếu của ta là cá, tôm nước ngọt. Lý Nhân là huyện có sản lượng thuỷ sản cao nhất (1200 tấn năm 1999) sau đó đến Duy Tiên. Việc tiêu thụ thủy sản chủ yếu là thị trường trong nước. Hiện nay có một số giống cá nhập ngoại như: Rô phi, trê phi đơn tính...đã được nhiều cơ sở sản xuất. Ngoài ra có một lượng nhỏ ba ba, ếch, lươn được nuôi sau đó bán tại Hà Nội một số ít được xuất khẩu sang Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch. Nhìn chung ngành thuỷ sản còn rất nhỏ yếu manh mún.
6. Đánh giá tổng quát về tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
6.1 Những thành tựu trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản của Hà Nam.
- Hà Nam là một tỉnh có các điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai và nguồn nước phù hợp cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, sản xuất hàng hoá. Có vị trí địa lý thuận lợi giao thông thuận tiện cho lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước.
- Hà Nam có nguồn nhân lực dồi dào. Con người Hà Nam cần cù siêng năng có trình độ và kỹ năng lao động lại rất gắn bó với nghề nông. Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp đã phát triển lâu đời có trình dộ thâm canh cao lại được từng bước áp dụng những thành tựu khoa học ký thuật hiện đại tiên tiến vào sản xuất.
- Có sự quan tâm thường xuyên, sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh các cấp, các nghành và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Hà Nam thành nghành sản xuất hàng hoá.
- Các hộ nông dân đã thấy được vai trò của khoa học kỹ thuật nên đã tích cực chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao năng suất, sản lượng.
- Dù với số lượng hàng hoá nông sản hạn chế nhưng các thành phần kinh tế đã tích cực tìm kiếm trị trường tiêu thụ đồng thời khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh để sản xuất đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
6.2. Những hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Hiện nay sản xuất của tỉnh Hà Nam là sản xuất nhỏ, trên cơ sở các hộ nông dân, rất nhiều trở lực cho sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Các phương thức trồng trọt, chăn nuôi, cơ cấu sản xuất chủ yếu vẫn theo truyền thống cũ, việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghiệp còn hạn chế. Năng suất cây trồng vật nuôi vẫn còn thấp, giá thành nông sản cao.
+ Chưa có vùng sản xuất hàng hoá nông sản, nông dân sản xuất theo mô hình kinh tế quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, kinh tế trang trại chưa phát triển.
+ Nông dân chưa nhận thức đầy đủ về sản xuất hàng hoá, còn nặng nề tâm lý tiểu nông, chỉ thấy lợi ích trước mắt, chưa nghĩ tới lợi ích lâu dài.
+ Hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh, phương thức hợp tác, con người thực hiện, tiếp thị... chưa có nhiều đổi mới. Chưa có hệ thống thu mua,lưu thông hàng hoá nông sản.
+ Có nhiều loại hàng hoá nông sản song số lượng ít và chất lượng không ổn định. Chưa có hàng hoá nông sản chủ lực của tỉnh. Lượng hàng hoá dư thừa trong dân không đủ lớn lại phân tán, gây khó khăn cho việc tiêu thụ.
+ Cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến bảo quản còn hạn chế, gây nhiều khó khăn trong lưu thông bảo quản hàng hoá nông sản.
+ Hàng hoá nông sản của tỉnh thường được tiêu thụ dưới dạng thô sơ hoặc sơ chế, chất lượng chưa đảm bảo, vì vậy thường có giá trị thấp.
+ Đã có một số doanh nghiệp đưa vốn đầu tư cho nông dân song vì lợi ích trước mắt nông dân đã tự ý bán sản phẩm ra thị trường nếu thấy giá cao hơn giá trong hợp đồng đã ký. Doanh nghiệp bị phá vỡ hợp đồng đã ký với khách hàng ngoại và dẫn đến nhiều tác hại: Bị mất khách hàng, phạt hợp đồng... từ đó dẫn đến việc dân thiếu vốn mà doanh nghiệp không dám đầu tư.
+ Thiếu vốn cho việc mở rộng sản xuất, đặc biệt cho sản xuất nông sản xuất khẩu cũng như đầu tư cho chế biến.
+ Các thành phần kinh tế thực hiện lưu thông, tiêu thụ còn non yếu về nhiều mặt. Công tác thị trường, tiếp thị... chưa thực sự được quan tâm. Đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường, tiếp thị còn yếu và thiếu.
Chương III
Các giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến
năm 2010
I. Định hướng sản xuất hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010
1. Những căn cứ để xác định thi trường thị trường hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
1.1. Những căn cứ để xác định thị trường.
Việc xác định thị trường hàng hoá nông sản của Hà Nam từ nay đến năm 2010 được căn cứ vào một số yếu tố sau đây:
- Căn cứ vào thực trạng sản xuất tiêu thụ nông sản của Hà Nam trong những năm vừa qua, tiềm năng phát triển nông nghiệp Hà Nam.
- Căn cứ vào khả năng phát triển của công nghiệp chế biến ở Đồng bằng sông Hồng.
- Căn cứ vào những dự báo về tình hình thị trường nông sản thế giới và khả năng xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, những dự báo về thị trường nông sản trong nước giai đoạn từ nay đến năm 2010 đặc biệt thị trường khu vực đồng bằng sông Hồng.
Ngoài những căn cứ cơ bản trên việc xác định thị trường nông sản Hà Nam từ nay đến năm 2010 còn dựa vào một số những thông tin khác như định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam, quy hoạch vùng và các chủ trương chính sách định hướng về kinh tế đối ngoại...
Một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến nông nghiệp như thời tiết, sự tác động của các ngành được xem như thay đổi không lớn.
1.2.Một số chỉ tiêu dự báo về tình hình sản xuất nông nghiệp Hà Nam từ nay đến năm 2010.
Theo "Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Hà Nam thời kỳ 2000 -2010", ngành nông nghiệp phát triển theo một số nội dung sau :
-Cây lương thực chủ yếu là: lúa, ngô, khoai. Phát triển sản xuất lúa theo hướng sản xuất hàng hoá.Dự báo đến năm 2010 sản lượng lương thực đạt 500.000 tấn, trong đó khoảng 100.000 - 150.000 tấn lúa hàng hoá xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhịp độ tăng sản lượng lương thực giai đoạn từ nay đến năm 2010 khoảng 4%/năm. phấn đấu năng suất lúa đạt 12 tấn/ha/năm.
-Đối với cây rau quả như bắp cải, cà rốt, cà chua, nhãn, chuối, hồng....Cần mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia thị trường xuất khẩu.
Bảng 14: Dự báo sản lượng một số hàng hoá nông sản của Hà Nam.
Sản phẩm
Đơn vị tính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Lúa
Tấn
375.000
390.075
415.000
Ngô
Tấn
27.000
33.600
37.000
Khoai lang
Tấn
30.000
33.620
36.000
Rau
Tấn
75.900
88.350
105.000
Đay
Tấn
2.400
2.400
2.500
Thịt lợn
Tấn
20.000
22.700
28.000
Trứng
1000 Quả
56.000
75.000
95.000
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nam.
Các sản phẩm nông nghiệp của Hà Nam từ nay đến năm 2010 đơn điệu về chủng loại, khối lượng sản phẩm không lớn. Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nam thời kỳ 2000 - 2010 đã đưa ra một số những vấn đề về cải tạo giống cây, giống con cho phù hợp nhằm tạo tạo ra nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu và hiệu quả cao cho người sản xuất.
2. Định hướng chung về thị trường của các hàng hoá nông sản Hà Nam đến năm 2010.
2.1. Thị trường trong nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2010 thị trường trong nước đặc biệt là thị trường khu vực đồng bằng sông Hồng vẫn là thị trường chủ yếu để tiêu thụ hàng hoá nông sản Hà Nam. Nhu cầu về hàng hoá nông sản ở thị trường khu vực này rất lớn để đáp ứng cho tiêu dùng cư dân và đáp ứng nguồn nguyên liệu cho một số nhà máy chế biến nông sản trong khu vực. Hà Nam có vị trí địa lý thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá, cách thị trường Hà Nội không xa. Đây là điều kiện thuận lợi để giẩm bớt chi phí vận chuyển hàng hoá.
Nhu cầu về hàng hoá nông sản ở thị trường đô thị trong khu vực rất lớn và đa dạng, đặc biệt là thị trường Hà Nội. Diễn biến của thị trường này phức tạp, cùng với Hà Nam còn có các tỉnh lân cận cung cấp nông sản cho trị trường nên khả năng cạnh tranh gay gắt, giá cả luôn có xu hướng giảm đặt biệt là lúc thời vụ. Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản Hà Nam rất khó khăn vì giá thành sản xuất của nông sản Hà Nam thường cao hơn so với giá thành sản xuất các mặt hàng cùng loại của các tỉnh trong khu vực.
Mặt hàng chính để cung cấp cho thị trường này bao gồm: gạo, thịt lợn, thịt gia cầm, trứng, cá, đặc sản (ba ba, dê núi, lươn); mặt hang rau quả tươi, cây cảnh...Yêu cầu về chất lượng rất cao, ngon và sạch phù hợp với thi hiếu của người thành thị. Hà Nam cần tạo ra mặt hàng trái vụ đặt biệt là những mặt hàng đặt sản như hồng, chuối ngự, quýt...để tiêu thụ thì hiệu quả sẽ cao hơn.
Nhu cầu về nông sản làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thì Hà Nam chưa có cơ sở chế biến lớn nên khối lượng nông sản làm nguyên liệu của Hà Nam hết sức nhỏ so với khả năng sản xuất, phụ thuộc hoàn toàn vào các cơ sở chế biến nên thiếu chủ động trong sản xuất. Các nhà máy chế biến nông sản của các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội vẫn là thị trường của nông sản Hà Nam để tiêu thụ các mặt hàng như: dưa, đay tơ, chuối xanh, thịt lợn, lợn sữa. Dung lượng của thị trường phụ thuộc vào khả năng xuất khẩu của các nhà máy này, xu hướng trong giai đoạn nay sẽ tăng dần, giá cả thị trường thường xuyên biến động không có lợi cho người sản xuất.
Như vậy, trong giai đoạn từ nay cho đến năm 2010, thi trường trong nước đặc biệt là thị trường đô thị vẫn giữ vai trò quan trọng đối với hàng hoá nông sản của Hà Nam.
2.2. Thị trường nước ngoài.
Từ việc nghiên cứu thị trường thế giới và những khả năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam cho thấy: Khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông sản của Hà Nam đến năm 2010 còn rất hạn chế về khối lượng và chủng loại vì không có những mặt hàng chủ lực có lợi thế cạnh tranh cao. Do đó hàng nông sản chưa thể vươn ra các thị trường "khó tính" như thị trường EU, Mỹ La Tinh mà chỉ có thể tham gia các thị trường trong khu vực ASEAN, các nước Châu á và thị trường các nước Đông Âu với khối lượng nhỏ, sản phẩm chủ yếu là dạng thô để làm nguyên liệu chế biến. Hình thức xuất khẩu chủ yếu bằng con đường tiểu ngạch, xuất uỷ thác, xuất trực tiếp không nhiều mặt hàng chủ yếu là gạo, rau quả và thịt lợn.
Một số thị trường chủ yếu Hà Nam có thể tham gia xuất khẩu :
* Thị trường các nước Châu á:
- Thị trường Trung Quốc: Hà Nam cũng như một số tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng rất gần với thị trường trung Quốc, đây là thị trường tiêu thụ rất lớn hàng hoá nông sản của Việt Nam. Do Việt Nam và Trung Quốc chưa có hiệp định thương mại nên việc buôn bán hay bị rủi ro. Hà Nam chỉ có thể xuất khẩu sang Trung Quốc bằng con đường tiểu ngạch với các sản phẩm chủ yếu sau: long nhãn, nhãn khô, đậu nành, chuối xanh, lợn sữa.
- Thị trường Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN: Hà Nam cá thể tham gia xuất khẩu các sản phẩm như lạc,dưa chuột, chuối xanh,lợn sữa, thịt lợn. Các sản phẩm này xuất sang các nước trên thông qua các cơ sở sơ chế trong nước, chủ yếu là uỷ thác xuất khẩu. Trong giai đoạn này các cơ sở kinh doanh của Hà Nam phải tiếp cận thị trường để ký hợp đồng xuất khẩu trực tiếp thì hiệu quả mới cao, mới có khả năng mở rộng sản xuất cho nông nghiệp.
* Thị trường các nước Đông Âu:
Nhiều nông sản hàng hoá của Hà Nam rất phù hợp với thị trường này đặc biệt là rau quả, thịt lợn, thịt gia cầm, trứng . .song hiện nay do sự bất ổn về tình hình kinh tế chính trị nên chưa thể mở rộng thị trường khu vực này. Để chuẩn bị cho việc tham gia thị trường này Hà Nam cần phải chuẩn bị cho việc quy hoạch vùng sản xuất, đổi mới cơ cấu cây trồng và vật nuôi thích hợp. Ngoài những thị trường trên hàng hoá nông sản Hà Nam từ nay đến năm 2010 có thể có cơ hội tham gia một số thị trường khác nhưng khối lượng xuất khẩu không lớn.
Tóm lại: Việc tiêu thụ hàng hoá nông sản của Hà Nam trên thị trường thế giới từ nay đến năm 2010 còn hết sức khó khăn với nhiếu trở ngại lớn như khối lượng hàng hoá nhỏ chất lượng chưa phù hợp,không có cơ sở chế biến trực tiếp và những điều kiện về thương mại khác. Song về mặt chiến lược thị trường cho nông sản Hà Nam vẫn là hướng về xuất khẩu. Chỉ có xuất khẩu mới có khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp Hà Nam.
3. Định hướng thị trường cho một số mặt hàng nông sản chính.
3.1. Mặt hàng gạo:
Hà Nam là một tỉnh thuần nông nên mặt hàng gạo có vị trí quan trọng. Dự báo đến năm 2010, Hà Nam có 500.000 tấn thóc, khối lượng lúa hàng hoá là 100.000-150.000 tấn. Tính ra gạo khoảng 65.000-100.000 tấn.
- Thị trường trong nước: Gạo đặc sản như gạo tám, gạo nếp chủ yếu tiêu thụ ở thị trường Hà Nội. Đây là thị trường có nhu cầu lớn đối với gạo đặc sản nhất là vào các dịp lễ tết. Đối với một số loại gạo bình thường tiêu thụ ở các tỉnh miền núi phía bắc như: Yên Bái, Lai Châu, Cao Bằng...
- Thị trường ngoài nước: Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu cho các nước như: Malaixia, Inđônêsia, Băng la đét, Philipin, Nhật bản và một số nước Trung Đông. Hiện nay nhà nước đã bỏ quản lý hạn ngạch đối với mặt hàng gạo, khuyến ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0314.doc