Tài liệu Nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBank): LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh kể từ sau khi thực hiện chính sách mở cửa 1986. Và trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của tất cả các lĩnh vực đều cao. Do sự tất yếu của quá trình Quốc tế hóa, toàn cầu hóa nên nước ta không ngừng mở của hội nhập kinh tế Thế giới. Đặc biệt, năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO, vào một sân chơi rộng lớn như vậy đó vừa là cơ hội, cũng là thách thức lớn đối với nước ta. Một trong những khó khăn quan trọng là sự cạnh tranh khốc liệt của các qu... Ebook Nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBank)
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốc gia từ bên ngoài vào trong tất cả các lĩnh vực. Trong đó phải kể đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng, hiện nay hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam phát triển khá rộng cả bề dài lẫn bề sâu. Trong những năm vừa qua, lợi nhuận của hệ thống NHTM Việt Nam liên tục gia tăng, tuy nhiên song hành cùng với những khoản lợi nhuận đó luôn tiềm tàng những rủi ro rất lớn. Một trong những rủi ro mang tính truyền thống và đặc trưng của nghành ngân hàng đó là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng xảy ra kéo theo rất nhiều hậu quả nghiêm trọng. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi nhưng làm thế nào để quản lý được nó, hạn chế được nó luôn là câu hỏi lớn luôn được các nhà làm ngân hàng quan tâm. Vì thế, em đã chọn đề tài: “Nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBank)” với mong muốn có thêm những hiểu biết về lĩnh vực này cũng như đóng góp một phần nhỏ vào công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng ngoài quốc doanh. Thúc đẩy hệ thống ngân hàng nói riêng, nền kinh tế của đất nước nói chung trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
PHẦN I: NHỮNG VẪN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NHTM.
1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế của một quốc gia. Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào tình hình phát triển của hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế của nước đó. Song nhìn chung NHTM thường là ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô, thị phần. . . trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Từ khi hình thành đến nay ngân hàng luôn khuyến khích mọi thành phần trong xã hội gửi tiền tiết kiệm với lãi suất hợp lý. Thực tế cho thấy, có hàng triệu cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ, người cất giữ tiền bạc cho toàn xã hội , mặt khác ngân hàng cũng chính là tổ chức cho vay đối với tất cả các thành phần trong xã hội. Ngân hàng thực hiện cùng lúc hai chức năng vừa nhận gửi tiền, vừa cho vay đối với mọi thành phần. Tùy từng mục đích khác nhau mà các đối tượng đi gửi, đi vay khác nhau. Ví như: cá nhân và các hộ gia đình thường là đối tượng gửi tiền tiết kiệm cho ngân hàng nhiều nhất. Các doanh nghiệp thì ngược lại, là đối tượng gửi tiền vào ngân hàng ít hơn về số lượng nhưng lại là đối tượng vay ngân hàng với khoản vay lớn và thường xuyên hơn nhiều. Điều này cũng dễ hiểu, cá nhân chủ yếu nhờ ngân hàng giữ hộ tiền còn doanh nghiệp luôn cần vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh. Ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua bán hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. . .ngân hàng có thể cung cấp những khoản tín dụng với các hình thức khác nhau nhằm đáp ứng cho mọi thành phần. Ngân hàng còn thiết lập ra các phương tiện thanh toán như sec, thẻ tín dụng,tài khoản điện tử. . . mà thông qua nó khách hàng thực hiện nhanh chóng và hiệu quả cao hơn.
Ngân hàng cón có thể tư vấn giúp khách hàng về việc lập kế hoạch tài chính, kinh doanh, các thông tin tài chính. Ngân hàng cho Chính phủ vay các khoản tín dụng (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính vừa là kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Ngân hàng có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nó đựơc định nghĩa tùy theo những góc độ khác nhau thông quan các chức năng, nhiệm vụ, dịch vụ và vai trò mà chúng thực hiện trong từng lĩnh vực.
Một khái niệm chung nhất : Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Song khái niệm này chưa thể hiện được ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Một trong những cách tiếp cận và xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
2. Chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai đối tượng cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập nên họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Do đó thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giứa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hùn vốn.
Trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến kích tiết kiệm; đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) dẫn đến khuyến khích đầu tư. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gắn chịu rủi ro và sử dụng Các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rỉu ro hơn cho ngưới gửi tiền.Thực tế các ngân hàng tham gia kinh doanh rủi ro.Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Thêm một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đấnh giá các cộng cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận.Các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm gữi. Giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Tiền giấy đã trở thành phương tiện thanh toán phổ biến.
Bằng việc cho vay hay tạo tín dụng các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán phục vụ nhu cầu cho mọi đối tượng khách hàng.
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc nhờ thu các loại thẻ. . . cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
3.1. Khái niệm về hoạt động tín dụng
Tín dụng có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm và trong thực tế, tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng nghĩa phổ biến nhất là quan hệ vay mượn giữa bên cho và bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc cộng lãi cho bên vay khi đến hạn. Song khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định (tín dụng ngân hàng) thì tín dụng chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Vì vậy khi nói đến tín dụng ngân hàng ta hiểu đó là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc có hoàn trả gốc lãi.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
3.2. Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước. Ngân hàng cung cấp nhiều hình thức tín dụng khác nhau cho khách hàng nhằm mục đích thỏa mãn tối ưu nhu cầu khách hàng.
Tùy theo mục tiêu cũng như yêu cầu của khách hàng mà có các hình thức tín dụng như sau:
Phân loại theo mục đích của tín dụng
Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp
Cho vay tiêu dung cá nhân
Cho vay bất động sản
Cho vay nông nghiệp
Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
Phân theo thời hạn tín dụng: phân theo góc độ này có ý nghĩa rất lớn đối với ngân hàng vì thời gian liên quan đến mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Tín dụng ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay này là tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc cho vay theo mức hạn, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Tín dụng trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị…
Tín dụng dài hạn: Là loại cho vay thời hạn trên 5 năm nhằm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay… các dự án có giá trị lớn có thời hạn sử dụng lâu.
Phân loại theo hình thức tài trợ tín dụng:
Chiết khấu thương phiếu
Cho vay
Cho thuê
Bảo lãnh
Phân loại dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Cho vay không đảm bảo:
Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh cho người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có đảm bảo:
Là loại cho vay dựa trên cơ sỏ các đảm bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba nào khác.
Phân loại theo dòng tiền cho vay
Cho vay bằng nội tệ
Cho vay bằng ngoại tệ
Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay
- Cho vau chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn.
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
- Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
3.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
3.3.1 Đối với nền kinh tế
Vốn luôn là một yếu tố rất quan trọng và nó quyết định việc thực hiện mục tiêu của cá nhân, doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này phải cần đến sự hỗ trợ của ngân hàng.Với hình thức cho vay ngân hàng không những thu được lợi nhuận mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngoài ra, với việc vay vốn phải đảm bảo hoàn trả đủ gốc và lãi theo đúng thời hạn đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực tìm tòi các giải pháp kinh doanh nhằm tăng nhanh chóng vòng quay của vốn. Do vậy mà hoạt động kinh tế trở nên nhộn nhịp hơn, cạnh tranh hơn.
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại một nhóm người hay một tổ chức có tiền nhàn rỗi, còn một nhóm tổ chức hay cá nhân khác lại thiếu vốn để phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, vì vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò trung gian để giải quyết việc ứ đọng vốn ở nơi này, bù đắp thiếu hụt ở nơi khác. Từ nguồn lợi nhuận thu được thông qua hoạt động tìn dụng đã thúc đẩy ngân hàng đẩymạnh hơn nữa công tác huy động vốn và do đó góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong dân cư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Có thể nói tín dụng ngân hàng là sự liên kết giữa tiết kiệm và đầu tư.
Doanh nghiệp thường chủ động lựa chọn cho mình những lĩnh vực đầu tư mang lại hiệu quả nhất tuy nhiên xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì cần có sự cân đối trong cơ cấu giữa vùng lãnh thổ, giữa các ngành trong nội bộ nền kinh tế, đặc biệt là giữa các ngành kinh tế mũi nhọn và các ngành kinh tế còn kém phát triển nhưng cần thiết cho nền kinh tế. Cũng với mục tiêu này, tín dụng ngân hàng thông qua chính sách tín dụng, lãi suất sẽ là đòn bẩy kích thích đầu tư phát triển góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu quốc tế. Thông qua việc tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp nhận, thay đổi những công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị hiện đại giúp tăng năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh, tăng uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự phát triển của doanh nghiệp xuất khẩu cũng sẽ tác động đến sự phát triển của ngoại thương, các dịch vụ thanh toán quốc tế sẽ phát triển mạnh mẽ và sự hợp tác quốc tế được mở rộng.
3.3.2 Đối với ngân hàng cấp tín dụng
Tín dụng là mạng hoạt động quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Trước hết, hoạt động tín dụng là hoạt động tiền tệ cho sự ra đời của các NHTM, là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, khoảng 70% thu nhập của ngân hàng là do hoạt động tín dụng mang lại. Cụ thể, trong bảng tài sản của ngân hàng có đến 2/3 “tái sản có” là các khoản cho vay, vì vậy việc duy trì và mở rộng hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn đối với các NHTM. Thực hiện tốt chức năng tập trung huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất quan trọng song nếu ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở rộng tín dụng thì nguồn vốn ngân hàng sẽ ứ đọng lại, sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, việc ngân hàng phát triển thêm các hoạt động khác như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tư vấn…và kết quả là ngân hàng vừa tăng được nguồn vốn, vừa phát triển các dịch vụ, tăng thu nhập và phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
4. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
4.1. Khái niệm, đặc điểm của rủi ro tín dụng
4.1.1.Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng.
4.1.2.Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là tất yếu trong hoạt động ngân hàng
Trong bất kỳ họat động kinh doanh nào ở mọi lĩnh vực đều có khả năng xảy ra rủi ro.Vì vậy, rủi ro tín dụng cũng là điều không thể tránh khỏi trong ngân hàng.Khi thực hiện một tài trợ nào ngân hàng đều phân tích xem độ an toàn đối với khoản tín dụng đó có cao hay không để từ đó đưa ra quyết định có nên cung cấp khoản tín dụng đó hay không.Và nhìn chung ngân hàng chỉ cho vay khi thấy an toàn. Song không một ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác cái gì sẽ xảy ra trong tương lai. Chính vì thế mà khả năng xảy ra rủi ro cao cũng là điều hết sức bình thường trong thực tế. Điều đáng quan tâm là hạn chế, phòng ngừa cái rủi ro tín dụng đó có thể xảy ra.
Rủi ro tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với các loại rủi ro khác của ngân hàng
Tín dụng cũng là một phần hoạt động của hệ thống ngân hàng. Vì thế khi rủi ro tín dụng xảy ra nó ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động khác của ngân hàng.Từ đó kéo theo các rủi ro khác nhau như rủi ro trong thanh khoản. . .của ngân hàng.
4.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Phân loại rủi ro theo phương diện quản lý:
Rủi ro có thế kiểm soát được
Là rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể gay ra nó, ước tình được mức độ ảnh hưởng của nó, dự kiến đượ thời gian sinh ra nó, từ đó có những biện pháp hợp lí để phòng ngừa, hạn chế những tổn thất mà nó có thể gay ra xuống tới mức tối thiểu có thể được. Những rủi ro tín dụng loại này thường di chủ quan con người gây ra, hay cụ thể hơn là do khách hàng hoặc do chính bản than ngân hàng tự gây ra cho mình. Tuy nhiên khách hàng thường là người chủ yếu gây ra loại rủi ro này.
Rủi ro không thể kiểm soát được
Là loại rủi ro tín dụng mà các ngân hàng không thể dự đoán trước được, không thể biết chúng sẽ xảy ra vào thời điểm nào, cũng không thể tính toán được một cách cụ thể, chính xác những ảnh hưởng mà chúng gây ra. Những rủi ro thuộc loại này thường không gây ra mà chủ yếu do những bất lợi thuộc về các yếu tố thiên nhiên gây ra như hạn hán, mất mùa, lũ lụt…
Các ngân hàng thương mại thường phải tập trung vào để ngăn chặn, hạn chế những rủi ro có thể kiểm soát được, còn rủi ro không thể kiểm soát được thì chỉ có cách chống đỡ khi chúng xảy ra.
Phân loại theo tính chất rủi ro:
Rủi ro sai hẹn
Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không hoàn trả gốc và lãi tiền vay đúng hẹn như trong hợp đồng.
Rủi ro mất vốn
Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không hoàn trả gốc tiền vay một cách đầy đủ như trong hợp đồng.
Dù phân chia theo cách nào đi chăng nữa thì rủi ro tín dụng cũng là một điều không mong muốn, luôn mang lại những tổn thất đối với tất cả các ngân hàng.
4.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
4.3.1.Từ các nhân tố vĩ mô
- Môi trường pháp lý
Đây là nhân tố quan trọng có khả năng gây ra rủi ro cao đối với tín dụng. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ, chưa đáp ứng kịp thới trong kinh doanh. Bên cạnh đó ý thức tuân thủ pháp ly của các đối tượng tham gia kinh doanh chưa cao. Dẫn đến không đảm bảo một môi trườn kinh doanh không lành mạnh. Vì thế sẽ tạo ra nhỉều lỗ hổng để kẻ xấu lợi dụng.
Môi trường kinh tế
Ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của tất cả đối tượng tham gia. Một khi môi trường kinh tế ổn định sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả. Dẫn đến khả năng trả nợ vay của các đối tượng cao hơn, giảm thiểu rủi ro tín dụng trong ngân hàng.
Môi trường xã hội
Là một nhân tố lớn ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, đạo đức xã hội. Chính vì thế khả năng rủi ro tín dụng là hoàn toàn có thể xảy ra.
- Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, những thay đổi ở tầng vĩ mô như thay đổi chính phủ, thay đổi trong chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…vuợt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xày ra tác động liên tục với người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khác phục những khó khăn.
4.3.2.Nguyên nhân từ phía khách hàng
Người vay có thể không có trình độ, hoặc trình độ yếu kém trong quản lý, chủ định lùa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì trong việc trả nợ là nguyên nhân dẫn đến rủ ro tín dụng. Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả thi thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Để đặt được mục đích của mình nhiều khách hàng không tuân theo các quy định, cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn của ngân hàng. Vì thế họ đưa ra các thủ đoạn khác nhau và đã gây ra nhiều rủi ro tín dụng cao đối với các ngân hàng.
4.3.2.Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Tùy vào chiến lược kinh doanh của mình mà mỗi ngân hàng đưa ra mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau.
- Áp lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng : hiện nay hầu hết các NHTM hoạt động tín là hoạt động mang lại nguông thu chủ yếu cho ngân hàng, do vậy để tăng trưởng tín dụng nhiều ngân hàng đã áp dụng các biện pháp cạnh tranh bằng cách lới long các điều kiện tín dụng. Điều này làm tăng rủi ro tín dụng
- Hệ thống thông tin khách hàng chưa đủ tính cập nhật và chính xác: Thông tin về khách hàng là một trong những yếu tố gây ra rủi ro trong hoạt động tín dụng. Vì vậy cần phải xác định chính xác thông tin từ phía khách hàng.
- Chất lượng cán bộ tín dụng: Do sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng trong ngân hàng . Cán bộ tín dụng không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Họ cần phải được đào tạo kỹ lưỡng, liên tục toàn diện. Bên cạnh đó có một bộ phận cán bộ ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng chức quyền của mình để tham ô, hối lộ, làm sai nguyên tắc.
- Cơ chế, chính sách của các ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cao trong tín dụng.
4.3.4. Nguyên nhân khác.
Những nguyên nhân khác có thể dẫn tới rủi ro tín dụng như: Sự biến động lớn của lãi suất. Tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát quá cao, khủng hoảng kinh tế, môi trường pháp lý chưa đầy đủ và chặt chẽ, do các hoạt động rủi ro chua phát triển.
4.4. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rất nghiêm trọng, nó gây ra nhiều hậu quả đối với rất nhiều đồi tượng.Vì thế ngân hàng phải có biện pháp hạn chế chúng có thể dựa trên những dấu hiệu của rủi ro tín dụng để thực hiện tốt hơn.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổnh dư nợ
- Nợ có vấn đề
- Tính đa dạng của tài sản
- Tình hình tài chinh và phương án, xếp hạng tín dụng của ngân hàng
- Quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng
- Đảm bảo tiền vay
- Môi trường họat động của người vay
4.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng
4.5.1.Đối với ngân hàng thương mại
- Rủi ro tín dụng làm tăng chi phí, giảm thu nhập của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng một mặt không thu được tiền lãi cho vay (giảm thu nhập), mặt khác theo quy định của các NHTM còn phải tiến hành trích lập dự phòng tín dụng, việc trích lập này làm tăng chi phí của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng kéo theo rủi ro thanh khoản, có thể làm ngân hàng mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản.
Rủi ro tín dụng đặt ngân hàng trước nguy cơ mất vốn. Đặc biệt trong trường hợp tài sản đảm bảo của người vay mất giá trên thị trường, khi đó việc thanh lí tài sản đảm bảo sẽ không đủ để ngân hàng thu hồi vốn. Nhiều khoản tín dụng như vậy sẽ khiến ngân hàng mất vốn và không thể thanh toán được các khoản tiền gửi khi đến hạn, điều này đặt ngân hàng đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán (gặp rủi ro thanh toán) và đứng bên bờ vực phá sản.
- Rủi ro tín dụng làm suy giảm uy tín của ngân hàng
Đây là hệ quả của việc ngân hàng mất khả năng thanh toán. Không ai muốn gửi tiền vào một ngân hàng mà khi cần lại không thể rủi tiền ra. Một NHTM phải mất rất nhiều thời gian để xây dựng được cho mình uy tín và thương hiệu, nhưng khi mất khả năng thanh toán (mà nguyên nhân sâu xa là do rủi ro tín dụng) NHTM đó sẽ mất hết uy tín với khách hàng.
- Rủi ro tín dụng làm xấu đi mối quan hệ của ngân hàng với người vay
Điều này rất dễ hiểu, khi một khách hàng trong lịch sử quan hệ với ngân hàng đã từng để xảy ra tình trạng nợ quá hạn hoặc không trả được nợ, sẽ không một ngân hàng nào muốn cho khách hàng đó vay tiền.
4.5.2. Đối với nền kinh tế
Một khi rủi ro tín dụng xảy sẽ ảnh hưởng lớn hoạt động kinh doanh của ngân hàng . Từ đó gây ra sự khó khăn trong tài chính đối nền kinh tế. Nền kinh tế sẽ mất đi động lực vươn lên.
5. Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
5.1. Khái niệm, các loại tín dụng và định lượng, định tính của quản lý rủi ro tín dụng
5.1.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng là một trung gian tài chính thể hiện thông qua việc là đầu mối liên kết các chủ thể của nền kinh tế với nhau. Khi thực hiện vai trò của mình ngân hàng của thể phải gánh chịu rủi ro từ nhiều phía khác nhau và đặc biệt là rủi ro tín dụng. Vì thế quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng là điều tất yếu.
Như vậy có thể hiểu: Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động ngân hàng rơi vào tình trạng đổ vỡ.
5.2. Sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất trong hoạt động ngân hàng. Nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào.
- Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng ngân hàng là một vấn đề rất nhạy cảm và chứa đựng rất nhiều rủi ro. Hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hóa cao, nó liên quan chặt chẽ tới hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế từ cá nhân cho tới doanh nghiệp, từ các tổ chức xã hội cho tới Nhà nước. Chính mối quan hệ có tính liên kết này mà chỉ ảnh hưởng nhỏ trong hoạt động ngân hàng cũng có thể gây nên những tác động lớn tới cả nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và dung nguồn vốn huy động được này để thực hiện cho vay. Rủi ro tín dụng xảy ra se làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu tình trạng này bị kéo dài đến một giai đoạn nào đó sẽ khiến cho dân chúng hoang mang, mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng, những tin đốn thất thiệt sẽ lan truyền tạo nên một làn song rút tiền ồ ạt. Điều này sẽ khiến cho hàng loạt ngân hàng rơi vào tình trang khó khăn, xấu hơn nữa là sự đổ vỡ hàng loạt của ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Hậu quả tất yếu sẽ diễn ra chính là sự khúng hoảng xã hội, kinh tê, chính trị nặng nề. Dù sau đó khi hệ thống ngân hàng có được phục hồi thì chắc chắn cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn cho phát triển kinh tế. Kết quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế không thể phát triển, xã hội bị rối loạn.
- Đối với ngân hàng cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng và nó quyết định sự tồn tại cũng như phát triển của ngân hàng.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, trước tiên nó sẽ gây ra những khoản nợ khó thu hồi, vốn của ngân hàng sẽ không thể quay vòng, lãi không thể thu. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó đòi sẽ phát sinh ra các khoản chi phí giám sát, thu nợ… Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút.
Ngân hàng bao giờ cũng lên kế hoạch cân đối giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào tại các thời điểm được xác định sẵn trong tương lai. Khi các khoản vay không thu lại được như kế hoạch sẽ dẫn tới sự mất cân đối này sẽ gây ra sự suy yếu và hạn chế cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán cho các khoản tiền ra. Khả năng thanh toán xẽ bị giảm sút nếu ngân hàng không kịp thời đi vay hoặc bán tài sản của mình để chi trả.
Nếu tình trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng tái diễn qua nhiều lần, hay những thông tin về rủi ro tín dụng của nội bộ ngân hàng bị rò rỉ ra bên ngoài thì uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ giảm sút. Điều tất yếu theo đó là khả năng cạnh tranh của ngân hàng cũng sẽ yếu đi, do đó việc huy động tiền gửi sẽ gặp nhiều khó khăn, việc thiết lập các giao dịch với các doanh nghiệp và các ngân hàng khác cũng chắc chắn sẽ không được thuận lợi. Uy tín đối với khách hàng là một tài sản vô hình hết sức quý giá của ngân hàng, một khi đã mất đi thì khó có thể lấy lại hoặc nếu có thì cũng sẽ phải tốn nhiều tiền của cũng như thời gian.
Nếu mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chịu đựng được thì ngân hàng có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì sự bù đắp của các quỹ dự phòng cũng không thể thay đổi được tình hình. Thu nhập không thể bù đắp được chi phí, các dòng tiền vào không thể cân xứng với các dòng tiền ra, ngân hàng nhanh chóng mất khả năng thanh toán, điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHTW.
Như vậy, rủi ro tín dụng dù xảy ra ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì vậy quản lý tín dụng không chỉ là trách nhiệm của riêng ngân hàng mà là toàn nền kinh tế. Thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng sẽ làm giảm tổn thất cho ngân hàng cũng như nền kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng.
5.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
a. Nhận biết rủi ro tín dụng
Đây là công việc rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến các bước tiếo theo của quá trình quản lý rủi ro.Việc nhận biết rủi ro tín dụng phải được tiến hành, xem xét một cách tổng thể đối với mọi khoản vay nói chung và trên mọi giai đọan dựa trên mọi dấu hiệu có liên quan đối với mọi khoản vay nói chung.
b. Đo lường rủi ro tín dụng đối với một ngân hàng
Đây là các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của ngân hàng, nó cho phép các nhà quản trị phản ánh được tình hình rủi ro tín dụng ở ngân hàng của mình và từ đó để có các biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Bao gồm:
Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ khoản, xóa nợ
Tỷ lệ miễm giảm lãi
Tỷ trọng nợ khó đòi
c.Các biện pháp hạn chế tổn thất khi có rủi ro xảy ra
- Trích lập quỹ dự phòng rủi ro
- Mua bảo hiểm tín dụng
- Phân tán rủi ro
d.Công cụ quản lý rủi ro của tín dụng ngân hàng thương m._.ại
5.3.4.1.Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có lien quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tiến hàng tài trợ cho khách hàng. Một quy trình tín dụng hợp lý, thống nhất sẽ giúp cán bộ tín dụng quản lý khoản vay một cách chặt chẽ, tránh sự chủ quan, tùy tiện, duy ý chí. Về cơ bản, một quy trình tín dụng được chia làm 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi cho vay.
Giai đoạn trước khi cho vay
Công việc cần làm trong giai đoạn này là phân tích tín dụng trước khi cho vay. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn, uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận, nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Việc xem xét hồ sơ khách hàng càng được tiến hành cẩn thận bao nhiêu càng giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro đáng tiếc bấy nhiêu. Nội dung phân tích bao gồm:
+ Đánh giá tổng thể về khách hàng và phương án trả nợ
+ Khả năng trả nợ tiền vay và biện pháp quản lý
+ Kiểm soát của ngân hàng về nguồn tiền trả nợ của khách hàng
+ Khả năng đảm bảo tiền vay và biện pháp quản lý, kiểm soát của ngân hàng về tài sản đảm bảo tiền vay
Giai đoạn trong khi cho vay
Sau khi hợp đồng tín dụng được kí kết, vốn vay đã được giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát khách hàng theo các nội dung sau:
+ Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, tiến độ không
+ Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ không.
+ Các khoản tiền lãi có được trả đúng hạn không
…
Công việc này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về khách để quản lý chặt chẽ hơn món vay của mình. Nếu các thông tin phản hồi có chiều hướng tốt điều đó sẽ cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi nhận thấy khoản vay đang đứng trước nguy cơ rủi ro cao, ngân hàng có các biện pháp xử lý kịp thời.
Giai đoạn sau khi cho vay
Nội dung cần làm trong giai đoạn này là thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng thấy những trục trặc trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm hiểu nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng.
5.3.4.2.Chính sách tín dụng
Bao gồm các quy định về cho vay của ngân hàng:
Chính sách khách hàng
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
Lãi suất và phí suất tín dụng
Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
Các khoản đảm bảo
Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
Chính sách đối với các tài sản có vấn đề
Kết luận: Rủi ro nói chung là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Rủi ro tín dụng trong ngân hàng là một loại rủi ro phát sinh do khách hàng mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó. Khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay thì đó mới chỉ là thực hiện giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi về được khoản cho vay cả gốc lẫn lãi. Do đó, rủi ro tín dụng xảy là điều không thể tránh khỏi và đem lại nhiều tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải có các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng xảy ra. Đó chính là quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng. Hoạt động này rất phức tập, muốn thành công phải kết hợp nhiều yếu tố với nhau.
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH (PVBANK).
1. Tổng quan về VPBank
1.1. Sự hình thành và phát triển của VPBank
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh VIệt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động 0042/ NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VIệt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian họat động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu họat động từ ngày 40/09/1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993.
Khi mới thành lập thì vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ VNĐ. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBANK đã tăng vốn điều lệ nhiều lần. Đến tháng 8 năm 2006 vốn điều lệ của VPBANK đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9 năm 2006, VPBANK nhận được chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC- một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank tăng trên 1.000 tỷ đồng. Vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng vào tháng 7 năm 2007. Hiện nay vốn điều lệ của VPBank đã là 2.000 tỷ đồng.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, VPBank mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn. Trong năm 2005, VPBank mở thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ. . . Cũng trong năm 2005, VPBank đã nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo . . .Năm 2006, VPBank tiếp tục được NHNN cho mở thêm Phòng Giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và Phòng Giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế . . . Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản; Công ty Chứng Khoán.
Tính đến tháng 8 năm 2006, Hệ thống VPBank có tổng cộng 37 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 21 Chi nhánh và 16 phòng giao dịch tại các Tỉnh, Thành phố lớn của đất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang và 2 Công ty trực thuộc. Năm 2006, VPBank mở thêm các Chi nhánh mới tại Vinh (Nghệ An); Thanh Hóa, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương; Đồng Nai, Kiên Giang và các phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên toàn Hệ thống của VPBank lên 50 chi nhánh và phòng giao dịch. Hiện tại VPBank đã có 90 Chi nhánh và Phòng giao dịch hoạt động tại 34 tỉnh, thành trên cả nước.
Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay có trên 2.600 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách sắp tới khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự.
Kể từ khi thành lập đến nay VPBank không ngừng mở rộng và còn tiếp tục phát triển các chi nhánh cả nước. VPBank ngày càng khẳng định vị trí của mình là một trong những Ngân hàng bán lẻ hàng đầu
1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của VPBank
1.2.1. Chức năng
Huy động vốn ngắn hạn, dài hạn và trung hạn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
Cho vay vốn ngắn hạn, dài hạn và trung hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của Ngân hàng.
Kinh doanh ngoại hối
Dịch vụ thanh toán quốc tế
Chiếu khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác.
Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng.
Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế.
Các dịch vụ Ngân hàng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.2.Nhiệm vụ
Trở thành Ngân hàng đô thị đa năng, hoạt động theo phương châm: lợi ích của khách hàng là trên hết; lợi ích của người lao động được quan tâm; lợi ích của cổ đông đựơc chú trọng; đóng góp có hiệu quả váo sự phát triển của cộng đồng.
Đối với khách hàng: VPBank cam kết thỏa mãi tối đa lợi ích của khách hàng trên cơ sở cung cấp cho khách hàng các sản phẩm và dịch vụ phong phú, đa dạng và đồng bộ, nhiều tiện ích, chi phí cạnh tranh.
Đối với nhân viên: VPBank quan tâm đến dời sống vật chất và tinh thần của nhân viên và đảm bảo cho nhân viên mức thu nhập ổn định, mang tính cạnh tranh cao trong thị trường lao động nghành tài chính ngân hàng.VPBank đảm bảo các cán bộ nhân viên thường xuyên được nâng cao trình độ nghiệp vụ, phát triển đầy đủ các quyền lợi về chính trị, văn hóa . . .
Đối với cổ đông: VPBank quan tâm và cố gắng năng cao giá trị cổ phiếu, duy trì mức cổ tức cao hằng năm. . .
Đối với cộng động: VPBank cam kết thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Ngân hàng Nhà nước, quan tâm chăm lo đến công tác xã hội, từ thiện để chia sẻ khó khăn của cộng đồng.
- VPBank phấn đấu năm 2010 trở thành Ngân hàng bán lẻ dẫn đầu khu vực phía Bắc, đồng thời là Ngân hàng trong top năm của cả nước và một Ngân hàng có tầm cỡ của khu vực Đông Nam Á về chất lượng, hiệu quả và độ tin cậy.
1.2.3.Đặc điểm
Là một ngân hàng bán lẻ và theo đuổi chiến lược bán lẻ:
Thể hiện: VPBank cung cấp những sản phẩm dịch vụ cho từng phân đoạn khách hàng.Do đó, đòi hỏi sự thâm nhập sâu vào thị trường để tìm hiểu và thỏa mãn tối đa nhu cầu đa dạng của từng phân đoạn khách hàng cụ thể. Ngân hàng VPBank sẽ phát huy thế mạnh năng động và linh hoạt trong việc biến đổi bản thân để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu đa dạng đó của thị trường.
- VPBank phục cụ đối tượng khách hàng chủ yếu là các ngân hàng vừa và nhỏ trong nước và cá nhân trung lưu ở khu vực đô thị.
1.3. Các lĩnh vực hoạt động của VPBank
Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; tiếp nhận vônd ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước; vay vốn cảu các tổ chức tín dụng khác. . .
Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; hùn tiền và liên doanh theo luật định.
Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán Quốc tế; huy động vốn từ các nước ngoài và thực hiện các dịch vụ ngân hàng có liên quan đến nước ngoài khi được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước VIệt Nam cho phép.
Họat động bao thanh toán :
2. Kết quả hoạt động của VPBank trong những năm gần đây
Hiện nay VPBank phát triển mạnh mẽ với rất nhiều chi nhánh khắp cả nước và có được một vị trí nhất định trong giới ngân hàng. VPBank vẫn đang duy trì tốc độ phát triển nhanh ở tất cả các lĩnh vực.
Tính đến thời điểm 31/12/2007 vốn điều lệ của VPBank là 2.000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt hơn 18,2 ngàn tỷ đồng tăng 78% so với cuối năm 2006. Lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống đạt trên 313 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2006. Với chủ trương mở rộng mạng lưới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt hơn tới khách hàng, năm 2007 VPBank đã đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007 toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc (chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương). Các CN, PGD mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đi vào hoạt động suôn sẻ và bước đầu đạt được những kết quả khả quan.
Dự án phần mềm ngân hàng lõi Corebanking T24 đã chính thức hoàn thành và đưa vào hoạt động phục vụ khách hàng từ tháng 10/2007. Về dự án Thẻ: Đến nay VPBank đã phát hành 5 loại thẻ, mỗi loại thẻ đều hướng tới một nhóm khách hàng riêng biệt, bao gồm: Thẻ ghi nợ nội địa Autolink, thẻ VPBank Platinum EMV MasterCard debit và credit, Thẻ VPBank MC2 EMV MasterCard debit và credit. 4 loại thẻ quốc tế là các loại thẻ công nghệ chíp đầu tiên tại Việt Nam với độ bảo mật và tính an toàn cao..
Huy động vốn:
Đây là họat động được VPBank rất chú trọng với mục tiêu đảm bảo vốn cho vay, an toàn trong thanh khoản và tăng nhanh tài sản có, nần cao vị thế của VPBank trong hệ thống ngân hàng. Do đó các năm vừa qua, các hoạt động huy động vốn từ khu vực dân cư cũng như khu vực liên ngân hàng đều được VPBank khai thác triệt để.
Bảng số liệu huy động vốn trong những năm gần đây:
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của VPBank
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số dư
Số dư
Số dư
Nguồn vốn huy động
5.638.001
9.065.194
15.335.000
Phân theo kỳ hạn
Ngắn hạn
4.397.641
7.252.155
10.374.000
Trung hạn, dài hạn
1.240.360
1.813.039
4.961.000
Phân theo cơ cấu
Huy động thị trường I
3.209.771
5.678.458
12.941.000
Huy động thị trường II
2.398.230
3.368.736
2.414.000
Tính đến 30/06/2007, tổng số dư huy động vốn của VPBank đạt 10.799 tỷ đồng, tăng 1.692 tỷ đồng so với cuối năm 2006 (bằng 119% số dư huy động đến 31/12/2006) và tăng 4.381 tỷ đồng so với cựng kỳ năm ngoái (bằng 168% đến 30/06/2006).
Đến 31/12/2007, tổng số dư huy động vốn của VPBank là 15.355 tỷ đồng, đạt 113% kế hoạch cả năm 2007, tăng 6.290 tỷ đồng so với cuối năm 2006 (tương đương tăng 69%). Trong đó, nguồn vốn huy động của TCKT và dân cư (thị trường I) đạt 12.941 tỷ đồng tăng 138% so với cuối năm 2006 (riêng số dư tiền gửi tiết kiệm là 7.906 tỷ đồng tăng 3.397 tỷ đồng so với cuối năm 2006). Nguồn vốn liên ngân hàng (thị trường II) cuối năm 2007 là 2.414 tỷ đồng, giảm 1.210 tỷ đồng so với cuối năm 2006. Tình hình huy động vốn của VPBank trong những năm gần đây luôn tăng theo chiều hướng tích cực. Điều này phản ánh uy tín cũng như tốc độ phát triển của VPBank trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Có thể nói nguồn vốn của VPBank vẫn tăng trưởng cao, đó là nhờ vào lãi xuất chính sách phù hợp, đa dạng hóa các sản phẩm huy động, cùng các chương trình khuyến mại với quà tặng hấp dẫn. Mặt khác VPBank không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động, đồng thời nâng cao thương hiệu của mình trên thị trường.
Bảng 2: Tình hình cho vay của VPBank
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
3.014.209
5.031.190
7.295.000
Theo loại hình cho vay
Cho vay ngắn hạn
1.405.039
2.511.550
4.524.026
Cho vay trung, dài hạn
1.607.508
2.458.097
3.562.031
Cho vay khác
2.058
34.543
44.906
Theo tiền tệ
Cho vay bằng đống VN
2.906.417
4.760.502
7.250.316
Cho vay bằng ngoại tệ
107.792
270.688
458.433
Tình hình cho vay của VPBank trong năm 2007 càng mở rộng đối với các loại hình khác nhau so với năm 2005, 2006. Điều này cho thấy nguồn vốn của VPBank khá lớn, thể hiện tốc độ phát triển mạnh và tương đối ổn định của VPBank.
Hoạt động tín dụng: Trong điều kiện kinh tế mở cùng với sự gia nhập WTO của Việt Nam thì nhu cầu vốn đầu tư tăng cho nên hoạt động tín dụng của ngân hàng khá sôi nổi.
Trong thời gian từ 2004- 2006 hoạt động tín dụng của VPBank được giữ vững theo phương châm “bảo thủ” , không canh tranh bằng cách nới lỏng điều kiện tín dụng.Vì thế tín dụng đặt được hiệu quả khá cao và tăng gấp hơn hai lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn nghành ngân hàng.
Tính đến năm 2007 của CN VPBank trên toàn hệ thống vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tín dụng, nỗ lực tiếp thị đến khách hàng mới, duy trì chặt chẽ mối quan hệ với các khách hàng cũ. Vì vậy mà trước tình hình cạnh tranh gay gắt trong hệ thống ngân hàng, hoạt động tín dụng của VPBank vẫn đạt được những kết quả khả quan. Tổng dư nợ cho vay đến 30/06/2007 đạt 7.837 tỷ đồng, tăng 2.806 tỷ đồng so với cuối năm 2006 và tăng hơn gấp đôi dư nợ tín dụng của hệ thống cùng kỳ năm ngoái .
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2007 đạt 13.217 tỷ đồng, tăng 8.186 tỷ đồng so với cuối năm 2006 (tương ứng tăng 163% so cuối năm 2006) và vượt 53% so với kế hoạch cả năm 2007, trong đó dư nợ cho vay bằng VNĐ đạt 12.596 tỷ đồng chiếm 95 % tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn đạt 6.626 tỷ đồng chiếm 50% tổng dư nợ. Chất lượng tín dụng của hệ thống vẫn tiếp tục duy trì tốt, tỷ lệ nợ xấu của toàn hàng đến cuối tháng 12/2007 là 0,49%.
Họat động thanh toán quốc tế:
VPBank không phải là ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động thanh toán quốc tế. Song hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank trong những năm gần đây đặt được nhiều thành tựu đáng kể. Điều đó cho thấy, thanh toán quốc tế chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của VPBank. Hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế, VPBank đã và đang đề ra các chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển hơn nữa trong những năm tới.
Bảng 3: Tình hình thanh toán quốc tế của VPBank 2005-2007
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Trị giá L/C nhập mở thời kỳ
38.255
61.049
110.538
Trị giá L/C xuất thông báo trong kỳ
6.243
5.655
6.487
Doanh số chuyển tiền TTR
44.685
80.078
137.269
Doanh số nhờ thu (xuất, nhập)
3.618
5.159
10.536
Tổng số phí thu được( triệu đồng)
4.015
6.122
9.024
Nhìn vào bảng tình hình thanh toán quốc tế của VPBank trong những năm gần đây ta thấy: hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank trong năm 2007 đã đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Lượng giao dịch Thanh toán quốc tế của VPBank đã tăng lên rất nhanh cả về doanh số và phạm vi hoạt động. Tháng 4/2007 VPBank đã được đại diện của The Bank of New York trao “Chứng nhận đạt tỷ lệ điện chuẩn trong Thanh toán quốc tế” năm 2006, đây là năm thứ 3 liên tiếp VPBank được The Bank of New York công nhận về chất lượng giao dịch Thanh toán quốc tế. Trong tháng 9/2007, đại diện của Citibank đã trao cho VPBank giải thưởng “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc” năm 2006.
Hoạt động hối kiều:
Doanh số chuyển tiền ra nước ngoài của VPBank qua Western Union năm 2007 tăng 220% so với năm 2007. Doanh số chi trả cả năm đạt gần 30 triệu USD, tăng 64% so với năm 2006. Tổng số đại lý phụ đến cuối năm 2007 là 390 điểm, tăng 158 điểm so với năm 2006. Tổng số phí Western Union được hưởng năm 2007 đạt gần 500 ngàn USD tăng 68% so với năm 2006.
Họat động ngân quỹ:
Năm 2005- 2006 thị trường liên ngân hàng có sự tham gia của một số ngân hàng mới thành lập hoặc được nâng cấp từ các ngân hàng nông thôn do vậy các giao dịch diễn ra khá sôi nổi.Song có sự chuyển dịch một phần vốn vào thị trường chứng khoán.Nhưng vào năm 2007 thị trường liên ngân hàng có những diễn biến theo hướng hoàn toàn trái ngược nhau, cụ thể: Thời điểm đầu tháng, nguồn cung vốn hoàn toàn khan hiếm do tất cả các ngân hàng đều rút vốn nhằm mục đích đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định mới của NHNN; từ thời điểm giữa tháng, nguồn cung vốn trở nên dồi dào và mặt bằng lãi suất có sự điều chỉnh giảm, tuy nhiên vẫn cao hơn so với mức bình quân chung của 5 tháng đầu năm.
Kết quả hoạt động ngân quĩ trong năm 2007 cụ thể như sau: Doanh số mua bán ngoại tệ 6 tháng đầu năm của toàn hệ thống là 86 triệu USD, trong đó doanh số của riêng tháng 6 là 10 triệu USD. Đến 31/05/2007 tiền gửi tại các TCTD khác của VPBank là 516 tỷ đồng, tiền vay liên ngân hàng là 2.110 tỷ đồng. Do nguồn cung vốn trên thị trường liên ngân hàng khá dồi dào, mặt bằng lãi suất thấp nên hầu như không xuất hiện các cơ hội đầu tư khả thi vì vậy trong tháng 6 VPBank không phát sinh khoản đầu tư mới nào. Chứng từ có giá còn lại đến cuối tháng 6/2007 là 1.803 tỷ đồng và 20 triệu USD (tương đương 2.125 tỷ đồng).
Hoạt động trung tâm thẻ:
Sau khi chính thức phát hành thẻ ghi nợ nội địa mang tên Autolink vào cuối năm 2006, trung tâm Thẻ đã ký hợp đồng với Diebold mua 1.000 máy ATM và triển khai ký kết thuê địa điểm lắp đạt ATM tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh thành có sự hiện diện của VPBank. Đến nay, đã có 170 máy ATM của VPBank được lắp đặt và đi vào hoạt động.
Tháng 7/2007 VPBank đã cho ra mắt sản phẩm thẻ VPBank Platinum EMV MasterCard dưới hai loại hình: thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Với sản phẩm thẻ này, VPBank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ chip theo huẩn EMV quốc tế.
Tháng 12/2007 VPBank tiếp tục cho ra đời dòng thẻ quốc tế thứ 2: thẻVPBank MC2 EMV MasterCard – thẻ dành riêng cho giới trẻ, cũng dưới 2 hình thức Credit card và debit card.
Hoạt động nhân sự và đào tạo:
Tính đến 31/12/2007 tổng số nhân viên của VPBank là 2.681 người tăng 1.356 người so với cuối năm 2006. Đội ngũ nhân viên của VPBank phần lớn là những người trẻ ( hơn 70% cán bộ nhân viên của VPBank có độ tuổi dưới 30 tuổi ) nhiệt tình và ham học hỏi, mong muốn gắn kết và phát triển cùng VPBank.
Trong năm 2007, tính trên phạm vi toàn hệ thống, phòng Nhân sự & Đào tạo đã tổ chức được 54 khóa đào tạo, với 2.108 lượt học viên và tổng chi phí đào tạo là 808.630.000 đồng. Trong đó, chủ yếu là đào tạo nhân viên tân tuyển do nhu cầu mở rộng mạng lưới và phát triển điểm giao dịch trong năm qua
Họat động của công ty quản lý và khai thác tài sản (AMC):
Năm 2007 công ty AMC tiếp tục triển khai các dự án bất động sản hiện tại, phối hợp với các chi nhánh của VPBank triển khai các văn phòng trụ sở cũng như hoàn thiện từng bước công tác chuẩn hoá mô hình tổ chức hoạt động của AMC. Các dự án đáng triển khai là Tòa nhà 362 phố Huế (đã lấp đầy khách hàng cho toà nhà và hướng dẫn các bên lắp đặt nội thất), Tòa nhà 141 Bà Triệu(đã hoàn tất quản lý tòa nhà và đưa vào vận hành sử dụng). Fideco Tower(Xây dựng xong tầng 20 phần thô, lễ cất nóc tầng cuối cùng đã được thực hiện tốt đẹp. Dự kiến tiến độ đưa vào sử dụng tầng 1 và tầng lửng vào đầu quý IV năm 2007. Hiện nay số khách hàng đăng ký đã chiếm trên 90% toà nhà, dự kiến đầu năm 2008 sẽ cho thuê lấp đầy tòa nhà), Dự án Bình Tân – Sakico ( đang tiến hành các thủ tục để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã tiến hành sửa chữa, cải tạo xong khu xưởng - hiện tại đã ký kết 10 hợp đồng cho thuê, chiếm 80% tổng diện tích kho, dự kiến quý II/2007 sẽ lấp đầy 100% diện tích kho. AMC thống nhất với Lotte Group về việc thuê - mua 49 năm hoặc dài hơn theo quy định của TP HCM về quyền sử dụng đất Sakico của VPBank). Ngoài ra AMC đã phối với chi nhánh Cần Thơ triển khai xây dựng trụ sở chính của chi nhánh. AMC thực hiện việc giám sát quản lý lắp đặt hệ thống máy ATM của Trung tâm Thẻ trên toàn hệ thống.
Họat động của công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán VPBank (VPBS) kể từ khi đi vào hoạt động đến nay gặp nhiều khó khăn về địa điểm giao dịch. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán đang có sự điều chỉnh từ tháng 4 đến nay và vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Trước những khó khăn như vậy, toàn bộ ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên VPBS đã nỗ lực hết mình và đến nay công ty đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trong tháng 8/2007 Công ty chứng khoán VPBank đã chính thức nâng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng và đến tháng 12/2007 Công ty tiếp tục tăng vốn lên 500 tỷ đồng. Đến 31/12/2007 công ty đã mở trên 3.000 tài khoản khách hàng, doanh số mua bán chứng khoán lũy kế cả năm đạt khoảng 3,5 tỷ đồng, phí môi giới thu được khoảng 8,4 tỷ đồng. Công ty cũng đã ký kết được 24 hợp đồng tư vấn, phí tư vấn đã thu được gần 1,4 tỷ đồng.
Công tác xây dựng thương hiệu Trong năm 2007, VPBank đã thực hiện việc thay đổi đồng bộ hệ thống nhận diện thương hiệu (biển hiệu, nội thất..) tại tất cả các điểm giao dịch trong hệ thống. Có thể nói đến nay hệ thống nhận diện mới đã phát huy hiệu quả rất lớn trong công tác xây dựng hình ảnh ngân hàng chuyên nghiệp cho VPBank. Năm 2007 VPBank đã thực hiện tài trợ cho một số chương trình truyền hình lớn chuyên về lĩnh vực tài chính ngân hàng: chương trình “Doanh nghiệp 24H” trên VTC, chương trình game show “Nhà đầu tư tài ba” của Đài truyền hình Việt Nam và một số chương trình thời sự quốc tế... Thương hiệu VPBank đến nay đã trở thành một trong những thương hiệu mạnh trong nước, góp phần quan trọng vào việc phát triển khách hàng, mở rộng thị phần và nâng cao hiệu quả hoạt động của VPBank.
Các hoạt động khác
+ Các hoạt động đoàn thể
VPBank luôn khuyến khích duy trì và phát triển các hoạt động đoàn thể (Chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, ...) để đảm bảo cân đối giữa đời sống vật chất và tinh thần cho CBNV. Các tổ chức này trong năm qua đã duy trì hoạt động đều đặn và nghiêm túc, thực sự phát huy hiệu quả trong vai trò hỗ trợ tốt cho các hoạt động nghiệp vụ. + Các hoạt động từ thiện Bên cạnh hoạt động kinh doanh, VPBank luôn quan tâm đến các hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt động từ thiện. Trong năm 2007, cơn bão số 5 đã càn quét và gây thiệt hại cho nhân nhân các tỉnh miền Trung, cán bộ nhân viên VPBank đã quyên góp 100 triệu đồng để giúp đỡ đồng bào các tỉnh chịu ảnh hưởng của bão. Hiện tại VPBank tiếp tục duy trì việc đỡ đầu các mẹ Việt Nam anh hùng (từ năm 1996 đến nay), với mức hỗ trợ 150.000đ/tháng. Năm 2007, VPBank đã chi gần 300 triệu đồng cho công tác xã hội, ủng hộ các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn.
- Kết quả hoạt động kinh doanh như sau:
+ Tình hình nguồn vốn – sử dụng vốn
Tổng nguồn vốn của VPBank đến 31/12/2007 đạt 18.231 tỷ đồng, tăng 78% so với cuối năm 2006. Trong đó: Nguồn vốn chủ sở hữu đạt 2.299,8 tỷ đồng (vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng) tăng 149% so với cuối năm 2006; Vốn huy động từ TCKT và dân cư là 12.941 tỷ đồng, tăng 128% so với cuối năm 2006; Vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng là 2.414 tỷ đồng, giảm 29% so với cuối năm 2006; Vốn ủy thác đầu tư (dự án tài chính nông thôn ) là 124 tỷ đồng, tăng 220% so với cuối năm 2006.
Về sử dụng vốn: Đến 31/12/2007 tổng tài sản Có của VPBank là 18.231 tỷ đồng, tăng 78% so với cuối năm 2006. Trong đó: Số dư tiền mặt và tiền gửi tại NHNN là 1.491 tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006; Tiền gửi tại các TCTD khác là 541 tỷ đồng, giảm 51% so với cuối năm 2006; Tổng dư nợ cho vay của VPBank đối với nền kinh tế đạt 13.217 tỷ đồng, tăng 165% so với cuối năm 2006; Góp vốn, mua cổ phần vào các công ty khác là 563,7 tỷ đồng – tăng 582% so với cuối năm 2006 (tăng chủ yếu do chuyển vốn thành lập công ty chứng khoán – 500 tỷ đồng); Chứng khoán đầu tư là 178,5 tỷ đồng, giảm 43% so với cuối năm 2006; Tài sản cố định là 264,6 tỷ đồng, tăng 157% so với cuối năm 2006.
- Tỷ lệ an toàn vốn (đến 31/12/2007) Các tỷ lệ an toàn vốn được VPBank duy trì theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước: + Tỷ lệ an toàn vốn là 21% (mức qui định của NHNN tối thiểu là 8%). + Tỷ lệ về khả năng chi trả là 126% (mức qui định tối thiểu là 25%); + Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn là 18,7% (mức tối đa được phép là 40%).
Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank từ năm 2005-2007
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh thu
1.162
1.494
3.233
Chi phí
1.241
1.954
2.016
Lợi nhuận
76,209
156,8
313
Kết thúc năm tài chính 2007, VPBank đạt kết quả lợi nhuận trước thuế là hơn 313 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2006, trong đó lợi nhuận từ hoạt động của ngân hàng là 273 tỷ đồng, lợi nhuận từ công ty chứng khoán đạt 38,9 tỷ đồng, lợi nhuận từ công ty AMC đạt trên 2 tỷ đồng.
Trong năm 2007 VPBank phát sinh rất nhiều khoản chi phí lớn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho việc phát triển lâu dài như: duy trì hoạt đông của Ban dự án Corebanking T24; duy trì hoạt động cảu Trung tâm Thẻ; đầu tư vào hệ thống ATM, phát triển mạng lưới chi nhánh,… Nếu không có các khoản đầu tư đó, lợi nhuận năm 2007 có thể đạt mức cao hơn. Tuy nhiên việc đầu tư vào các yếu tố hạ tầng công nghệ và mạng lưới là rất cần thiết, bảo đảm duy trì một vị thế cạnh tranh tốt cho VPBank trong tương lai.
3. Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại VPBank
3.1.Hoạt động tín dụng của VPBank
Các sản phẩm tín dụng của VPBank
Đối với khách hàng cá nhân
VPBank là một ngân hàng bán lẻ trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Vì thế khách hàng cá nhân là đối tượng chính. Tuy nhiên, mỗi cá nhân có mục đích khác nhau nên hình thức vay vốn là khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng VPBank đưa ra nhiều hình thức tín dụng khác nhau như: cho vay hỗ trợ kinh doanh cá thể và tiêu dùng; cho vay trả góp mua nhà; cho vay hỗ trợ du học; cho vay trả góp mua ô tô, cho vay cầm cố cổ phiếu các NHTM . . . Mỗi một loại có các đặc điểm riêng biệt nhưng nhìn chung đều là những hình thức cho vay tín dụng để thực hiện mục tiêu của mình. VPBank luôn chú trọng hoàn thiện hệ thống khách hàng là đối tượng cá nhân, những người có mức sống cao, có khả năng thanh toán các khoản tín dụng này.
Đối với khách hàng doanh nghiệp
Đối tượng này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. VPBank nhằm hỗ trợ đối tượng này trong hoạt động kinh doanh. VPBank đưa ra nhiều hình thức khách nhau nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu cho đối tượng này. Tuy nhiên vẫn có sự hạn chế lớn trong khả năng cấp tín dụng. Những hình thức tín dụng như cho vay từng lần, cho vay theo mức hạn tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn . . . VPBank vẫn đang tiếp tục tập trung phục vụ khách hàng của mình là các cá nhân có thu nhập cao và các doanh nghiệp vừa, nhỏ trong nước.
Tỷ trọng nợ tín dụng trên tổng tài sản
Bảng 5: Dư nợ và doanh số cho vay qua các năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ
3295,408
5031
7295
Doanh số cho vay
3684
6594
9754
Tổng tài sản
6090,163
9872,547
12753,49
Tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản
54,11%
50,96%
57,2%
(Nguồn: Báo cáo thường niên, bản tin VPBank, phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh)
Trong những năm gần đây, VPBank luôn đặt mức tăng trưởng tín dụng hơn 30%/năm. Qua bảng số liệu ta thấy hoạt động tín dụng của VPBank đã được mở rộng nhanh chóng doanh số cho vay và dư nợ tăng nhanh qua các năm.
Tín dụng luôn là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu nhập chính cho VPBank. Tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản của VPBank luôn chiếm xấp xỉ 50%.
Đến năm 2007, doanh số cho vay và dư nợ tín dụng tăng nhanh cho thấy quy mô tín dụng của VPBank đã và đang được mở rộng nhanh chóng.
Cơ cấu tín dụng của VPBank
Bảng 6: Cơ cấu tín dụng
Cơ cấu
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ (tỷ VNĐ)
3295,408
5031
7295
Theo thời hạn tín dụng
Ngắn hạn (% trên tổng dư nợ)
56%
57,5%
58,7%
Trung dài hạn (% trên tổng dư nợ)
44%
42,5%
41,3%
Theo loại tiền
USD (% trên tổng dư nợ)
3,5%
3,2%
3,3%
VNĐ (% trên tổng dư nợ)
96,5%
96,8%
96,7%
( Nguồn: Báo cáo thường niên, bản tin VPBank, phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh)
Trong cơ cấu tín dụng của VPBank chúng ta có thể thấy tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tăng qua các năm và hiện chiếm hơn 50% tổng dư nợ của VPBank. Điều này thể hiện đúng định hướng của VPBank trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20300.doc