Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam

Lời nói đầu Trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân của Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong các thời kỳ khác nhau, tuy tỷ trọng GDP Nông nghiệp trong tổng GDP toàn quốc và cơ cấu đầu tư của nền kinh tế có khác nhau, nhưng nông nghiệp luôn được xác định là chỗ dựa vững chắc để giải quyết hàng loạt các vấn đề lớn của toàn xã hội như: an ninh lương thực quốc gia, xoá bỏ đói nghèo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, cu

doc123 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cấp nguồn nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác, tạo thêm việc làm và ổn định xã hội, tăng nguồn tích lũy và tạo tiền đề cho việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Thời đại ngày nay trong xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa, các nước đều thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế thì ngoại thương có vai trò quan trọng. Đối với Việt Nam xuất khẩu đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế: xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong GDP cả nước, thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế xã hội. Việt Nam là một nước nông nghiệp, trong cơ cấu xuất khẩu thì hàng nông sản mặc dù cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp kém, nhưng chúng ta còn nhiềm tiềm năng chưa được khai thác hợp lý, nhất là đất đai, lao động, điều kiện khí hậu, thời tiết và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cùng với trình độ quản lý yếu kém, chính sách thương mại chưa hợp lý, kinh nghiệm uy tín trên thị trường còn non yếu. Do vậy mà khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng nông sản xuất khẩu nói riêng còn rất thấp mà chúng ta phải chịu nhiều thua thiệt. Do vậy, chiến lược phát triển ngành nông nghiệp hướng xuất khẩu, hợp tác khoa học - công nghệ với bên ngoài, tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu nâng cao vị thế của hàng nông sản trên thị trường thế giới là tất yếu khách quan và cũng là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta trong trước mắt cũng như lâu dài. Việt Nam cần chủ động và đón đầu quá trình chuyển động lớn lao này nhằm tranh thủ những cơ hội tốt nhất cho chiến lược phát triển kinh tế đất nước. ý thức được điều đó, em đã tâm đắc lựa chọn đề tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu ” làm chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề này được kết cấu theo 3 chương như sau: Chương I: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu - các nhân tố ảnh hưởng - nội dung và phương pháp đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hoạt động kinh doanh. Chương II: Phân tích khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khảu Việt Nam thời gian qua. Chương III: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu trong tình hình hiện nay. Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập, hàng hóa và thị trường lại là những lực lượng đầy biến động nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót về sự cập nhật thông tin. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Đặng Đình Đào và cán bộ Viện kinh tế nông nghiệp nay là Viện nghiên cứu chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, TS Nguyễn Đình Long - Viện phó để bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Chương I. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh nội dung và phương pháp đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hoạt động kinh doanh. I. Tổng quan về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 1. Quan niệm về khả năng cạnh tranh và cạnh tranh Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh. Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh. Fafchamps cho rằng “Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này thì doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là khả năng cạnh tranh cao hơn”. (1 Peter.G.H. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp - Dartmouch 1995 - trang 343 ) Randall lại cho rằng, “khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định”. Dunning lập luận rằng, “khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó”. Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ để có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình. Có thể thấy rằng, các quan niệm trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh, chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Do đó, khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm vững thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được. Vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Hay có thể hiểu khả năng cạnh tranh là khả năng tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh duy trì được lợi nhuận và thị phần trên thị trường của sản phẩm của doanh nghiệp. 2. Khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu của Thương mại quốc tế. Cùng với nhập khẩu nó tạo nên sức mạnh của đất nước thông qua con đường ngoại thương. Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước đồng thời nó thúc đẩy quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới và khu vực tạo nên các hiệp hội, tổ chức mà từ đó các nước có thể khai thác những thuận lợi quốc tế và tận dụng lợi thế so sánh của riêng mình. Từ việc khai thác lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, khí hậu... nước ta đã phát triển mạnh ngành nông nghiệp hàng hóa tiến đến xuất khẩu các mặt hàng nông sản có giá trị. Mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của đất nước chiếm tỷ trọng lớn về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có nhiều triển vọng phát triển mạnh, có nhiều lợi thế về mặt tự nhiên. Tuy vậy muốn chiếm được tỷ phần lớn thu nhiều lợi nhuận trong hoạt động xuất khẩu nông sản vẫn còn là mục tiêu chiến lược của ngành trong thời gian tới. Trước hết ngành sản xuất, chế biến và xuất khẩu cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm khi đưa vào thị trường quốc tế, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản được xem xét trên các mặt chủ yếu sau đây: a. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu so với các đối thủ cạnh tranh: Số lượng thể hiện quy mô của mặt hàng xuất khẩu. Số lượng liên quan đến việc xác định tỷ phần của nước ta so với các đối thủ cạnh tranh lớn. Nó còn nói lên mức độ ảnh hưởng hay mức độ chi phối đối với thị trường mặt hàng ấy. Một nước có quy mô xuất khẩu lớn chính là nước chiếm được tỷ phần lớn trên thị trường nhưng sức mạnh cạnh tranh còn được đánh giá thông qua mức độ tăng quy mộ đặc biệt là lợi nhuận thu về từ việc xuất khẩu số lượng mặt hàng ấy. Kim ngạch là lượng tiền bằng ngoại tệ thu về từ công việc xuất khẩu. Kim ngạch lớn hơn với cùng một số lượng xuất khẩu như nhau chứng tỏ việc xuất khẩu đạt hiệu quả - Sản phẩm xuất khẩu đó có vị thế trên thị trường hay có sức cạnh tranh lớn. Thông thường những nước có kim ngạch lớn, quy mô xuất khẩu lớn so với các đối thủ khác của họ thường có sức cạnh tranh cao. b. Chất lượng nông sản xuất khẩu ngày càng được nâng cao: Chất lượng phải được nâng cao từ tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản và lưu thông. Có như vậy mặt hàng mới đạt được chất lượng cao. Cùng với việc thực hiện lưu thông tốt, quan hệ công tác lâu dài thì chất lượng hàng hóa tốt sẽ đem lại giá cao cho sản phẩm tăng kim ngạch đồng thời tăng quy mô xuất khẩu. Ngày càng tạo thêm uy tín của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm tốt có thể tạo ra một thương phẩm ưa thích có khả năng xâm nhập vào các phần thị trường cao cấp và sức cạnh tranh của sản phẩm là rất cao. c. Giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu so với các đối thủ cạnh tranh: Giá là một chỉ số tổng hợp phản ánh rất nhiều các yếu tố khác như: chi phí sản xuất, chất lượng, chính sách lưu thông, tiêu thụ... Giá quyết định đến lợi nhuận, thị phần, quy mô của mặt hàng khi xuất khẩu. Mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt được giá cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh chứng tỏ nó có sức cạnh tranh cao hơn các đối thủ khác. Sức cạnh tranh cao về giá còn thể hiện ở xu thế biến động giá. Khi giá tăng sản phẩm có sức cạnh tranh cao thì giá tăng mạnh hơn còn khi giá giảm thì sản phẩm có sức cạnh tranh cao giá lại giảm chậm hơn. Trên thị trường nông sản thế giới nước nào có khả năng chi phối về giá cả mặt hàng xuất khẩu thì nước đó sẽ thu được nhiều lợi ích từ việc xuất khẩu. d. Chính sách và chiến lược lưu thông Chính sách và chiến lược lưu thông thể hiện phương thức đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Trong thời đại toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách kinh tế mở thì chính sách và chiến lược lưu thông rất quan trọng, nó còn thể hiện trình độ về tổ chức quản lý. Mặt hàng có dồi dào chất lượng tốt nhưng không có chiến lược lưu thông hợp lý thì cũng không đạt được hiệu quả. Chiến lược lưu thông nhằm thu hút thế giới khách hàng về tay mình, làm cho khách hàng hài lòng về sản phẩm của mình đồng thời cũng làm lợi cho mình từ các công việc ấy. Mặt hàng nào, đơn vị nào có chính sách chiến lược lưu thông hợp lý sẽ không ngừng tăng sức cạnh tranh trên thị trường với quy mô thị trường ngày càng mở rộng. e. Thị phần xuất khẩu trên các thị trường: Thị phần là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm giữ trong toàn bộ thị trường của mặt hàng. Thị phần là kết quả của tất cả các nhân tố khác. Muốn tăng được thị phần và chiếm được thị phần lớn các đơn vị phải không ngừng thực hiện tốt tất cả các yếu tố trên mà còn phải không ngừng đổi mới. Thị phần là chỉ tiêu quan trọng đánh giá sức cạnh tranh của bất kỳ một sản phẩm nào đó trên thị trường. II. Các nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu Để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu ta xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và thông qua một số chỉ tiêu và tiêu thức sau đây: 1. Chất lượng nông sản phẩm: Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn các nhu cầu đã được chỉ ra hoặc tiềm ẩn trong đó thực thể ở đây là sản phẩm, một hoạt động, một quá trình... Như vậy chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm mà chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó có thể là chất lượng sản phẩm, chất lượng của một hoạt động, chất lượng của một quá trình. Do đó chất lượng của sản phẩm là toàn bộ các đặc tính của sản phẩm tạo cho sản phẩm đó khả năng thoả mãn các nhu cầu đã được chỉ ra hoặc tiềm ẩn. Đối với mặt hàng nông sản chất lượng sản phẩm được quyết định do nhân tố di truyền và quyết định bởi công tác chế biến, bảo quản. Muốn tăng chất lượng hàng nông sản phải đồng thời thực hiện tốt hai nhiệm vụ: Thứ nhất là yếu tố về giống, cách thức gieo trồng. Thứ hai là phương thức chế biến bảo quản, yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm cuối cùng. Ngày nay trong bối cảnh quốc tế hoá mạnh mẽ của thời đại hậu công nghiệp với sự ra đời của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và thoả ước về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, mọi nguồn lực, sản phẩm ngày càng tự do vượt biên giới quốc gia. Sự phát triển mang tính toàn cầu này có một số đặc điểm như: Hình thành thị trường khu vực tự do ở cấp khu vực và quốc tế. Sự bão hoà của nhiều thị trường chủ yếu, đòi hỏi chất lượng cao trong khi sự suy thoái kinh tế là phổ biến, các công ty và các nhà quản lý năng động hơn, hàng hóa ngày càng được sản xuất ra nhiều hơn do công nghệ phát triển rất nhanh dẫn đến sự cạnh tranh tăng lên. Mặt khác nhu cầu của con người ngày càng cao và tăng với tốc độ nhanh hơn, điều kiện công nghệ, nhu cầu ở mỗi nước là khác nhau. Do những đặc điểm trên thì chất lượng sản phẩm ngày càng trở thành yếu tố then chốt để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của chất lượng sản phẩm được thể hiện nếu một sản phẩm có chất lượng tốt hơn thì sẽ có lợi thế hơn trong cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại thấp hơn. Theo xu thế toàn cầu hóa, là một nước đang phát triển nằm trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực vượt bậc để nhanh chóng hội nhập về kinh tế với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Vấn đề sản xuất sản phẩm có chất lượng cao để sản phẩm Việt Nam có thể đứng vững, vươn xa hơn trên thị trường quốc tế khi hàng rào thuế quan dần dần được bãi bỏ là một thách thức to lớn đối với các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 2. Công nghệ và quản trị công nghệ: Ngày nay công nghệ được xem như là một sự tổng hợp của 4 thành phần: Thiết bị, con người, tổ chức và thông tin. Trong đó thiết bị là phần cốt lõi, con người giữ vai trò quyết định. Bốn thành phần trên liên hệ mật thiết với nhau và tạo thành phương tiện chuyển đổi trong quá trình sản xuất vật chất như sau: Công nghệ ¯ Các yếu tố đầu vào đ Quá trình sản xuất đ Sản phẩm (dịch vụ) Trong sản xuất, công nghệ là yếu tố sống động mang tính quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua công nghệ thể hiện nó làm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước, công nghệ đang là mối quan tâm sâu sắc của mọi quốc gia. Riêng đối với từng doanh nghiệp công nghệ là vũ khí sắc bén để nâng cao khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Nhưng công nghệ không thể tự thân biến đổi thành khả năng cạnh tranh mà khả năng cạnh tranh chỉ đến với đơn vị có chiến lược thích hợp trong sử dụng công nghệ sản xuất ra sản phẩm. Riêng đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu ta cần chú ý đến việc đầu tư công nghệ để giữ gìn và làm tăng chất lượng của sản phẩm. Chính điều này sẽ làm tăng giá trị của mặt hàng xuất khẩu. Làm cho Việt Nam có thể xuất khẩu những sản phẩm đã được chế biến sâu có chất lượng cao chứ không phải xuất những mặt hàng thô đem lại giá trị rất thấp lại phải chịu sự tác động rất nhiều của điều kiện tự nhiên, mùa vụ... Có rất nhiều yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh dựa trên công nghệ của doanh nghiệp như chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ thực hiện tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm...Tuy nhiên, yếu tố tác động cơ bản nhất - Theo các nhà kinh tế đó là vai trò quản trị. Thực vậy, quản trị và công nghệ đã tạo ra khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp biểu hiện trên ba mặt của sản phẩm, dịch vụ như giá thành hạ, nâng cao chất lượng và cung cấp đúng lúc cho thị trường. Các tác động trên được thể hiện qua các sơ đồ sau: Công nghệ áp dụng các công nghệ phù hợp, tiên tiến... để sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào Quản trị phối hợp quản trị sản xuất với chiến lược sử dụng công nghệ nhằm giảm chi phí của quá trình sản xuất Nâng cao chi phí máy móc thiết bị để giảm - Chi phí lao động - Chi phí năng lượng - Chi phí nguyên liệu Giảm chi phí của quá trình sản xuất nhằm giảm thiểu - Chi phí về sản phẩm không đạt chất lượng - Chi phí về tồn trữ Chi phí sản xuất thấp Nâng cao khả năng cạnh tranh Sơ đồ 1: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Sơ đồ 2: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm - dịch vụ Công nghệ Đổi mới công nghệ * Đổi mới cơ bản * Đổi mới từng phần * Đổi mới hệ thống Quản trị * Quản trị chất lượng sản phẩm * Quản trị theo ISO Nâng cao độ tin cậy của quá trình sản xuất Nâng cao hiệu quả sản xuất Nâng cao khả năng cạnh tranh Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Sơ đồ 3: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm cung cấp sản phẩm - dịch vụ đúng lúc cho thị trường. Công nghệ Nâng cao năng lực công nghệ nội sinh Quản trị * Huy động nguồn lực * Đánh giá chiến lược sản phẩm mới Nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai Đổi mới công nghệ Cung cấp đúng lúc Sản phẩm mới Nâng cao khả năng cạnh tranh Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu so với các nước phát triển. Do đó để nâng cao khả năng cạnh tranh dựa trên công nghệ các doanh nghiệp phải kết hợp chặt chẽ giữa công nghệ và quản trị để hình thành chiến lược sử dụng công nghệ phù hợp. Qua đó ta thấy công nghệ và quản trị công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp. 3. Hình ảnh và uy tín sản phẩm trên thị trường: Uy tín của sản phẩm trên thị trường thể hiện sự tin tưởng của khách hàng vào chính sản phẩm đó. Đây cũng là nhân tố rất quan trọng để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm. “Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến sản phẩm dịch vụ chất lượng sản phẩm và giá cả... là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự “cảm tình”, “tin cậy” và “hiểu biết đầy đủ” về doanh nghiệp có thể giúp đỡ nhiều cho việc ra quyết định có tính “ưu tiên” khi mua hàng của khách hàng. Điều này cho phép doanh nghiệp “dễ” bán được sản phẩm của mình hơn và do đó nâng cao được khả năng cạnh tranh”. (1 TS. Nguyễn Xuân Quang - Giáo trình Marketing Thương mại - NXB Thống kê 1999 trang 79 ) Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường là một tiềm lực vô hình của doanh nghiệp. Để có được sức mạnh này doanh nghiệp cần phải thực hiện nhiều hoạt động và các chỉ tiêu khác như: Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là luôn tăng lợi nhuận cũng như giành được thị phần lớn trên thị trường. 4. Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa: Là một sức mạnh vô hình của doanh nghiệp, mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa cũng góp phần quan trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa là mức độ chấp nhận của khách hàng đối với nhãn hiệu hàng hóa. Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa gồm 5 mức độ quen thuộc: Nhãn hiệu bị loại bỏ Nhãn hiệu không được chấp nhận Chấp nhận nhãn hiệu Nhãn hiệu ưa thích Nhãn hiệu nổi tiếng Một ưu điểm của mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu đó là nó mang tính dây chuyền. Khi một thương hiệu đã nổi tiếng thì các sản phẩm mới mang thương hiệu đó cũng dễ dàng đến với khách hàng. Trên thực tế thì mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mua sắm và ra quyết định của khách hàng. Thể hiện, nhãn hiệu ở thứ bậc cao, khả năng cạnh tranh càng tốt. Muốn đạt được thương hiệu nổi tiếng không phải bất cứ một quốc gia nào, sản phẩm nào đều có thể đạt được. Thương hiệu nổi tiếng là tổng hợp của rất nhiều các chỉ tiêu về nguồn lực, quản lý, tổ chức.... được thực hiện hợp lý tối ưu cùng với những lợi thế riêng có trong cả một quá trình dài. Chính vì vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm mang thương hiệu “Made in VietNam” là mục tiêu và thách thức lớn của các sản phẩm Việt Nam trong đó có mặt hàng nông sản. Trong đó mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu sản phẩm là một chỉ tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược lâu dài của sản phẩm hàng hóa. 5. Trình độ tổ chức, quản lý: Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống những mối liên kết chặt chẽ với nhau. Một hệ thống tập hợp các phần tử (bộ phận, chức năng, nghiệp vụ) thoả mãn 3 điều kiện: Thứ nhất, hoạt động của mỗi phần tử trong tập hợp có thể ảnh hưởng đến hành vi của toàn bộ tập hợp. Thứ hai, cách thức hành động và kết quả thực hiện của mỗi phần tử trên thực tế có ảnh hưởng đến kết quả toàn bộ hệ thống nhưng không chỉ mình nó mà luôn phụ thuộc ít nhất vào cách thức và kết quả của một phần tử khác. Thứ ba, hệ thống luôn được hình thành bởi các phần tử đã được tập hợp thành các tập hợp con, các tập hợp con này xuất hiện trong tập hợp lớn và tư cách đã là phần tử có tính chất như hai điều kiện trên. Một cách khác, một hệ thống là một tổng thể mà nó không thể chia cắt được thành các bộ phận có ảnh hưởng độc lập đối với nó. Và như vậy, kết quả thực hiện của một hệ thống không chỉ là tổng của kết quả thực hiện của các bộ phận, chức năng, nhiệm vụ, được xem xét riêng biệt, mà nó là hàm số tương tác giữa chúng. Điều đó có nghĩa là: mỗi khi một bộ phận, chức năng, nghiệp vụ của doanh nghiệp được tách riêng ra để thực hiện tốt như nó có thể thì toàn bộ hệ thống sẽ không thực hiện được tốt như nó có thể. Một đơn vị muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản lý sẽ tạo nên sức mạnh thực sự cho đơn vị trong kinh doanh. Và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Tổ chức quản lý trong kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản đó là việc quản lý các nguồn sản xuất, tổ chức thu gom hàng hóa từ các nguồn, tổ chức bộ máy dây chuyền sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm phải đồng bộ và thông suốt. Do đặc điểm của hàng nông sản nên tổ chức và quản lý phải liên đới quan hệ chặt chẽ với nhau phù hợp với từng thời vụ. 6. Cơ chế vận hành Cơ chế vận hành là cách thức đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng sao cho có lợi nhất, giảm các chi phí một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Trong kinh doanh thương mại thì phương thức đưa sản phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng thể hiện trình độ quản lý, tổ chức điều hành doanh nghiệp, làm cho khách hàng biết rõ hàng hóa, nhãn hiệu của doanh nghiệp, chinh phục khách hàng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa kinh doanh. Thực hiện một cơ chế vận hành tốt sẽ tạo ra một môi trường thương mại thuận lợi giúp cho doanh nghiệp tạo dựng được uy tín của mình trên thị trường thông qua. - Làm tăng nhanh tốc độ cũng như khối lượng hàng hoá luân chuyển. Hàng hóa luân chuyển nhanh làm cho tốc độ quay vòng vốn nhanh doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận mở rộng quy mô của sản xuất, đầu tư chuyên sâu hơn ngày càng tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. - Làm giảm thiểu các chi phí lưu thông thông qua việc thiết lập các kênh phân phối hợp lý đảm bảo cung cấp hàng hóa kịp thời cho nhu cầu của khách hàng. Kênh phân phối hợp lý có vai trò quan trọng trong việc tạo mối quan hệ gần gũi với khách hàng và củng cố quan hệ ban hàng. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường việc tiêu thụ sản phẩm thường sử dụng các kênh dài trong đó sử dụng nhiều trung gian. Mặt khác trong kinh doanh thương mại, chi phí lưu thông đóng vai trò quan trọng trong khoản mục chi phí do vậy giảm được chi phí lưu thông tức là đã giảm thiểu được chi phí. Điều này có thể thực hiện được khi thiết lập và triển khai được một mạng lưới kênh phân phối hợp lý. Đối với sức cạnh tranh của hàng hóa thì việc này ảnh hưởng, tác động đến giá cả hàng hóa bán ra của nhà thương mại. Đối với mặt hàng nông sản thì nó ảnh hưởng mạnh đến chất lượng hàng hóa do đặc điểm của loại hàng hóa này chịu sự tác động nhiều về điều kiện môi trường bảo quản,vận chuyển. Đưa thông tin đến với khách hàng nhanh chóng, kịp thời giúp khách hàng hiểu biết về sản phẩm một cách chính xác, tinh tế đồng thời kích thích nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Cùng với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý thì hàng hóa sẽ được chấp nhận, ưa thích, tin dùng của khách hàng. Sẽ tiếp cận và xâm nhập thị trường mới. Tạo ra một lực lượng khách hàng chung thủy với sản phẩm của mình. Mở rộng quan hệ, tạo nhiều cơ hội kinh doanh mới. Trong thương mại thì “buôn có bạn, bán có phường” rất có ý nghĩa trong kinh doanh thì việc quan hệ hợp tác, liên doanh liên kết đem lại nhiều lợi ích. Các thành viên trong khối liên kết sẽ cùng thực hiện việc ưu đãi giúp đỡ nhau đem lại lợi ích cho cả các bên. Đây là nhu cầu của các doanh nghiệp khi thực hiện mục tiêu kinh doanh dài hạn tránh được sự chèn ép, thôn tính khi tiềm lực của doanh nghiệp còn yếu. 7. Hoạt động xúc tiến thương mại Là hoạt động quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong khi đưa hàng hóa ra thị trường. Hoạt động xúc tiến giúp các doanh nghiệp có điều kiện hiểu biết lẫn nhau, đặt quan hệ buôn bán với nhau đặc biệt các doanh nghiệp nhận biết thêm thông tin về thị trường, có điều kiện để nhanh chóng phát triển kinh doanh và hội nhập vào khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp nhận được thông tin về khách hàng cũng như của đối thủ cạnh tranh qua đó doanh nghiệp có hướng đổi mới kinh doanh, đầu tư công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường. Tiếp cận được với thị trường tiềm năng cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu đãi chinh phục và lôi kéo khách hàng tạo hình ảnh đẹp về sản phẩm, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Là cầu nối giữa doanh nghiệp và khách hàng. Các doanh nghiệp có điều kiện để nhìn nhận về ưu nhược điểm của hàng hóa, dịch vụ của mình. Từ đó doanh nghiệp có cơ sở để ra quyết định kịp thời phù hợp. Xúc tiến thương mại làm cho bán hàng trở nên dễ dàng và năng động hơn, đưa hàng vào kênh phân phối một cách hợp lý, kích thích hiệu quả của lực lượng bán hàng. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa bao gồm các nhân tố ngoài thị trường và các nhân tố về sản phẩm đó. Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố là khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Do vậy ta phải phân tích đánh giá xem xét trong điều kiện nhất định những nhân tố nào là chủ yếu, nhân tố nào là then chốt để tìm ra phương pháp nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ hay chính là làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong kinh doanh. III. Nội dung và phương pháp đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu 1. Nội dung: Khả năng cạnh tranh ảnh hưởng quyết định đến việc tiêu thụ hàng hóa. Đặc biệt trong xuất khẩu khả năng cạnh tranh của hàng hóa thể hiện qua một số nội dung sau đây: a. Lợi thế cạnh tranh của hàng hóa: Lợi thế cạnh tranh trước hết là sự biểu hiện lĩnh hội của mặt hàng đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường, nó tạo nên sức hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng. Nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh được thể hiện ở các mặt như: chất lượng sản phẩm, giá cả, khối lượng và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt của sản phẩm so với sản phẩm khác nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, lợi thế cạnh tranh là nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược trong quá trình sản xuất, trao đổi mà suy cho cùng là “Chinh phục cả thế giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và chất lượng”. Lợi thế cạnh tranh chính là năng lực riêng biệt của doanh nghiệp được khách hàng ghi nhận và đánh giá cao. Chính năng lực riêng biệt này doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh trên thị trường bằng chính khả năng cạnh tranh hàng hóa của họ. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa là khả năng chiếm lĩnh thị trường, giữ vững và phát triển thị trường của hàng hóa đó. Một hàng hóa có khả năng cạnh tranh là hàng hoá đó phải thoả mãn và tạo niềm tin cho khách hàng hiện tại, thuyết phục khách hàng trong tương lai ở trong và ngoài nước. Như vậy, để một ngành, một sản phẩm tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì giá cả sản phẩm (đã điều chỉnh theo chất lượng) phải tương đương hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm cạnh tranh. PjE < P*j Trong đó: Pj: Giá cả của sản phẩm j tính theo đồng nội tệ E: Tỷ giá hối đoái P*j: Giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh. b. Đánh giá thông qua sự biểu hiện quy mô số lượng sản phẩm đó trên thị trường. Hiểu một các đơn giản là sản phẩm đó có nhiều trên thị trường hay không. Dựa vào lợi thế về mặt quy mô và lợi thế tuyệt đối để tăng quy mô của sản phẩm đó lên. Đối với sản phẩm xuất khẩu thì điều quan trọng là tăng thị phần của sản phẩm đó lên. Thị phần là phần thị trường mà đơn vị chiếm giữ trên toàn thị trường về sản phẩm hàng hóa kinh doanh, tính theo giá trị xuất khẩu hay tính theo số lượng xuất khẩu. Nếu một hàng hóa có tỷ phần lớn và tỷ phần theo giá trị xuất khẩu lớn hơn tỷ phần theo số lượng hàng xuất khẩu chứng tỏ hàng hóa ấy có khả năng cạnh tranh cao. c. Thông qua chi phí sản xuất, giá của sản phẩm cạnh tranh so với giá thế giới. Thông qua chỉ tiêu DRC (Domestic Resource cost). DRC < 1: Xuất khẩu có hiệu quả DRC > 1: Xuất khẩu không có hiệu quả. d. Nội dung đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn được đánh giá về mặt xã hội. - Đo lường phúc lợi xã hội: Đem lại tác động tích cực về việc làm, thu nhập, đặc biệt các mặt hàng xuất khẩu được bảo hộ. Ví dụ: Nhà nước nhập khẩu thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp. Thuốc trừ sâu Validamixin của nước ngoài với giá 25$/1 thùng 10 chai, theo tỷ giá hiện tại thì tương đương 380.000đ/1 thùng. Nhưng về bán cho nông dân chỉ có 300.000đ/1 thùng. Như vậy nhà nước đã bị thiệt 80.000đ/1 thùng. Đây chính là mức bảo hộ mà nhà nước ưu đãi cho ngành sản xuất trong nước. Thực chất những ngành được bảo hộ có sức cạnh tranh không cao. Trong trường hợp này những người nông dân hạch toán với chi phí về thuốc là 300.000đ/1 thùng thuốc. Đây chỉ là hạch toán tài chính, nhưng về mặt xã hội Nhà nước phải hạch toán với giá 380.000đ/thùng. Đây là hạch toán kinh tế. Những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu thì sức cạnh tranh của hàng hóa ấy phải tính đến giá nhập đầy đủ mà nhà nước phải bỏ ra nhưng thực tế hiện nay chi phí sản xuất được hạch toán với giá đầu vào là giá bảo hộ. Do vậy chi phí sản xuất thường thấp hơn thực tế đ giá cả bị bóp méo (giá bảo hộ). Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản xuất khẩu chưa cao. e. Phải phát huy các tiềm năng như: Tiềm năng lợi thế trong sản xuất: yếu tố tự nhiên lao động, khai thác có hiệu quả để có được chi phí thấp tăng sức cạnh tranh. Sử dụng có chất lượng hiệu quả các yếu tố đầu vào bằng cách thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá nông nghiệp. Đào tạo đội ngũ lao động để nâng cao tay nghề, tạo ra khả năng chuyên môn sâu, tạo thành kỹ năng từ đó giảm thiểu rủi ro. 2. Phương pháp đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu: Khả năng cạnh tranh của hàng hóa được đánh giá bằng nhiều phương pháp nhưng nhìn chung tất cả các phương pháp đều dựa vào các chỉ tiêu, tiêu thức khác nhau. * Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường phản ánh phần trăm thị trường của doanh nghiệp. Thị phần có thể tính: Doanh thu Thị phần của doanh nghiệp (đất nước) = ------------------- . 100% S doanh thu trên thị trường Hoặc : Lượng bán Thị phần = ------------------------------------------ . 100% Lượng tiêu thụ trên thị trường Thị phần càng lớn thì độ chi phối trên thị trường của đơn vị càng lớn. Nh._.ưng chỉ tiêu này khó xác định bởi không biết được thông tin chi tiết chính xác về tình hình kinh doanh của các đối thủ. * Doanh thu so với đối thủ mạnh nhất: Thị phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất Doanh thu = ------------------------------- . 100% Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất Đây chỉ là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính do đối thủ cạnh tranh thường có nhiều thông tin hơn và thị phần mà đối thủ cạnh tranh mạnh nhất chiếm giữ thường là khu vực thị trường có lợi nhuận cao hơn và rất có thể đơn vị phải chiếm lĩnh khu vực này. Nhưng lại khó có thể lựa chọn được đối thủ mạnh nhất. * Tỷ suất lợi nhuận: Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận = ------------------ .100% Doanh thu Đây còn là chỉ tiêu đánh giá mức cạnh tranh trên thị trường. Nếu chỉ tiêu này thấp thì mức cạnh tranh là rất gay gắt, có nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Ngược lại nếu chỉ tiêu này cao có nghĩa là công việc kinh doanh thuận lợi, thu lợi cao. * Tỷ lệ chi phí cho Marketing: Đây là công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu, Marketing rất được ưa chuộng, chi phí cho Marketing chiếm một phần không nhỏ của tổng chi phí của doanh nghiệp. Chi phí Marketing (1) Chi phí Marketing (2) Tổng doanh thu Tổng chi phí Nếu chỉ tiêu (1) mà cao tức là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào Marketing nhưng lại không hiệu quả. Do đó doanh nghiệp cần xem xét lại Marketing cho phù hợp hơn mang lại hiệu quả cao hơn. Nếu chỉ tiêu (2) cao nghĩa là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào Marketing. Doanh nghiệp cần xem xét lại cơ cấu chi phí để đảm bảo lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp: Tăng chi phí cho nghiên cứu và phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng một số hệ số phản ánh về mặt lượng sau: - Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (Domestic Resource cost) Đây là hệ số phản ánh chi phí thực sự mà xã hội phải trả để sản xuất ra một hàng hóa đó. Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) chỉ thay đổi theo lợi thế so sánh của quốc gia chứ không thay đổi bởi tác động nhất thời. Do vậy nó mang tính ổn định tương đối và thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của từng ngành hàng. Hệ số chi phí nguồn lực trong nước được xác định bởi: DRC = DCj/IVAj Trong đó: DCj: Chi phí trong nước cho các yếu tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j. IVAj: Giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới. Như vậy hệ số chi phí nguồn lực trong nước là tỷ lệ giữa chi phí của các nhân tố sản xuất tính cùng của sản phẩm, ngành theo giá quốc tế. Nếu DRC < 1 cần lượng tài nguyên trong nước < 1 để tạo ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế. Ngành sản phẩm hay sản phẩm đó có lợi thế để phát triển. Nếu DRC > 1 cần lượng tài nguyên trong nước > 1 để tạo ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế. Khi đó ngành sản phẩm hay sản phẩm không có lợi thế để phát triển. - Hệ số bảo hộ hữu hiệu (Effective protection Rate - EPR) Một ngành j sử dụng chi phí đầu vào j kết hợp với các nhân tố sản xuất lao động, vốn tạo ra giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của sản phẩm j. Mức bảo hộ hữu hiệu sẽ làm tăng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng và được tính là : EPRj = (V*j - Vj)/Vj. Trong đó: Vj là giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá quốc tế (không có loại thuế nào đối với j). V*j là giá trị gia tăng trong nước (có thuế nhập khẩu) EPR có thể âm, dương hoặc bằng 0. Nếu EPR càng thấp thì hệ số bảo hộ càng ít. Khi hệ số bảo hộ thực tế âm thì ngành đó không những không được bảo hộ mà còn chịu bất lợi do chính sách ngoại thương gây ra. Song thực tế, những ngành có mức độ bảo hộ âm, thấp vẫn tồn tại và phát triển. Đó chính là những ngành có lợi thế nhất định, sản phẩm và doanh nghiệp sản xuất ra chúng có khả năng cạnh tranh, mức cầu và thị trường tiêu thụ chúng ổn định. Việc tính toán DRC giúp ta xác định khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhưng ta có thể sử dụng một cách tính đơn giản đó là dùng hệ số so sánh trông thấy. - Hệ số lợi thế so sánh trông thấy (Revealed comparative advantage - RCA) RCA chỉ ra khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu của thế giới. RCA là phần của nhóm sản phẩm chiếm trong tổng kim ngạch của quốc gia chia cho phần của nhóm sản phẩm đó trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. i: nước i w: Thế giới Xij: Xuất khẩu mặt hàng j của nước i Xwj: Xuất khẩu mặt hàng j của thế giới Nếu tỷ trọng xuất khẩu của nước i so với thế giới về mặt hàng j (Xij/Xwj) lớn hơn tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nước i so với tổng xuất khẩu của thế giới (SXij/SXwj) thì điều này chứng tỏ nước i có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Hệ số này càng cao thì lợi thế của hàng hóa càng lớn. Nếu RCA < 1 thì phần của nhóm sản phẩm chiếm trong tổng kim ngạch quốc gia nhỏ hơn phần của nhóm sản phẩm ấy trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Như vậy tức là nước i bất lợi khi sản xuất sản phẩm j. - Chỉ số năng lực cạnh tranh Ci. Chỉ số năng lực cạnh tranh là hệ số tổng hợp của các nhân tố như Tỷ giá hối đoái thực Do giá cả quốc tế (giá sản phẩm và giá vật tư) Do chính sách thương mại ngành Trong đó thì tỷ giá là yếu tố rất nhạy cảm. Tỷ giá thay đổi làm cho lợi thế cạnh tranh thay đổi ảnh hưởng đến xuất khẩu. Khi đồng nội tệ tăng giá (eư) thì xuất khẩu ¯ do nhà kinh doanh xuất khẩu chi phí cho các nguồn lực trong nước để đổi lấy một đồng ngoại tệ là không đổi, nhưng đồng ngoại tệ đó ở trong nước lại kém giá trị (đổi được ít nội tệ). Các chính sách về tỷ giá có ảnh hưởng khuyến khích hay kìm hãm xuất khẩu. Chương II Phân tích khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam thời gian qua I. Tổng quan chung về tình hình sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản Việt Nam 1. Tình hình sản xuất nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua: 1.1 Vị trí của hàng nông sản trong nền kinh tế Việt Nam Nông sản là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có hai ngành: Trồng trọt và chăn nuôi. Hiểu theo nghĩa rộng nó còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. Nông nghiệp và sản phẩm của ngành nông nghiệp (nghĩa rộng) giữ vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia - cho dù quốc gia đó là nước có nền kinh tế phát triển hay đang phát triển. Vị trí quan trọng đó được thể hiện ở các mặt sau: 1.1.1 Giá trị hàng nông sản trong tổng GDP của Việt Nam: Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mở cửa và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng rõ rệt trên cả 3 lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ. Thời kỳ 1991 - 1995 GDP chung cả nước tăng bình quân 8,2%, thời kỳ 1996 - 2000 tăng 6,9%, năm 2001 tăng khoảng 6,8%. Tính chung cho cả giai đoạn 1991 - 2000 mỗi năm tăng 7,6%. (Xem biểu 1) Biểu số 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam (% so với năm trước) Năm Cả nước Chia ra Nông - Lâm Thủy sản Công nghiệp và XDCB Dịch vụ 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 91-95 96-2000 91-2000 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,7 6,84 8,2 6,9 7,6 2,2 6,9 3,3 3,4 4,8 4,4 4,3 3,5 5,2 4,0 2,75 4,1 4,3 4,2 7,7 12,8 12,6 13,4 13,6 14,5 12,6 8,3 7,7 10,0 10,36 12,0 10,6 11,3 7,4 7,6 8,6 9,6 9,8 8,8 7,1 5,1 2,3 5,6 6,13 8,6 5,8 7,2 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 - Tổng cục Thống kê [10]. Khi đánh giá về thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất khẳng định thành công lớn nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định, với nhiều sản phẩm xuất khẩu có khối lượng lớn như: gạo, cà phê, cao su, điều, chè, ngô, thịt lợn... Có thể nói rằng, nông nghiệp Việt Nam đang dần dần hoà nhập vào xu thế chung của nông nghiệp toàn cầu và khu vực. Những thành tựu trong phát triển nông nghiệp Việt Nam trước hết thể hiện ở nhịp độ phát triển của giá trị tổng sản lượng nông nghiệp trong suốt thời gian đổi mới. Nhịp độ phát triển giá trị sản xuất nông nghiệp nước ta giai đoạn 1991 - 2000 đạt bình quân 5,7%. Tốc độ phát triển mạnh ở cả hai lĩnh vực: trồng trọt và chăn nuôi. Ngành trồng trọt chỉ phát triển với tốc độ 5,8%/năm còn chăn nuôi phát triển với tốc độ là 6,1%/năm. Trong ngành trồng trọt, giá trị sản lượng cây lương thực và cây công nghiệp tăng mạnh. Nhịp độ tăng bình quân giai đoạn 1991 - 2000 về giá trị sản lượng lương thực là 5,2% và cây công nghiệp là 10,5%. Tương tự như vậy, trong ngành chăn nuôi giá trị sản lượng gia súc tăng 6,2%/năm và gia cầm tăng 4,6%/năm. Cùng với sự gia tăng về nhịp độ phát triển giá trị sản lượng thì tỷ trọng giá trị hàng nông sản trong tổng số GDP cả nước cũng ngày càng thay đổi theo chiều hướng không ngừng tăng lên về giá trị sản lượng và giảm về tỷ trọng ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như năm 1991, giá trị sản lượng ngành nông, lâm, thủy sản nước ta đạt 31.058 tỷ đồng (theo giá hiện hành) chiếm 40,5% tổng GDP của cả nước thì đến năm 1995 là 62.219 tỷ đồng, chiếm 27,2% và năm 2000 là 107.913 tỷ đồng, tăng 3,5 lần và chiếm 24,3% trong tổng GDP của cả nước. Nếu tính giá so sánh 1994 thì tổng giá trị sản lượng ngành nông nghiệp năm 2000 cũng tăng đến 47,6% so với năm 1991. Có thể thấy rằng, tuy tỷ trọng GDP nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân giảm xuống, nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng lên liên tục. Đây là dấu hiệu chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta (Xem biểu 2) Biểu 2: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế. Đơn vị: % Năm Nông lâm thủy sản Công nghiệp và XD Dịch vụ 1985 1990 1995 2000 2001 40,17 38,74 27,18 24,3 23,38 27,23 22,67 28,76 36,61 37,75 32,48 38,59 4406 39,09 38,95 Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục thống kê Cơ cấu sản xuất nông lâm ngư nghiệp đã bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa dựa trên tín hiệu của thị trường trong và ngoài nước, phát huy thế mạnh của từng vùng sinh thái. Kết quả là: Trong giá trị sản xuất nông nghiệp, giá trị sản lượng lương thực giảm còn 50,8% vào năm 2000, sản phẩm cây công nghiệp tăng lên 16,6%, sản phẩm rau quả là 11,6%, chăn nuôi chiếm 17,1%. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phát triển đã kéo theo sự phát triển của các hoạt động công nghiệp chế biến: dịch vụ thương mại ở nhiều vùng nông thôn. Bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa nông sản nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến với thiết bị tương đối hiện đại, góp phần tăng nhanh tỷ suất hàng nông sản trong những năm gần đây. 1.1.2 Sản xuất hàng nông sản thu hút phần lớn nguồn nhân lực cả nước: Hiện nay, dân số Việt Nam khoảng 78 triệu người, trong đó có tới 50 triệu người sống ở nông thôn, đời sống người dân còn rất khó khăn, bình quân GDP 1 đầu người ở nước ta còn rất thấp: Năm 1994 là 240 USD/người/năm, năm 2000 là 400 USD/người/năm, năm 2001 là 420 USD/người/năm. Mức dư thừa lao động trong độ tuổi tương đối cao so với các nước trong khu vực. Năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta là 7,4%, năm 2000 là 6,44%, năm 2001 là 6,05%. Trong khi đó tỷ lệ này ở Trung Quốc là 2,6%, ở Hàn Quốc là 2,4%, Pakistan là 4,7% (Xem biểu 3). Biểu 3: Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động: Chỉ tiêu ĐVT 1998 1999 2000 2001 1. Dân số cả nước 2. Tỷ lệ thất nghiệp Trong đó: Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh Đà Nẵng 1000 người % % % % 75.456 6,85 9,09 6,76 6,35 76.596 7,40 10,31 7,04 6,64 77.625 6,44 7,95 6,48 5,95 78.686 6,13 7,30 5,94 5,38 Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục thống kê [10] Việc giải quyết đầy đủ công ăn việc làm cho lực lượng lao động ngày càng tăng của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn cần phải có một chủ trương đúng đắn, kết hợp nhiều biện pháp, có sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành, trong đó có cả tác động của hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ việc bố trí các ngành nghề sản xuất cần nhiều lao động đến việc gia công, chế biến sản phẩm và xuất khẩu hàng hóa. Có thể theo một số hướng sau: - Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tăng nhanh hàng nông sản xuất khẩu. - Phát triển mạnh mẽ các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung trên cả nước. - Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp hoạt động thương mại - dịch vụ du lịch, từ đó sẽ kéo theo các ngành dịch vụ khác cùng phát triển như: dịch vụ vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, hàng không), dịch vụ bảo hiểm, thanh toán quốc tế... - Khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cũ ở nông thôn, có sử dụng nhiều lao động như: Trồng dâu nuôi tằm dệt vải, dệt thảm, dệt cói, sơn mài, gốm sứ, trồng và chế biến điều, trồng và chế biến bông... - Tăng cường liên doanh, liên kết để hình thành các ngành kinh tế mới phù hợp với nhu cầu tiêu dùng hiện đại cho người dân như: lắp ráp điện tử, lắp ráp máy móc, chế biến thức ăn cho người, cho gia súc... - Xuất khẩu lao động ra nước ngoài: Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng nông sản, đặc biệt chú ý tới phát triển các hoạt động xuất khẩu là một trong những biện pháp tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ ở nước ta. Có như vậy mới có thể giải quyết một phần lao động dư thừa hiện nay ở nông thôn. Hiện tại, hơn 80% dân số của cả nước và trên 70% lao động xã hội sống dựa vào nông nghiệp, nông thôn. Bởi vậy, có phát triển sản xuất nông nghiệp với những mặt hàng nông sản cần nhiều lao động, phát triển ngành nghề nông thôn với các mặt hàng truyền thống, cộng với việc củng cố và xây dựng thêm các trung tâm công nghệ chế biến nông sản mới có điều kiện thu hút lực lượng lao động nông nghiệp, tạo công ăn việc làm trong nông nghiệp. Nông nghiệp nông thôn phát triển lại là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, chủ yếu dựa vào thị trường trong nước để tiêu thụ, mà trước hết là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, từ đó tăng sức mua của khu vực nông thôn là điều kiện hết sức quan trọng làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm công nghiệp tạo thuận lợi cho công nghiệp phát triển mạnh và ổn định. Nhìn chung, sản xuất hàng nông sản hàng hóa của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn nhỏ bé và còn gặp không ít những khó khăn. Do vậy, cần phải có sự tác động mạnh mẽ hơn nữa từ phía nhà nước, các ngành công nghiệp và từ khu vực thành thị, để cho nông nghiệp nông thôn phát triển vững chắc và ổn định. 1.1.3 Bảo đảm nguồn lương thực, thực phẩm cho cả nước để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp cho con người những sản phẩm tối cần thiết của cuộc sống. Đó là lương thực và thực phẩm, những sản phẩm mà với trình độ phát triển cao của khoa học kỹ thuật tiên tiến ngày nay cũng không có một ngành nào có thể thay thế được. Lương thực và thực phẩm là yếu tố đầu tiên của sự tồn tại và phát triển kinh tế của một đất nước. Xã hội càng phát triển, đời sống của con người càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng gia tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Sự gia tăng này do hai yếu tố: Do sự gia tăng không ngừng của dân số thế giới và do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người. Chỉ có một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao mới có hy vọng đáp ứng được những nhu cầu tăng lên thường xuyên đó. Sản xuất lương thực thực phẩm nhằm cung cấp nguồn vật chất chủ yếu nuôi sống con người được hình thành ngay từ thuở đầu tiên của xã hội loài người. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại trên nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhưng cho đến nay vấn đề lương thực - thực phẩm loài người, vẫn còn phải đối mặt với nỗi đau nhức nhối là thiếu đói lương thực - thực phẩm, suy dinh dưỡng còn nhiều. Theo các nhà phân tích lương thực thế giới, trên hành tinh chúng ta chỉ có khoảng trên 25% số người có mức ăn đầy đủ dinh dưỡng (trên 3.000 calo/ngày/người). Đối lập lại, còn có khoảng 500 triệu người bị đói nghiêm trọng. Những nạn nhân này chủ yếu sống ở châu á, châu Phi, tập trung ở các nước kinh tế chậm phát triển, trong đó ngành nông nghiệp vẫn còn yếu kém và lạc hậu. Đối với nước ta, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, thắng lợi trên mặt trận lương thực là một trong những thành tựu nổi bật nhất. Từ chỗ thiếu lương thực triền miên, hàng năm phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu tấn lương thực - thực phẩm đủ đảm bảo tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và còn xuất khẩu hàng năm từ 3,4 - 4 triệu tấn gạo. Năm 2000 sản lượng lương thực đạt gần 36 triệu tấn tăng 1,7 lần so với năm 1990. Sản lượng lạc tăng tương ứng là 1,6 lần, mía nguyên liệu tăng 2,8 lần, chè búp tăng 2,4 lần, cà phê tăng 7,6 lần, cao su mủ khô tăng 5 lần, thịt lợn hơi tăng 1,9 lần, thủy hải sản tăng 2,4 lần... Đây là một kỳ tích của nền nông nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm xuống nhanh chóng từ gần 30% năm 1993 đến năm 1999 chỉ còn 16%, năm 2000 còn 10%, năm 2001 còn 8,9% số hộ đói nghèo. Bình quân lương thực đầu người cũng tăng lên từ 325 kg năm 1990 đến 455 kg năm 2000 và năm 2001 đã là 465 kg. Một khi chúng ta đã chặn đứng được nạn đói nghèo, thiếu lương thực - thực phẩm, thì có nhiều điều kiện để ổn định tình hình chính trị, trật tự an ninh xã hội và có thể tiếp tục phát triển nền kinh tế trong cả nước một cách ổn định và vững chắc. 1.1.4 Đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp: Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Việt Nam là một nước nằm ở vùng châu á gió mùa, có khí hậu nhiệt đới, pha trộn khí hậu ôn đới, sản phẩm của chúng ta rất phong phú với số lượng lớn, nhiều chủng loại, 4 mùa đều cho thu hoạch. Đây là điều kiện quan trọng ban đầu để các ngành công nghiệp chế biến nông sản hoạt động và phát triển. Năm 2000, ngành nông nghiệp đã sản xuất được trên 35,8 triệu tấn lương thực, trong đó thóc là 32,6 triệu tấn; mía cây là 1,6 triệu tấn, lạc 353 ngàn tấn; Cà phê 400 ngàn tấn; Cao su:290 ngàn tấn; Chè: 76 ngàn tấn; Dừa: 1 triệu tấn; Cói: 58 ngàn tấn; Lợn: 20 triệu con; Gia cầm: 196 triệu con; Diện tích rừng cả nước là 10,9 triệu ha, lượng gỗ khai thác là 2,6 triệu m3. Sản lượng thủy sản hàng năm là 2 triệu tấn. Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào đa dạng cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến nông sản nước ta. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp được nâng lên nhiều lần. Điều này vừa góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, vừa tăng thu nhập cho người lao động, tăng nguồn tài chính cho quốc gia. - Nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển - là khu vực cung cấp lao động cho sự phát triển của các ngành công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa một mặt nó tạo ra nhu cầu rất lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động trong nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động được giải phóng từ nông nghiệp ngày càng nhiều. Số này lại chuyển dịch vào công nghiệp dịch vụ và thành phố. Đây là một xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lao động dồi dào với giá tiền công thấp được cung cấp từ nông nghiệp là một lợi thế, một nguồn lực quan trọng để tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy công nghiệp và các lĩnh vực khác của nền kinh tế phát triển. Lao động và nhân khẩu trong nông nghiệp nước ta còn quá cao, trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên: Số liệu thống kê cho thấy: năm 1990 dân số nông thôn là 53,1 triệu người thì đến năm 2000 đạt đến 59,1triệu người với tốc độ tăng bình quân 1,12%/năm. Sự gia tăng như vậy cũng mang tính quy luật. Đây là nguồn cung cấp lao động dồi dào không những cho công nghiệp, đô thị mà còn cung cấp đủ cho ngay cả những ngành nông nghiệp cần nhiều lao động sống như: Ngành trồng dâu nuôi tằm, ngành trồng chè, cao su, điều, hoa cây cảnh, lâm nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. 1.2 Vai trò của hàng nông sản xuất khẩu trong nền kinh tế Việt Nam: Đối với những nước có lợi thế về đất đai, thời tiết khí hậu và các nguồn lực khác thì nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong việc sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, nhất là các nước đi lên từ ngành nông nghiệp như Việt Nam. Cho đến nay, xét trên nhiều chỉ tiêu kinh tế Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới. Để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang tầm với các quốc gia khác trong khu vực, chúng ta cần phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong một thời gian tương đối dài. Định hướng thay thế nhập khẩu, như kinh nghiệm của nhiều nước đã chỉ ra, có thể mang lại tốc độ tăng trưởng cao nhưng không thật sự bền vững. Đến một giai đoạn nhất định, do sức mua của thị trường nội địa hạn chế sẽ không cho phép tiếp tục phát triển sản xuất đến quy mô tối ưu, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu, do lấy đích là thị trường ngoài nước, sẽ có nhiều khả năng tránh được trở ngại trên. Sản xuất sẽ phát triển đến quy mô kinh tế tối ưu, sử dụng hợp lý các nguồn lực, qua đó đã đảm bảo một tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đối với Việt Nam, chiến lược hợp lý nhất cần được ưu tiên trong thời gian tới vẫn sẽ là “hướng về xuất khẩu”. Cần nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại, tránh những tư tưởng chiến lược không rõ ràng như: Vừa hướng mạnh về xuất khẩu lại vừa đẩy mạnh thay thế nhập khẩu. Như vậy là, tất cả các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, trước hết tập trung vào các ngành hàng chủ lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Kiên định đường lối phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, ngành nông nghiệp Việt Nam thông qua hoạt động xuất khẩu của mình cũng đã thể hiện rõ vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất và tăng trưởng nền kinh tế chung của đất nước. 1.2.1 Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn để nhập khẩu công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ngay từ Đại hội lần thứ VIII Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản của Việt Nam trong thời gian tới là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Theo kinh nghiệm của đất nước, giải pháp quan trọng để thực hiện quá trình này là phải thu hút được nhiều nhất vốn và kỹ thuật từ nước ngoài. Với cách tiếp cận này, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và tư liệu sản xuất có ý nghĩa to lớn. Song với một quốc gia nghèo như Việt nam, thiếu nguồn ngoại tệ mạnh, dự trữ quốc gia ít thì khó mà thực hiện được. Trong tình hình đó, nguồn vốn để thực hiện công nghiệp hóa thường được hình thành từ các nguồn sau: - Vốn trong nước: Từ xuất khẩu hàng hóa, từ dịch vụ và du lịch, từ xuất khẩu lao động... - Vốn nước ngoài: từ đầu tư của các nước, từ đi vay nợ và viện trợ... Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy rất quan trọng trong giai đoạn đầu xây dựng nền kinh tế, nhưng phải theo nguyên tắc là nhận vốn đầu tư của nước ngoài là phải trả bằng sản phẩm hoặc phải chia sẻ tài nguyên với đối tác. Còn vay nợ hay viện trợ đều phải trả nợ sau thời gian cam kết bằng mọi cách. Vốn ODA thì bao giờ cũng đi kèm với điều kiện chính trị. Đối với vốn trong nước thì số vốn dịch vụ, du lịch bằng thu ngoại tệ quá nhỏ bé so với số vốn đầu tư ban đầu cho các ngành này. Như vậy là chỉ có thể trông chờ vào nguồn vốn thu được từ xuất khẩu hàng hóa (Xem biểu 4). Biểu 4: Các nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam Đơn vị tính: triệu USD Năm Du lịch Xuất khẩu FDI ODA Tổng số 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 390,9 291,5 325,4 258,3 265,2 285,7 298,6 5.449 7.225 9.180 9.361 11.540 14.308 14.560 6.530,8 8.497,3 4.649,1 3.897,4 1.568,0 1.987,0 2.436,0 612 985 1.015 1.430 1.452 1.500 1.711 12.981,8 17.028,8 15.174,5 14.964,7 14.825,2 18.080,7 19.005,6 Cộng 2.114,7 71.658 29.475,6 8.705 112.061,3 Nguồn: Niên giám Thống kê 2000 - NXB Thống kê Hà Nội 2001 [10] Vụ Kế hoạch thống kê Số liệu cho ta thấy: Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 7 năm gần đây là 71.658 tỷ USD, trong khi đó tổng các khoản thu ngoại tệ khác mới đạt 40.815,9 tỷ USD. Như vậy tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 63,7% tổng nguồn thu ngoại tệ tăng 2,7% so với năm 2000 (61%). Nước ta là một nước nông nghiệp còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, sản xuất nông nghiệp phát triển chậm và còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nhiều tiềm năng vẫn chưa được khai thác hợp lý. Việc xây dựng nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường thì đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ với các nước nhằm tăng kim ngạch xuất nhập khẩu là cần thiết trong giai đoạn hiện nay, phương hướng đẩy mạnh công tác xuất khẩu của nước ta trong thời gian tới là khai thác có hiệu qủa tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường. Muốn vậy phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn hợp lý nhằm tạo ra nguồn nông sản có chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, mẫu mã hàng hóa. Có như vậy mới cung cấp ổn định, vững chắc nguồn nông sản xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng mức độ tích lũy cho đất nước, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Năm 2000,2001 mặc dù thị trường thế giới biến động có nhiều tác động xấu đến tình hình xuất khẩu nông sản của các nước, nhưng nước ta vẫn xuất khẩu được 3,5 triệu tấn gạo (2000) và 3,6 triệu tấn (2001) và gần 700 ngàn tấn cà phê nhân, 280 ngàn tấn cao su, 45 ngàn tấn chè khô, 36 ngàn tấn hạt tiêu, 26 ngàn tấn điều, 1,5 tỷ USD thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản năm 2000 là 4,3 tỷ USD và năm 2001 là gần 5 tỷ USD. Năm 2000 chiếm 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và năm 2001 là trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhờ việc hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa mà tỷ suất hàng hóa các loại nông sản đã ngày càng tăng lên rõ rệt. Đến nay, tỷ trọng lúa hàng hóa đạt 25%, chè 42%, cao su 85%, cà phê 95%, hạt điều 85%, hồ tiêu 99%, tỷ trọng hàng rau quả hàng hóa năm 1997 đạt 21,8%. Tuy xuất khẩu của Việt Nam còn nhỏ bé nhưng lại rất có ý nghĩa đối với đất nước ta trong việc phát huy mọi nguồn lực trong nước, tăng tích lũy quốc dân, tạo thêm vốn đầu tư đổi mới công nghệ và tăng thêm việc làm cho đội ngũ lao động nông nghiệp, và có tác động tích cực đối với ngành nông nghiệp. Có thể nói rằng, nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là nguồn vốn chính để nước ta có thể nhập khẩu hàng hóa công nghệ, máy móc phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, đẩy mạnh xuất khẩu còn có ý nghĩa trong việc dành một khoản ngoại tệ để trả nợ cho các khoản vay nợ nước ngoài đã đến hạn phải trả, tạo thêm uy tín cho các khoản vay mới. 1.2.2 Xuất khẩu nông sản thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hiện tại tồn tại 2 cách nhìn khác nhau về xuất khẩu hàng hóa và từ đó có sự khác nhau về tác động của nó đến cơ cấu kinh tế quốc gia. Thứ nhất, đẩy mạnh sản xuất đáp ứng đầy đủ tiêu dùng trong nước, khi nào cung vượt quá cầu nội địa thì sẽ xuất khẩu những sản phẩm dư thừa. Theo cách này, xuất khẩu là hoạt động thụ động chờ có dư thừa sản phẩm của sản xuất và tiêu dùng trong nước mới xuất khẩu nên rất nhỏ bé về khối lượng và ít có tác động đến việc thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu mặt hàng. Thứ hai, coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất trong nước sao cho những mặt hàng thoả mãn những tiêu chuẩn nhu cầu của thị trường thế giới. Nói một cách khác là bản thân đất nước đó phải tạo lập và hình thành những ngành nghề kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu. Những sản phẩm của ngành kinh tế đó phải chứa đựng hàm lượng kỹ thuật, công nghệ và trí tuệ cao để khi tham gia vào thị trường thế giới sẽ có đủ sức cạnh tranh và mang lại lợi ích cho quốc gia. Theo cách nhìn nhận này thì đây chính là giải pháp làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ nhất theo chiều hướng có lợi hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới phát triển nhanh chóng, nên cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới cũng rất đa dạng và luôn luôn thay đổi. Các nước phát triển ngày càng tập trung vào sản xuất các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật có vốn cao, ít ô nhiễm môi trường, còn các nước công nghiệp mới (NICs) thì càng phấn đấu để đuổi kịp các nước phát triển với phương châm vừa tiếp thu công nghệ mà các nước phát triển chuyển giao, vừa khai thác sử dụng, vừa cải tiến sáng tạo theo phương pháp 3 “I”. - Imitation : Bắt chước - Initiative : Cải tiến - Innovation: Sáng tạo Chính vì vậy mà nhiều ngành kinh tế đã đuổi kịp, thậm chí đã vượt quá so với các nước phát triển, cơ cấu kinh tế nhiều nước đã thay đổi một cách mạnh mẽ, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư và công nghệ từ nước ngoài, thương mại thế giới ngày càng phát triển. Tác động của xuất khẩu đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá được thể hiện ở một số điểm sau: - Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển một cách thuận lợi, xuất khẩu phát triển chính là tạo đầu ra cho một số ngành sản xuất, mặt khác lại chính là phương tiện để nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị cung cấp đầu vào cho một số ngành kinh tế khác. - Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển ổn định. Khi xuất khẩu phát triển cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm được sản xuất ra từ quốc gia không còn chỉ tiêu thụ ở thị trường trong nước đó mà thị trường bây giờ là thị trường cả thế giới bao la. - Xuất khẩu vừa là nhịp cầu nối vừa là phương tiện quan trọng để cung cấp đầu vào cho sản xuất nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước (kể cả công tác tổ chức quản lý kinh doanh). Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của nền kinh tế mở cửa, gắn nền kinh tế trong nước với nước ngoài thông qua ngoại thương xuất khẩu, cạnh tranh và tôn trọng các quy luật kinh tế khá._.ổn định giá cả cho người nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản xuất khẩu. Nông sản là một mặt hàng có khả năng xuất khẩu lớn, tuy nhiên lại là mặt hàng chịu nhiều rủi ro do sự lên xuống thất thường của giá cả và chịu sức ép lớn nhất trên thị trường quốc tế. Có thể nói, vấn đề ổn định giá cho nông sản ở Việt Nam là vô cùng cần thiết. Cho đến nay, các yếu tố “đầu vào” của sản xuất nông nghiệp và đầu ra của nông sản đều có liên quan đến giá cả thị trường quốc tế, nhưng nhiều năm chỉ số chung giá xuất khẩu nông sản thấp hơn so với chỉ số chung giá nhập khẩu tư liệu sản xuất trên thị trường thế giới. Tình hình trên đã làm cho giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và hàng nông sản bất lợi cho nông dân. Cung cầu giá cả thị trường không ổn định thì người chịu thua thiệt nhiều nhất là nông dân và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu. Khi cung lớn hơn cầu giá tụt xuống sẽ kìm hãm việc kinh doanh và sản xuất của các doanh nghiệp và nông dân, nhưng khi giá tăng lên thì không có hoặc không có nhiều nông sản bán ra. Vì vậy, Nhà nước nên có những biện pháp khắc phục tình trạng biến động giá cả, đặc biệt hiện nay tình trạng giá nông sản trên thế giới đang có xu hướng giảm và về lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Khi giá nông sản thị trường thế giới xuống thấp bằng, thậm chí dưới giá thành sản xuất, Nhà nước nên phát tín hiệu và tiến hành mua vào với khối lượng lớn nông sản xuất khẩu theo giá thị trường trong một thời gian ngắn dự trữ, cho đến khi giá thị trường xoay quanh giá tín hiệu thì dừng lại. Đồng thời giúp nông dân tìm kiếm thị trường tiêu thụ, đàm phán ký kết hợp đồng trả nợ bằng nông sản và tạm thời giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, tạm dừng việc thu thuế, thu nợ tín dụng đối với nông dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ giá mua nhằm tăng lượng dự trữ, giảm giá vật tư và thực hiện chính sách bảo trợ giá trên nguyên tắc “Lấy lúc xuất khẩu được cao bù cho lúc xuất khẩu giá thấp” trong đó bảo trợ giá tối thiểu là quan trọng nhất, nhằm ổn định nguồn cung cho xuất khẩu, thu ngoại tệ cho quốc gia. Trong thời gian gần đây, để góp phần bình ổn giá, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được hình thành trên nguyên tắc: khuyến khích, hỗ trợ, kích thích việc khơi dậy những tiềm năng, những lợi thế so sánh của đất nước phục vụ cho việc phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững. Cơ chế hoạt động của Quỹ này là thu chênh lệch giá phát sinh của hàng xuất nhập khẩu, hàng sản xuất trong nước để chi hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh những vật tư hàng hóa quan trọng có điều kiện dự trữ lưu thông điều hòa cung cầu bình ổn giá cả. Nhờ sự hỗ trợ này mà các doanh nghiệp hoặc tăng cung hoặc kích cầu khi cần thiết tác động đến thị trường giá cả, góp phần làm cho giá cả từ chỗ quá thấp hoặc quá cao không hợp lý trở về mức giá của mặt bằng chung mà xã hội chấp nhận, tác động chung của mặt bằng giá. Do đó, có thể nói việc triển khai quỹ này không chỉ bao gồm việc hỗ trợ xuất khẩu mà thông qua việc phụ thu chênh lệch giá lập quỹ, hỗ trợ xuất khẩu còn bao hàm nội dung bình ổn giá chính những mặt hàng bị phụ thu và những mặt hàng được hỗ trợ. Vì vậy, trong thời gian tới cần phát huy vai trò của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đồng thời nhà nước cần hình thành thêm một số quỹ hỗ trợ và bảo trợ phát triển sản xuất và mở rộng thị trường nông sản như Quỹ hỗ trợ phát triển các mặt hàng nông sản chủ lực (gạo, cà phê... ). Quỹ bảo hiểm rủi ro thiên tai và rủi ro thị trường... với mục tiêu ổn định giá nông sản, trong đó, cần chú trọng nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt, cần thành lập các quỹ bảo hiểm cho nông sản: lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn... Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản thu, đóng góp khác đối với từng loại nông sản. 2.3 Tăng cường công tác xúc tiến thương mại đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu: Bối cảnh bên ngoài và hoàn cảnh bên trong đang thay đổi với tốc độ nhanh. Bộ máy quản lý nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để bắt kịp các thay đổi này nhưng nhìn chung thì hoạt động còn khá thụ động và trì trệ. Xuất khẩu vì thế vẫn chưa có được những định hướng rõ ràng và dài hạn ở tầm vĩ mô. Mặc dù, Chính phủ đã có quyết định thành lập Cục xúc tiến thương mại, song do mỗi hoạt động trong một thời gian ngắn nên công tác xúc tiến thương mại hàng nông sản vẫn chưa được tiến hành có hệ thống và có hiệu quả. Do đó, trước yêu cầu cấp bách của vấn đề tiêu thụ hàng hóa nông sản hiện nay thì việc tăng cường công tác xúc tiến thương mại đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu cần được chú trọng và triển khai ngay một số nội dung về công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại hàng nông sản như sau: - Phối hợp tổ chức các hội chợ thương mại ở trong nước: Hội chợ nông nghiệp ở Hà Nội, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, miền Trung, các hội chợ chuyên đề về chăn nuôi, rau quả... - Hỗ trợ một phần kinh phí và tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm quốc tế như ở Trung Quốc, Thái Lan, châu Âu, Mỹ. Có thể nói, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới chiếm một tỷ lệ vô cùng nhỏ, ngoài mặt hàng gạo, cà phê, các mặt hàng nông sản còn lại hầu như chưa được bạn hàng nước ngoài biết đến. Mặt khác, lại có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam có mong muốn được tham gia các cuộc triển lãm ở nước ngoài qua đó có thể mang hàng của chính mình giới thiệu với các bạn bè thế giới, từ đó tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp ký kết được các hợp đồng lớn. Thế nhưng kinh phí cho mỗi lần tham gia như thế rất lớn trong điều kiện nguồn vốn doanh nghiệp còn hạn hẹp. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ một phần kinh phí của nhà nước giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm trên thế giới. - Tổ chức các buổi thử nếm, tham quan vùng sản xuất, nơi trưng bày hàng hóa, hội thảo... để giới thiệu hàng nông sản với khách hàng trong và ngoài nước. - Tổ chức giới thiệu hàng nông sản thông qua các sự kiện thể thao, văn hóa, phát hành các ấn phẩm giới thiệu về nông nghiệp các mặt hàng, các doanh nghiệp. Xây dựng chương trình tuyên truyền, quảng cáo cho hàng nông sản, từng bước tạo hình ảnh đẹp về hàng hóa của Việt Nam đối với khách hàng nước ngoài. Mặc dù hàng nông sản đã có mặt ở trên năm khu vực thị trường trên thế giới, nhưng muốn mở rộng phạm vi thị trường, mở rộng phạm vi bạn hàng cần phải quan tâm đến các hoạt động khuyếch trương sản phẩm để thu hút thêm nhiều khách hàng nước ngoài. Để chuẩn bị tốt cho công tác này phải có những xuất bản phẩm, những catalogue, tờ rơi giới thiệu về hàng nông sản. Những ấn phẩm này đòi hỏi phải được in ấn đẹp đẽ, thông tin ngắn gọn nhưng đầy đủ, cách bố trí hấp dẫn, thu hút người xem. - Giới thiệu và hướng dẫn các doanh nghiệp về thương mại điện tử, giới thiệu hàng hóa, doanh nghiệp qua trang Web. Sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu Internet đã làm nảy sinh một hình thức thương mại mới là thương mại điện tử, được hiểu là hình thức hoạt động thương mại bằng các biện pháp điện tử hay sự trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện của công nghệ điện tử. Phạm vi của thương mại điện tử cũng rất rộng, buôn bán hàng hóa mới chỉ là một phần trong nhiều lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử. Ưu điểm của phương thức giao dịch thương mại này ở chỗ các chủ thể tham gia thương mại vừa tiếp cận được nguồn thông tin về thị trường vừa giảm được chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ như chi phí tiếp thị, chi phí giao dịch. Đồng thời, tạo điều kiện trực tiếp thiết lập và củng cố mối quan hệ bạn hàng thông qua tìm nhau trên mạng và có thể giao tiếp một cách liên tục. Làm việc với các cơ quan truyền thông để đề nghị giảm chi phí quảng cáo, giá cước dịch vụ viễn thông trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với hàng nông sản. Hiện nay, ở nước ta, chi phí bỏ ra cho quảng cáo còn khá lớn, giá cước thông tin đắt hơn rất nhiều so với các quốc gia khác. Điều này đã làm hạn chế khả năng giao dịch và tìm kiếm thông tin của doanh nghiệp với thị trường nước ngoài. Vì vậy, đối với vấn đề này, nhà nước cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp để làm sao đưa được mức giá gần với mặt bằng quốc tế. 2.4 Tổ chức công tác thông tin về thị trường xuất khẩu nông sản kịp thời, chính xác. Do quy mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong nước, mặt khác, thị trường nông sản quốc tế lại thường xuyên biến động phức tạp, nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu thị trường. ở Việt Nam, các doanh nghiệp nắm bắt thông tin về thị trường trong nước và quốc tế còn rất kém, thông tin thiếu và độ chính xác không cao. Vì vậy, nhiều khi các doanh nghiệp bị động, lúng túng trong điều hành xuất khẩu nông sản. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong kinh doanh nông sản trong và ngoài nước là hết sức quan trọng, và phải được vận hành đồng bộ giữa các cấp, cụ thể: + Đối với cơ quan hoạch định chính sách: - Tăng cường bộ phận theo dõi thị trường, chịu trách nhiệm nghiên cứu, cung cấp các thông tin về giá cả, thị trường hàng nông sản trong cả nước và quốc tế. - Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, ti vi, mạng truyền thông....) thông tin cho người sản xuất nắm được tình hình cung, cầu, giá cả thị trường trong nước và ngoài nước đối với hàng nông sản để họ tự quyết định về quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm. - Duy trì trang Web về nông sản và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản Việt Nam để giới thiệu hàng trong và ngoài nước. + Đối với các Liên hiệp hợp tác xã (HTX), Hiệp hội ngân hàng - Tổ chức nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng hàng nông lâm sản trong nước và các thị trường xuất khẩu chính để có chiến lược kinh doanh phù hợp. - Hướng dẫn các thành viên, người sản xuất thực hiện các quy trình công nghệ để làm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường, thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, giá cả trên thị trường. + Đối với các doanh nghiệp, chủ trang trại, hộ sản xuất nhỏ. - Chủ động nắm bắt thông tin thị trường và tìm kiếm các cơ hội giới thiệu sản phẩm do mình làm ra. - Tổ chức từng nhóm hộ nhỏ hoặc thông qua hợp tác xã giới thiệu trong các dịp lễ hội, các hoạt động văn hóa, đặc biệt giới thiệu các sản phẩm truyền thống quê hương. - Phối hợp với cơ quan du lịch tổ chức các hình thức du lịch sinh thái giới thiệu sản phẩm, nhất là các sản phẩm kinh tế vườn, đồi. + Đối với các cơ quan đại điện ở nước ngoài: Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cần có các nhóm công tác nghiên cứu thị trường, có báo cáo chi tiết về thị trường, chức năng của các cơ quan này là nắm bắt và cung cấp các thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức xúc tiến xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài một cách thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Và về lâu dài sẽ tiến tới thiết lập một ngân hàng dữ liệu về từng thị trường nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho các doanh nghiệp nếu họ cần đến. 3. Giải pháp về tổ chức quản lý lưu thông: Có thể nói, trong các giải pháp trên thì giải pháp này được người sản xuất kinh doanh cũng như nhà nước quan tâm nhất. Vì giải pháp này trả lời được câu hỏi tiêu thụ nông sản bằng cách nào và như thế nào để có hiệu quả nhanh nhất trong thời gian ngắn nhất (nhất là ở thị trường nước ngoài). Trong khi ở nước ta, khâu này còn rất nhiều bất cập. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thì cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: 3.1 Tổ chức mạng lưới thu mua đồng bộ: Trong thời gian qua, việc tổ chức mạng lưới thu mua chưa tốt dẫn đến tình trạng hàng hóa nông sản tuy chưa nhiều, nhưng đã có hiện tượng ứ đọng. Với số nông sản này, trừ phần tiêu dùng tại chỗ, số còn lại cần xuất khẩu là rất lớn, song hệ thống thương mại dịch vụ làm chức năng thu mua nông sản còn rất nhiều yếu kém cả về tổ chức và phương thức hoạt động. Cho đến nay, việc thu mua nông sản chủ yếu chỉ do hai lực lượng tham gia: Thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp tư nhân, còn thương nghiệp Hợp tác xã hầu như chưa có vai trò gì đáng kể. Thương nghiệp nhà nước mới chỉ tập trung vào mua nông sản, chưa tổ chức được mạng lưới rộng khắp các cửa hàng, trạm thu mua trực tiếp quan hệ với nông dân mà chủ yếu là mua nông sản xuất khẩu qua mạng lưới thương nghiệp tư nhân. Phần nông sản xuất khẩu bằng hợp đồng trực tiếp ký kết giữa Việt Nam với các công ty thì ít, phần thông qua các công ty môi giới thì nhiều. Nông dân bị thua thiệt, nhà nước cũng không có lợi. Do đó, cần phải tổ chức mạng lưới thu mua hàng nông sản có hệ thống và đồng bộ. Trước hết, cần đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của thương nghiệp nhà nước với mục tiêu phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của nó trong quá trình phát triển tiêu thụ thị trường nông sản như tập trung làm tốt công tác tìm kiếm thị trường, định hướng các sản phẩm chính, hướng dẫn và ký kết hợp đồng với người sản xuất, quan tâm xây dựng mạng lưới đại lý tiêu thụ sản phẩm đến tận địa phương. Cần nhanh chóng củng cố các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản và vật tư nông nghiệp, trong đó trọng tâm là các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu. Đối với bộ phận nội thương, cần củng cố và phát triển mạng lưới các cửa hàng kinh doanh tổng hợp ở các chợ, cụm thương mại dịch vụ ở các thị trấn, thị tứ, tụ điểm dân cư. Về phương thức hoạt động, cần kết hợp mua bán theo chuyên doanh, thực hiện bán buôn, mua sỉ là chủ yếu, tăng cường hoạt động tiếp thị, giảm tỷ trọng xuất khẩu qua khách hàng và thị trường trung gian, tăng tỷ trọng xuất khẩu nông sản theo điều kiện CIF để nông dân có lợi hơn. Đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu, tham gia hội chợ... để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng, các nhà buôn, các chính phủ nhằm tăng doanh số, tăng khối lượng sản phẩm bán ra ngoài. Tiếp đến, đối với thương nghiệp hợp tác xã, cần làm cho loại hình này trở thành chỗ dựa, trợ thủ đắc lực của nông dân, là lực lượng nòng cốt để thương nghiệp nhà nước định hướng thị trường tiêu thụ. Phát triển hợp tác xã tiêu thụ dưới nhiều hình thức, hướng các hợp tác xã nông nghiệp làm chức năng đại diện hợp đồng thu mua hàng hóa nông sản cho nông dân. Về phương thức tổ chức tiêu thụ nông sản, thương nghiệp hợp tác xã cần thực hiện bằng cách thu mua bảo quản, dự trữ và bán nông sản qua mạng lưới tiêu thụ nông sản quốc gia và quốc tế. Về phương thức hoạt động của hợp tác xã, trước hết cần phải phối hợp cùng vận chuyển với mục đích là giảm chi phí vận chuyển thông qua việc mở rộng quy mô vận chuyển. Thương nghiệp hợp tác xã làm dịch vụ vận chuyển còn hàng hóa và thoả thuận mua bán do cá nhân xã viên thực hiện. Sau đó, phối hợp lựa chọn hàng nhằm tăng khả năng giao dịch nhờ giao hàng với số lượng lớn. Các mặt hàng được chọn lựa theo tiêu chuẩn chung, theo một chuẩn chất lượng. Bước cuối cùng là phối hợp thu mua, hợp tác xã làm toàn bộ dịch vụ thu mua, quyết định nơi bán, lượng bán, thời hạn giao hàng. 3.2 Quy định đầu mối xuất khẩu trung gian cho mặt hàng nông sản. Hiện nay trong nước có quá nhiều doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu một ngành hàng, một mặt hàng nhưng không có sự hình thành rõ quan hệ ngành hàng, thiếu sự hướng dẫn, điều hành, phân công và sự phối kết hợp trong hoạt động kinh doanh đã dẫn đến tình trạng lộn xộn trên thị trường mỗi khi có nhu cầu hàng xuất khẩu mạnh ai nấy làm. Hậu quả gây ra là giá mua trong nước bị đẩy lên cao và giá bán ở thị trường nước ngoài bị đẩy xuống, gây thiệt hại lớn tới lợi ích xã hội và người sản xuất. Do đó, thành lập các hiệp hội, ngành hàng cho từng mặt hàng nông sản xuất khẩu cần phải được nghiên cứu. Việc thành lập này nhằm mục đích đưa hoạt động xuất khẩu nông sản về một mối, thống nhất được giá mua, giá bán, tránh được những bất lợi, thua thiệt không đáng có đồng thời sẽ giúp cho Nhà nước dễ kiểm tra, giám sát được tiêu chuẩn hàng hóa trước khi xuất khẩu. Trong khi đó, ở thị trường nước ngoài, kênh phân phối các mặt hàng nông sản của Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh vẫn chưa cung cấp được đến tận tay người tiêu dùng, chủ yếu xuất khẩu qua các hãng buôn nước ngoài. Các hãng này mua sản phẩm của Việt Nam về chế biến lại và gắn các nhãn mác khác nhau sau đó đem tiêu thụ tại chính thị trường đó hoặc xuất sang các nước thứ ba. Chính vì vậy mà hình ảnh về sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới còn chiếm con số rất nhỏ bé. Do đó, Việt Nam cần thiết lập hệ thống kênh phân phối trực tiếp, rộng khắp với các nước, hạn chế xuất khẩu qua trung gian. Muốn vậy, Việt Nam cần phải nghiên cứu để thuê được những gian hàng trưng bầy bán sản phẩm của Việt Nam có vị trí thuận lợi, xây dựng các kho ngoại quan để lưu trữ hàng hóa, đào tạo một đội ngũ nhân viên bán hàng giỏi, có thái độ tận tình với khách hàng. Đồng thời, Việt Nam cũng cần nhanh chóng tiếp cận, tham gia vào các kênh phân phối khác như các công ty chuyên doanh nước ngoài, các công ty siêu thị, các công ty bán lẻ được tổ chức rộng khắp ở thị trường nước ngoài, các cửa hàng bán lẻ của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Có như vậy, nông sản của Việt Nam mới chen chân được vào các thị trường cuối cùng, tránh sự lệ thuộc vào các thị trường trung gian. 3.3 áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Trên cơ sở xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hóa - dịch vụ xuất khẩu phù hợp với đòi hỏi của từng thị trường về các loại nông sản, mọi nông sản hàng hóa trước khi xuất khẩu phải được kiểm tra chất lượng chặt chẽ theo những quy định đó. Thông qua biện pháp này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quan tâm hơn nữa đến công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch) từ khâu sản xuất - chế biến - bảo quản - vận chuyển - xuất khẩu nhằm vừa nâng cao khả năng cạnh tranh, vừa tăng uy tín trên thị trường quốc tế của hàng hóa Việt Nam. Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu chuẩn của HACCP và ISO là một trong những biện pháp đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu. Chất lượng hàng hóa là khả năng tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, một hệ thống hay một quá trình sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Nhu cầu tiêu dùng luôn luôn thay đổi, do vậy chất lượng cũng phải thay đổi theo cho phù hợp cả về thời gian, không gian và điều kiện sử dụng. HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là hệ thống quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm dựa trên việc xác định những điểm nhạy cảm nhất (nơi ô nhiễm nguy hại có thể xảy ra) và kiểm tra chặt chẽ từng bước của quá trình sản xuất, kịp thời đưa ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm thiểu được nguy hại hay ô nhiễm. ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn do Tổ chức tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) ban hành nhằm đưa ra những yêu cầu, nội dung và những hướng dẫn cần thiết để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng cho cả một tổ chức như: Chính sách và chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm và quá trình cung ứng, kiểm soát quá trình bao gói, phân phối, dịch vụ sau khi bán, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo nhân lực. Việc đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa là trách nhiệm của doanh nghiệp và người sản xuất, nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bằng cơ chế chính sách và tạo hành lang pháp lý để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Do vậy doanh nghiệp phải thật sự chủ động về vấn đề này. 4. Một số khuyến nghị về mặt chính sách: Xuất khẩu nông sản có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. Đặc biệt là ở nước ta, một nước nông nghiệp, với điểm xuất phát thấp, lao động nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ lệ lớn (trên 75% lao động xã hội), năng suất thấp, sức ép việc làm, thu nhập đang trở nên căng thẳng, thì việc hướng và tạo dựng chiến lược xuất khẩu là một vấn đề có ý nghĩa quyết định và cần có môi trường kinh doanh đặc biệt. Đó là môi trường chứa đựng trong đó yếu tố bảo hộ nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu. Qua kinh nghiệm của các nước đều có chính sách hỗ trợ, do vậy trong thời gian đến năm 2010, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: 4.1 Chính sách thị trường: Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành và có sự điều chỉnh bổ sung các luật và pháp lệnh: về Thuế xuất nhập khẩu, Luật Hải quan, Luật Doanh nghiệp tư nhân, luật Công ty cổ phẩn, Luật Hợp tác xã... là bước tiến bộ, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động thương mại. Song, để tạo lập nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh bình đẳng, về mặt luật pháp còn nhiều nội dung cần phải được nghiên cứu như: Luật Thương mại, Luật chống độc quyền và đầu cơ, Luật bảo vệ người tiêu dùng... mà hiện nay chúng ta còn thiếu. Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ dẫn đến tính thời vụ trong thu hoạch và trao đổi “cung - cầu” không ăn khớp làm cho thị trường luôn có sự không cân bằng. Chính phủ với chức năng điều hành vĩ mô nền kinh tế cần chủ động can thiện vào những lúc “cung - cầu” có biến động mạnh như: lập quỹ bình ổn giá, hỗ trợ lãi suất tiền vay để mua nông sản dự trữ lưu kho, ổn định cung cầu của thị trường và bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng. 4.2 Chính sách xuất khẩu: Trong thời gian qua, chính sách xuất khẩu đã có nhiều tiến bộ tạo điều kiện thông thoáng và môi trường thương mại thuận lợi với xu hướng chung khuyến khích xuất khẩu nông sản. Tuy vậy, cũng có không ít khó khăn cần tháo gỡ. Trước hết, bãi bỏ giấy kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng nông sản không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nước quản lý xuất khẩu để tạo thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu và phù hợp với xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu. Tiến tới thay quota gạo, nhập khẩu phân bón bằng thuế, khi chưa bỏ được hạn ngạch thì áp dụng đấu thầu công khai. Ngoài ra, cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sau khi đăng ký kinh doanh được tự do giao dịch và quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới và xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội, hợp tác để thống nhất về quy cách, hàng hóa, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn bán. Đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu, các cơ quan quản lý nhà nước, bộ ngành có liên quan cần ban hành các chính sách, văn bản, quy định nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tăng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu như: Đẩy mạnh thực hiện quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ thưởng xuất khẩu, đơn giản hoá đến mức thấp nhất các thủ tục xuất khẩu. Đặc biệt cần kiểm tra chặt chẽ chất lượng nông sản xuất khẩu để đảm bảo uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 4.3 Chính sách thuế: Thuế là một trong những công cụ đắc lực rất nhạy cảm với quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế thế giới, vì chìa khoá của quá trình này là việc cắt giảm hàng rào thuế quan và bỏ rào cản phi thuế quan khác. Tuy nhiên, công cụ này ở Việt Nam vẫn chưa phát huy được tính hữu hiệu của nó. Bởi lẽ thực tế hiện nay, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam còn rất nhiều bất cập, hạn chế. Do đó, trong thời gian tới cần phải có những biện pháp điều chỉnh như sau: - Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý hơn để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. - Điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phương theo hướng tăng dần để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nông thôn. - Miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần thiết phát triển mở rộng quy mô. - Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu tại các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn. - Để hỗ trợ đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với những trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất - chế biến các nông sản. - Tiếp tục triển khai áp dụng các quy định giá tối thiểu cho các loại nông sản xuất khẩu chủ yếu. Đối với các đơn vị sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách về thuế tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị đó phát triển sản xuất kinh doanh như: giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp ở mức độ nhất định, kéo dài thời gian thu thuế tạo điều kiện quay vòng vốn đưa vào sản xuất. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư nông nghiệp, các máy móc công nghệ chế biến nông sản, thuốc bảo vệ thực vật... cần ưu đãi về thuế nhập khẩu từ đó không ngừng nâng cao năng lực công nghệ sản xuất chế biến, hiện đại hoá cơ sở vật chất nông nghiệp không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất làm cho giá thành nông sản xuất khẩu giảm. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu trên thị trường thế giới, không ngừng xâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt các thị trường cao cấp và khó tính. 4.4 Chính sách tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu vì nó biểu hiện mối quan hệ tương đối về giá (giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ “USD”) và các dòng thương mại và sự nhạy cảm của xuất khẩu đối với biến động tỷ giá. Điều này chứng tỏ, chính sách tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ mạnh thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái, từ khi Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá giữa USD - đồng tiền Việt Nam, điều chỉnh linh hoạt hơn phần nào đã khép kín dần khoảng cách giữa tỷ giá quy định ngân hàng Trung ương với thị trường tự do. Song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá quá cao đồng nội tệ, sẽ làm cho tỷ giá ngoại thương thay đổi không khuyến khích xuất khẩu). Tuy nhiên, không nên áp dụng biện pháp đột ngột (tạo nên các cú sốc) mà cần sát tới thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm sự ổn định, tăng trưởng kinh tế. Kết luận Ngày nay, đối với bất kỳ nước nào trên thế giới thì hoạt động xuất khẩu cũng trở thành hoạt động thương mại giữ vai trò hết sức quan trọng, cho dù nước đó có trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật đạt đến mức độ nào, dù tài nguyên có phong phú và giàu có đến đâu đi chăng nữa. Trước xu hướng khu vực hóa và quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực tế đã chứng minh, với nguồn lực có hạn, không một quốc gia nào có thể phát triển chỉ dựa trên mối quan hệ nội thương mà không tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về xuất khẩu hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng, trên quy mô lớn và một số mặt hàng có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Song, để khai thác có hiệu quả, đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế tổ chức - kỹ thuật, đặc biệt trong điều kiện có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt đang đặt ra cho thị trường xuất khẩu những vấn đề có tính thách thức lớn. Do vậy, một mặt đòi hỏi sự nỗ lực của người sản xuất kinh doanh mặt khác đòi hỏi phải có một sự quan tâm đồng bộ và nhiều mặt của nhà nước để tạo dựng cho thị trường xuất khẩu nông sản có vị thế và sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Bài viết “Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam” đã phần nào giải quyết được 3 vấn đề: - Làm sáng tỏ khả năng cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. - Phân tích và đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu nông sản và khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường thế giới. - Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong tình hình hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Thương mại. 2. Giáo trình Quản trị Doanh nghiệp Thương mại 3. Giáo trình Thương mại quốc tế. 4. Giáo trình Marketing Thương mại. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nông nghiệp Việt Nam và những thành tựu - NXB Lao Động - LĐ 1999. 6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Báo cáo dự án “Hợp tác kỹ thuật TCP/VIE/8821 - khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA”. 7. Bộ Tài chính - Báo cáo hội thảo khoa học: Giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu, tháng 3/2001. 8. Bộ Thương mại - Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - Nhóm hàng nông sản, Hà Nội, tháng 3/1999. 9. Bộ Thương mại: Báo cáo phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001 - 2005 tháng 12/1999. 10. Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hà - Toàn cầu hóa kinh tế, NXB Khoa học xã hội. 11. Đào Thúy Phi: Xuất khẩu của Việt Nam - Nguồn tăng trưởng, các hạn chế và chiến lược tương lai - công nghiệp hóa và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia, 1997. 12. Hội thảo về chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn Việt Nam - NXB Nông nghiệp, 1998. 13. Kajonwan Itharattana - Effects of trade liberalization on Agriculture in ThaiLand: Commodity Aspeets - The CGPRT centre, working paper serrier, Nov.1999. 14. Niên giám thống kê 1995 - 2000. NXB Thống kê Hà Nội. 15. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh - Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. NXB Nông nghiệp 1999. 16. Nguyễn Trung Văn - Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới hướng xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 17. Nguyễn Sinh Cúc - Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ 1990 - 2000 và hướng giải pháp cho 2001 - 2010. 18. Viện quản lý TN - Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam. NXB Lao động, Hà Nội, 2000. 19. Vũ Trọng Khải - Các lợi thế so sánh và các bất lợi của nông sản Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại - Nội san thông tin khoa học, 2/2001, Trường Cán bộ quản lý nhà nước, thành phố Hồ Chí Minh. 20.Thời Báo Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001- 2002. 21. Phát triển xuất khẩu 2001 - 2005, Bộ Thương mạii. 22. Tạp chí Ngoại thương, Thương mại các số năm 2001. 23. Tạp chí Con số và sự kiện, Tạp chí Kinh tế và dự báo các số năm 2001. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29153.doc
Tài liệu liên quan