Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA

Lời mở đầu Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nước vừa tạo điều kiện mở rộ

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trường thế giới, và cũng là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, khi xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá đang trở thành xu thế chính của thời đại, các quốc gia trên thế giới đều đang nỗ lực, cố gắng và đón đợi thời cơ để hoà mình vào xu thế đó, Việt Nam tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) là bước khởi động đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế nói chung và các ngành xuất khẩu nói riêng, thì vấn đề cạnh tranh của hàng hoá ngày càng trở nên vấn đề cấp bách, có tính chất toàn cầu. Trong hoàn cảnh đó, liệu toàn ngành dệt may của nước ta cũng như mặt hàng dệt may xuất khẩu tới đây có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta hay không?. Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về thực trạng khả năng cạnh tranh của ngành dệt may trong thời gian qua, cũng như triển vọng, lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt Nam trong thời gian tới. Những biến động trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã tác động mạnh mẽ đến thị trường dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm cho việc nghiên cứu về thị trường hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng như đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu trong thời gian tới. Trước những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo TS. Ngô Thắng Lợi, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA”. Đề tài này tập trung nghiên cứu những biến động thị trường dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.. . Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau : Phần I: Hội nhập AFTA và vấn đề tăng cường năng lực cạnh tranh của mặt hàng dệt may của Việt Nam. Phần II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may. Phần III: Phương hướng và các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam. Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài nghiên cứu này được hoàn chỉnh hơn . Xin chân thành cảm ơn ! Phần I: Hội nhập AFTA và vấn đề tăng cường năng lực cạnh tranh của mặt hàng dệt may của Việt Nam I) Một số vấn đề về AFTA 1) Giới thiệu chung về AFTA Vào đầu những năm 1990, môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã có những biến đổi quan trọng do chiến tranh lạnh đã kết thúc. ở kỷ nguyên hậu chiến tranh, vị trí của ASEAN trong chiến lược khu vực và quốc tế của các cường quốc đã bị hạ thấp, mặt khác kinh tế của các nước ASEAN đứng trước các thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không dễ dàng vượt qua nếu không có sự cố gắng chung của toàn hiệp hội. Đó là sự xuất hiện các tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA… mà ASEAN e ngại trở thành khu vực khép kín, do đó sẽ làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi thâm nhập vào các thị trường trên. Mặc dù trong thập niên trước đó, kinh tế ASEAN với tốc độ tăng trưởng cao nhưng nền kinh tế các nước ASEAN vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản và các nền kinh tế công nghiệp mới (Nies) ở Đông Bắc á. Tình hình đã thay đổi khi ASEAN bước vào những năm 1990. Với chính sách mở cửa ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầ tư ngoại quốc, với lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực, Trung Quốc ở Châu á, Nga và các nước Đông Âu ở Châu Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn nếu so sánh với ASEAN. Nhằm đối phó với những thách thức trên, các nước ASEAN đã quyết định đưa hợp tác kinh tế của ASEAN lên một tầm mức mới. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapo năm 1992 đã quyết định thành lập một khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái Lan. Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 là kết quả chính sách đối ngoại đúng đắn “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” và chủ trương đa phương hoá quan hệ đối ngoại, hội nhập khu vực và thế giới. Trên lĩnh vực kinh tế, tham gia ASEAN thực hiện các Hiệp định về hợp tác kinh tế, trong đó quan trọng nhất là “Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA)” mở ra cho Việt Nam cơ hội đẩy mạnh hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, góp phần thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hơn nữa đây còn là bước chuẩn bị tích cực để Việt Nam tham gia hội nhập nhanh hơn vào tiến trình khu vực hoá và quốc tế hoá kinh tế và thương mại (APEC, WTO). 2) Các mục tiêu của AFTA AFTA ra đời nhằm ba mục tiêu chính sau đây: - Thứ nhất: Mục tiêu về tăng cương trao đổi buôn bán nội bộ khối bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan. - Thứ hai: Mục tiêu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất - Thứ ba: Mục tiêu làm cho AFTA thích nghi với xu hướng biến động của thế giới. Có thể thấy mục tiêu đầu không phải là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Với quy mô tương đối nhỏ của thị trường ASEAN, AFTA không thể so sánh được với các thoả thuận với các hợp tác thương mại khác như EU, NAFTA trong việc tạo ra một thị trường nội địa rộng lớn bao gồm các cường quốc dẫn đầu về công nghiệp. Mục tiêu trung tâm của ASEAN là thu hút đầu tư nước ngoài. Tính cấp thiết của mục tiêu này được giải thích bởi sự cạnh tranh tiếp tục tăng lên trong vấn đề thu hút vốn đầu tư của các nước trong quá trình chuyển đổi, AFTA sẽ tạo ra một cơ sở sản xuất thống nhất cho ASEAN, từ đó cho phép việc hợp lý hoá sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau. Mục tiêu thứ thứ ba có liên quan đến môi trường thương mại không ổn định và tương đối không thuận lợi mà các nước ASEAN phải đương đầu ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Vào thời điểm AFTA ra đời, các nước phát triển lớn trên thế giới thiên về việc thoả thuận thương mại khu vực (RTA), qua đó thể hiện việc bảo hộ thị trường của mình đối với hàng xuất khẩu của các nước Đông á. Chính vì vậy AFTA là sự đáp lại của chủ nghĩa khu vực ngày càng tăng trên thế giới. II) Sự cần thiết phải nâng cao vấn đề cạnh tranh MặT HàNG dệt may TRONG thị trường AFTA 1) Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh 1.1) Thực chất của cạnh tranh “Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều bên có những lợi ích khác nhau nhằm giành giật quyền hành hoặc vị thế có lợi cho mình kể cả trên hai phương diện mua và bán sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ”. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu xảy ra có tính quy luật với những lý do cơ bản sau đây : Thứ nhất, là do có sự xuất hiện đối thủ (các bên, các thế lực đối chọi nhau, ganh đua nhau, không hạn chế trong một phạm vi địa lý nào). Thứ hai, mục đích chính của mọi hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, do đó muốn tồn tại và phát triển các ngành các doanh nghiệp, buộc phải cạnh tranh lẫn nhau. Thứ ba, trong môi trường cạnh tranh gay gắt và khốc liệt luôn chứa đựng sự “diệt vong” của bất kỳ một ngành, một doanh nghiệp nào. Do đó vì sự sống còn, mỗi ngành mỗi doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh với những đối thủ của mình. Muốn vậy, không còn cách nào khác là phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của chính mình. ở đây, chúng ta cần phải hiểu rằng, cạnh tranh cũng như mọi hiện tượng kinh tế xã hội khác luôn mang tính hai mặt của nó. Mặt tiêu cực của lối cạnh tranh không lành mạnh sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng chủ thể kinh tế, rộng hơn nữa là trên phạm vi quốc gia, khu vực và cả thế giới. Hai mặt tích cực và tiêu cực luôn luôn tồn tại trong thị trường, mặt tích cực không tách rời mặt tiêu cực, tuy nhiên với vai trò tích cực của mình, sự cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. 1.2) Lợi thế cạnh tranh Về mặt truyền thống, kinh tế học phát triển thường có xu hướng tập trung và các rào cản về cơ cấu đối với sự cạnh tranh cả trong các quốc gia đang phát triển và cả nền kinh tế thế giới. Kinh tế học thương mại đề cập đến cạnh tranh trên khía cạnh “lợi thế só sánh”, hiệu quả. Ngoài ra còn có một số lý thuyết cổ điển cũng bàn về lợi thế cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, cuốn sách “lợi thế so sánh giữa các quốc gia” của Michael Porter năm 1990 đã đưa ra một lý thuyết mới về cạnh tranh của các ngành gọi là mô hình Porter. Mô hình đưa ra những điều kiện để các ngành xây dựng năng lực cạnh tranh và thành công trên trường quốc tế. Chúng bao gồm 4 điều kiện chính đó là: Thứ nhất: về yếu tố sản xuất, đó là những yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Nó bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên, vốn, cơ cấu, cơ sở hạ tầng… Tuy nhiên theo Michael Porter thì yếu tố sản xuất “chủ yếu” ( hay những yếu tố chuyên ngành) là những yếu tố được tạo ra chứ không phải được thừa hưởng ( như tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông…). Hay nói cách khác đó là những yếu tố như: lao động có tay nghề, vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng. Những yếu tố không chủ yếu hay những yếu tố thông dụng như lao động phổ thông và những nguyên vật liệu mà mọi ngành đều có thể sở hữu, do đó không thể tạo nên một lợi thế cạnh tranh bền vững được. Vì vậy những yếu tố “ chủ yếu” này rất cần được đầu tư và duy trì mạnh mẽ, bởi chúng khó bị sao chép và bắt chước, từ đó sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh do chúng có giá trị. Thứ hai: là về nhu cầu thị trường, theo Michael Porter, thị trường nội địa khó tính về kinh tế sẽ là nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh. Những ngành tồn tại trên thị trường này sẽ có khả năng sản xuất và bán được nhiều mặt hàng cao cấp vì thị trường đối với chất lượng cao và việc tiếp xúc với những khách hàng khó tính sẽ giúp cho các ngành hiểu rõ hơn về nhu cầu và sở thích người tiêu dùng. Nếu những giá trị riêng biệt của hàng nội địa được các thị trường nước ngoài chấp nhận thì các ngành sản xuất trong nước sẽ có tính cạnh tranh trên toàn cầu. Thứ ba: là vấn đề liên kết ngành, đặc biệt là hợp tác liên kết quốc tế bao gồm những nhà cung cấp và các ngành liên quan thường xẩy ra ở cấp độ khu vực hơn là cả nước. Khả năng duy trì các liên kết quốc tế có tầm quan trọng ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển (UNCTAD 1999). Do quá trình toàn cầu hoá, quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, vị thế cạnh tranh của các ngành của các nước đang phát triển ngày càng xoay quanh khả năng thiết lập các liên kết quốc tế của họ. Quy mô của các doanh nghiệp trong nước thường nhỏ hơn rất nhiều so với các công ty xuyên quốc gia do vậy sẽ có năng lực thấp hơn các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Do vậy khi chế độ thương mại được tự do hoá và các nền kinh tế mở cửa cho cạnh tranh nước ngoài, nếu các ngành, các doanh nghiệp trong nước không thực hiện tốt việc liên kết với các công ty nước ngoài thì họ sẽ không thể tồn tại. Thứ tư: là về môi trường cạnh tranh. Theo giáo sư M.Porter, sự phát triển của tính cạnh tranh chịu ảnh hưởng bởi các chính sách của chính phủ, trong đó chính sách chính phủ tạo điều kiện thuận lợi ở phạm vi một trong bốn nhân tố tác động tới cạnh tranh của mô hình cũng như sự tác động qua lại với các nhân tố khác. Chính phủ tác động đến nội dung và phạm vi của các hoạt động xuất nhập khẩu, các yếu tố về môi trường thể chế, chính sách, các mối liên kết xuyên quốc gia... Các chính sách và biện pháp của chính phủ đóng vai trò quan trọng đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên việc phân tích các chương trình cụ thể này phải xem xét các điều kiện và khuôn khổ kinh tế tổng thể, bằng cách kiểm soát ảnh hưởng của các nhân tố như ổn định kinh tế vĩ mô, sự cởi mở trong chính sách thương mại và chế độ đầu tư. 1.3) Tiêu chí của cạnh tranh Qua sự phân tích nói trên ta thấy rằng, có rất nhiều yếu tố chi phối đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ như : giá cả; chất lượng; nhu cầu thị trường; lao động; công nghệ; môi trường kinh doanh…. Vì thế, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh bất cứ một ngành nào cũng cần phải kết hợp tất cả những yếu tố nói trên trong điều kiện có thể. Đồng thời phải thực hiện hàng loạt các biện pháp và duy trì ở mức tối ưu các mối quan hệ đa tầng và đa chiều. Tuy nhiên, xem xét tất cả những yếu tố và điều kiện nói trên chúng ta cũng nhận thấy rằng việc áp dụng chúng đều hướng tới mục tiêu: nâng cao chất lượng và hạ thấp giá thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trường. Ngược lại khi sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ có khả năng cạnh tranh tốt thì mới có khả năng vật chất và kỹ thuật để tái đầu tư cho hoạt động sản xuất và nâng cao chất lượng, giá thành. Chính vì vậy trong phạm vi của đề tài này tôi chỉ lựa chọn những nhân tố quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định tới vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Đó là các nhân tố: Giá cả; chất lượng; nhu cầu thị trường. Các yếu tố còn lại được xem như những yếu tố phụ trợ (Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi xin lựa chọn các yếu tố nói trên làm tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của các ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam) . 2) Cơ hội và những thách thức khi dệt may tham gia khu vực tự do AFTA 2.1) Những cơ hội trong quá trình hội nhập - Tránh tình trạng bị phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế. Hội nhập quốc tế là quá trình hợp tác trên cơ sở “có đi có lại”, áp dụng đối xử ưu đãi gữa các quốc gia thành viên và đối xử thuận lợi đối với các nước kém phát triển hơn trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, chấp thuận các luật lệ và tập quán quốc tế. AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam hội nhập vào thương mại khu vực. Thông qua những nguyên tắc ưu đãi trong hoạt động xuất nhập khẩu của AFTA, khi Việt Nam tham gia AFTA, các sản phẩm dệt may sẽ được hưởng thuế ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc (MFN) mà các nước ASEAN dành cho Việt Nam.Đồng thời dựa trên nền tảng hợp tác trong đấu tranh, tiến hành các cuộc thương lượng tập thể để thiết lập các thoả thuận và các luật lệ chung, quá trình tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực AFTA giúp chúng ta tránh tình trạng bị phân biệt đối xử trong quan hệ với các nước lớn, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế. - Tăng thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ Trên cơ sở hội nhập, vì quyền lợi của mình mỗi quốc gia cần phải thu hút vốn đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước khác. Do đó khi Việt Nam hội nhập AFTA thì cơ hội mở ra đối với ngành dệt may là tham gia đổi mới, cải tiến công nghệ,thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặt khác ngành dệt may có thể được hưởng các khoản vay ưu đãi các hình thức tín dụng, các định chế tài chính quốc tế của WB, IMF… cũng như khai thác các nguồn viện trợ, tín dụng song phương của các nước ASEAN và các nước khác. - Hưởng những ưu đãi thương mại, mở rộng thị trường Mục tiêu giải quyết vấn đề thị trường được coi là mục tiêu cao nhất của AFTA thông qua tạo dựng sự hợp tác giữa các nước thành viên. Trong quá trình dàn xếp phân chia thị trường này, những nước không phải là thành viên AFTA sẽ mất đi lợi thế, suy giảm sức cạnh tranh bởi những quy định chặt chẽ về thuế quan và rào cản phi thuế quan. Do đó khi Việt Nam gia nhập AFTA sẽ được hưởng các ưu đãi thương mại, được tạo điều kiện mở rộng thị trường, tạo ra các thị trường mới, có thể tham gia việc chia sẻ thị trường ngoài khối đối với các ngành dệt may của các nước thành viên . - Nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế đứng của ngành xuất khẩu dệt may trong quan hệ khu vực và thế giới. Thông qua việc hưởng những ưu đãi thương mại và mở rộng thị trường , cũng như tận dụng triệt để các cơ hội có được trong tiến trình hội nhập, sẽ giúp ngành xuất khẩu dệt may tạo được “tiếng nói” và “ hình ảnh” của mình trên trường khu vực và thế giới. Đây thực sự là cơ hội lớn của chúng ta. 2.2) Những thách thức trong tiến trình hội nhập - Về khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Hội nhập, một mặt tạo điều kiện cho các ngành xuất khẩu nước ta xâm nhập thị trường quốc tế, mặt khác ta còn phải chấp nhận mở cửa thị trường cho hàng hoá của nước ngoài. Tham gia hội nhập là làm cho hàng hoá dệt may Việt Nam có thêm cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế, nhưng mặt khác cũng tạo điều kiện cho các hàng dệt may các nước khác xâm nhập thị trường nội địa, do đó nó đòi hỏi cạnh tranh của hàng hoá của ta phải tăng, để tránh tình trạng thâm nhập thị trường quốc tế chỉ dừng lại dạng tiềm năng, trong khi đó hàng hoá nước ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện tràn ngập thị trường Việt Nam. Một yếu tố khách quan đòi hỏi đối với hàng hoá dệt may Việt Nam là sự thay đổi về chất, nếu như hàng hoá Việt Nam không có sự thay đổi về chất thì chắc chắn không có chỗ đứng ngay cả trên thị trường quốc tế. Vì vậy đây là sức ép lớn mà ta phải chấp nhận đương đầu, từ đó có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động thích ứng và vượt lên. Đối với hàng hoá dệt may xuất khẩu, việc thực hiện các nguyên tắc về tự do hoá mậu dịch với nội dung cắt giảm thuế quan, không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu cũng là những thách thức vì thực chất đây là cuộc đọ sức về cạnh tranh trên thị trường. Tuy vậy, WTO, AFTA, APEC, ASEM cũng thừa nhận sự cần thiết của bảo hộ mậu dịch do trình độ kinh tế của các nước thành viên không đồng đều, nhưng chỉ cho phép bảo hộ bằng hàng rào quan thuế, không thừa nhận bảo hộ bằng hàng rào phi quan thuế. Như vậy, ta cần khai thác triệt để lợi thế “bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan” của các nuớc thành viên AFTA để giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. - Những đòi hỏi của các tổ chức quốc tế khi mặt hàng dệt may xuất khẩu tham gia: khi mặtt hàng dệt may tham gia các tổ chức quốc tế, thì mình phải chấp nhận sự đòi hỏi của các tổ chức này. Tức là có sự đòi hỏi về chất lượng, thủ tục khi tham gia, điều đó đòi hỏi ngành dệt may phải cải tiến đồng bộ để phù hợp với những đòi hỏi khi tham gia -Thách thức về các yếu tố đầu vào bao gồm: trình độ công nghệ, vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, lao động. Cải tiến, hiện đại hoá công nghệ là những đòi hỏi cấp thiết khi mà ngành dệt may muốn xâm nhập thị trường nước ngoài. Nhưng mặt khác trình độ công nghệ cua ngành dệt may đang đặt ra nhiều thách thức lớn. So với các nước trong khu vực, thế giới thì phổ biến công nghệ của Việt Nam vẫn còn thấp kém, lạc hậu 30 đến 50 năm. Vì vậy chi phí đầu vào ở các ngành Việt Nam cao hơn 30% đến 50% so với các đối tác ASEAN, đây quả là một bất lợi lớn trong cạnh tranh về giá của hàng hoá Việt Nam. Khả năng đổi mới công nghệ lại rất hạn chế. Một trong những nguyên nhân của tình hình này là do chúng ta thiếu vốn cho sản xuất, kinh doanh. Ngoài vấn đề thiếu vốn, thì việc chiếm dụng vốn của nhau, công nợ không thanh toán được càng làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả hơn. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó sẽ làm giảm đi khả năng cạnh tranh của các ngành, nhất là khi mà tiềm lực kinh tế của các đối thủ cạnh tranh đang ngày càng tăng mạnh. Bên cạnh yếu tố công nghệ, vốn thì yếu tố lao động cũng có những ảnh hưởng lớn khi mà ngành dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động. Xét về yếu tố này so với một số nước trong khu vực như Singapo, Thái Lan, Malaixia v.v. thì lực lượng lao động Việt Nam tuy có dồi dào nhưng trình độ thấp ( từ trình độ chuyên môn tay nghề, ý thức kỷ luật lao động …) trong khi đó ở các nước này đã có một lực lượng các bộ khoa học kỹ thuật và một đội ngũ công nhân lành nghề có thể làm chủ được những công nghệ mới, những khoa học kỹ thuật tiên tiến và tạo ra một lợi thế trong cạnh tranh. Phần II: đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may (1996 – 2002) I) Tổng quan về tình hình xuất khẩu của ngành dệt may trong thời gian qua 1) quy mô xuất khẩu của hàng dệt may Dệt may là ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam không chỉ tạo lợi nhuận mà còn thu hút một lượng lao động rất lớn. Trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục trong thời gian qua. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1338,2 triệu USD trong năm 1996 lên 2,1 tỷ USD vào năm 2001, dự kiến năm 2002 đạt 2,4 tỷ USD (biểu 1). Với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vươn lên đứng thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Năm 2001 kim ngạch hàng dệt may đạt 2 tỷ gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,91% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Biểu 1: Kim ngạch xuất khẩu dệt may (1996-2002) Nguồn: Tổng cục hải quan Bảng 1: Quy mô xuất khẩu của dệt may Việt Nam so với các nước Tên nước Sản lượng sợi (1.000 tấn) Sản lượng vải lụa ( 1triệu m² ) Sản phẩm may mặc (1 triệu sp) Kim ngạch xuất khẩu (1triệu USD) Trung Quốc ấn Độ Bangladesh Thái Lan Indonesia Việt Nam 5.300 2.100 200 1.000 1.800 85 21.000 23.000 1.800 4.200 4.400 304 10.000 - - 2.500 3.000 400 50.000 12.500 4.000 6.500 8.000 2.100 Nguồn: VINATEX. Qua bảng 1, ta thấy rõ Việt Nam đang còn nhiều điều yếu kém, quy mô của ta còn thua kém các nước trong khu vực và các nước khác, trong đó có một số nước là đối thủ cạnh tranh chính, điều này gây cho ngành dệt may nhiều khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2001 mặc dù đã vượt qua ngưỡng 2 tỉ USD nhưng so với các nước trong khu vực như Thái Lan ta thua 2,25 lần, Indônesia ta thua 4 lần, Trung Quốc ta thua 25 lần…(bảng1) Như vậy khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Trong 10 năm qua chúng ta đều thấy rõ tốc độ tăng trưởng của ngành tăng khá nhanh. Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lượng của ngành dệt may đã tăng lên 20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so với mức 29.3% của giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và chiếm trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Nhưng từ năm 1998 đến nay tốc độ tăng lại chậm dần, năm 1999 chỉ còn 9% riêng sáu tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ước thực hiện khoảng 990 triệu USD, chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái và bằng 39,6 % kế hoạch cả năm . Phần lớn hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may được thực hiện dưới dạng hợp đồng gia công, trong đó người mua cung cấp cho người sản xuất trong nước vải nhập khẩu, sau đó mua lại thành phẩm. Ban đầu, loại hợp đồng này tỏ ra có lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam do còn thiếu kiến thức về Marketing trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay lợi ích của cách tiếp cận với xuất khẩu một cách thụ động này đang được đặt thành dấu hỏi. Người xuất khẩu bị mắc vào cái bẫy là tạo ra giá trị gia tăng thấp, đặc biệt trong tình hình khủng hoảng vừa qua ở Châu á, khi người mua đòi hạ giá cả trong hợp đồng xuống 20% so với 12 tháng trước. Mặt khác trong những năm qua tình hình kinh tế thế giới có giấu hiệu chững lại, giá gia công xuất khẩu giảm khoảng 20% trong những năm qua đã ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu của hàng dệt may Doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu lớn và không được hưởng một lợi thế nào về hạn ngạch XNK trên thị trường Đông á . Tổng công ty lớn của Nhà nước chiếm khoảng một nửa giá trị xuất khẩu của ngành dệt may tỏ ra chưa chuẩn bị cho thách thức này. 2) Về thị trường xuất khẩu dệt may Ngành dệt may hiện đang xuất khẩu sang các thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.Thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam là Nhật Bản và EU. Tại thị trường Nhật, hàng Việt Nam được xếp thứ 5 về giá trị và mức xuất khẩu trong năm 2001, tuy nhiên hiện nay đang bị sức ép lớn từ các phía. Đến hết quý I/2002 kim ngạch xuất khẩu của dệt may vào thị trường Nhật Bản ước đạt 200 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến vào tất cả các thị trường ước đạt khoảng 500 triệu USD (theo dự kiến của Bộ thương mại, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2001). Về hạn ngạch là thị trường EU, xuất khẩu không có nhiều biến động trong thời gia qua, kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm gần đây cũng chỉ dao động ở mức từ 500-600 triệu USD/năm, và cũng không có khả năng tăng đáng kể trong thời gian tới, dự kiến. Quý I/2002 xuất khẩu đạt 180 triệu USD. Thị trường truyền thống với mức xuất khẩu 2,1 tỷ USD trong năm 2001 thì dường như đã bão hoà. Còn đối thị trường Mỹ, các nhà xuất khẩu Việt Nam vừa thâm nhập vào thị trường Mỹ trong những năm gần đây, tuy có tốc độ tăng trưởng rất cao (5-6 lần) nhưng kim ngạch tuyệt đối còn quá thấp so với thị trường EU và Nhật Bản, và sự thâm nhập đó không đáng kể so với một thị trường dệt may lớn nhất thế giới, hiệp định thương mại Việt-Mỹ mới có hiệu lực nên khả năng xuất khẩu vào thị trường này ở giai đoạn này mới chỉ ở mức khiêm tốn, năm 2001 xuất khẩu mới chỉ đạt 45 triệu USD, 3 tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ dự kiến đạt 50 triệu USD Đối với các sản phẩm không bị khống chế bởi hạn ngạch của EU và Canada cũng như đối với các thị trường phi hạn ngạch khác như Châu úc, Nam Mỹ, Đông âu… hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đang phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc. II) Thực trạng về khả năng cạnh tranh của ngành dệt may 1 ) Về thị trường Thị trường dệt may xuất khẩu gồm có thị trường nội địa và thị trường nước ngoài. Đối với thị trường nội địa, sản phẩm dệt may của Việt Nam đang dần tạo dựng được niềm tin đối với người tiêu dùng, các sản phẩm dệt may đã tạo được tiếng nói của mình, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của người dân trong nước. Bên cạnh đó do sự thâm nhập của các đối thủ cạnh tranh đến từ các nước (Trung quốc, Hàn Quốc, Hồng Công, Thái Lan…) làm cho sức ép về cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Thực tế đã cho thấy, sản phẩm dệt may Việt Nam đang đứng trước những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Chất lượng hàng dệt may Việt Nam nhìn chung đã có nhiều tiến bộ, nhưng chất lượng, mẫu mã của hàng nhập khẩu luôn đạt tiêu chuẩn cao và phong phú về chủng loại hơn, và tâm lý của người dân ta thích tiêu dùng đồ ngoại. Từ thực tế đó, chúng ta đã tăng cường nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã, đa dạng về chủng loại sản phẩm. Tạo lập “tiếng nói” của mình ngay thị trường trong nước, từ đó làm cho người tiêu dùng trong nước tin tưởng và có cách nhìn tích cực hơn đối với hàng trong nước. Vì thế chúng ta sẽ cải thiện được vị trí của mình trong thị trường nội địa. Thị trường nước ngoài gồm có thị trường trong khối ASEAN và thị trường ngoài khối ASEAN. Hiện nay ngành dệt may có rất nhiều lợi thế để mở rộng thị trường nước ngoài. So với một số nước trong khu vực, ngành dệt may Việt Nam có hệ số so sánh lớn hơn, thậm chí vượt trội ( thể hiện qua bảng 2). Bảng 2: Lợi thế so sánh giữa các nước ASEAN Sản phẩm Các nước Indônesia Malaisia Philippin Singapore Thái Lan Việt Nam Sợi,chỉ và vải dệt 1.6 0.4 0.4 0.2 1.2 1.8 Trong đó - Sợi nhân tạo 0.2 0.3 0.4 0.1 0.7 0.7 - Tơ lụa 0.2 0.0 0.0 0.2 0.9 9.2 Nguồn : Báo cáo của World bank, đánh giá tác động của Việt Nam gia nhập AFTA- Đánh giá về chất lượng Qua (bảng 2) ta thấy rất rõ ràng lợi thế so sánh Việt Nam là rất cao (1.8) cao nhất trong các nước ASEAN, chứng tỏ trong khối thì khả năng cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu là rất tốt Việt Nam, ngành có triển vọng rất lớn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ so với các nước khác trong khu vực, tiếp đến là Inđônêsia và Thái Lan (với hệ số cạnh tranh lần lượt là 1.6 và 1.2). Trong tương lai đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam trong khu vực là Inđônêsia và Thái Lan. Đối với thị trường ngoài khối hiện nay Việt Nam xuất khẩu sang thị trường có hạn ngạch và phi hạn ngạch Thị trường phi hạn ngạch, thị trường chủ yếu là Nhật Bản, Châu úc, Nam Mỹ, Đông âu… hàng dệt may hiện nay đang chịu nhiều sức ép từ các đối thủ cạnh tranh, thực tế cho thấy ta chưa thật sự chiếm lĩnh được các thị trường này, mà thị trường phi hạn ngạch đòi hỏi doanh nghiệp phải năng động, tự tìm kiếm thị trường. Đối với việc mở rộng thị trường này các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên đối với thị trường này thì một số mặt hàng dệt may xuất khẩu truyền thống đã tạo được thế đứng vững chắc. Đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam hiện tại và tương lai trong thị trường này là Trung Quốc. Thị trường hạn ngạch thì mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu sang Nhật và EU, và đây là thị trường chính xuất khẩu của hàng dệt may hiện nay, xuất khẩu sang thị trường này đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng thời gian qua ta đang bị cạnh tranh mạnh về giá của hàng Trung Quốc, hơn thế nữa lại phải chịu sức ép của các nhà sản xuất ở Nhật Bản. Mặt khác, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu theo phương thức gia công nên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của nước ngoài hoặc xuất khẩu sang nước thứ 3, hơn nữa do bị khống chế về hạn ngạch nên kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm gần đây chỉ dao động ở mức 500- 600 triệu USD/năm. Việc EU tiến tới bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước WTO vào cuối năm 2004 là một bất lợi lớn đối với hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam do nước ta vẫn còn chịu chế độ hạn ngạch do chưa gia nhập WTO. Trung Quốc gia nhập WTO là một yếu tố gây ra sự cạnh tranh gay gắt đối với hoạt động xuất khẩu nước ta, song với việc Trung Quốc giành cho Việt Nam Quy chế tối huệ quốc và tăng hạn ngạch nhập khẩu sau khi gia nhập WTO theo thoả thuận mà hai nước mới đạt được, rõ ràng, khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào chính thị trường tiềm năng này ngày càng mở rộng. Còn đối với thị trường M._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35320.doc
Tài liệu liên quan