Lời mở đầu
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc tăng tốc xuất khẩu, tích luỹ để tiến lên nước công nghiệp hoá vào năm 2025.
Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp, công nghiệp còn lạc hậu thì viêc xuất khẩu những tài nguyên sẵn có, tận dụng những điều kiện thuận lợi của nước ta để xuất khẩu thu ngoại tệ. Trong những năm gần đây xuất khẩu dệt may được coi là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu, mũi nhọn trong nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ngày càng chiếm
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong điều kiện thực hiện hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Phát triển xuất khẩu hàng dệt may rất phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta, nó cần ít vốn, tốc độ quay vòng vốn nhanh và tận dụng được khối lượng lớn lao động nhàn rỗi. Vì nó phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của nước ta nên rất được sự quan tâm của Nhà nước.
Với xu thế hợp tác toàn cầu, thiết lập các quan hệ kinh tế để cùng phát triển, việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ là một tất yếu. Sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết hàng hoá của chúng ta đã xâm nhập rất nhanh vào thị trường Mỹ trong đó có hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu của chúng ta vào thị trường này tăng lên đáng kể, đặc biệt là ngành hàng dệt may (sau khi Hiệp định thương mại song phương được ký kết kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may vào thị trường Mỹ tăng tới 20 lần).
Thị trường Mỹ là một thị trường rất lớn cho các các doanh nghiệp dệt may của chúng ta xuất khẩu, nhưng thị trường Mỹ cũng là thị trường có mức độ cạnh tranh khốc liệt nhất, muốn tồn tại trên thị trường này thì phải cạnh tranh. Đây là vấn đề quan tâm không chỉ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà là vấn đề quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà nước, của mọi người. Làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ đang là vấn đề thời sự của các Nhà xuất khẩu dệt may. Trong quá trình thực tập tại Viện Nghiên cứu Thương mại em đã chọn đề tài “ Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong điều kiện thực hiện Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ”.
Nội dung của chuyên đề gồm ba chương:
Chương I. Những lý luận chung về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu
Chương II. Tình hình cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong bối cảnh thực hiện Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ
Chương III. Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ
Do thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết của em không được sâu sát và còn nhiều thiếu sót, em mong thầy chỉ bảo để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn GS_TS Đặng Đình Đào đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội 18-5- 2004.
Nội dung
Chương I. Những lý luận chung về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu
1. Khái quát về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Tiếp tục thực hiện lộ trình mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã và đang hội nhập một cách đầy đủ hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nói cách khác, Việt Nam đang tăng cường tham gia vào quá trình cạnh tranh quốc tế. Năm 2001, Việt Nam đã ký Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ; phấn đấu tham gia đầy đủ vào AFTA sớm trước một năm (tức năm 2005; theo kế hoạch 2006) và đang tiến hành đàm phán để có thể tham gia vào tổ chức Thương mại thế giới WTO vào năm 2005.
Trong điều kiện thế giới có nhiều bất ổn, nhưng năm 2003 nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng liên tục ở trên mức 7%, lạm phát vào khoảng 4% (Từ năm 1999 đến nay nền kinh tế nước ta luôn ở tình trạng thiểu phát).
Tuy nhiên theo báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2003 của Diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF ) thì năng lực cạnh tranh quốc gia của việt nam luôn có thứ hạng ở mức thấp. Vì vậy đối với Việt Nam hiện nay và trong nhiều năm tới đây, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế luôn có ý nghĩa sống còn, là cơ sở đảm bảo cho Việt Nam có thể cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Để có thể hiểu rõ về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh ta nghiên cứu một số khái niệm:
Cạnh tranh là một khái niệm phổ biến của kinh tế thị trường. Nội dung của nó rất phong phú. Trong hội nhập kinh tế, cạnh tranh luôn là vấn đề có tính thời sự. Đặc biệt trong tình hiện nay nền kinh tế thế giới hội nhập, cả thế giới là một thị trường chung, chúng ta muốn hội nhập và phát triển thì chúng ta phải có sức cạnh tranh. Do vậy chúng ta cần phải nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá để hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Muốn đề ra các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh buộc phải nghiên cứu rõ các vấn đề như cạnh tranh , sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh, hiểu cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp, cấp độ sản phẩm, và cấp độ nền kinh tế như thế nào? nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ở mỗi cấp độ ra sao...
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất . Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là sự tranh giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy, kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh , và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành khách hàng (thị phần) thì chỉ có trong khuân khổ của kinh tế thị trường
Vì cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và chỉ đạt được mục tiêu lơị nhuận , những người tham gia thị trường phải luân qua sư cạnh tranh lẫn nhau, nên từ lâu vấn đề canh tranh đã là một trong những nội dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và là một đối tượng điều chỉnh của luật pháp .
“Cạnh tranh” theo nghĩa khái quát là sự tranh đua với nhau giữa những người theo đuổi cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giàng cho mình những lợi thế nhiều nhất.
Từ đó cho thấy ‘khả năng cạnh tranh’ theo nghĩa chung nhất, chỉ cái hiện hữu, cái đã có trong quan hệ kinh tế , nó là khả năng cạnh tranh của chủ thể này , của sản phẩm này so với chủ thể khác, sản phẩm khác, người ta nhận biết được khi cọ xát, khi so sánh chúng với nhau .
Vế thứ hai ‘khả năng’ là thuật ngữ chỉ cái hiện chưa có chưa tới nhưng sẽ có sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng .khả năng chỉ cái chưa hiện hữu .vì thế dùng “khả năng mở rộng và phát triển quan hệ thương mại, mở rộng thị phần đưa lại hiệu quả” – những cái này là chưa hiện hữu, chưa có.
Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ,của một nền công nghiệp cũng như của một quốc gia. Mỗi một khái niệm đưng trên các góc độ khác nhau nên cũng khác nhau nhưng nhìn chung về ý nghĩa thì chúng cũng gần giống nhau. Em xin nêu ra đây một số thí dụ như:
-Fasfchamps cho rằng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn.
-Randall lại cho rằng khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định .
-Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể thấy rằng các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh: Chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Theo TS Ngô Thị Hoài Lam* khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực.
ỉ Quy luật về cạnh tranh:
Sự tự do trong sản xuất kinh doanh với nhiều thành phần kinh tế tham gia là nguồn gốc của sự cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh về mặt kinh tế khác hẳn sự cạnh tranh để đạt một thành tích hay giải thưởng. Nó là một cuộc chạy đua không phải một lần rồi thôi mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc chạy “ Maratông kinh tế ” không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vượt lên phía trước. Cạnh tranh trong kinh tế là cạnh tranh về chất lượng, hiệu quả, về giá cả, về dịch vụ phục vụ khách hàng giữa người mua và người bán, giữa những người mua và những người bán với nhau. Không thể lẩn tránh cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.2 Chức năng của cạnh tranh
Quá trình toàn cầu hoá thúc đẩy tự do mậu dịch trên toàn thế giới, điều này mang lại những lợi ích to lớn cho tất cả các quốc gia: Tự do trao đổi làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ phục vụ tốt hơn những nhu cầu của người tiêu dùng trên toàn thế giới, việc tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, lao động …cũng trở lên dễ dàng hơn. Tự do mậu dịch cũng làm cho cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn và là cạnh tranh mang tính toàn cầu.
Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động kích thích đối với ngưới sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn.
Chức năng và vai trò của cạnh tranh đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta. Cạnh tranh là mũi nhọn đột kích quan trọng để phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường.
Cạnh tranh kích thích sự phát triển của lức lượng sản xuất. Lợi nhuận là mục đích của cạnh tranh thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến, áp dụng khoa học công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời, cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải tính toán nghiên cứu hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống. Khi cạnh tranh các doanh nghiệp cố gắng bán được nhiều sản phẩm, nhưng do nhiều người cung cấp một loại hàng hoá nên các doanh nghiệp buộc phải tìm mọi cách để tiêu thụ sản phẩm và hạ giá thành là một công cụ xem ra có hiệu quả hơn hết, giảm giá xuống để bán được hàng và do đó đã làm giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống.
Cạnh tranh góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. Điều đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành bộ phận của phân công lao động quốc tế. Đó cũng là con đường để kinh tế nước ta có bước phát triển nhảy vọt, nhân dân ta có cuộc sống ngày càng được cải thiện.
Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị, độc quyền về kinh tế trong lịch sử.
Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh. Để đạt được một lợi thế cạnh tranh trên thị trường là mục đích của mọi công ty đặc biệt là các công ty Việt Nam hiện đang trong tình trạng cạnh tranh với sản phẩm có sức cạnh tranh còn kém. Lợi thế cạnh tranh không phải luôn dễ dàng xác định được và để có được một lợi thế cạnh tranh không phải là dễ dàng. Do đó, việc nâng cao tính chiến lược đặt ra cho nền kinh tế và các doanh nghiệp là phải làm thế nào để đạt được cạnh tranh hiệu quả và biện pháp đại thể để đạt được mục tiêu này là gì?.
1.3. Các phương thức cạnh tranh
Cạnh tranh có xu hướng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Các doanh nghiệp đang sử dụng các công cụ cạnh tranh phổ biến trong quá trình cạnh tranh sôi động hiện nay là:
Thứ nhất, chất lượng của hàng hoá. Trên thương trường nếu nhiều hàng hoá có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lượng cao hơn. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh. Công ty dệt Thái Tuấn là một ví dụ. Với chất lượng vải gấm nổi tiếng. Công ty đã khẳng định vị trí đối với người tiêu dùng và không ngừng mở rộng thị trường trong và ngoài nước…Tuy nhiên, chất lượng của hàng hoá phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất, từng ngành, từng vùng và từng quốc gia.
Thứ hai, giá cả hàng hoá. Hai hàng hoá có cùng công cụ, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá có gía rẻ hơn, Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá, song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng mua những hàng hoá có giá rẻ. Các nhà sản xuất đã thực hiện một chiến lược kinh doanh là làm ra hàng hoá có khả năng thanh toán thấp về phía mình. Trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, bán giá thấp, nhưng dùng số nhiều để thu lại. Ngược lại, khi mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đến hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao.
Thứ ba, áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ thấp hơn giá cả hàng hoá trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh.
Thứ tư là thông tin, đây là một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ cạnh tranh,…có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặt giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh; mặt khác, qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra “lợi thế so sánh” của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá. Thông tin đủ, đúng hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các phuương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu, trưng bày sản phẩm chiếm tỷ trọng nhất định trong chi phí chung của các doanh nghiệp.
Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là công cụ cạnh tranh khá quan trọng . Ai nắm được công cụ này sẽ thắng lợi trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo được sự tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết được thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bàn hàng: trước, trong và sau khi bán hàng. Trước khi bán doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ như quảng cáo chào hàng, giới thiệu hàng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng.Những động tác này nhằm hấp dẫn lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình. Trong quá trình bán hàng khâu quan trọng nhất là chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng thực sự tôn trọng khác hàng, phải thực sự ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng phải có những dịch vụ như bao bì và giao hàng hoá đến tận tay người mua , các dịch vụ bảo hành sửa chữa hàng hoá. Những dịch vụ này tạo sự tin tưởng uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Sau nữa phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi được đảm bảo các yêu cầu sau: Các dịch vụ phải nhanh chính xác, phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng.
Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thương trường đều có một vòng đời, đặc biệt vòng đời của nó sẽ rút ngắn khi xuất hiện cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp là thường xuyên cải tiến mọi mặt sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ. Trong điều kiện doanh nghiệp chưa đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm mới thì có thể sử dụng nhãn hiệu của một sản phẩm đang được uy tín trên thị trường thông qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ bảy, chữ tín. Chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp để giành giật khách hàng về phía mình đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích thước, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng hay việc thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu…Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng thuận lợi. Mặt khác công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều người ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh do đó mở rộng được thị phần hàng hoá…tạo sức mạnh cho doanh nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh bởi vì có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như tình trạng chụp giựt, bể hụi, đối tác làm ăn có ý đồ đen tối.
Thứ tám, sự mạo hiểm rủi ro. Trong kinh doanh lợi nhuận doanh nghiệp thường tỷ lệ với sự mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có xu hướng đầu tư kinh doanh (kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học) vào những mặt hàng mới, lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là khuynh hướng khách quan vì nó hy vọng thu được lợi nhuận cao trong kinh doanh. Mặt khác nó giảm được áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm, trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh.
*Ngoài các phương thức cạnh tranh này các doanh nghiệp còn sử dụng một số thủ đoạn để cạnh tranh như
Một là, dùng tài chính để thao túng. Đây là thủ đoạn khá phổ biến được áp dụng ở những doanh nghiệp có tiềm năng tài chính lớn. Mục đích là loại đối phương có tiềm lực yếu hơn ra khỏi “cuộc chơi” để độc chiếm thị trường. Động tác phổ biến là bán phá giá. Điển hình nhất của tình trạng trên là trường hợp của các công ty liên doanh Cocacola-Ngọc Hồi (Hà Nội) và Cocacola-Chương Dương (TP Hồ Chí Minh). Đây là những công ty liên doanh kinh doanh nước giải khát, phía đối tác chiếm gần 70% vốn. Trong tình trạng cạnh tranh với các hãng nước giải khát trên thị trường Việt Nam, liên doanh này liên tục thực hiện hành vi bán dưới giá, chấp nhận lỗ một thời gian dài. Đầu tuần tháng 3/1998, Cocacola cho mở chiến dịch giảm giá tới 30%, trong ba năm họ bán dưới giá thành, lỗ gần 200 tỷ. Việc bán phá giá này đẩy các doanh nghiệp nước giải khát trong nước đến chỗ phá sản (vì không đủ vốn để hạ giá) nhằm độc chiếm thị trường. Khi độc quyền về thị trường họ sẽ độc quyền định giá để bù lỗ.
Hai là, sử dụng liên kết để thao túng thị trường. Mục đích của thủ đoạn này là các doanh nghiệp thực hiện sự liên kết nhằm khống chế thị trường, thu lợi nhuận độc quyền cao. Thủ đoạn này bao gồm liên kết về giá nhằm bóp chẹt người tiêu dùng; liên kết về vùng tiêu thụ hay cùng nhau phân chia thị trường; liên kết về chất lượng hàng hoá bằng cách cùng nhau giảm chất lượng hàng hoá do đó giảm chi phí đầu vào mà vẫn giữ nguyên giá cũ. Liên kết gây áp lực về giá bán.
Ba là, móc ngoặc với quan chức nhà nước để lũng đoạn thị trường.
Bốn là, lợi dụng kẽ hở của pháp luật. Luật pháp Nhà nước dù được xây dựng đồng bộ, đầy đủ nhưng vẫn có những kẽ hở. Văn bản luật không đầy đủ hoặc chồng chéo, khi đó các doanh nghiệp tìm cách lách luật. Các thủ đoạn hiện nay thường thấy là lợi dụng sơ hở trong quy định mức thuế đối với các nhóm hàng, đặc biệt những quy định ưu đãi về nhóm hàng tạm nhập, tạm xuất. Lợi dụng trong nghiệp vụ ngân hàng về thế chấp, cho vay, bảo hiểm…các thủ đoạn trên được sử dụng mạnh mẽ hơn, nhất là ở những quốc gia mới bước vào nền kinh tế thị trường với một hành lang pháp lý còn lỏng lẻo như ở nước ta.
Năm là, sử dụng các thủ đoạn phi kinh tế khác như: làm giảm uy tín của đối thủ cạnh tranh, sử dụng gián điệp kinh tế, dùng bạo lực loại trừ đối thủ cạnh tranh.
2. Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may
Theo học thuyết kinh tế của Adam Smith “ Các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hoá này sang những quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn. Với những điều kiện thuận lợi và có lợi thế hơn các nước khác về nhiều mặt, nước ta cũng chuyên môn vào xuất khẩu một số mặt hàng mà mình có lợi thế hơn so với các nước khác. Trong khi họ cung cấp cho chúng ta những mặt hàng rẻ hơn do chúng ta tự sản xuất thì tốt nhất họ cũng mua những mặt hàng mà chúng ta sản xuất bán với giá rẻ hơn do họ tự sản xuất. Trong những mặt hàng mà chúng ta xuất khẩu chủ yếu là nông, lâm, thuỷ hải sản và hàng dệt may. Với những điều kiện về địa lý, điều kiện lao động mặt hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta.
2.1. Đánh giá cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Có bốn nhóm tạo nên lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong một ngành công nghiệp là:
Các yếu tố sản xuất : Một quốc gia có thể định vị các yếu tố sản xuất chẳng hạn như lao động kỹ thuật cao hoặc là cơ sở hạ tầng cần thiết để cạnh tranh trên một lĩnh vực công nghiệp cụ thể .Hệ thống này phân biệt các yếu tố sản xuất cơ bản ( điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và các yếu tố sản xuất mới ( cơ sở hạ tầng thông tin, trình độ lao động, khả năng nghiên cứu và phát triển, bí quyết công nghệ). Các yếu tố sản xuất mới là quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Điều kiện về nhu cầu: đặc điểm nhu cầu nội địa đối với sản phẩm của một nghành công nghiệp hoặc dịch vụ. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhấn mạnh rằng nhu cầu đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh. Như vậy nhu cầu nội địa hình thành các đặc tính sản phẩm và tạo ra những áp lực để phát triển sản phẩm mới hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm. Thông thường một quốc gia có thể thu được lợi thế cạnh tranh nếu nhu cầu thị trường nội địa ở trình độ cao và phức tạp.
Các nghành công nhiệp liên quan hoặc hỗ trợ. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trên một nghành công nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự hiện diện của các ngành công nghiệp liên quan và các nghành công nghiệp hỗ trợ. Ví dụ. Với những công nghệ hàng đầu trong lĩnh vực bán dẫn, nước Mỹ đã thành công và đi đầu trong lĩnh vực chế tạo máy tính và các sản phẩm điện tử tân tiến khác.
Chiến lược công ty, cấu trúc thị trường và mức độ cạnh tranh. Sự khác nhau giữa các quốc gia có thể được thể hiện ở triết lý quản lý, yếu tố này có thể đóng vai trò tiêu cực hoặc tích cực trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Lý thuyết cũng chỉ ra rằng mức độ cạnh tranh cao và liên tục trên thị trường nội địa của một nghành công nghiệp sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh lâu dài và ổn định của nghành đó trên thị trường thế giới.Sự hiện diện của nhóm yếu tố này sẽ có tác động tích cực trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một nghành công nghiệp của một quốc gia trên thị trường nội địa cũng như thế giới.
Các nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp nào đó trong một quốc gia. Trong một quốc gia các nhân tố này phát triển thì ngành công nghiệp đó cũng phát triển, khả năng cạnh tranh của ngành cũng phụ thuộc vào đó.
Xét vào trường hợp cụ thể cho nghành dệt may nước ta xuất khẩu trên thị trường thế giới. Nghành công nghiệp dệt may nước ta xuất hiện từ khoảng những năm 40 của thế kỷ, chủ yếu lúc đó là sản xuất hàng dệt cho bọn thực dân, nước ta sau một thời gian dài chiến tranh công nghiệp dệt may chủ yếu phục vụ thị trường tiêu dùng trong nước. Chúng ta mới hướng ra xuất khẩu trong thời gian gần đây, và nó chứng tỏ ngay đó là một thế mạnh của nước ta trong xuất khẩu. Nhưng xét về khả năng cạnh tranh của nó trên thị trường thế giới thì vẫn còn yếu.
Chúng ta hơn các nước khác về các yếu tố sản xuất, với các yếu tố cơ bản thì chúng ta có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, chúng ta lại có lợi thế về vị trí địa lý, tiện giao thông đường biển. Các yếu tố sản xuất mới chúng ta còn thua kém nhiều nước về cơ sở hạ tầng, khả năng nghiên cứu và phát triển, bí quyết công nghệ, nhưng chúng ta có đội ngũ lao động với trình độ hơn hẳn một số nước khác trong khu vực.
Giá nhân công rẻ, đó là một lợi thế cạnh tranh rất lớn cho nghành dệt may nước ta.
Nhu cầu nội địa về hàng dệt may của nước ta chưa phải là cao nếu so với các nước khác trong khu vưc và trên thế giới. Nước ta có thị trường nội địa lớn nhưng nhu cầu thì không lớn. Hơn nữa người Việt Nam rất dễ tính trong việc mua sản phẩm, yêu cầu trình độ cao, tiêu chuẩn hoá trong sản phẩm không lớn điều đó đã không tạo ra những áp lực cho các doanh nghiệp cải tiến chất lượng, mẫu mã. Và do đó vô hình chung chính những người tiêu dùng đã làm cho sản phẩm dệt may nước ta kém cạnh tranh khi tham gia thị trường thế giới.
Các nghành công nghiệp hỗ trợ và liên quan phục vụ cho nghành công nghiệp dệt may vẫn còn thiếu hoặc chưa phát triển thậm chí còn chưa có. Em chỉ đơn cử ra một số nghành phục vụ cho dệt may như nghành hoá chất, nghành dệt may đang cần những hoá chất phục vụ cho nhuộm vải, hay nhưng hoá chất để sản xuất tơ sợi tổng hợp, trong khi đó hàng năm nghành dệt may phải nhập một lượng rất lớn hầu như toàn bộ tơ sợi tổng hợp. Hay như ngành cơ khí sản xuất máy móc cho ngành vẫn chưa phát triển trong khi đó chúng ta phải nhập những máy móc cũ, lạc hậu hàng thập kỷ mà nước ngoài họ thải ra về sản xuất. Việc phải nhập nguyên liệu tổng hợp từ nước ngoài và sử dụng công nghệ cũ lạc hậu đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Còn về vấn đề chiến lược công ty thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn chưa coi trọng, coi việc xuất khẩu đơn thuần như việc buôn bán nội địa, chưa xây dựng những chiến lược cạnh tranh, nhiều công ty chưa có nhưng chiến lược kinh doanh thích hợp điều đó cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu. Triết lý kinh doanh của người lãnh đạo các doanh nghiệp còn kém hoặc không có triết lý rõ ràng. Ví dụ, trong các công ty mà người lãnh đạo xuất phát từ lĩnh vực sản xuất thì các chiến lược công ty thường tập trung vào quy trình chế tạo hoặc thiết kế sản phẩm. ở những công ty mà lãnh đạo đi lên từ lĩnh vực tài chính thì chiến lược công ty thường tập trung vào lĩnh vực tài chính.
Với những yếu kém của các nhân tố trên dẫn đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới cũng yếu.
Trên thị trường xuất khẩu khả năng cạnh tranh kém của hàng dệt may thể hiện ở những khía cạnh sau:
Do mới xâm nhập thị trường nên ta có ít khách hàng trực tiếp. Mặc dầu có hạn ngạch nhưng hầu hết doanh nghiệp Việt Nam phải xuất khẩu thông qua nước thứ 3 để vào thị trường EU. Những lô hàng này theo quy định của EU không được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Chính do hạn chế đó mà nhiều doanh nghiệp do không ký được hợp đồng đã bỏ “khê” hạn ngạch.
Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào những sản phẩm truyền thống, dễ làm. Các yêu cầu sản phẩm kỹ thuật cao thì ít doanh nghiệp làm được. Do đó có nhiều mã hàng bị bỏ trống vì không có doanh nghiệp tham gia.
Một hạn chế nữa của các sản phẩm dệt may của Việt Nam là chi phí vận chuyển sang các thị trường này khá lớn, do ta ở xa điều đó càng làm tăng chi phí sản xuất và giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Đó chưa kể một thực tế mà mọi người trong nghành đều thấy là, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quá ít thông tin về thị trường về các đối tác nước ngoài mà họ hợp tác sản xuất. Chúng ta đều biết mạng lưới thương vụ của ta có mặt hầu như mọi nơi trên thế giới. Song, những thông tin về thị trường nói chung và thị trường buôn bán hàng dệt may nói riêng được họ quan tâm cung cấp về nước quá ít, kể cả một số thị trường lớn và truyền thống của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam lại quá nghèo,không có đủ chi phí để thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài, hoặc lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài, nên các thông tin quốc tế càng bị hạn chế. Những thay đổi về mẫu mã, những khuynh hướng thời trang mới, chúng ta hoàn toàn không nắm được trước để chuẩn bị cho sản xuất. Đây có thể được coi là một hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà trước mắt tự thân các doanh nghiệp không thể khắc phục được.
2.2. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ được ký kết ngày 13/07/2000 đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trường Hoa Kỳ, trong đó có hàng dệt may.
Tác động của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đối với xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ là:
- Thuế nhập khẩu bình quân giảm từ 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ.
- Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư.
- Rào c._.ản thương mại được giảm bớt, cho phép mọi thành phần kinh tế được kinh doanh xuất nhập khẩu, xoá bỏ dần quản lý xuất khẩu bằng hạn ngạch…
Hoa Kỳ là một thị trường có sức mua lớn và có nhiều tầng lớp dân cư nên nhu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm không quá khắt khe như ở thị trường Châu Âu và Nhật Bản. Các mặt hàng công nghệ phẩm, may mặc, giày dép, mỹ nghệ, cơ khí …của Việt Nam đã vào được thị trường Mỹ với số lượng và giá trị lớn. Tuy nhiên, việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Thuế nhập khẩu còn quá cao. Giá cả sản phẩm của Việt Nam cao một phần do đường vận chuyển xa, một phần do các nhà sản xuất trực tiếp xuất khẩu trong khi chất lượng hàng hoá chưa cao và không đồng đều, quy mô sản xuất còn quá nhỏ. Một trong những khó khăn lớn để hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ là hai nước chưa dành cho nhau về quy chế thương mại bình thường ( tối huệ quốc). Ngoài ra, hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ rất phức tạp. Các nước buôn bán với Hoa Kỳ phải có luật sư trong khi giá thuê tư vấn rất đắt . Việc thiều thông tin về thị trường Hoa Kỳ cũng đang là trở ngại lớn cho các nhà kinh doanh Việt Nam.
Các công ty Hoa Kỳ có quy mô lớn thường có quan hệ với nhiều nước châu á có các sản phẩm xuất khẩu giống Việt Nam và đã xuất khẩu nhiều sang thị trường Mỹ. Vì vậy, nếu không có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ của nhà nước về giá cả và xúc tiến thương mại, quảng cáo…thì hàng Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ.
Theo hiệp định thương mại và Hiệp định hàng dệt may, hạn ngạch dệt may Việt Nam –Hoa Kỳ là 1,7 tỷ USD được ký kết là số lượng hạn ngạch chứ không phải là kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 200 triệu USD là phi hạn ngạch. Vì vậy, nếu ta xuất hàng có giá trị cao thì kim ngạch xuất khẩu còn vượt trên con số được ký kết; ngược lại, vời những hàng hoá có giá trị thấp thì chúng ta tự làm mất đi hạn ngạch của mình. Thực tế ngay từ khi chưa được cấp Visa, các doanh nghiệp đã xuất hơn 500 triệu USD, trong đó rất nhiều hàng có giá trị thấp. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang lâm vào tình trạng hết sức khó khăn khi không có hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Trong 4 tháng đầu năm nay ước tính cả nước hiện có gần 1000 đơn vị tham gia xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ thì có đên trên 80% đơn vị có kim ngạch xuất khẩu dưới 2 triệu USD. Đáng chú ý, có rất nhiều doanh nghiệp thị trường xuất khẩu chủ yếu là Mỹ, đặc biệt một số doanh nghiệp chỉ có thị trường duy nhất là Mỹ. Do vậy, với tình trạng khan hiếm hạn ngạch như hiện nay, nguy cơ phá sản, đóng cửa là rất lớn.
Mặt khác chỉ còn gần 10 tháng nữa, Hiệp định dệt may ATC của Tổ chức Thương mại Quốc tế ( WTO ) sẽ chính thức bị xoá bỏ hoàn toàn .Điều này cũng đồng nghĩa với viêc chấm dứt sự tồn tại của chế độ hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm qua và đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ mới: tự do hoá thương mại dệt may trên toàn cầu.Đây sẽ là thử thách rất lớn đối với hàng dệt may Việt Nam .
Việt Nam chưa trở thành thành viên của WTO có ý nghĩa hết sức quan trọng tới khả năng cạnh tranh tồn tại và phát triển của ngành dệt may Việt Nam giai đoạn hậu hạn ngạch .Bởi vì đầu năm 2005, khi hàng rào hạn ngạch được xoá bỏ, hàng dệt may từ các nước WTO sẽ được xuất khẩu tự do từ đó dẫn đến hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh trên thị trường thế giới bằng chính sức của mình.
Vào năm 2005 yếu tố quyết định tới sự phát triển của mỗi doanh nghiệp dệt may sẽ là tốc độ phát triển, giá cả và sự năng động của bản thân họ.Vì vậy, các nhà sản xuất buộc phải đi vào chuyên môn hoá cao độ, tập trung vào những mặt hàng thưc sự có lợi thế cạnh tranh.
Với tình hình như hiện tại và sắp tới các doanh nghiệp dệt may muốn trụ lại trên thị trường Mỹ buộc phải nâng cao khả năng cạnh tranh để có thể cạnh tranh với hàng dệt may đến từ các nước khác trên thế giới vào thị trường Mỹ mà hiện nay sức cạnh tranh của chúng rất lớn.
2.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu
Khi nói đến khả năng cạnh tranh của một mặt hàng nào đó ta chưa có một công thức, chỉ tiêu đánh giá nào về khả năng cạnh tranh một cách chính xác, có một số chỉ tiêu nhưng đó chỉ mang tính tương đối, mà tương đối, nhiều lúc nó chẳng nói lên điều gì cả. Nhưng để có thể so sánh khả năng cạnh tranh ta dùng một số chỉ tiêu sau:
ỉ Quan điểm lợi thế cạnh tranh dựa trên chỉ số chi phí.
Dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, xem xét năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua so sánh chi phí sản xuất và năng suất.
- Nhược điểm của quan điểm này là yếu về phân tích động thái, việc đo lường chi phí, năng suất phải dựa trên nhiều giả thiết, phải có các chỉ số đo lường mức bảo hộ…nhưng hiện nay quan điểm này đang được sử dụng rộng rãi bởi các ưu điểm về phân tích đinh lượng của nó.
Bản chất của quan điểm này là chi phí các nhân tố sản xuất là một điều kiện cơ bản của năng lực cạnh tranh, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong quá trình hội nhập.
Ưu điểm: - Cho phép xác định được những ngành, công ty có đóng góp tích cực cho nền kinh tế dưới góc độ phúc lợi xã hội.
Mức độ phù hợp của can thiệp của Chính phủ.
Trên giác độ công ty, chỉ số chi phí cho thấy công ty có thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh hay không.
Sau khi tính được hệ số chi phí ( thực chất là giá thành có tính đến các méo mó về giá cả và các chi phí trung gian không lượng hoá được, loại trừ các tác động của bảo hộ…) tiến hành so sánh hệ số chi phí đó của các nhà sản xuất trong nước với nước ngoài, nếu nhỏ hơn thì nhà sản xuất trong nước có tính cạnh tranh và ngược lại.
ỉ Lợi thế so sánh
ở nước ta, loại hàng hoá nào có lợi thế, loại nào không có lợi thế báo chí có nhắc đến nhiều, nhưng chỉ dừng lại ở những nhận xét khái quát và định tính. Một cách xác định khả năng cạnh tranh của một loại hàng cụ thể, được xác định trên thị trường quốc tế có thể được đo bằng chỉ tiêu lợi thế so sánh RCA ( Revealed Comparative Advantages ).
RCA =( Xn/Xt )/ ( Xnw/ Xtw )
Trong đó:
Xn: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng n của quốc gia.
Xt: Tổng kim ngạch Xk của quốc gia đó.
Xnw : Tổng kim ngạch Xk mặt hàng n của nước khác, khu vực khác hoặc thế giới.
Xtw : Tổng kim ngạch Xk của nước khác, khu vức khác hoặc thế giới
Nếu RCA càng cao thì lợi thế so sánh của mặt hàng đó càng lớn. RCA của Việt Nam các mặt hàng rất thấp (chỉ ~ 0.1). Trừ hàng may mặc (~3.58), giày dép (~3.3).
ỉ Ngoài ra ta còn dùng một số chỉ tiêu như:
* Thị phần chiếm lĩnh được:
Xij
T (%) = .100%
Nij
Trong đó:
Xi : Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng i vào thị trường j
Ni : Tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng i của thị trường j * Tốc độ tăng của thị phần qua các năm:
DT = T1- To (%)
* Tốc độ tăng của thị phần so với các đối thủ cạnh tranh.
* Tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may.
M= M1/Mo . 100%
M’=M1-Mo
* Tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may so với các đối thủ cạnh tranh.
* Chu kỳ tiêu thụ sản phẩm.
3. Các nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ
Theo M.E. Porter thì có 5 yếu tố quyết định cường độ cạnh tranh ngành, đó là: sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành, nguy cơ đe doạ nhập ngành từ các đối thủ tiềm ẩn, quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người mua, quyền lực thương lượng hay khả năng tăng giá của người cung ứng, nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế.
Hình 1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành.
Các đối thủ tiềm ẩn
Các đối thủ hiện tại trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại
Người mua
Sản phẩm thay thế
Người cung ứng
4Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành .
Trước hết các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành quyết định tính chất và mức độ tranh đua nhằm giành giật lợi thế trong ngành và mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo có thể có được mức lợi nhuận lớn nhất. Sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại có xu hướng làm tăng cường độ cạnh tranh và làm giảm mức lợi nhuận của ngành .
4Nguy cơ đe doạ nhập nghành từ các đối thủ tiềm ẩn.
Hiểu biết đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp vì sự xuất hiện của các đối thủ mới, đặc biệt khi các đối thủ này có khả năng mở rộng khả năng sản xuất và chiếm lĩnh thị phần, sẽ làm cạnh tranh trở nên khốc liệt và không ổn định.
4Quyền lực thương lượng của người mua.
Đối với các doanh nghiệp thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thu được sản phẩm và có lãi. Chính vì vậy, sự tín nhiệm của khách hàng luôn là tài sản có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được là do thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác. Người mua luôn muốn trả giá thấp vì vậy sẽ thực hiện việc ép giá, gây áp lực đòi hỏi chất lượng cao hơn hoặc được phục vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
4Quyền lực thương lực thương lượng của người cung ứng.
Người cung ứng các yếu tố đầu vào luôn muốn thu nhiều lợi nhuận, vì vậy họ có thể đe doạ tăng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm đặt mua, nhằm làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp khi họ có điều kiện.
4Nguy cơ đe doạ từ những sản phẩm thay thế.
Các sản phẩm thay thế luôn có thể có tác động lớn đến mức lợi nhuận tiềm năng của ngành, nhất là những sản phẩm có chu kỳ sống ngắn. Vì phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của việc đổi mới công nghệ, nên thường có ưu thế về chất lượng và giá thành sản phẩm.
M.E Porter chỉ xét đến những yếu tố điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh cả ở trong và ngoài doanh nghiệp. Theo các quan điểm hiện đại thì các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của một ngành, doanh nghiệp gồm các nhân tố sau:
3.1. Môi trường cạnh tranh của ngành
Môi trường cạnh tranh bao gồm các yếu tố như: điều kiện chung về cạnh tranh, số lượng đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của đối thủ cạnh tranh, chiến lược cạnh tranh của các đối thủ.
Với số dân 270 triệu hàng năm nước Mỹ có nhu cầu cần nhập khẩu khoảng hơn 60 tỷ USD hàng dệt may. Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mới được ký kết và hàng dệt may Việt Nam cũng mới chân ướt chân ráo bước vào thị trường Hoa Kỳ. Đối với chúng ta thị trường Hoa Kỳ là một thị trường còn hoàn toàn mới mẻ, trong khi đó Hoa Kỳ đã có những bạn hàng quen thuộc từ rất lâu như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Canađa, Mêxicô…Họ đã quá hiểu về thị trường Hoa Kỳ, đứng chắc chân trên thị trường này. Hơn nữa hàng hoá của họ nước thì có giá rẻ hơn hẳn chúng ta như Trung Quốc, nước thì có mẫu mã và chất lượng cao hơn chúng ta rất nhiều như Hàn Quốc, Hồng Kông…. Khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường Mỹ là rất lớn, có thể nói họ là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp với chúng ta trên thị trường dệt may Mỹ.
Bên cạnh đó thị trường dệt may Mỹ cũng có những thành viên mới như chúng ta. Sắp tới khi mà toàn cầu hoá một số thành viên mới cũng nhảy vào thị trường này, và khi đó ai có khả năng cạnh tranh lớn hơn sẽ thắng.
3.2. Môi trường văn hoá xã hội
Nước Mỹ là một nước đa văn hoá, đa dân tộc bởi vì nước Mỹ mới được hình thành hơn 300 năm do dân di cư đến từ khắp nơi trên thế giới như ở Châu Âu, Châu á, Châu Phi, và dân bản địa, với một nước có nhiều nền văn hoá như nước Mỹ thì việc chinh phục khách hàng cũng dễ hơn, nhưng cũng phức tạp khi mà muốn chinh phục nhiều nhóm khách hàng, khi đó phải tìm hiểu rõ từng nền văn hoá.
Nước Mỹ có số dân 273 triệu nên nhu cầu tiêu dùng là rất lớn và đa dạng, do đó dung lượng thị trường cũng rất lớn, khả năng đảm bảo kinh doanh cao, doanh nghiệp dễ lựa chọn nhu cầu thị trường để thoả mãn. Mặt khác nó cũng tạo ra cho doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu một khối lượng sản phẩm lớn, có nhiều cơ hội vào thị trường Mỹ.
Thế hệ thanh thiếu niên Mỹ trong thời gian qua tăng rất nhanh. Ngày nay họ có thu nhập cao hơn và chi tiêu nhiều hơn trước đây, tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi này chú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”. Đồng thời họ cũng nhanh chóng thích ứng với các hoạt động xúc tiến thương mại trên mạng Internet, tạo ra các cơ hội cho các công ty bán hàng qua mạng.
Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 35% tổng dân số. Những người ở lứa tuổi này có xu hướng dành một tỷ lệ chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí cho học hành của con cái và tiết kiệm. Sự cắt giảm chi tiêu cho quần áo buộc họ phải tìm những sản phẩm vừa đáp ứng được những giá trị mà họ mong muốn vừa phù hợp với khoản tiền mà họ dự định chi tiêu. Mặc dù vậy, họ vẫn là một nhóm người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 65 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho các nhà sản xuất hàng may mặc. Nhóm người này quan tâm ít đến thời trang và chú ý đến nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với đời sống và hoạt động của họ.
Một xu hướng thay đổi thói quen làm việc của người Mỹ là người Mỹ ít đến cửa hàng hơn trước vì họ thích dành thời gian nghỉ ngơi, ở nhà với gia đình hoặc bạn bè. Điều này nó khiến cho việc mua quần áo mới không còn quan trọng đối với một số người, làm tăng thị phần của những quần áo cũng như các hàng tiêu dùng khác được bán qua thư và Internet. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần chú ý đến việc bán hàng qua mạng Internet để tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá của mình.
Thu nhập của dân cư Mỹ biến động theo từng tầng lớp, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ở Mỹ cũng rất lớn. Nhưng nói chung thu nhập của người dân Mỹ rất cao, khoảng trên 30.000 USD/người/năm. Điều này ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng cần đáp ứng của sản phẩm . Doanh nghiệp có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm thoả mãn khách hàng theo mức độ yêu cầu khác nhau về chất lượng, chủng loại, dịch vụ. Ví dụ như với người có thu nhập cao thì yêu cầu hàng hoá phải có chất lượng rất tốt, thời trang. Còn đối với người có thu nhập thấp thì giá rẻ cũng là một lợi thế cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình.
3.3. Môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp và công nghệ
Đây là một yếu tố cũng có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu. Hàng hoá dệt may chúng ta xuất khẩu vào thị trường Mỹ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế, công nghệ của cả nước ta và của nước Mỹ.
Chúng ta là nước xuất khẩu nên những yếu tố thuộc môi trường này ảnh hưởng nhiều đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của hàng hoá. Hàng dệt may xuất khẩu được nhiều ưu đãi trong đầu tư, xuất khẩu vì đây được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Nhà nước cũng có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu, được nhà nước đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng. Giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các yếu tố về công nghệ trong ngành dệt may ở nước ta vẫn còn rất kém, cơ sở vật chất, hạ tầng của nghành dệt may vẫn còn rất kém, lạc hậu mặc dù được nhà nước quan tâm đầu tư nhiều. Với những yều kém về công nghệ đã làm cho năng suất giảm, giá thành sản xuất cao, chất lượng hàng hoá kém dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam đi rất nhiều.
Môi trường kinh tế của nước Mỹ cũng có những ảnh hưởng nhất định đến việc xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta. Với sự phức tạp của hệ thống luật pháp, các đạo luật rắc rối của Mỹ đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nước ta chùn chân, bối rối, gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu. Ví dụ với đạo luật về bảo hộ hàng dệt may trong nước, hàng năm Mỹ chỉ cho phép chúng ta hạn ngạch xuất khẩu nhất định dẫn đến có nhiều doanh nghiệp muốn xuất khẩu nhưng không có hạn ngạch, ảnh hưởng phần nào đến khả năng cạnh tranh. Mặc dù hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký kết tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của chúng ta được bình đẳng trong cạnh tranh. Tuy vậy, hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam vào Mỹ vẫn sẽ gặp phải những đạo luật nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước của Mỹ như: Đạo luật chống bán phá giá, Đạo luật chống trợ cấp…như trường hợp cá Basa, tôm mà chúng ta gặp phải. Chính vì vậy, muốn thâm nhập thị trường Mỹ một cách lâu dài và hiệu quả, thì các nhà xuất khẩu hàng dệt may cần lưu ý tới vấn đề luật pháp của Mỹ. ở Mỹ có hai hệ thống luật pháp là luật của nhà nước Mỹ ngoài ra ở các bang cũng có những điều luật riêng, do đó các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý.
Với công nghệ hiện đại, nước Mỹ sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao do đó người tiêu dùng Mỹ cũng có nhu cầu yêu cầu những hàng hoá có chất lượng cao, đòi hỏi hàng hoá mà các doanh nghiệp xuất khẩu vào Mỹ phải đảm bảo chất lượng thì mới cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của các nước khác. ở Mỹ có riêng một cơ quan chuyên giám định chất lượng hàng hoá khi nhập khẩu vào Mỹ, chỉ những hàng hoá nào đáp ứng được những tiêu chuẩn của Mỹ thì mới vào được thị trường Mỹ.
3.4. Môi trường địa lý sinh thái
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, “án ngữ” giao lộ hàng hải, hàng không nội vùng và quốc tế. Các đường bay từ Nhật Bản, Hồng Kông đi Thái Lan đèu có con đường lợi nhất là ngang qua không phận Đà Nẵng. Đường cáp quang quốc tế cũng có mạch nối vào Đà Nẵng. Con đường bộ xuyên á không chỉ đi qua TP Hồ Chí Minh ở phía nam mà hành lang Đông Tây qua đường 9 và cả hành lang Đông Tây mở rộng sẽ không chỉ là nối thông ra biển của Lào, Đông bắc Thái Lan và Việt Nam mà còn là “cây cầu dài trên bộ” nối ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tạo ra con đường vận tải liên vận ngắn nhất từ Tây sang Đông trong tương lai gần. Một vị trí trung tâm vùng Đông Nam á, một vị trí địa-chính trị của nước ta trong ASEAN, ASEM, APEC. Có thể nói lợi thế so sánh này cao hơn cả lợi thế về một số khoáng sản hiện có. Khoáng sản có thể rồi cạn kiệt, nhưng vị trí địa-chính trị quan trọng này thì còn mãi và nếu biết cách khai thác thì có thể có vị thế cao trong vùng.
Nước ta nằm ở cửa ngõ khu vực giao thương với các nước trên thế giới, thuận lợi cho việc vận chuyển bằng đường biển, hầu hết hàng dệt may vận chuyển bằng đường biển. Chúng ta có lợi thế trong xuất khẩu hơn các nước khác không có bờ biển, phải qua vận chuyển trung gian chi phí cao. Trong xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ chúng ta rất thuận lợi trong viêc vận chuyển vì có nhiều tàu chợ đi ngang qua chúng ta. Tuy vậy chúng ta gặp phải bất lợi là nước Mỹ có vị trí địa lý cách chúng ta tới nửa vòng trái đất. Do vậy việc vận chuyển hàng dệt may của chúng ta sang thị trường Mỹ phải mất một chi phí lớn hơn các nước gần thị trường Mỹ. Do đó chúng ta mất đi khả năng cạnh tranh nhờ lợi thế về mức chi phí vận chuyển thấp so với các đối thủ lớn khác như Mêxicô, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản.
Nước Mỹ có diện tích rất lớn, trải dài và rộng, chịu ảnh hưởng của khí hậu cả ba đới nên thời tiết, khí hậu các vùng ở Mỹ rất khác nhau nhau. Điều này tạo điều kiện cho chúng ta xuất khẩu liên tục được nhiều loại mặt hàng phục vụ cho cả vùng có khí hậu, thời tiết nóng, lạnh, ôn đới.
3.5.Tiềm lực của doanh nghiệp
ỉTiềm lực về tài chính
Đây là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của các doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh. Được thể hiện qua các chỉ tiêu: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận, giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn, các tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Trong ngành công nghiệp dệt may ở nước ta, một thực tế là khả năng tài chính của các doanh nghiệp vẫn còn rất yếu. Các doanh nghiệp dệt may không có đủ vốn để đầu tư đổi mới trang thiết bị, thiếu vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Với đặc trưng của ngành dệt may là ngành này cần ít vốn mà khả năng quay vòng vốn nhanh nên có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ, vừa và các hộ cá thể đầu tư vào. Với quy mô nhỏ nên việc sản xuất với những hợp đồng có khối lượng lớn thường rất khó khăn, khó nhận được hợp đồng.
Thiếu vốn chủ sở hữu nhưng khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp cũng khó, do quy mô nhỏ nên viêc vay vốn sản xuất cũng khó. Thiếu vốn dẫn đến thiếu sự đầu tư vào công nghệ, vào đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ. Thiếu vốn dẫn đến việc doanh nghiệp khó áp dụng các chiến lược trong tiếp cận thị trường, các chiến lược Marketting.
Hiện nay hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh vẫn còn yếu một phần cũng là do thiếu vốn. Cạnh tranh trên thị trường Mỹ các nhà xuất khẩu dệt may cần có một khả năng tài chính vững mạnh để đương đầu với những thay đổi của thị trường, dễ dàng thay đổi hướng sản xuất trong xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu cần vốn để có thể cạnh tranh với các đối thủ cùng loại, để đầu tư dài hơi cho tương lai.
ỉTiềm năng con người
Trong kinh doanh ( đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn đúng cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác như vốn, công nghệ một cách có hiệu quả để khai thác các cơ hội.
Tiềm năng về con người tạo nên một khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. Tiềm năng con người với lực lượng lao động có năng suất, có khả năng phân tích và sáng tạo: liên quan đến khả năng tập hợp và đào tạo một đội ngũ những người lao động có khả năng đáp ứng cao yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Liên quan đến sức mạnh tiềm năng của doanh nghiệp về con người. Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực vô cùng quan trọng, nó chủ động phát triển sức mạnh con người nhằm đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và thích nghi của nền kinh tế thị trường.
Trong nghành dệt may xuất khẩu chúng ta có lợi thế là chúng ta có một lực lượng công nhân đồng đều về tay nghề, có trình độ cao so với các nước khác cùng sản xuất hàng dệt may. Có sức khoẻ, có khả năng hoà nhập và đoàn kết tốt tạo ra cho chúng ta một lợi thế để cạnh tranh.
Tuy nhiên chiến lược về phát triển nguồn nhân lực trong nghành dệt may còn nhiều hạn chế, chúng ta chưa chú trọng đào tạo những kỹ thuật viên có kỹ thuật cao, các nhà tạo mẫu cho sản phẩm. Chưa chú trọng nâng cao tay nghề của người công nhân. Chúng ta thiếu những nhà quản lý giỏi có khả năng ra những quyết định quan trọng trong kinh doanh. Nếu chúng ta chú trọng vào vấn đề này thì hiệu quả trong sản xuất nghành dệt may chắc chắn sẽ thu được nhiều hơn những gì chúng ta hiện thu được.
ỉTiềm lực vô hình
Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại thông qua khả năng “bán hàng” gián tiếp của doanh nghiệp. Sức mạnh thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và tác động đến sự lựa chọn, chấp nhận và quyết định mua hàng của khách hàng. Vô hình bởi người ta không lượng hoá được một cách trực tiếp mà phải “đo” qua các tham số trung gian.
Tiềm lực vô hình không tự nhiên mà có. Tuy có thể được hình thành một cách tự nhiên, nhưng nhìn chung tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp .
Tiềm lực vô hình bao gồm: hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường, mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá , uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp.
Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, thái độ đối với khách hàng, giá cả là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự hiểu biết đầy đủ, sự “ cảm tình”, “ tin cậy” giúp cho việc ra quyết định có tính ưu tiên khi mua hàng. Điều này cho phép doanh nghiệp “dễ” bán được sản phẩm của mình hơn.
Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá liên quan đến một loại sản phẩm với nhãn hiệu cụ thể của doanh nghiệp trên thực tế có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mua sắm và ra quyết định của khách hàng.
Trong ngành may mặc điều này thực sự quan trọng, nhãn hiệu hàng hoá có uy tín luôn luôn là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ví dụ một số nhãn hiệu nổi tiếng như Nike, Versage, Gucci, Bossini, cK luôn có lợi thế trong cạnh tranh, do đã có danh tiếng từ trước, được người tiêu dùng trên toàn thế giới biết đến và tin cậy, giá của họ mặc dù rất đắt nhưng rất dễ tiêu thụ.
Hàng hoá của chúng ta xuất khẩu( trong đó xuất khẩu sang Mỹ) chưa có được những thương hiệu của chính mình, chúng ta chủ yếu xuất khẩu với hình thức may gia công cho các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Nếu xây dựng được những thương hiệu hàng dệt may cho chính mình thí các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới dễ dàng xâm nhập được thị trường các nước, khả năng cạnh tranh cao hơn và lâu dài hơn. Một yêu cầu của hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ là hàng hoá phải có những thương hiệu khi mà xuất khẩu vào thị trường của họ.
Chương II. Tình hình cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ
1. Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ
1.1. Khái quát nền kinh tế Mỹ
Nước Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới hiện nay, với sự phát triển rất cao của nền kinh tế thị trường. Hiện nay, Mỹ đang là một cường quốc kinh tế và quân sự mạnh nhất trên thế giới, nước Mỹ có tầm ảnh hưởng rất to lớn tới chính trị và kinh tế toàn cầu, nắm vị trí chủ đạo trong quan hệ quốc tế, dẫn đầu thế giới trong hầu hết các lĩnh vực, và quyết định tới sự phát triển kinh tế thế giới. Nền kinh tế mỹ hoạt động rất hiệu quả trong nền cơ chế thị trường, mọi quan hệ kinh tế đều được thiết lập trên cơ sở quan hệ cung cầu, sự can thiệp của Chính phủ chỉ ở tầm vĩ mô và thực sự rất hạn chế.
Những năm vừa qua nền kinh tế của nước Mỹ liên tục phát triển trong một thời gian dài. Thời kỳ 90-99 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ là 2,2% (so với nước Nhật là 1,8%).
Năng suất lao động cao hơn tất cả các nước có nền kinh tế phát triển từ 15-35%. Nạn thất nghiệp của Mỹ giảm đáng kể, đầu những năm 80 là 10% đến năm 98 là 4,5% , nước Mỹ đã tạo gần 18 triệu việc làm mới cho người dân .
Nước Mỹ không những là nước có nền kinh tế nội địa quy mô nhất mà còn là một nước có nền ngoại thương lớn nhất thế giới. Xuất khẩu chiếm tới 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới và nhập khẩu chiếm tới 15% tổng kim ngạch toàn thế giới. Hàng năm nước Mỹ có khối lượng giá trị gia tăng hơn 1000 tỷ USD.
Nước Mỹ cũng là nước có tầm chiến lược nhất, khi mà chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển khoa học thuộc vào nhóm lớn nhất thế giới. Kinh phí hàng năm cho nghiên cứu và phát triển khoa học của Mỹ chiếm từ 2,8-3%/năm trong GDP của Mỹ, với tỷ trong tuy chưa phải là lớn nhất nhưng khối lượng thì rất lớn. Việc đầu tư mạnh cho nghiên cứu và phát triển khoa học, nước Mỹ thu được rất nhiều hiệu quả từ việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tất cả các ngành.
Cơ cấu kinh tế của Mỹ dịch vụ chiếm một tỷ trọng rất cao, tới 72%, trong đó các dịch vụ kỹ thuật cao của Mỹ chiếm một ưu thế. Công nghiệp chiếm 26%, trong đó công nghiệp chế biến chiếm 18%.
Kể từ năm 1998 nước Mỹ bước vào thời kỳ ngân sách dư thừa. Lần đầu tiên trong 30 năm qua, Mỹ cân bằng được ngân sách liên bang. Nạn lạm phát ở Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong những năm qua và ở 3,65% năm 1998.
Nước Mỹ cũng là nước có tỷ lệ công ty hàng đầu thế giới cao. Năm 1999 tạp chí Business Week trong danh mục 50 công ty hàng đầu thế giới thì nước Mỹ có 33 công ty. Mỹ giữ vai trò chi cho hầu hết các tổ chức quốc tế như WTO, WB, IMF.
Đồng USD được coi là đồng tiền của thanh toán quốc tế, dự trữ của các nước.
Nước Mỹ là một quốc gia với đa sắc tộc, đa văn hoá.
Hệ thống luật pháp của Mỹ rất chặt chẽ và cụ thể, Mỹ là nước tam quyền phân lập và có ba cấp chính quyền: chính quyền liên bang, bang và các đơn vị hành chính địa phương. Trên cơ sở của Hiến pháp 1787 bao gồm những quy định chặt chẽvề các vần đề kinh tế, xã hội, chính trị. Luật Thương mại của Mỹ được điều chỉnh theo bộ luật thương mại thống nhất UCC. Đây là bộ luật được thông qua hầu hết các bang của Mỹ, loại trừ bang Lousiana chỉ thông qua một phần. Bộ luật này bao gồm 10 điều khoản: Các vấn đề chung, bán hàng, chứng từ thương mại, đặt cọc và thanh toán với ngân hàng, thư tín dụng, giao dịch toàn bộ, hoá đơn kho hàng vận đơn và chứng từ sở hữu khác, chứng khoán đầu tư, các giao dịch đảm bảo bán các tài khoản quyền hợp đồng, ngày hiệu lực và ngày hết hạn. Ngoài ra còn có đạo luật về hải quan, thuế xuất nhập khẩu, vận tải, kiểm dịch ở phạm vi bang, mỗi bang lại có một số quy định cụ thể, trực tiếp đối với hoạt động thương mại, tính chất pháp lý của các luật bang và liên bang là như nhau.
Kinh tế Mỹ luôn thể hiện vai trò áp đặt của mình đối với các đối thủ cạnh tranh cũng như tát cả các bạn hàng của tất cả các quốc gia trên thế giới. Quan điểm của Mỹ về vấn đề tự do hoá thương mại luôn được đề cập trong tất cả các hiệp định thương mại song phương cũng như đa phương đã được ký kết. Thế nhưng Mỹ luôn là một quốc gia luôn có các hành động đơn phương đi ngược lại tuyên bố đó. Bằng sức mạnh kinh tế Mỹ đã thiết lập lên một hàng rào thương mại nhằm hạn chế thương mại trực tiếp và Mỹ đồng thời ép buộc các đối tác phải có những ưu đãi riêng biệt đối với những hàng hoá Mỹ khi thâm nhập vào thị trường quốc gia đó. Mỹ đã sử dụng rất nhiều các hình thức để áp đặt cũng như chi phối hoạt động ngoại thương.
1.2. Khái quát thị trường dệt may Mỹ
Dệt may là ngành công nghiệp đứng thứ 10 trong các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hơn hai thập kỷ qua do những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã góp phần giải phóng sức lao động nên số lượng lao động trong ngành này giảm xuống nhanh chóng. Hoạt động trong ngành dệt Hoa Kỳ tiếp tục giảm trong những năm gần đây và việc giao hàng của các nhà máy dệt giảm sút liên tục bởi sự cạnh tranh hàng loạt bằng giá của các sản phẩm từ Châu á. Ngành công nghiệp dệt may Hoa Kỳ không còn phát huy được sức mạnh như trước kia bởi chi phí sản xuất cao. Do đó năng lực sản xuất của nghành dệt may Hoa Kỳ giảm sút trong những năm gần đây.
Hoa Kỳ là một nước nhập khẩu phần lớn các sản phẩm dệt may. Có thể nói Hoa Kỳ không còn khả năng phát huy một cách có hiệu quả nhất các lợi thế của nghành dệt may nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như điện tử, viễn thông.
Người Mỹ sử dụng phần lớn thu nhập cho chi tiêu. ._.giúp cho nông dân trồng bông trong giai đoạn đầu.
Quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư tín dụng cho nông dân trồng bông.
Quỹ bảo hiểm ngành hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu thay thế nhập khẩu
Bảng 14 : Mục tiêu phát triển cây bông đến năm 2010.
Chỉ tiêu
Đơnvị tính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Diện tích trồng cây côngnghiệp
Năng suất bông hạt
Sản lượng bông hạt
Sản lượng bông xơ
Nhu cầu bông xơ toàn ngành
Đáp ứng yêu cầu ngành dệt
1000 ha
tạ/ha
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
%
22.6
9.0
20.3
6.8
60.0
11.0
60.0
14.0
84.0
30.0
97.0
30.0
150.0
18.0
270.0
95.0
130.0
70.0
(Nguồn: Chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành dệt may VN đến năm 2010-Tổng công ty Dệt May Việt Nam)
Bên cạnh chương trình phát triển cây bông vải, cần phải thực hiện đồng bộ cả việc phát triển các cơ sở chế biến để tạo đầu ra thuận lợi cho cây bông.
Nhà nước nên miễn thuế nhập khẩu các loại thuốc nhuộm, hoá chất, thuốc trợ nhuộm.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc, Nhà nước nên có nhiều biệ pháp ưu tiên để thúc đẩy việc sản xuất mặt hàng này. Phát triển hệ thống công ty sản xuất nguyên phụ liệu trong nước sẽ là một hướng đi đúng nhằm sản xuất một cách đồng bộ tất cả các loại phụ liệu cần thiết. Các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án sản xuất phụ liệu may mặc có công nghệ hiện đại. Ngoài ra, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích sản xuất sử dụng nguyên phụ liệu trong nước.Theo ước tính, phụ liệu chiếm khoảng 10-15%, có khi đến 25-35% giá thành sản phẩm may, vì vậy, nếu chủ động và hạ chi phí bằng cách lựa chọn hợp lý, chính xác nhà cung cấp có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá sản phẩm này.
3.2. Cấp Doanh nghiệp
1. Xây dựng chiến lược về công nghệ
Để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp cần nhanh chóng đổi mới công nghệ, đây là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu và cần phải đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm trong việc đổi mới công nghệ. Điểm lưu ý trong đổi mới công nghệ là không phải cứ công nghệ cao, hiện đại mới tốt, vấn đề ở chỗ doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động nhằm tối ưu hoá việc kết hợp các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao. Từ đó chúng ta mới có điều kiện tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm biện pháp quan trọng để chúng ta chủ động được cắt giảm thuế nhập khẩu cho nguyên liệu theo các cam kết quốc tế (theo cam kết với AFTA đến năm 2006 thuế nhập khẩu giảm còn từ 0%-5%), để có thể chiếm ưu thế về cạnh tranh , đây là khâu trọng yếu của quá trình hội nhập.
Thực hiện tốt chiến lược công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Chiến lược công nghệ của doanh nghiệp chỉ có thể được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả khi doanh nghiệp xem đây là khâu đột phá có tính chất cách mạng và sẵn sàng trả thù lao xứng đáng cho các phát minh sáng chế có giá trị thực tiễn trong việc đổi mới quy trình công nghệ phục vụ sản xuất và hoạt động dịch vụ. Để chiến lược công nghệ thực thi có hiệu quả cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp với các trường đại học, viện nghiên cứu.
Trong ngành dệt may công nghệ sản xuất hiện đang rất lạc hậu, yêu cầu đổi mới công nghệ rất cấp bách, nhưng chúng ta đang thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ.
Vừa qua, Bộ Thương mại vừa ra quyết định sẽ ưu tiờn dành hạn ngạch dệt may sang Hoa Kỳ năm nay cho cỏc DN đầu tư lớn, sản phẩm xuất khẩu giỏ cao.
Theo đú, cỏc DN cú cơ sở sản xuất trờn 1.000 thiết bị được giao hạn ngạch dành cho cỏc hợp đồng xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh theo phương thức bỏn hàng FOB. Cụ thể, DN cú 1.000-2.000 thiết bị được giao 1 cat., DN cú từ 2.001-4.000 thiết bị được giao 2 cat. và DN cú trờn 4.000 thiết bị được giao 3 cat.
Ngoài ra, nếu DN cú trờn 2.000 thiết bị, đăng ký 1 cat. sẽ được giao bằng 150% tiờu chuẩn cat. đăng ký. DN cú trờn 4.000 thiết bị, đăng ký 1 cat. được giao bằng 180% tiờu chuẩn cat. đăng ký, nếu đăng ký 2 cat. sẽ được giao bằng 120% tiờu chuẩn 2 cat. đăng ký. Do vậy, nếu các doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường Mỹ cũng phải đầu tư vào công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô.
2. Xây dựng chiến lược tiếp thị, xúc tiến bán hàng
Chúng ta cần phải đổi mới quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu. Đa số các doanh nghiệp đã thực hiện hoạch định chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp (94.7%) và đã có chiến lược Marketing xuất khẩu (85.1%) hầu hết các doanh nghiệp đã có tổ chức phòng Marketing (75.5%). Tuy nhiên những hiểu bết về quy định, nội dung và cách thức quản trị chiến lược nói chung, quản trị Marketing nói riêng vẫn còn rất hạn chế, ở hầu hết các doanh nghiệp, sự hiểu biết và sự sắp xếp các quy trình quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu còn rất đơn giản, phần lớn các doanh nghiệp chỉ chú trọng đến mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu lợi nhuận trước mắt chứ chưa chú trọng đến mục tiêu dài hạn. Việc tổ chức các hoạt động, phân tích môi trường và tổ chức hệ thống thông tin Marketing xuất khẩu được thực hiện vừa thiếu vừa yếu. Các doanh nghiệp dựa vào hỗ trợ trong nước để xúc tiến khuyếch trương sản phẩm xuất khẩu là chủ yếu. Việc tham gia hội chợ quốc tế rất còn hạn chế, chỉ một số ít doanh nghiệp có quy mô lớn thực hiện.
Đổi mới và thúc đẩy quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam. Trong thời gian tới, môi trường quốc tế sẽ càng ngày cáng thuận lợi hơn cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Vì thế, để đón bắt được cơ hội, vượt qua thách thức nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu. Trong đó, mỗi doanh nghiệp phải đổi mới tư duy về quản trị, từ quản trị theo tình huống cụ thể sang quản trị chiến lược; tập trung các nỗ lực doanh nghiệp vào giải quyết những khâu yếu nhất, quan trọng nhất trong các công đoạn của quy trình quản trị. Cần tập trung vào một số lĩnh vực là điểm mạnh của doanh nghiệp thương mại như nghiên cứu Marketing, tổ chức kênh và mạng lưới phân phối, xúc tiến bán hàng…
ỉ Thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử
Hiện nay thương mại điện tử (TMĐT) được áp dụng chủ yếu ở các nước phát triển với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 200%( riêng nước Mỹ chiếm 1/2 tổng doanh số TMĐT toàn thế giới năm 2002 khoảng 300 tỷ USD). Mỹ là quốc gia có nền công nghệ thông tin rất phát triển chính vì vậy mà TMĐT rất quan trọng với nước Mỹ, nhờ nó chi phí giao dịch giảm đi rất nhiều lần, hàng chục thậm chí hàng trăm lần. TMĐT có thể giúp cho các doanh nghiệp nhỏ mở rộng thị trường, mà nó có thể làm thay đổi cơ cấu, tính chất căn bản của doanh nghiệp. Mạng Internet là phương tiện giao lưu giữa các doanh nghiệp thuận tiện và nhanh chóng hơn. Là công cụ mới cho chiến lược quản lý do nó nối trực tiếp người mua với người bán, không bị hạn chế về không gian và thời gian, nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp thị quảng cáo, giao dịch…Bằng việc tận dụng các công nghệ mới để làm tăng khả năng kinh doanh, Mỹ đang tích cực khai thác mạng Internet và muốn hợp tác với Mỹ một cách nhanh chóng và có hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam không còn con đường nào nhanh hơn là tiếp cận với TMĐT.
Nhưng tình hình hiện nay của Việt Nam cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng được cho TMĐT. Việc xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo mật thông tin… sẽ cần phải mất nhiều thời gian trong tương lai, nhưng trước mắt việc xây dựng website cung cấp thông tin về các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam thì hiệp hội dệt may, Tổng công ty Dệt may Việt Nam trong vai trò đầu mối, nhằm cung cấp các thông tin đầy đủ, chính xác. Trong thời gian qua đã có nhiều website của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ra đời nhưng những thông tin hữu ích còn rất hạn chế, thậm chí rất sơ sài. Các doanh nghiệp cần có một chiến lược phát triển khả năng tiếp cận, khai thác thông tin cũng như khả năng cung cấp thông tin một cách chính xác trên các website của mình. Doanh nghiệp có thể tự phát triển đội ngũ cán bộ mạnh hoặc có thể đi thuê các đơn vị khác làm, nhưng trong tương lai doanh nghiệp cần có một đội ngũ bộ phận chuyên trách phát triển thương mại điện tử, có khả năng sử dụng internet, sử dụng tiếng anh một cách thành thạo.
ỉ Xây dựng hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
Tại thị trường Mỹ có các kênh tiêu thụ hàng hoá:
Bán buôn cho các cửa hàng bán lẻ.
Bán buôn cho nhà phân phối
Bán trực tiếp cho nhà công nghiệp
Bán buôn qua đường bưu điện
Bán lẻ qua bưu điện
Bán lẻ
Bán hàng qua các cuộc trưng bày hàng hoá trên các kênh truyền hình
Bán trực tiếp cho các nhà máy công xưởng.
Đại lý bán hàng.
Bán hàng qua các buổi tiệc giới thiệu bán hàng
Bán ở chợ ngoài trời
Bán hàng qua các hội chợ, triển lãm tại Mỹ
Bán hàng qua hệ thống Internet
Bán cho nguồn trung gian đặt hàng
Trong các kênh tiêu thụ trên, bán hàng qua Internet đã được nói ở trên, ta có thể lựa chọn các kênh phù hợp với khả năng, kinh nghiệm của doanh nghiệp. Hiện tại hàng dệt may của chúng ta bán chủ yếu bán buôn cho các nhà phân phối, bán cho trung gian.
Người tiêu dùng Mỹ hiện biết rất ít về hàng của Việt Nam, chưa hiểu được hàng hoá của chúng ta nên họ còn chần chừ trong việc ra quyết định mua. Do chúng ta mới chân ướt chân ráo vào thị trường Mỹ nên sử dụng các kênh tiêu thụ trên. Sử dụng các kênh tiêu thụ trên không có lợi về mặt lâu dài, nhiều khi chúng ta bị ép giá, khách hàng không hiểu rõ về hàng hoá của chúng ta. Chúng ta cần xây dựng những kênh phân phối trực tiếp với thị trường, tiếp cận được với người tiêu dùng.
Bộ thương mại, Tổng công ty dệt may cần hỗ trợ kinh phí để một công ty đầu ngành mở một đại lý bán hàng trực tiếp, bên cạnh đó tìm hiểu thị trường, sau đó giúp các doanh nghiệp khác tìm thông tin khách hàng, mở các đại lý bán hàng.
Tại Hoa Kỳ bán lẻ là cầu nối cuối cùng quan trọng nhất giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, nên các nhà bán lẻ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới. Đứng sau các nhà bán lẻ là hàng triệu nhà sản xuất trên khắp thế giới. Các nhà bán lẻ giúp các nhà sản xuất và đôi khi ép các nhà sản xuất quyết định sản xuất cái gì, ở đâu, như thế nào, và trong bao lâu với chi phí ra sao. Lý do đơn giản là các nhà sản xuất cần thị trường đầu ra thông qua hệ thống nhà bán lẻ. Sự sống còn của công nghiệp sản xuất phụ thuộc và gắn chặt với nhà bán lẻ. Qua hệ thống nhà bán lẻ người sản xuất biết được nhà tiêu dùng đánh giá hàng hoá của mình như thế nào để có những điều chỉnh thích hợp.
ở Mỹ doanh số bán lẻ là rất lớn, đứng đầu doanh số các tập đoàn bán lẻ là tập đoàn W.Mart với doanh số 2003 gần 300 tỷ USD.
Đối với hàng hoá của Việt Nam (trong đó có hàng dệt may) vẫn chưa thu hút đựơc sự quan tâm đúng mức của các nhà bán lẻ, vì những lý do sau:
Việt Nam ít có kinh nghiệm làm việc với các tập đoàn bán lẻ. Nhận thức của xã hội Việt Nam nói chung về vai trò của tập đoàn bán lẻ chưa đầy đủ, đặc biệt là quan hệ giữa họ với người sản xuất. Và Việt Nam chưa có chiến lược thích hợp để thu hút họ vào đặt hàng.
Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chưa đủ mạnh và hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam chưa phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của quốc tế.
Hiện chưa có nhà bán lẻ nào của Hoa Kỳ vào đặt hàng dệt may với số lượng lớn ở Vệt Nam.
Nếu chúng ta tận dụng được các nhà bán lẻ để phân phối hàng hoá thì có thể nói đây là một trong các kênh phân phối tốt nhất cho sản phẩm tiêu thụ ở Hoa Kỳ.
3. Xây dựng chiến lược về nhân lực
Nguồn nhân lực tốt là một sự đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy, để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách.
Trong quyết định 55/2001/QĐ-TTg của Chính phủ đã nêu ra 6 điểm để hỗ trợ ngành dệt may phát triển đến năm 2010. Trong đó, điểm 5 của quyết định cho phép : “Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Như vậy, trong chủ trương và trong các chính sách của mình, Nhà nước ta luôn thể hiện sự quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của người lao động trong ngành dệt may. Quyết định này sẽ đưa ra một định hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp.
Hiện nay trình độ quản lý ở các doanh nghiệp chưa cao, lao động tay nghề chưa cao, đội ngũ những kỹ thuật viên, nhà tạo mẫu của các doanh nghiệp dệt may chưa có, đội ngũ những kỹ thuật viên, nhà tạo mẫu của các doanh nghiệp chưa có hoặc năng lực còn kém, thiếu sáng tạo.
Để phát triển nguồn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam để mà nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu các doanh nghiệp và ngành cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực về lâu dài.
Các doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức những khoá học ngắn hạn bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, các cuộc tiếp xúc trao đổi kinh nghiệm.
Khuyến khích công nhân viên tự đào tạo, nâng cao tay nghề.
Các doanh nghiệp cần có chiến lược về đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, thị trường, hỗ trợ kinh phí để họ nâng cao nghiệp vụ.
Đầu tư kinh phí, gửi đi đào tạo cả trong nước hoặc nước ngoài những nhà thiết kế mẫu, thiết kế thời trang, tạo điều kiện về vật chất lẫn tinh thần để họ phát huy khả năng sáng tạo trong công việc.
Huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương ứng thì việc củng cố các Viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật, chuyên gia quản trị là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.
Thuê các nhà quản lý hoặc các chuyên gia nước ngoài nhằm giải quyết các khó khăn, hoặc điều hành các dự án mới.
Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành dệt may.
Hiện nay cả nước mới có ba trường đào tạo về ngành dệt may đó là Đại học bách khoa Hà Nội, ĐHBK TP Hồ Chí Minh, ĐH Mỹ thuật công nghiệp, nhưng chưa thực sự chuyên sâu. Vì vậy Nhà nước cần phối hợp với các địa phương, hỗ trợ kinh phí, đội ngũ giảng dạy mở những trường, trung tâm dạy nghề về dệt may ở những vùng trọng điểm về dệt may.
Nhà nước cần thành lập một trường chuyên về dệt may, đào tạo với chất lượng chuyên sâu về công nghệ, tạo mẫu, quản lý.
4. Xây dựng chiến lược về sản phẩm, thương hiệu
Chiến lược về sản phẩm
Chiến lược về sản phẩm cho hàng dệt may bao gồm vấn đề mẫu mã và chất lượng.
Mẫu mã sản phẩm có ảnh hưởng đến trực giác và ra quyết định mua của người tiêu dùng. Mẫu mã đẹp có tác dụng rất lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp khi mà hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh chất lượng của họ cũng tốt như chúng ta thì vấn đề đầu tiên được xem xét đến là mẫu mã.
Cải tiến mẫu mã, tạo ra những mẫu mã đẹp, độc đáo thu hút người tiêu dùng.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu cầu tất yếu để hàng dệt may của chúng ta tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Người dân Mỹ yêu cầu chất lượng hàng hoá rất cao nên việc nâng cao chất lượng hàng hoá là một là một việc làm về lâu dài đối với mọi doanh nghiệp dệt may xuất khẩu.
Chúng ta phải xây dựng cho hàng dệt may xuất khẩu hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, đây là thước đo chất lượng hàng hoá đã được cả thế giới chấp nhận và tin tưởng.
Xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ chúng ta có thể xây dựng hệ thống chất lượng ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 (Social Accountability 8000).
Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, dịch vụ sau bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo. Muốn xây dựng theo tiêu chuẩn chất lượng này các doanh nghiệp dệt may cần có chương trình đào tạo cho mọi người trong doanh nghiệp, tiến hành kiểm tra, đánh giá theo chu trình quy định. Doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá từ bắt đầu nhập nguyên liệu- quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hiện nay vấn đề về môi trường đang trở lên vô cùng quan trọng, nó là vấn đề quan tâm toàn cầu. Do bị cam kết đa phương nhiều nước phát triển đã tìm đến môi trường như một cứu cánh cho chính sách bảo hộ. Vì vậy doanh nghiệp cần tiến hành áp dụng ISO 14000( tiêu chuẩn về môi trường khá toàn diện của Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế).
SA 8000 là bộ tiêu chuẩn quy định trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đước xây dựng trên các cơ sở của Tổ chức lao động thế giới. Tiêu chuẩn này đề cập đến một số khía cạnh như không được sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động, các chế độ cho người lao động...Nước Mỹ là một nước rất đề cao nhân quyền nên họ hay dựa vào những quy định về chế độ đối với người lao động để cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp dệt may nếu xây dựng được hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn SA 8000 thì sẽ rất thuận lợi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ, và nó cũng là một lợi thế tạo ra khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Xuất khẩu vào Mỹ nên cố gắng xây dựng cho hàng hoá hệ thống tiêu chuẩn theo SA 8000 hoặc ISO 14000.
Chiến lược về thương hiệu
Hàng dệt may của chúng ta xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu qua hình thức gia công cho các công ty, tập đoàn lớn trong lĩnh vực dệt may, có thương hiệu nổi tiếng. Hàng hoá của chúng ta có chất lượng rất tốt nhưng chúng ta không có những thương hiệu lớn hoặc không có thương hiệu, người tiêu dùng không biết đến sản phẩm của chúng ta, chúng ta chịu thiệt thòi khi mà sản xuất cho các thương hiệu lớn chúng ta chỉ thu được khoảng 60% giá trị hàng hoá khi bán trên thị trường. Với các công ty lớn họ chỉ bỏ mỗi thương hiệu ra cũng thu được 40% lợi nhuận. Nếu chúng ta xây dựng được những thương hiệu cho riêng mình, xuất khẩu trực tiếp vào Mỹ với thương hiệu riêng khi đó chúng ta sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Do đó việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ không chỉ là sự quan tâm của riêng các doanh nghiệp mà còn có sự quan tâm của ngành, Bộ thương mại.
Xây dựng một nhãn hiệu thành công (hiệu quả của việc sử dụng nhãn hiệu-S) tổng hợp từ ba yếu tố: sản phẩm hiệu quả (P), mức độ nhận biết khác biệt (D) và giá trị tăng thêm VA: S = P. D. VA
Hiệu quả của việc sử dụng nhãn hiệu có thể đo lường được bằng thực nghiệm, khi sản phẩm không có nhãn hiệu và khi sản phẩm có nhãn hiệu.
Tạo ra thương hiệu là một việc dễ, nhưng phát triển thương hiệu là vấn đề trung tâm của các nhà quản trị cao cấp, bởi nó là nhân tố cơ bản quyết định đến giá trị thị trường của công ty. Khi công ty tạo ra một nhãn hiệu mạnh trong nước không có nghĩa là đã thành công ở nước ngoài. Muốn vận dụng và phát triển thương hiệu ra nước ngoài không phải là dễ do sự khác biệt về môi trường văn hoá, kinh doanh ở mỗi nước. Hơn nữa đòi hỏi khả năng dài hạn về tài chính, không chỉ dành cho quảng cáo mà còn mẫu mã, khuyến mãi, đối ngoại và dịch vụ khách hàng. Ta phải xác định yếu tố thành công và thất bại ở thị trường xuất khẩu dựa vào : thị trường hướng tới, khả năng đưa ra những sản phẩm độc đáo và có tính cạnh tranh, khả năng phản ứng nhanh trước những thay đổi của thị trường, thị hiếu khách hàng, phản hồi của khách hàng.
Để phát triển thương hiệu ta cần:
Tích cực nghiên cứu thị trường, đến tận nơi và xem xét thị trường, tiếp xúc với các nhà phân phối, khách hàng tiềm năng, thăm các cửa hiệu, tham dự hội chợ, triển lãm một cách đều đặn.
Tìm hiểu những khách hàng đầu tiên, khách hàng này sẽ chỉ ra cho bạn nhiều điều và sẵn sàng thử nghiệm sản phẩm.
Hoạt động xúc tiến, chuẩn bị Catalogue (ngôn ngữ, chất lượng in) quảng cáo trên trang Web riêng, thường xuyên khảo sát khách hàng, tránh quá nhiều quảng cáo qua e-mail (gây khó chịu cho khách hàng)
Phản hồi nhanh với những nhu cầu để thu thập thông tin về khách hàng từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn.
Trách nhiệm xây dựng và phát triển nhãn hiệu thành công trên thị trường thuộc về các doanh nghiệp, đó là một sự khó khăn về lâu dài, vấn đề không chỉ là tiền mà quan trọng hơn là tài năng của các nhà làm Marketing của doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu cho hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ chúng ta cần đăng ký với các cơ quan chức năng Mỹ để đăng ký bản quyền, tránh bị đánh cắp bản quyền.
Chúng ta có thể thuê các chuyên gia Marketing, các công ty tư vấn ở Mỹ giúp đỡ trong việc phát triển thương hiệu tại thị trường này.
Chúng ta có thể liên kết, hợp tác với các công ty ở Mỹ xây dựng những thương hiệu chung.
5. ổn định nguồn nguyên liệu cho sản xuất
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất của các doanh nghiệp may xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu là nhập khẩu, sản phẩm dùng cho may xuất khẩu như vải sợi, phụ liệu may ở trong nước chưa sản xuất được hoặc có chất lượng thấp do vậy các doanh nghiệp may xuất khẩu bắt buộc phải nhập khẩu nguyên liệu. Sản phẩm của chúng ta xuất khẩu dựa trên những lợi thế về lao động, nguyên liệu trong nước, nếu nhập khẩu nguyên liệu sẽ mất đi một phần lợi thế.
Do phải nhập khẩu nguyên liệu nên các doanh nghiệp thường bị phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên phụ liệu, chúng ta không chủ động được nguyên liệu cho sản xuất do giao hàng chậm hoặc không đáp ứng đủ, nhiều khi chúng ta bị người cung ứng ép giá. Việc ổn định nguồn nguyên liệu sẽ tạo một tâm lý an tân sản xuất, chủ động được nguồn lực, có thể thực hiện được các hợp đồng một cách dễ dàng.
Hiện nay Nhà nước cũng đang có chương trình xây dựng, quy hoạch vùng nguyên liệu cho dệt may cũng nhằm mục đích giải quyết vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Nhưng trước mắt các doanh nghiệp may xuất khẩu vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất, do vậy vấn đề cấp bách đặt ra trước mắt là phải tìm được những nguồn cung ứng nguyên liệu chắc chắn, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp cần tìm cho mình những nhà cung ứng chắc chắn, quen thuộc, tin tưởng được. Nên phân bố rủi ro trong khâu đầu vào bằng cách làm việc với nhiều nhà cung ứng như thế sẽ không bị phụ thuộc vào một nhà cung ứng.
Những doanh nghiệp dệt may lớn có đủ tiềm lực tài chính nên đầu tư một phần vào để nghiên cứu sản xuất ra nguyên phụ liệu cho chính mình. Vừa qua, Tập đoàn Yoengone (Hàn Quốc) đầu tư vào khu công nghiệp Hoà Xá-Nam Định 57 triệu USD, họ vừa sản xuất sản phẩm may mặc vừa sản xuất nguyên liệu, phụ liệu dệt, may cung cấp cho mình và cả các đơn vị khác. Đây là một cái nhìn hoàn toàn đúng đắn của các nhà đầu tư trong hoàn cảnh hiện nay.
6. Nghiên cứu và nắm vững luật pháp Hoa Kỳ
Đây là công việc vô cùng cần thiết với bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào, vào bất kỳ thị trường nào. Có hiểu rõ luật pháp, cung cách làm ăn của họ thì mình mới có thể làm ăn được với họ.
Việc nghiên cứu những quy định liên quan đến xuất nhập khẩu trong Luật kinh doanh của Mỹ, cung cách làm ăn và tác phong của người Mỹ...giúp các doanh nghiệp Việt nam tính toán, cân nhắc và có những quyết định đúng đắn trong việc hợp tác kinh doanh với các công ty Mỹ như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất, rủi ro thấp nhất.
Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo có sức cạnh tranh mà còn phải nghiên cứu, thông thạo hệ thống luật pháp của Mỹ, nắm được các quy định về quản lý chất lượng, mẫu mã, quản lý xuất nhập khẩu.
Hệ thông luật pháp ở Mỹ vô cùng phức tạp và chặt chẽ, ngoài luật pháp của liên bang mỗi bang còn có một hệ thống luật riêng, nhiều luật rất quái gở.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng vào thị trường Mỹ cần nắm vững nhứng luật như:
Luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng: bảo hành rõ ràng được hiểu khi trên hàng hoá ghi mẫu mã, quy cách thành phần bên bán đã cam kết, bảo hành ngầm là sự bảo đảm hàng hoá đã bán phù hợp với mục đích của người tiêu dùng. Do khinh xuất, nhiều nhà sản xuất đã tốn hàng triệu USD cho các vụ kiện cáo của người tiêu dùng.
Luật về an toàn hàng hoá, đối với hàng dệt may những đạo luật chặt chẽ quy định về an toàn sản phẩm lưu hành trên thị trường như: quy định về chống độc hại do nguồn gốc của sản phẩm, quy định về chống cháy, quy định về bảo vệ môi trường.
Luật hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, như hàng hoá vào Mỹ phải có Visa, ghi rõ nguồn gốc, xuất xứ trên bao bì, tên nhà sản xuất nêu không sẽ không nhập cảnh được vào Mỹ.
Các quy định về bảo hộ, đạo luật về chống bán phá giá hàng hoá.
Việc tìm hiểu rõ những quy định trong luật pháp Mỹ giúp các doanh nghiệp xâm nhập thị trường Mỹ một cách dễ dàng, thuận lợi, không gặp khó khăn trong quá trình xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ cần nắm được những vấn đề cơ bản có liên quan của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và nắm vững những vấn đề của Hiệp định hàng dệt may Việt-Mỹ để vận dụng một cách thành công.
Ngoài việc nắm vững luật pháp Mỹ các doanh nghiệp cũng nên tìm hiểu các phong tục tập quán kinh doanh của người Mỹ như tác phong kinh doanh, thói quen trong đàm phán kinh doanh, ký kết hợp đồng để tránh những rắc rối xảy ra trong kinh doanh.
Kết luận
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường, trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt với sự tham gia của các nước trên thế giới. Việt Nam chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc tham gia vào thị trường thế giới có tác dụng thúc đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hàng hoá của chúng ta xuất khẩu ra thế giới khả năng cạnh tranh còn kém do nước ta có nền kinh tế thị trường còn kém phát triển, hàng dệt may là một ví dụ điển hình. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may đang là vấn đề quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, của các cơ quan Nhà nước. Qua quá trình nghiên cứu chuyên đề: “ Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trong điều kiện thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ”. Em đã hiểu được phần nào về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường, những yêu cầu cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Qua nghiên cứu và viết chuyên đề đã giúp em nâng cao khả năng tổng hợp, phân tích và tìm hiểu một vấn đề kinh tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định do khả năng còn hạn chế. Nhưng để viết đựơc như thế này là đã có sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS-TS Đặng Đình Đào và các bác cán bộ trong Viện Nghiên cứu thương mại.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn GS-TS Đặng Đình Đào đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Mục lục
Lời Mở đầu 1
Nội Dung 3
Chương I. Những lý luận chung về cạnh tranh và
khả năng cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu 3
1.Khái quát về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 3
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 3
1.2. Chức năng của cạnh tranh 6
1.3. Các phương thức cạnh tranh 7
2. Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may 11
2.1. Đánh giá cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may
xuất khẩu Việt Nam 12
2.2.Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và sự cần thiết nâng cao khả năng
cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu 15
2.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may
xuất khẩu 18
3. Các nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may
xuất khẩu sang Mỹ 20
3.1. Môi trường cạnh tranh 21
3.2. Môi trường văn hoá xã hội 22
3.3. Môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp và công nghệ 23
3.4. Môi trường địa lý sinh thái 25
3.5.Tiềm lực của doanh nghiệp 26
Chương II. Tình hình cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ 29
1. Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ 29
. Khái quát nền kinh tế Mỹ 29
. Khái quát thị trường dệt may Mỹ 31
. Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ với việc xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam sang thị trường Mỹ 33
Các chính sách quy định đối với hàng dệt may của Việt Nam vào
thị trường Mỹ 34
2. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ 41
2.1.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
trong thời gian qua 41
2.2. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 47
2.3. Đánh giá chung về khả năng cạnh tranh 51
3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ 51
3.1. Những thuận lợi của hàng dệt-may Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ 51
3.1.1. Thị trường Mỹ rất lớn cho dệt may Việt Nam 51
3.1.2.Vị trí địa lí và điều kiện giao lưu hàng hoá 52
3.1.3 Nguồn lao động rẻ tạo lợi thế cho cạnh tranh 52
3.1.4. Chính sách quản lý, hỗ trợ của Chính phủ 54
3.2. Những bất lợi của hàng dệt may Việt Nam trong cạnh tranh
xuất khẩu sang Mỹ 55
3.2.1.Sự phân biệt đối xử trong thương mại 55
3.2.2. Thiếu thông tin về thị trường 55
3.2.3.Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn lạc hậu 57
3.2.4. Thiếu vốn để đầu tư đổi mới trang thiết bị 59
3.2.5. Sự khập khiễng giữa nghành dệt và may 60
3.2.6. Sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu 61
Chương III. Phương hướng và biện pháp nâng cao khả
năng cạnh tranh xuất khẩu hàng Dệt May vào
thị trường Hoa Kỳ 63
Mục tiêu của nghành trong thời gian tới 63
Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may
xuất khẩu sang thị trường Mỹ 65
2.1. Tầm Vĩ mô 65
1. Đẩy mạnh quá trình hội nhập WTO 65
Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ 67
Cung cấp thông tin, hỗ trợ các doanh nghiệp trong xúc tiến xuất khẩu 71
Quy hoạch vùng nguyên liệu cho dệt may 74
2.2. Cấp Doanh nghiệp 76
Xây dựng chiến lược về công nghệ 76
Xây dựng chiến lược tiếp thị, xúc tiến bán hàng 77
Xây dựng chiến lược về nhân lực 81
Xây dựng chiến lược về sản phẩm, thương hiệu 83
ổn định nguồn nguyên liệu cho sản xuất 86
Nghiên cứu và nắm vững luật pháp Hoa Kỳ 87
Kết luận 89
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36742.doc