Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động Xuất khẩu của Công ty Dệt Kim Đông Xuân

Mở đầu Sau hơn 10 năm chuyển đổi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, đó là sự chuyển hướng chiến lược và là bước ngoặt cơ bản đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng đứng vững vươn lên. Cho đến nay nền kinh tế nước ta đã đi dần vào thế ổn định và phát triển. Hoạt động trong cơ chế thị trường tất cả các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp đều phải được giải quyết trên

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động Xuất khẩu của Công ty Dệt Kim Đông Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường. Tất cả các mục tiêu, chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược cạnh tranh nói riêng đều được định hướng thông qua thị trường, thị trường là nơi thử nghiệm sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hoạt động xuất khẩu là nhân tố sống còn của doanh nghiệp. Song để cạnh tranh trên thị trường là vấn đề không hoàn toàn đơn giản do có sự tác động mạnh mẽ và rộng lớn của nhiều nhân tố khác nhau. Hơn nữa để cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thế giới như hiện nay là vô cùng khó khăn, nhất là cạnh tranh trong ngành dệt may nói chung và mặt hàng dệt kim nói riêng, do ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này, khoa học công nghệ ngày càng phát triển làm cho vòng đời công nghệ của sản phẩm bị rút ngắn càng gây sức ép cho các doanh nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường kinh doanh, giữa các quốc gia lại có sự khác biệt về luật pháp, cách sống, văn hoá và sự nhận thức của khách hàng... những yếu tố này luôn vây quanh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp để ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đứng trước tình hình đó, các doanh nghiệp đều cố gắng tìm ra các biện pháp để nâng cao khả năng của mình. Một trong những biện pháp đó không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành sản phẩm đến mức hợp lý với chất lượng cải tiến, đa dạng hoá nhiều mặt hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, thiết bị, nâng cao hàm lượng chất xám chứa trong sản phẩm. Công tác này đã được các công ty chú ý nhất là từ khi có chiến lược tăng tốc của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Nằm trong tình trạng chung đó, khả năng cạnh tranh của công ty Dệt Kim Đông Xuân còn một số vấn đề cần được nâng cao. Chính vì vậy, một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh mặt hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu cũng là mối quan tâm của Ban lãnh đạo công ty Dệt Kim Đông Xuân - một doanh nghiệp dệt may đầu tiên có sản phẩm xuất khẩu được cấp dấu "Chất lượng cao" của Việt Nam. Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu tại công ty với mục đích hệ thống hoá và củng cố kiến thức đã được tiếp thu, áp dụng vào thực tiễn em đã quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân". Do đề tài mang tính thực tế cao, thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Thầy Cô giáo, các Cô Chú, trong công ty Dệt Kim Đông Xuân để bản báo cáo của em được hoàn thiện. Kết cấu của bản báo cáo gồm 3 phần chính: Chương 1: Những vấn đề về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh. Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương 3: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương 1: những vấn đề chung về khả năng cạnh tranh Khái quát về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh. 1. lý luận chung về cạnh tranh 1.1 Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh Trong lịch sử phát triển của nhân loại, trao đổi hàng hoá cũng sớm phát triển, tuy nhiên chỉ đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ thì cạnh tranh mới xuất hiện, và cạnh tranh đặc biệt phát triển trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mà theo Mác nguyên nhân của nó là sự ganh đua, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Vì vậy khi nghiên cứu sâu về tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận và qua đó đã hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Và ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vẫn là một điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và sự phát triển của xã hội nói chung. Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hoá, trong cơ chế vận động của thị trường, hay có thể nói, thị trường là một vũ đài thực sự của cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ mà kết quả của cuộc đua tài sẽ là sự tồn tại và phát triển của những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Cuối cùng, ta có thể hiểu: "cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các đối thủ thể hiện trên thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và là nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển". Ngày nay, người ta tính toán rằng, tỷ lệ lợi nhuận đạt được ít nhất phải bằng tỷ lệ cho việc đầu tư cho những mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài, nếu không muốn nói vĩnh viễn như là quá trình duy trì sự sống. 1.2 Vai trò của cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Như phần trên chúng ta đề cập, cạnh tranh là một biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá, đảm bảo cho việc tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá hình thức sở hữu. Trong cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trên thị trường nói riêng thì các doanh nghiệp luôn tìm cách đưa ra các biện pháp hữu hiệu để duy trì chỗ đứng trên thị trường và sau đó là nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không ngừng đưa doanh nghiệp phát triển và lớn mạnh. Để đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp phải thường xuyên cố gắng để tạo ra nhiều ưu thế cho sản phẩm của mình và từ đó đạt được mục đích cuối cùng của mình là thu được lợi nhuận. Khi sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được được xác định theo công thức như sau: P= P.Q - C.Q Trong đó: P: Lợi nhuận của doanh nghiệp P: Giá cả của hàng hoá Q: Lượng hàng hoá bán được C: Chi phí cho một đơn vị hàng hoá. Theo công thức trên thì để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp có thể có các biện pháp sau: tăng giá bán P, tăng lượng bán Q, giảm chi phí C và để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải làm tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường băng cách áp dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ, các phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra cho sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, kiểu dáng đa dạng, phong phú...và quan trọng là ít tốn kém chi phí nhất. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có các chiến lược marketing thích hợp để quảng bá sản phẩm, hàng hoá của mình đến khách hàng, giúp họ nắm bắt được các thông tin quan trọng, cần thiết về sản phẩm như: đặc tính của sản phẩm, tính chất và những điều kiện sử dụng của sản phẩm...và cả những dịch vụ kèm theo của sản phẩm. Trong thực tế chỉ trong một nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh mẽ, thì các doanh nghiệp mới có sự đầu tư thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, từ đó sản phẩm hàng hoá mới được cải tiến về chất lượng, mẫu mã, giá cả. Đây là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và đặc biệt quan trọng hơn cả đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ những phân tích trên đây chúng ta dễ nhận thấy hàng hoá có chất lượng ngày càng tốt, mẫu mã ngày càng phong phú, đa dạng, đẹp và hấp dẫn hơn, đáp ứng được mọi yêu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ có các dịch vụ trước, trong và sau khi bán được quan tâm nhiều hơn. Đây chính những là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ cạnh tranh đem lại. Cạnh tranh còn đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất nước. Vì để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh các doanh nghiệp đã không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh nhờ đó mà tình hình sản xuất của đất nước được phát triển, năng suất lao động được nâng cao. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như: tư nhân, trách nhiệm hữu hạn...làm đa dạng các thành phần kinh tế đất nước. Và đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được sản phẩm tốt, có chất lượng cao, giá rẻ... Ngoài ra, nói đến cạnh tranh là nói đến tính sống còn, gay gắt và cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì mức độ gay gắt và khốc liệt là hơn nhiều. Hiện nay trên thị trường quốc tế có nhiều doanh nghiệp của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, điều này không cho phép các doanh nghiệp hành động theo ý muốn của mình mà không quan tâm đến nhu cầu thị trường và khả năng cạnh tranh của mình theo hai xu hướng: tăng chất lượng sản phẩm và hạ chi phí sản xuất. Để có được điều này các doanh nghiệp phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước mình, từ đó tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư các trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa các tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những điều này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho mỗi quốc gia, các nguồn lực sẽ được tận dụng triệt để cho sản xuất, trình độ khoa học công nghệ của đất nước không ngừng được cải thiện. Như vậy, có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của xã hội, cạnh tranh còn tạo ra môi trường tốt cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có lợi, có doanh nghiệp bị huỷ diệt do không có khả năng cạnh tranh, có doanh nghiệp sẽ thực sự phát triển nếu họ biết phát huy tốt những tiềm lực của mình. Nhưng cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tóm lại cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp. Công ty Dệt Kim Đông Xuân là một công ty Nhà nước trực thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam, hoạt động trong một lĩnh vực có nhiều doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực. Nếu nói riêng về lĩnh vực dệt kim thì trong nước cũng có đến năm doanh nghiệp cũng tham gia vào lĩnh vực này. Đó là các doanh nghiệp: Dệt kim Hà Nội, dệt kim Thắng Lợi, dệt kim Hoàng Thuỵ Loan...ngoài ra còn có những doanh nghiệp nước ngoài có trình độ công nghệ cao, kinh nghiệm lâu năm. Chính vì vậy, công ty Dệt Kim Đông Xuân muốn tiếp tục tồn tại và phát triển trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt kim là một điều vô cùng khó khán, khốc liệt. Do đó công luôn phải chủ động trong việc tạo nguồn hàng sao cho đảm bảo tốt nhu cầu của khách hàng, chủ động trong việc giữ khách hàng cũ, tìm kiếm khách hàng mới, công tác nghiên cứu thị trường bắt đầu được chú ý, tham gia nhiều hội chợ triển lãm trong và ngoài nước... nhằm giới thiệu, cung cấp những thông tin cần thiết quan trọng cho khách hàng. Sự tín nhiệm của khách hàng và vị thế của công ty Dệt Kim Đông Xuân ngày càng được nâng cao cũng là do cạnh tranh hàng hoá mà có được. 1.3 Các loại hình cạnh tranh a. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường: - Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Vì trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất có thể. Giá cả cuối cùng là giá cả được thống nhất giữa người bán và người mua sau một quá trình mặc cả với nhau. - Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: là một cuộc cạnh tranh dựa trên sự cạnh tranh mua. Khi số lượng hàng hoá bán ra (tức lượng cung) nhỏ hơn nhu cầu cần mua của người mua (tức là lượng cầu) nghĩa là xảy ra sự khan hiếm hàng hoá thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt, giá cả sẽ tăng lên vì người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá cần mua. - Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau, họ thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường, cuộc cạnh tranh này dẫn đến giá cả hạ xuống và có lợi cho thị trường. Trong khi đó các doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu được sức ép sẽ phải bỏ thị trường, nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn. b. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế thì cạnh tranh bao gồm: - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch bằng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất làm cho giá trị của hàng hoá cá biệt do doanh nghiệp sản xuất ra nhỏ hơn giá trị xã hội. Kết quả cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật sản xuất phát triển hơn. - Cạnh tranh giữa các ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các doanh nghiệp trong các ngành với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này xuất hiện sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành khác nhau, kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. c. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh, gồm có: - Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và không người nào có ưu thế để cung cấp một số lượng sản phẩm quan trọng mà có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác biệt về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả thị trường, họ chủ yều tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên - Cạnh tranh không hoàn hảo: là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm của họ không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín độc đáo với người mua do sản phẩm là không đáng kể. Người bán có uy tín độc đáo với người mua do nhiều lý do khác nhau như khách hàng quen thuộc, gây được lòng tin... người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như: quảng cáo cung cấp dịch vụ, sử dụng tín dụng ưu đãi trong giá cả...đây là loại hình cạnh tranh phổ biến hiện trong xã hội hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền: là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không độc nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều kiện ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở: do vốn đầu tư lớn hay do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh tranh giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm, miễn là họ thu được lợi nhuận tối đa. d. Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh: - Cạnh tranh lành mạnh: là cuộc cạnh tranh mà các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường dùng chính tiềm năng, nội lực của mình để cạnh tranh với các đối thủ. Những nội lực đó là khả năng tài chính, khả năng nhân lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về uy tín, hình ảnh của công ty...Trên thị trường hay của tất cả những gì tựu chung trong hàng hoá bao gồm cả hàng hoá cứng (tức hàng hoá hiện vật) và hàng hoá mềm (tức hàng hoá dịch vụ). - Cạnh tranh không lành mạnh: là cuộc cạnh tranh không bằng chính nội lực của công ty mà dùng những thủ đoạn, mánh lới, mưu mẹo nhằm cạnh tranh một cách không công khai thông qua việc trốn tránh các nghĩa vụ mà Nhà Nước yêu cầu và luồn lách qua những kẽ hở của pháp luật. 2. mô hình 5 lực lượng của michael porter trong cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường cũng đều phải chịu một áp lực cạnh tranh nhất định, mà hiện trạng cuộc cạnh tranh phụ thuộc vào 5 lực lượng cạnh tranh cơ bản được biểu diễn theo mô hình sau: Các đối thủ tiềm năng Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc Các đối thủ cạnh tranh trong ngành cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại Người mua Người cung ứng Quyền lực thương lượng của người cung Sự ép giá ứng củangười mua Nguy cơ đe doạ từ những sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế Hình 1: Mô hình 5 lực lượng của Michael Porter Mô hình 5 lực lượng của Michael Porter được nhiều nhà phân tích vận đụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc của một ngành công nghiệp. * Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc: Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường những có khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp khác. Để hạn chế mối đe doạ này, các nhà quản lý thường dựng lên các hàng rào như: Mở rộng khối lượng sản xuất của doanh nghiệp để giảm chi phí. Khác biệt hoá sản phẩm. Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối. Phát triển các dịch vụ bổ sung. Ngoài ra có thể lựa chọn địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của Chính phủ và lựa chọn đúng đắn thị trường nguyên liệu, thị trường sản phẩm. * Quyền lực thương lượng của người cung ứng: Người cung ứng có thể chi phối đến doanh nghiệp là do sự thống trị hoặc khả năng độc quyền của một số ít nhà cung ứng. Nhà cung ứng có thể đe doạ tới nhà sản xuất do tầm quan trọng của các sản phẩm được cung ứng, do đặc tính khác biệt hoá cao độ của người cung ứng với người sản xuất, do sự thay đổi chi phí của sản phẩm mà nhà sản xuất phải chấp nhận và tiến hành, do liên kết của những người cung ứng gây ra... Trong buôn bán quốc tế, nhà cung ứng đóng vai trò là nhà xuất khẩu nguyên vật liệu. Khi doanh nghiệp không thể khai thác nguồn nguyên vật liệu nội địa, nhà cung ứng quốc tế đóng vai trò quan trọng. Mặc dù, có thể có sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp có thể lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất thì quyền lực thương lượng của nhà cung ứng bị hạn chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp trước khả năng tăng cao chi phí đầu vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải biến được quyền lực thương lượng của người cung ứng thành quyền lực của mình. * Quyền lực thương lượng của người mua Người mua có quyền thương lượng với doanh nghiệp (tức người bán) thông qua sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng mua từ doanh nghiệp, đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá... Các nhân tố tạo nên quyền lực người mua gồm: khối lượng mua lớn, sự đe doạ của quá trình liên kết những người mua khi tiến hành thương lượng với doanh nghiệp, do sự tập trung lớn của người mua đối với sản phẩm chưa được dị biệt hoá hặc dịch vụ bổ sung còn thiếu... Quyền lực thương lượng của người mua sẽ rất lớn nếu doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời những thay đổi về nhu cầu của thị trường, hoặc khi doanh nghiệp thếu khá nhiều thông tin về thị trường (như các thông tin về đầu vào và thông tin về đầu ra). Các doanh nghiệp khác sẽ lợi dụng điểm yếu này của doanh nghiệp để tung ra thị trường những sản phẩm thích hợp hơn, với giá cả phải chăng hơn và bằng phương thức dịch vụ tốt hớn. * Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế: Khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ hiện tại tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm và dịch vụ thay thế. Đây là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị trường của doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế có khả năng khác biệt hoá cao độ với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về dịch vụ hay các điều kiện về tài chính. Nếu sản phẩm thay thế càng giống sản phẩm của doanh nghiệp thì mối đe doạ đối với doanh nghiệp càng lớn. Điều này sẽ làm hạn chế giá cả, số lượng hàng bán và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu có ít sản phẩm tương tự sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tăng giá và tăng thêm lợi nhuận. * Cạnh tranh của các đối thủ trong ngành: Cạnh tranh giữa các công ty trong một ngành công nghiệp được xem là vấn đề cốt lõi nhât của phân tích cạnh tranh. Các hãng trong ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khác biệt hoá sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các hãng hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi đối thủ đông đảo và gần như cân bằng nhau, khi tăng trưởng của ngành là thấp, khi các loại chi phí ngàu càng tăng, khi các đối thủ cạnh tranh có chiến lược đa dạng... Có một điều thuận lơi và cũng là bất lợi cho các đối thủ trong cùng ngành là khả năng nắm bắt kịp thời những thay đổi, cải tiến trong sản xuất - kinh doanh, hoặc các thông tin về thị trường. Các doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao nếu có sự nhạy bén, kịp thời và ngược lại có thể mất lợi thế cạnh tranh bất cứ lúc nào nếu họ tỏ ra thiếu thận trọng và nhaỵ bén. Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau (trừ doanh nghiệp nước sở tại) khi cùng tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài sẽ có một phần bất lợi như nhau do các quy định hạn chế của Chính Phủ nước sở tại. Chính vì thế, doanh nghiệp nào mạnh về tài chính hoặc khoa học kỹ thuật hoặc trên cả hai phương diện sẽ có được lợi thế rất lớn. Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, doanh nghiệp khi tham gia thị trường nước ngoài cần có sự trợ giúp của các doanh nghiệp khác trong cùng quốc gia để có thêm khả năng chống đỡ trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác. Lúc đó có thể coi sự cạnh tranh trong ngành là sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu ra và những yếu tố đầu vào biến động theo xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động cuả mình nhằm giảm thách thức, tăng thời cơ giành thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa ra thị trường những sản phẩm mới chất lượng cao mẫu mã và giá cả phù hợp... 3. các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu 3.1 Các nhân tố khách quan: a. Môi trường kinh tế * Nhóm nhân tố kinh tế: - Tốc độ tăng trưởng cao của nước sở tại luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực sự tăng lên về khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khi tăng trưởng cao khả năng tích tụ tập trung tư bản cao do đó khả năng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng cao. - Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối đoái giảm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng lên trên thị trường quốc tế vì khi đó giá bán của doanh nghiệp thấp hơn giá bán của đối thủ cạnh tranh của nước khác, và ngược lại tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho giá bán hàng hoá cao hơn đối thủ cạnh tranh đồng nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế giảm. - Lãi suất ngân hàng ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng với lãi suất cao sẽ làm cho giá thành sản xuất tăng lên từ đó đẩy giá bán tăng lên, do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm so với đối thủ cạnh tranh, đặc biệt các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về vốn. * Nhân tố chính trị pháp luật Chính trị và pháp luật là cơ sở nền tảng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu bởi các doanh nghiệp này hoạt động trên thị trường quốc tế với lợi thế mạnh trong cạnh tranh là lợi thế so sánh giữa các nước. Chính trị ổn đinh, pháp luật rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. * Nhóm nhân tố về khoa học kỹ thuật Nhóm nhân tố này tác động một cách quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường là chất lượng và giá cả. Khoa học công nghệ hện đại sẽ làm cho chi phí cá biệt của các doanh nghiệp giảm, chất lượng sản phẩm chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trheo hướng cụ thể sau: - Tạo ra những hệ thống công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và trang bị lại hoàn toàn cơ sở vật chất kỹ thuật. - Giúp doanh nghiệp trong quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền thông tin một cách nhanh chóng và chính xác nhất. - Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. * Các nhân tố về văn hoá xã hội. Phong tục tập quan thị hiếu lối sống, thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng ảnh hưởng đến cơ cấu nhu cầu của thị trường doanh nghiệp tham gia và từ đó ảnh hưởng đến chính sách kinh doanh của doanh nghiệp khi tham gia vào các thị trường khác nhau. * Các nhân tố tự nhiên: Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của quốc gia, môi trường thời tiết, khí hậu...các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo hướng tích cực hay tiêu cực. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, có điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường... Bên cạnh đó, những khó khăn ban đầu do điều kiện tự nhiên gây ra sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. b. Môi trường ngành * Khách hàng: Khách hàng sẽ tạo ra áp lực làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ bán hàng tốt hơn... và do đó, để duy trì và tồn tại trên thị trường buộc các doanh nghiệp phải thoả mãn tốt các nhu cầu của khách hàng trong điều kiện cho phép, điều này sẽ làm tăng cường độ và tính chất cạnh tranh của doanh nghiệp. * Số lượng các doanh nghiệp trong ngành hiện có và số lượng doanh nghiệp tiềm ẩn. Số lượng doanh nghiệp cạnh tranh và đối thủ ngang sức sẽ tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi số lượng đối thủ cạnh tranh nhiều thì thị phần của các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ giảm khi đó doanh nghiệp muốn thống lĩnh thị trường hay là doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao nhất thì doanh nghiệp phải đẩy mạnh hơn nữa cường độ cạnh tranh, ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hơn nữa cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt hơn nếu như có sự xuất hiện thêm một vài doanh nghiệp mới tham gia cạnh tranh. Khi đó, các doanh nghiệp cũ với lợi thế về sản phẩm, vốn, chi phí cố định và mạng lưới kênh phân phối... sẽ phản ứng quyết liệt đối với doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp mới có ưu thế hơn về công nghệ, chất lượng sản phẩm, áp dụng các biện pháp để giành thị phần có hiệu quả hơn thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp mới sẽ cao hơn nếu các doanh nghiệp cũ không sử dụng hữu hiệu công cụ trong cạnh tranh. * Các đơn vị cung ứng đầu vào: Các nhà cung ứng đầu vào có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau: Nguồn cung cấp mà doanh nghiệp cần chỉ có một hoặc một vài công ty độc quyền cung ứng. Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung ứng nào khác thì doanh nghiệp sẽ yếu thế hơn trong mối tương quan thế và lực đối với nhà cung ứng hiện có. Nếu nhà cug cấp có đủ khả năng, đủ nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống mạng phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp với tư cách là khách hàng. Tất cả những khó khăn đối với doanh nghiệp có thể gặp phải ở trên sẽ dẫn đến sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào các nhà cung ứng, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hay nhiều người cung ứng, nghiên cứu tìm hiểu nguồn đầu vào thay thế khi cần thiết và cần có chính sách dự trữ hàng hoá hợp lý. * Sức ép của các sản phẩm thay thế Sự ra đời của những sản phẩm thay thế là một yếu tố nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo xu hướng ngày càng đa dạng phong phú và cao cấp hớn và chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế. Đặc biệt, nhiều sản phẩm thay thế được sản xuất trên những dây chuyền kỹ thuật công nghệ tiên tiến hơn, do đó sức cạnh tranh cao hơn. Sản phẩm thay thế phát triển sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không có sản phẩm thay thế. 3.2 Các nhân tố chủ quan a. Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh. Điều quan trọng nhất đối với hoạt động của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai? Như vậy có nghĩa là doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm, hàng hoá. Khi tham gia hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có hàng hoá đem bán ra thị trường và phải làm sao để co hàng hoá của mình thích ứng được với thị trường nhằm tằng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Thực chất của đa dạng hoá đó là quá trình mở rộng hợp lý dạnh mục hàng hoá, tạo nên một cơ cấu hàng hoá có hiệu quả của doanh nghiệp. Hàng hoá của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy trì các hàng hoá đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu tìm ra các hàng hoá mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá hàng hoá kinh doanh không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu được nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi mà tình hình cạnh tranh trở nên gay gắt, qu._.yết liệt. Đi đôi với thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, để đảm bảo đứng vững trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá hàng hoá vào một số loại hàng hoá nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị trường nhất định của mình. Trong phạm vi này doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp đã tạo dựng được một bức rào chắn, đảm bảo giữ vững được phần thị trường của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các hàng hoá của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Như vậy hàng hoá và cơ cấu hàng hoá một cách tối ưu là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. b. Yếu tố giá cả. Giá cả của một hàng hoá trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quyết định mua hay không của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, khách hàng có quyền mua và lựa chọn những gì họ cho là tốt nhất và cùng một loại hàng hoá với chất lượng tương đương nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có mức giá thấp hơn, khi đó lượng bán của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Giá cả được thể hiện là vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của hàng hoá: định giá thấp (như giá khi mới xâm nhập, giá giới thiệu), định giá ngang giá thị trường hay định giá cao. Việc định giá cần phải xem xét các yếu tố sau: lượng cầu đối với hàng hoá và tính tới số tiền mà dân cư có thể để dành cho loại hàng hoá đó, chi phí kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm. Phải nhận dạng đúng cạnh tranh để từ đó có cách định giá thích hợp cho mỗi loại thị trường. Với một mức giá ngang giá thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống, nếu doanh nghiệp tìm ra được các biện pháp hạ giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một mức giá thấp hơn giá thị trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng bán, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (và đây là lợi nhuận siêu ngạch). Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích thợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. Hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân có 3 hình thức: xuất khẩu trực tiếp, gia công xuất khẩu và xuất uỷ thác, trong đó hoạt động gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn. Mặt khác, khách hàng của công ty thường là khách hàng quen biết lâu nên giá cả thường được thoả thuận với nhau trước, giữ vững trong thời gian dài và giá thường do công ty và khách hàng cùng nhau quyết định. Tuy nhiên đó là đối với những khách hàng truyền thống còn đối với những khách hàng mới thì công ty cần linh hoạt hơn, có những mức giá thấp hơn khách hàng truyền thống nhằm thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu cho công ty. c. Chất lượng hàng hoá. Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng hàng hoá. Trong thực tế, cạnh tranh bằng giá là "biện pháp nghèo nàn" nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, mà ngược lại cùng một loại hàng hoá, chất lượng hàng hoá nào tốt đáp ứng được nhu cầu thì họ cũng sẵn sàng mua với một mức giá cao hơn, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân dân được nâng cao hơn trước. Chất lượng hàng hoá là hệ thống nội tại của hàng hoá được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được, thoả mãn các điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng hàng hoá được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và công nghệ, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ quản lý... Chất lượng hàng hoá không chỉ tốt, bền, đẹp mà còn do khách hàng quyết định. Muốn đảm bảo về chất lượng thì một mặt phải thường xuyên chú ý tới tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, mặt khác, chất lượng hàng hoá không những được đảm bảo trước khi bán mà còn phải được đảm bảo ngay cả sau khi bán bằng các dịch vụ bảo hành. Chất lượng hàng hoá thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ: + Nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ làm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. + Hàng hoá chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. +Chất lượng hàng hoá cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. d. Tổ chức hoạt động xúc tiến. Trong kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả cao nếu chỉ nghĩ rằng: "có hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ là đủ để bán hàng". Những giá trị của hàng hoá, dịch vụ, thậm chí cả những lợi ích đạt được khi tiêu dùng sản phẩm cũng phải được thông tin tới khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, cũng như những người có ảnh hưởng tới việc mua sắm. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các hoạt động xúc tiến thương mại. Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại là tập hợp nhiều nội dung khác nhau nhằm tăng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại gồm một số nội dung sau: Quảng cáo. Khuyến mại. Hội chợ triển lãm. Bán hàng trực tiếp. Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác. Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện truyền tin như đài, báo, truyền hình... về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhằm làm cho khách hàng chú ý tới sự có mặt của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp. Quảng cáo phải tạo được sự khác biệt giữa hàng hoá của doanh nghiệp với các hàng hoá khác trên thị trường, làm tăng giá trị của hàng hoá bán ra. Quảng cáo gây được ấn tượng cho khách hàng, tác động vào tâm lý khách hàng... để làm nảy sinh nhu cầu mua sắm của họ, từ đó làm tăng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp (nhờ tăng lượng bán). Và một tác dụng nữa của quảng cáo là nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, là một phương tiện cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh. Bện cạnh hoạt động trên, hiện nay các doanh nghiệp còn thực hiện các hoạt động như chiêu hàng, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... để giới thiệu về sản phẩm của doanh nghiệp mình. Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt giúp cho doanh nghiệp tăng lượng bán, tăng doanh thu, lợi nhuân, thu hồi vốn nhanh. Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường, làm cho khách hàng biết đến và hiểu rõ kỹ càng công dụng của sản phẩm. Tổ chức tốt hoạt động xúc tiến giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Tuy nhiên công ty Dệt Kim Đông Xuân chỉ tham gia một số hội chợ nên kết quả do xúc tiến thương mại đem lại là chưa cao và rõ rệt. e. Dịch vụ sau bán hàng. Để nâng cao uy tín và trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng về hàng hoá của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện tốt các dịch vụ sau bán hàng. Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: hướng dẫn sử dụng hàng hoá, lăp đặt, sửa chữa, bảo đảm các dịch vụ thay thế ... Tạo được uy tín cho hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường. Duy trì mở rộng thị trường. Bán thêm máy móc thiêt bị làm tăng doanh thu, lợi nhuận. Qua dịch vụ sau bán hàng hoá của mình có đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng không, để từ đó ngày càng hoàn thiện và đổi mới sản phẩm của mình. Do vậy, dịch vụ sau bán hàng là một biện pháp tốt tăng uy tín trong cạnh tranh. f. Phương thức thanh toán. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh toán khác nhau như: thanh toán chậm, trả góp, thanh toán qua ngân hàng, mở L/C... giúp cho hoạt động mua bán được diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn, có lợi cho cả người bán và người mua. Việc lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý sẽ có tác động kích thích đối với khách hàng, tăng khối lượng tiêu thụ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. g. Yếu tố thời gian. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật như hiện nay làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của người tiêu dùng cũng như sự rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh hiện đại chính là thời gian và tốc độ chứ không còn là yếu tố truyền thống như : nguyên vật liệu hay lao động. Những thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã làm cho các cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt khốc liệt hơn và trong cuộc chạy đua này ai biết nắm bắt thời cơ và đi trước thì người đó sẽ chiến thắng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị trường, phải biết nắm bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh chóng tổ chức kinh doanh tiêu thụ thu hồi vốn trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc. Hiện nay ở nhiều nước phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một biện pháp rất quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp. Đi trước một bước trong cạnh tranh là đã giành được chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài các yếu tố trên vốn và quy mô doanh nghiệp... cũng sẽ tác động rất lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Uy tín của một doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, đó là cơ sở để doanh nghiệp dễ dàng giành thắng lợi trong cạnh tranh vì họ đã có một lượng khách hàng tín nhiệm, quen thuộc. Uy tín của doanh nghiệp được hình thành trong một thời gian dài hoạt động trên thị trường và đó là một tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và phát huy. 4. Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là rất quan trọng đối với bất kì một doanh nghiệp nào để xác định được khả năng hiện tại của bản thân doanh nghiệp và xác định sức mạnh của các đối thủ cần quan tâm. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau: * Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tính theo doanh thu: Công thức: Trong đó: GTt: Tốc độ tăng trưởng thời kỳ nghiên cứu DTt: Doanh thu thời kỳ nghiên cứu DTt-1: Doanh thu kỳ trước ý nghĩa: chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng lên hoặc giảm đi của thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, đồng nghĩa với sự lớn lên hay giảm sút sức canh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. * Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp theo lợi nhuận Công thức: Trong đó: Grt : Tốc độ tăng trưởng thời kỳ nghiên cứu Prt : Lợi nhuận kỳ nghiên cứu Prt-1: Lợi nhuận kỳ trước đó ý nghĩa: có tác dụng giống với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tính theo doanh thu nhưng phản ánh thực chất và chính xác hơn về một doanh nghiệp vì nó so sánh về tốc độ tăng lợi nhuận và lợi nhuận mới tực sự phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp . * Chỉ tiêu thị phần của doanh nghiệp Thị phần của doanh nghiệp có hai cách xác định thông dụng với những tác dụng khác nhau: Mức độ cạnh tranh theo thị phần Doanh thu của doanh nghiệp của = doanh nghiệp Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất ý nghĩa: chỉ tiêu này nói lên mức độ rộng lớn của thị trường của một doanh nghiệp và vai trò vị trí của doanh nghiệp đó trong thị trường. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này, ta có thể đánh giá mức đọ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp trong việc thực hiên chiến lược thị trường, chiến lược Maketing, chiến lược cạnh tranh và hỗ trợ cho việc đề ra các mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ tiêu trên có một nhược điểm là khó có thể đảm bảo tính chính xác khi xác định nó, nhất là khi thị trường mà doanh nghiệp đang tham gia quá rộng lớn vì nó gây nhiều khó khăn trong việc tính được chính xác doanh thu thực tế của các doanh nghiệp. Mặt khác công việc này cũng đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính toán hơn nhiều so với chỉ tiêu trên nó khắc phục được những nhược điểm của những chỉ tiêu trên. Do các đối thủ cạnh tranh mạnh thì sẽ có nhiều thông tin hơn nên lưa chọn phương pháp này người ta có thể lựa chọn từ 2-5 doanh nghiệp mạnh nhất tuỳ theo đặc điểm của mỗi lĩnh vực cạnh tranh. ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh sát thực nhất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh. Bên cạnh đó còn giúp cho doanh nghiệp có thêm thông tin về các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất và các thị phần họ chiếm giữ thường là những khu vực có lợi nhuận cao mà rất có thể doanh nghiệp cần chiếm lĩnh trong tương lai. Những chỉ tiêu trên là những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh chung của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, còn nếu xét riêng về hoạt động xuất khẩu thì khả năng cạnh tranh được đánh giá qua các chỉ tiêu sau: * Tốc độ tăng của hoạt động xuất khẩu qua các năm: Công thức Trong đó: EGt : Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu EXt: Kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu EXt-1: Kim ngạch xuất khẩu kỳ trước ý nghĩa: qua chỉ tiêu này ta có thể thấy được tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giữa hai năm liền nhau để biết xem khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp qua thời gian là tăng hay giảm và tăng, giảm với tỷ lệ là bao nhiêu. Nếu tăng thì chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có phần tăng lên, còn nếu giảm thì khả năng đó có thể giảm và doanh nghiệp cần tìm ra nguyên nhân của sự giảm sút đó để năm sau có thể khắc phục. Thị phần của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt kim cũng như chỉ tiêu ở phần trên, thị phần trong hoạt động xuất khẩu bao gồm hai cách tính: Cách 1: Thị phần của KNXKHDK của doanh nghiệp doanh nghiệp so = với tổng KNXK Tổng KNXKHDKcủa các DN trong nước Trong đó: KNXKHDK: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt kim ý nghĩa của chỉ tiêu này: cho biết độ lớn về kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp so với kim ngạch chung của toàn nghành trong nước, từ đó thấy được vị trí của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu chung của toàn nghành. Sự biến động của chỉ tiêu qua các năm sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động xuất khẩu, có sự tăng lên hay giảm đi và nguyên nhân từ đâu. Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở trong nước là một con số không nhỏ và rất khó kiểm soát nên để có được số liệu về tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của tất cả các doanh nghiệp trong nước một cách chính xác là rất khó nên ta có thể tính cách thứ hai như sau: Cách 2: Thị phần của KNXKHMM của doanh nghiệp doanh nghiệp so với = đối thủ mạnh nhất KNXKHMM của đối thủ mạnh nhất Trong đó:KNXKHMM: kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh độ lớn về kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của doanh nghiệp mình so với một số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Từ đây có thể so sánh được thị phần của doanh nghiệp mình trên thị trường với thị phần của một số doanh nghiệp mạnh khác để phân tích xem với quy mô, tiềm lực hiện nay của công ty như vậy thì hoạt động xuất khẩu của công ty đã thực sự hiệu quả chưa. Ngoài ra còn biết thêm các thông tin về đối thủ, thị phần xuất khẩu họ chiếm giữ và lấy đó làm căn cứ cho công ty có thể nghiên cứu và tìm ra những chiến lược cạnh tranh cho phù hợp. Đánh giá khả năng cạnh tranh là một việc làm cần thiết đối với mọi doanh nghiệp vì qua đó mỗi doanh nghiệp có thể đưa ra những mục tiêu, chiến lược cạnh tranh thích hợp với tình trang hiện tại của công ty mình. Hoạt động xuất khẩu hàng may mặc là một hoạt động được rất nhiều doanh nghiệp trong nghành may quan tâm và vì thế số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, làm cho cục diện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thuộc một trong số những doanh nghiệp đó công ty Dệt Kim Đông Xuân cũng đã không ngừng phấn đấu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm khẳng định vị thế trên thị trường xuất khẩu hàng may mặc. 5. Môi trường cạnh tranh trong điều kiện hiện nay. A. Đặc điểm của môi trường cạnh tranh quốc tế trong điều kiện hiện nay 5. 1 Môi trường luật pháp. Mỗi quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế, bao gồm luật thương mại quốc tế, luật đầu tư nước ngoài, luật thuế... giữa các nước thường ký kết các hiệp định, hiệp ước và dần hình thành nên luật khu vực và luật quốc tế. Thực tế thế giới trong những năm qua đã chỉ ra: cùng với sự xuất hiện các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan... đã xuất hiện những thoả thuận mới, đa dạng song phương, hoặc đa phương tạo điều kiện thuận lợi trong kinh doanh buôn bán trong khu vực và quốc tế. Vì vậy, có thể khẳng định rằng trên cơ sở nắm chắc luật quốc gia và các hiệp định giữa các nước mới cho phép các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, hình thức kinh doanh, mặt hàng kinh doanh để làm tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Luật của mỗi quốc gia cũng có ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh giữa các nước với nhau. Trong điều kiện này buộc các quốc gia phải điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với những quy định về luật pháp của quốc gia mà mình đang hoạt động. Những tác động chủ yếu của luật đối với hoạt động của một doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ : - Các quy định về giao dịch: hợp đồng, sự bảo vệ các bằng sáng chế, phát minh, luật bảo hộ nhãn hiệu thương mại, bí quyết công nghệ, quyền tác giả và các tiêu chuẩn kế toán. - Môi trường luật pháp chung: luật môi trường, những quy định tiêu chuẩn về sức khoẻ và an toàn. - Luật thành lập doanh nghiệp, các ngành, các lĩnh vực kinh doanh. - Luật lao động. - Luật chống độc quyền và các hiệp hội kinh doanh. - Luật giá cả. - Luật thuế, lợi nhuận. Mỗi nhà kinh doanh đều phải thông hiểu chế độ luật pháp ở các nước mà họ đang kinh doanh. Có nhiều cách để tìm hiểu hệ thống luật pháp đó như: tìm hiểu thông qua các văn phòng của các cơ quan luật pháp địa phương (quốc gia), hoặc có thể tìm hiểu bằng cách làm việc với các hãng luật quốc tế. Điều khó khăn nhất là phải hiểu được luật chơi hợp pháp và sau đó các quyết định nên mềm dẻo, linh hoạt để tuân thủ các điều luật này. 5.2 Môi trường chính trị. Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh quốc tế. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Không có sự ổn định về chính trị sẽ không có điều kiện để phát triển, ổn định kinh tế, lành mạnh hoá xã hội. Chính vì vậy khi tham gia kinh doanh trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở quốc gia đó và các nước trong khu vực. Sự ổn định về chính trị thể hiện ở chỗ: thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, đặc biệt là đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân và các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước. 5.3 Môi trường kinh tế. Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế các doanh nghiệp phải có kiến thức nhất định về kinh tế. Nó sẽ giúp các nhà kinh doanh xác định được những ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế nước chủ nhà và nưóc sở tại, thấy được sự ảnh hưởng của quốc gia đó với doanh nghiệp mình. Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia nói riêng và trên thế giới nói chung có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Tính ổn định về kinh tế chủ yếu là ổn định về nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là điều mà các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống kinh tế có vai trò cực kỳ quan trọng, nó phân phối tối ưu nguồn tài nguyên khan hiếm tạo cho người sử dụng phải cạnh tranh với nhau. Nếu dựa trên tiêu thức phân bố các nguồn lực và cơ chế điều khiển nền kinh tế, có thể phân chia nền kinh tế thế giới thành các nhóm như: đi theo mô hình kinh tế thị trường và đi theo mô hình kinh tế chỉ huy. Nếu dựa trên hình thức sở hữu tài sản thì có sở hữu tư nhân, sở hữu công cộng và sở hữu hỗn hợp. Hai tiêu thức phân loại nền kinh tế này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa quản lý các hoạt động kinh tế và quyền sở hữu các yếu tố sản xuất. 5.4 Môi trường văn hoá và con người. Việc thuê mướn công nhân, buôn bán của doanh nghiệp đều được điều chình và quản lý bởi con người. Vì vậy doanh nghiệp cần phải cân nhắc sự khác nhau giữa các nhóm dân tộc và xã hội để dự đoán, điều hành các mối quan hệ và hoạt động của mình. Sự khác nhau giữa con người đã làm gia tăng những hoạt động kinh doanh khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới. Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nó cung cấp những định hướng cho các thành viên trong xã hội. Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả những khả năng mà con người có được. Văn hoá quy định hành vi của mỗi người thông qua mối quan hệ giữa người với người trong tất cả những lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định về kinh doanh vào môi trường đó. Trong môi trường văn hoá những nhân tố giữ vai trò cực kỳ quan trọng là tập quán, lối sống, tôn giáo và ngôn ngữ. Các nhân tố này được coi là hàng rào chắn các hoạt động giao dịch, kinh doanh. Mỗi quốc gia, thậm chí trong từng vùng khác nhau, các dân tộc khác nhau có tập quán, có lối sống, ngôn ngữ riêng, do đó nhà kinh doanh cần phải biết rõ và hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới. Thị hiếu, tập quán của mỗi người tiêu dùng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu vì mặc dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ chấp nhận. Vì vậy nắm bắt được tập quán, thị hiếu của người tiêu dùng thì doanh nghiệp có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng châu lục, từng dân tộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá lịch sử tôn giáo. Ngôn ngữ cũng là yếu tố quan trọng trong nền văn hoá của mỗi quốc gia, nó cung cấp cho các nhà kinh doanh một phương tiện quan trọng để giao tiếp trong kinh doanh quốc tế. Đối với các công ty đa quốc gia hoạt động kinh doanh muốn mở rộng trước hết đòi hỏi phải thống nhất về mặt ngôn ngữ. Để giải quyết tình trạng sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong giao tiếp có thể có những hướng sau: - Phiên dịch và nhà phiên dịch: một doanh nghiệp có thể thuê người phiên dịch bên ngoài hoặc có những nhân viên phiên dịch chuyên nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp sẽ không tránh khỏi những lỗi do người phiên dịch thiếu kinh nghiệm hoặc do thiếu kiến thức chuyên môn để tránh bớt những lỗi này thì thông tin phải được dịch đi dịch lại nhiêu lần qua nhiều người dịch khác nhau để kiểm tra độ chính xác của thông tin. Vì vậy điều tối ưu là người phiên dịch phải có kiến thức tốt và hiểu biết tốt về vấn đề mà mình đang dịch. - Thuê cố vấn hay các chuyên gia. Trong một số trường hợp như đàm phán với Chính Phủ hoặc làm việc với các phương tiện thông tin đại chúng và nhìn chung kinh doanh ở những thị trường hoàn toàn mới và xa lạ với mặt hàng mới thì doanh nghiệp cần thuê cố vấn hoặc xin ý kiến của các chuyên gia. Điều này sẽ góp phần mang lại cho doanh nghiệp những cơ hội mới, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Tôn giáo cũng có ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh. Ví dụ, thời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ, ngày lễ, lễ kỷ niệm...vì vậy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tổ chức phù hợp với từng loại tôn giáo. Việc nghiên cứu môi trương kinh doanh quốc tế trên khía cạnh văn hoá đòi hỏi phải sắp xếp, phân loại các quốc gia theo nhóm nước có đặc điểm khá tương đồng và các nước có đặc điểm khác nhau. Kinh doanh ở nước ngoài, các doanh nghiệp thường phải cố gắng thích nghi với môi trường văn hoá của các nước sở tại nhằm nâng cao vị trí cuả mình trên thương trường quốc tế. Chỉ trên cơ sở đó họ mới có thể nâng cao hiểu biết của mình về văn hoá tương ứng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Như vậy, tuỳ thuộc vào nhu cầu và trình độ hiểu biết về văn hoá mà công ty sẽ có những hoạt động thích ứng và hiệu quả. Nếu nhu cầu và trình độ hiểu biết về văn hoá đối với nước sở tại còn ở mức thấp thì doanh nghiệp chỉ nên kinh doanh với một doanh nghiệp nước ngoài vào một nước mà hoạt động của doanh nghiệp ở đó hạn chế. Ngược lại, nếu nhu cầu và trình độ am hiểu nền văn hoá nước sở tại cao thì khi đó doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh với nhiều nước, nhiều doanh nghiệp khác nhau và doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng các chức năng và biện pháp hoạt động của mình. 5.5 Môi trường cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành kinh doanh hoạt động trong môi trường và điều kiện kinh doanh không giống nhau và môi trường này luôn thay đổi khi chuyển từ nưóc này sang nước khác. Hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, một số doanh nghiệp có khả năng nắm bắt nhanh cơ hội và biến cơ hội thuận lợi thành thắng lợi. Nhưng cũng không ít doanh nghiệp luôn gặp phải khó khăn, thử thách rủi ro cao vì phải đương đầu cạnh tranh với những công ty quốc tế có nhiều lợi thế và tiềm năng hơn. Sự khác nhau truyền thống giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh quốc tế ở chỗ kinh doanh quốc tế thường có khoảng cách địa lý lớn hơn, xa hơn. Điều đó làm cho công ty kinh doanh quốc tế luôn gặp phải khó hăn hơn, vì họ phải chi phí nhiều hơn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên ngày nay do sự phát triển nhanh chóng và hiện đại của hệ thống thông tin và giao thông vận tải đã làm cho những khó khăn về thông tin và địa lý giảm dần. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Sự can thiệp hay giúp đỡ nhiều hay ít của Chính Phủ trong một chừng mực nhất định đã thúc đẩy hay cản trở hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng những thành tựu khoa học giúp doanh nghiệp giảm bớt những rủi ro trên thị trường quốc tế vì vậy hoạt động kinh doanh quốc tế đã thúc đẩy các doanh nghiệp đương đầu với các đối thủ cạnh tranh mới. B. Những yêu cầu cơ bản trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế hiện nay. Hiện nay, trong quá trình thâm nhập hay mở rộng trực tiếp cho một thị trường nước ngoài thì một yêu cầu đối với bất cứ một doanh nghiệp nào là phải tìm cách thích nghi sản phẩm, hàng hoá của mình với thị trường cần chiếm lĩnh. Việc thích nghi hoá sản phẩm, hàng hoá phải được xem xét trên các khía cạnh sau đây: Thứ nhất: hàng hoá phải được thích nghi hoá theo các đặc trưng vật lý của nó: bao gồm 2 loại thích nghi với những mức độ và yêu cầu khác nhau: * Thích nghi bắt buộc: Những quy đinh pháp lý của thị trường nước ngoài là nắt buộc đối với doanh nghiệp. Vì thế khi đưa một sản phẩm vào một thị trường nước ngoài thì cần tính đến những tiêu chuẩn bắt buộc của thị trường đó. Chúng bao gồm: - Các định mức về an toàn sản phẩm, chẳng hạn một số nước quy định về vật liệu an toàn dùng cho đồ chơi trẻ em... - Các định mức về an toàn vệ sinh: nhiều nước, nhất là các nước phát triển, có những quy định ngặt nghèo về vệ sinh thực phẩm và kiểm tra chặt chẽ điều đó như các điều kiện bảo quản, bảo vệ, vô trùng... - Các định mức kỹ thuật: không phải nước nào cũng dùng điện thế 220V với tần số 50Hz và các phích cắm tròn mà lại dùng điện thế 110V tần số 60 Hz. Nhiều nước Âu Mỹ không dùng các đơn vị đo lường như met, kilogam mà dùng pound, mile... Những quy định về tiêu chuẩn trên tạo các rào cản phi thuế quan đối với các hàng hoá nhập khẩu, bắt buộc các doanh nghiệp phải thích ứng sản phẩm của mình đối với quy định đó. * Thích nghi cần thiết: Mỗi thị trường nước ngoài đều có nhứng đòi hỏi riêng biệt đối với hàng hoá nhập khẩu. Vì thế để chiếm lĩnh được khách hàng mục tiêu thì phải tính đến các nhu cầu và mong muốn của khách hàng tại đó. Điều đó có nghĩa là: không phải chỉ đơn thuần xuất khẩu, nhà xuất khẩu phải nghiên cứu thị trường thật kỹ bao gồm cả việc nghiên cứu các hoạt động kích thích và kìm hãm mua hàng, những gì có thể đem lại cho nhà doanh nghiệp một sự hiểu biết đầy đủ về cái mà người tiêu dùng nước ngoài đang chờ đợi: khẩu vị của họ là gì, thói quen tiêu dùng, tần số tiêu dùng và những đặc trưng khí hậu là gì. Đó là điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tức là nếu nhà sản xuất và xuất khẩu hiểu rõ thị trường nước ngoài như thị trường nước họ thì đó là cơ hội để doanh nghiệp thành công tại thị trường đó. Thứ hai: hàng hoá phải thích nghi hoá theo các đặc trưng dịch vụ của nó: Các hàng hoá công nghiệp, hàng hoá chuyên ngành và cả hàng hoá tiêu dùng nữa đều đòi hỏi phải được theo giõi trong quá trình lắp đặt, bảo dưỡng và sửa chữa...cũng như các chỉ dẫn sử dụng rõ ràng và bằng tiếng của nước được bán, ngoài sự tham gia kỹ thuật thường xuyên hoặc tạm thời. Như vậy, nhu cầu về dịch vụ sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào loại hàng hoá song cũng tuỳ theo trình độ kỹ thuật của nhân công địa phương, trình độ văn hoá, chi phí tại chỗ cho việc sửa chữa... một giải pháp tốt đáng được quan tâm dối với các nhà xuất khẩu lẫn tiêu dùng là cung cấp các hàng hoá đơn giản hơn và chắc chắn hơn so với thiết bị dành cho người tiêu dùng của nước phát triển nếu điều đó có thể làm được, để nếu cần có thể bảo dưỡng một cách đơn giản, ít tốn kém và giảm tần số của những lẫn hỏng hóc. Thứ ba: thích nghi hoá theo các đặc trưng ._. ty Dệt Kim Đông Xuân. Về phía Công ty. 1.1. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động Marketing, mở rộng thị trường xuất khẩu: Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh và phát triển thì cũng có nghĩa là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường. Mặt khác, hiện nay đang là thời điểm mà nghành may mặc đang có sự phát triển mạnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu ngày càng gia tăng thì cục diện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Bởi vậy, đẩy mạnh Marketing là vấn đề cấp thiết, nhất là đối với một Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu như Công ty xuất nhập khẩu Dệt Kim Đông Xuân. Trong thời gian qua hoạt động này đã được thực hiện nhưng còn đơn giản do phòng nghiệp vụ quản lý nhưng để theo kịp với tình hình cạnh tranh hiện nay thì hoạt động này cần được quan tâm nhiều hơn nữa. a. Tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu thị hiếu khách hàng. Tổ chức tốt hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu khách hàng là một nhiệm vụ tất yếu mà mỗi công ty nói chung và Công ty Dệt Kim nói riêng cần thực hiện, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngàycàng gay gát này. Trong nền kinh tế hàng hoá thì thị trường là nơi đánh giá cuối cùng sản phẩm của nhà sản xuất, hàng hoá của nhà kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của họ. Do đó để tồn tại và phát triển thì việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là làm tốt công tác nghiên cứu thị trường để có thểtung ra những sản phẩm, hàng hoá mà thị trường cần. Hoạt động này giúp doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu, gía cả, dung lượng của thị trường. công ty hiện nay đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động xuất khẩu đối với cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới công ty phải tổ chức tốt nghiên cứu và khai thác tốt cả thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng. Cụ thể, để chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng với gía cả hợp lý, chất lượng phù hợp cho từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia công ty cần tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu. Vì vậy để nắm bắt được tình hình thị trường nước ngoài, công ty cần tiến hành mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài và cử đại diện ở các nước có mối quan hệ làm ăn với Công ty điều tra nhu cầu các thị trường đó, tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Tuy nhiên, để thực hiện được việc trên không phải là đễ dàng vì nó khá tốn kém và phức tạp. Vì thế công ty có thể nghiên cứu thị trường một cách gián tiếp hay còn gọi là nghiên cứu tại bàn những nhu cầu, thị hiếu đó. Thông qua một số phong tục, tập quán trong cách ăn mặc, về nền văn hốa của đất nước sẽ giúp ta có thể hình dung được quan niệm về thời trang trong con mắt của họ. Cộng thêm vào đó là các tạp trí thời trang của họ để nhận thấy xu hướng về cách ăn mặc trong thời gian tới. Hiện nay hệ thống Internet rất phát triển nên việc nghiên cứu khách hàng qua mạng là rất đơn giản và ít tốn kém. Qua các thông tin về khách hàng đã thu thập được từ những nguồn trên công ty có thể nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng cũ, đồng thời tìm thêm được một số khách hàng mới mà nhu cầu của họ công ty có thể đáp ứng được. Những mặt hàng truyền thống bao giờ cũng là những mặt hàng trọng điểm nhưng qua nghiên cứu công ty cần nhạy bén hơn để đưa ra những sản phẩm mới mà thị trường có nhu cầu và khả năng của công ty có thể đáp ứng được. Ngoài ra cần nghiên cứu để dự báo nhu cầu đối với từng loại mặt hàng như quần áo lót, áo T- shirt, áo sơ sinh, áo bênh viện. Để việc nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt, công ty nên thường xuyên cử các đoàn đi tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm thêm các đối tác mới, tạo quan hệ mật thiết với các bạn hàng quen thuộc. Đồng thời, công ty nên vân dụng lợi thế về vị trí địa lý của mình là nằm trên địa bàn thủ đô, gần với các văn phòng đại diện, sứ quán nên có thể cử các cán bộ của mình đến tận nơi chào hàng va gặp gỡ thương vụ của các nước nhằm tìm hiểu nhu cầu của họ. Ngoài ra công ty nên thông qua các trung tâm tư vấn của nghành, trung tâm thương mại công nghiệp để có những lời khuyên và môi giới về sản phẩm mới, kiểu cách mới, đối tác mới, thị trường mới. Hoạt động nghiên cứu thị trường còn phải thu thập được những thông tin phản hồi của khách hàng về hàng hoá của công ty mình về tất cả các yếu tố như chất lượng, giá cả, mẫu mã, các phương thức thanh toán, giao hàng, dịch vụ trước, trong và sau khi bán... những thông tin này là một tài liệu rất quý cho công ty, vì từ đây công ty có thể biết được những mặt tốt lẫn khuyết điểm của mình và lấy đó làm căn cứ để lần sau có thể sửa chữa, giúp cho những sản phẩm sau được hoàn thiện hơn. b. Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh Nghiên cứu, phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh là công việc hết sức quan trọng mang tính chiến lược của bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường vì qua đó có thể thấy được khả năng cạnh tranh hiện tại của chính công ty so với các đối thủ. Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh phải trả lời được các vấn đề sau: + Số lượng đối thủ cạnh tranh của công ty là bao nhiêu? + Đối thủ cạnh tranh chính của công ty là ai? +"Thủ lĩnh”trên thị trường là ai? Và lý do thành công của họ + Thị phần của họ trên thị trường là bao nhiêu? + Các yếu tố: chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, phương pháp quảng cáo, dịch vụ của họ có khác gì công ty mình? + Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì? + Điểm mạnh, điểm yếu của họ? + Các biện pháp mà họ áp dụng để thâm nhập thị trường và mở rộng? Có thể hình dung rõ hơn việc phân tích đối thủ cạnh tranh qua sơ đồ sau đây: Điều gì đối thủ cạnh Điều gì đối thủ cạnh tranh tranh muốn đạt tới? đang làm và có thể làm được? Mục đích tương lai Chiến lược hiện tại tất cả các cấp quản lý Doanh nghiệp hiện đang và đa chiều cạnh tranh như thế nào? Vài vấn đề cần trả lời về đối thủ cạnh tranh - Đối thủ có bằng lòng với vị trí hiện tại không ? - Khả năng đối thủ chuyển dịch và đổi hướng chiến lược như thế nào? - Điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là gì? - Điểm gì có thể giúp đối thủ cạnh tranh trả đũa một cách mạnh mẽ và hiệu quả nhất? Nhận định Các tiềm năng ảnh hưởng của nó và Cả mặt mạnh và mặt yếu nghành công nghiệp Sơ đồ: Các khía cạnh phân tích về đối thủ cạnh tranh Từ những phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh Công ty sẽ có được cáI nhìn tổng quát hơn về đối thủ cũng như chính bản thân mình và qua đó Công ty sẽ đưa ra được những chiến lược sáng suốt, hợp lý phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. c. Đẩy mạnh hoạt động khuếch trương quảng cáo Các hoạt động xúc tiến, khuếch trương bao gồm các nội dung như: Quảng cáo các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng, hội chợ triển lãm... được sử dụng để thông tin về hàng hoá nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, giới thiệu về công ty, nâng cao uy tín của công ty. Các hoạt động hỗ trợ bán là một trong những hoạt động quan trọng trong chính sách cạnh tranh của một doanh nghiệp vì đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ mà nó còn tăng cường cho các chính sách giá cả, phân phối... nhằm tăng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường. Chi phí cho hoạt động quảng cáo xúc tiến thường rất lớn song hiệu quả của quá trình kinh doanh tăng lên rõ rệt. Do vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường cạnh tranh đều phải xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý, gây ấn tượng cho khách hàng. Đây chính là những cuộc cạnh tranh phi giá giữa các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường. Công ty Dệt Kim Đông Xuân có thể tiến hành các hoạt động khuếch trương theo các hướng sau: Mở rộng hoạt động quảng cáo cho những sản phẩm của Công ty, đặc biệt là những sản phẩm mang nhãn hiệu đặc biệt. Hoạt động quảng cáo được thực hiện nhằm tạo ra sự chú ý của khách hàng và thông tin cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Công ty cần xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn, kích thích sự chú ý của khách hàng thông qua các phương tiện thông tin như báo chí, mạng Internet... nhằm giới thiệu cho các đối tượng khách hàng hiểu rõ về sản phẩm và danh tiếng của công ty. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất quốc tế, khách hàng là những người ở những quốc gia khác nhau nên việc quảng cáo là rất khó, công ty phải lập trang web phục vụ cho công tác quảng cáo. Đối với những khách hàng đã từng biết đến công ty thì việc quảng cáo qua mạng mới có hiệu quả, còn đối với khách hàng mới chưa hề biết đến tên tuổi, hàng hoá của công ty thì trang web của công ty chưa chắc được họ quan tâm. Vì lý do đó, công ty nên quảng cáo các sản phẩm của mình qua cách trình bày trên bao bì, nhãn hiệu sản phẩm vì bao bì là một trong những phương tiện quảng cáo hữu hiệu... Trên các nhãn mác cần ghi rõ: - Tên, kí hiệu hàng hoá, phân loại theo các chỉ tiêu quốc tế nào. - Tên, địa chỉ công ty. Mặt khác, bao bì là hình thức bên ngoài của sản phẩm, nó góp phần làm tăng thêm độ sang trọng, lịch sự của sản phẩm nên nó luôn được người tiêu dùng chú ý khi lựa chọn sản phẩm. Vì thế Công ty nên quan tâm nhiều hơn nữa đến độ tiện lợi, bền đẹp, lịch sự của bao bì... Công ty nên duy trì tổ chức các hoạt động như hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm, đặc biệt là những hội chợ ở nước ngoài. In ấn phát hành các tài liệu về Công ty, về sản phẩm của mình như ra đời catalogue, tờ rơi quảng cáo. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, quảng cáo, khuếch trương sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu, tăng sức mạnh về cạnh tranh, tăng thị phần của Công ty trên thị trường. Tuy nhiên, khi thực hiện các hoạt động này công ty cần tính toán sao cho chi phí bỏ ra phải phù hợp với tình hình tài chính cũng như tương xứng với doanh thu thu được của mình. Vì hiệu quả kinh doanh có được là nhờ rất nhiều yếu tố nên cần phân bổ đều chi phi cho nhiều hoạt động nên chưa hẳn đầu tư nhiều tài chính cho hoạt động này là tốt. Sử dụng chính sách gía cả một cách có hiệu quả nhất Để có một chính sách giá cả hợp lý cần phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh, nhu cầu thị trường, cạnh tranh, luật pháp. Chi phí sản xuất kinh doanh xác định gía sàn còn nhu cầu thị trường xác định mức giới hạn trên của sản phẩm (giá trần). Luật pháp và chính trị hạn chế khả năng tự do định giá của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó việc xây dựng một chính sách giá cả cần có các biện pháp sau: - Tìm những nguồn nguyên liệu rẻ trong và ngoài nước, tiến hành mua nhiều để có giá rẻ, huy động vốn ở những nguồn có chi phí thấp... - Phân tích mức giá trên thị trường, đặc điểm, quan hệ cung cầu, độ co giãn của cung cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường. - Tính toán cơ cấu giá - Cần có biện pháp khuyến khích về giá cho khách hàng với những khách hàng quen biết, khách hàng mua với khối lượng lớn, khách hàng mua thanh toán tiền ngay... - Khi xác định giá chú ý: không nên xác định giá quá cao hay quá thấp. Nếu mức giá cao ngay từ đầu sẽ khó bán được hàng. Nếu giá quá thấp sau này sẽ khó có cơ hội tăng giá. Thực hiện đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu (mặt hàng) Thực chất của đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu là quá trình mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm, tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Đa dạng hoá mặt hàng là cần thiết khách quan đối với mọi mỗi doanh nghiệp, bởi lẽ: - Ngày nay nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mà chu kỳ sống của sản phẩm được rút ngắn, doanh nghiệp cần có nhiều sản phẩm để thay thế hỗ trợ cho nhau. - Nhu cầu thị trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, doanh nghiệp đa dạng hoá mặt hàng là nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. - Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì đa dạng hoá mặt hàng là một trong những biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh. - Đa dạng hoá mặt hàng là khai thác và sử dụng tốt hơn năng lực, trình độ và sức lao động của cán bộ công nhân viên... Trên cơ sở những lợi ích của việc đa dạng hoá mặt hàng, việc đa dạng của mặt hàng của Công ty có thể thực hiện theo các hướng sau: + Với những hàng hoá có kim ngạch thấp Công ty vẫn nên duy trì xuất khẩu để phục vụ nhu cầu, giữ thị trường cũ. Tuy nhiên Công ty cũng cần xem xét để thu hẹp quy mô xuống mức hợp lý. + Tung ra thêm một số mặt hàng phục vụ nhu cầu ở các lứa tuổi khác nhau. +Ngoài những mặt hàng chủ lực cần tìm hiểu nhu cầu để đưa ra những mặt hàng dệt kim khác. Nâng cao chất lượng hàng hoá và công tác quản lý chất lượng Chất lượng hàng hoá là vũ khí cạnh tranh quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và sử dụng nó để dành được thắng lợi trong cạnh tranh. Nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là phải nâng cao chất lượng hàng hoá và tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá. Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng vũ khí chất lượng, công ty Dệt Kim Đông Xuân đã thực hiện các biện pháp như: Đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoan thiết kế, sản xuất... nhờ những việc làm đó mà chất lượng hàng hoá của Công ty đã được nâng lên theo đúng yêu cầu mà Công ty đề ra. Bên cạnh khâu chất lượng thì công ty cần phải có quy mô đủ lớn để đáp ứng kịp thời đơn hàng của Công ty. Tổ chức công tác nghiên cứu mẫu mốt Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của Công ty chưa cao là do trình độ thiết kế mẫu mốt còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Hàng hoá xuất khẩu của Công ty hầu hết là làm theo mẫu của khách hàng và chỉ cố gắng hoàn thiện sản phẩm sao cho thật giống mẫu. Hiện nay Công ty đã có phòng thiết kế, tạo mẫu và việc tạo mẫu cho hàng hoá cũng góp phần nâng cao cho chất lượng hàng hoá, do đó cần tập trung chú trọng vào khâu này để có được những sản phẩm không những có đặc trưng riêng về mẫu mã mà còn độc đáo cả về chất liệu vải, mầu sắc... vì thế để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh Công ty cần: - Quan tâm hơn nữa đến thiết kế mẫu mốt. - Đầu tư cho bộ phận thiết kế mốt về trang thiết bị, thu hút lực lượng họa sĩ nghiên cứu mốt. - Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ, năng lực của các nhân viên Marketing cho ngang tầm với nhiệm vụ, có khả năng dự báo trước được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng về hàng may mặc bằng cách cử họ đi học các lớp về Marketing do các chuyên gia trong nước hoặc nước ngoài giảng dạy. - Cử các cán bộ thiết kế mẫu mốt thời trang đi thăm quan và học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ. - Trước mắt, trong quá trình gia công cho khách hàng nước ngoài, Công ty có thể tìm hiểu làm quen với nhu cầu thị trường thế giới về mẫu thời trang, trên cơ sở đó sản xuất các mẫu mốt chào hàng phù hợp với thị hiếu của các thị trường đó. - Công ty cần có quan hệ chặt chẽ với các hãng thời trang như Viện mẫu thời trang Việt Nam (Fadin) để thiết kế mẫu mã sản phẩm, các mẫu mới để bắt kịp với thay đổi của nhu cầu may mặc thế giới. Để thực hiện có hiệu quả và nghiên cứu và thiết kế mẫu mốt đòi hỏi phải nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu hàng may mặc để có thể thiết kế được những mẫu sản phẩm phù hợp với từng thị trường, vì thế việc thiết kế phải được căn cứ vào: + Trào lưu mẫu mốt trên thế giới + Bản sắc văn hoá từng dân tộc, nhất là những quốc gia nhập khẩu hàng của Công ty. + Điều kiện kinh tế, khí hậu của mỗi nước + Chất liệu vải, phụ liệu may. + Gam mầu. +Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt mỗi nước. 1.6 Nâng cao trình độ người lao động Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền “văn minh trí tuệ”, trong đó có người với tri thức khoa học và công nghệ sẽ đóng vai trò quyết định với sự phát triển của đất nước và nói cụ thể hơn quyết định sự thành công trong hoạt động của các Công ty. Muốn phát triển mạnh mẽ trong tương lai, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác thông tin về sự thay đổi nhu cầu giá cả thị trường, những nguyên nhân chính gây nên sự biến đổi đó. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Công ty. Đối với một cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu thì những đòi hỏi về chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ Marketing, về ngoại ngữ... là những tiêu chuẩn không thể thiếu. Những yếu tố này thực hiện ở các mặt hàng chủ yếu sau: - Xác định được thị trường mục tiêu cho Công ty, sau đó phải định vị Công ty theo hướng xây dựng một mối liên kết chặt chẽ với thị trường này, tiến hành quảng cáo va xúc tiến bán hàng cho hàng có chủ đích. Đồng thời phải giữ chữ tín, giữ đúng và nâng cao hình ảnh, uy tín của Công ty. - Có khả năng chiếm lĩnh thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng. - Có khả năng lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của Công ty. - Có khả năng tìm những khe hở, tìm thêm nguồn hạn ngạch để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn. - Tạo ra sự năng động trong kinh doanh, thích nghi với sự biến động của thị trường, tránh rủi ro trong kinh doanh và nắm bắt được cơ hội kinh doanh có lợi. - Biết phân tích, đánh giá tổng hợp tình hình, đưa ra các thông tin tin cậy giúp cho việc vạch ra các chủ trương, chương trình hành động thích hợp. Thị trường may mặc thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khac nhau có sự khác nhau. Vì những nhiệm vụ đó nhân viên phòng xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết chuyên môn về nghành may. Để có những cán bộ có đầy đủ những yêu cầu trên Công ty cần chủ động đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn giỏi gắn với thị trường. Hàng năm Công ty cần có kế hoạch chi phí cho việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, quản lý hiện đại cho các cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài, tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Một số hình thức nhằm đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ cho Công ty hiện nay gồm: - Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo dài hạn, nhất là đối với một số cán bộ trẻ có năng lực. - Mở các lớp nghiệp vụ ngắn hạn từ hai đến ba tháng theo từng chuyên đề mang tính chất tập huấn những vấn đề mới có tính cấp thiết để kịp vận dụng vào công tác chỉ đạo, điều hành... - Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi trong các lĩnh vực như quản lý, nghiệp vụ kinh doanh, khả năng Marketing... để từ đó các cán bộ trong Công ty có thể học hỏi lẫn nhau. - Tạo điều kiện cho các cán bộ đi tham quan, khảo sát ở nước ngoài để học hỏi thêm kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Việc đào tạo và đào tạo lại không chỉ tập trung vào trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ... của cán bộ trong Công ty mà còn phải giáo dục ý thức, tư tưởng văn hoá cho cán bộ công nhân viên tạo dựng được bầu không khí đoàn kết nhất trí nội bộ trong Công ty, xây dựng Công ty thanh một khối thống nhất, xây dựng nếp sống văn minh, tạo nên một nền văn hoá riêng biệt cho Công ty, đây là một trong những tiền đề giúp cho Công ty phát triển một cách bền vững và lâu dài. Bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên, nếu có điều kiện Công ty nên thu hút những người có năng lực bằng cách lập quỹ học bổng trợ cấp cho sinh viên, phối hợp với các trường, các viện nghiên cứu... để đào tạo cán bộ giỏi ngay từ khi còn học đại học. Mở rộng các mối liên kết kinh tế Liên kết kinh tế là hiện tượng xã hội khách quan của nền kinh tế hàng hoá, có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nó phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện những nhiệm vụ kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với các bên tham gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh thực hiện cạnh tranh thắng lợi các đối thủ khác. Liên kết kinh tế nhằm khai thác được các điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Để giành được thắng lợi và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, Công ty cần tiến hành các hoạt động liên kết sau: - Cần tiến hành liên kết chặt chẽ hơn nữa đối với các đơn vị cung ứng nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu của Công ty. - Tiến hành liên kết với các đơn vị nước ngoài nhằm thu hút các nguồn lực, tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Có quan hệ tốt với các viện nghiên cứu mẫu mốt - Liên kết với các tổ chức ngân hàng để thuận tiện hơn trong việc thanh toán tiền hàng với khách hàng cũng như đối với các đơn vị cung cấp. - Giữ tốt quan hệ với các đơn vị vận chuyển, các đơn vị làm thủ tục xuất khẩu để hàng hoá của Công ty lúc xuất khẩu được nhanh chóng, làm giảm phí lưu kho bãi, giao hàng đúng quy định của hợp đồng... Ngoài ra cần có sự liên kết kinh tế, giữ quan hệ tốt giữa Công ty với các đơn vị nước ngoài dựa trên hợp đồng kinh tế, giúp Công ty đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh xuất khẩu, tránh bị ép giá và các bất lợi khác. 1.8 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chi phí, lợi nhuận Qua việc phát triển hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc, chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp về quản lý chi phí, vốn, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của Công ty: Thứ nhất tiếp tục phát huy những thành công mà Công ty đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề động lực cho các chỉ tiêu khác cùng vận dộng theo xu hướng tích cực, đảm bảo cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có hiệu quả. để thực hiện tốt vấn đề này Công ty cần có một số biện pháp sau: - Tính toán hiệu quả kinh doanh, đầu tư vào các hoạt động kinh doanh có lãi. - Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để có sự hỗ trợ nhau về vốn. - Chủ động tạo nguồn vốn như: vay từ các tổ chức tín dụng, liên doanh liên kế - Hạn chế việc không thu hồi được hay việc bị chiếm dụng vốn để quay vòng vốn được nhanh: tích cực giảm các khoản phải thu, vốn tồn đọng trong tay khách hàng. Muốn vậy trước khi ký hợp đồng Công ty phải tìm hiểu rõ tình hình tài chính của khách hàng, tránh rủi ro có thể xảy ra. - Tiếp tục giảm kỳ thu tiền trung bình để nâng cao tốc độ quay vòng vốn Thứ hai: giải quyết những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề sử dụng vốn, giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng sức sản xuất, sức sinh lời của vốn cố định... Mặc dù một số chỉ tiêu trên vận động theo chiều hướng tích cực nhưng thời gian qua tình hình kinh tế chính trị trong nước và khu vực luôn có nhiều biến động ảnh hướng tới tỷ lệ doanh lợi/vốn chủ sở hữu, doanh lợi/doanh thu...làm cho các chỉ tiêu này giảm xuống. 2. về phía Nhà nước. 2.1 Giải pháp về thị trường. - Tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường: từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo chiều hướng cung- cầu mặt hàng dệt may. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho họat động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu các thành lập quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm... 2.2 Hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách xuất - nhập khẩu. - Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng dệt may cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh. - Tiếp tục đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực thương mại theochiều hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâmlý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. - Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá, trong đó thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá quốc tế vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của thị trường dệt may. Từ nay đến 2010 phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường giao có kỳ hạn tại Việt Nam đối với nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may như: bônb, xơ. - Điều hành lãi suất, tỷgiá hối đoái một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế - xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến tiền đồng Việt Nam thành chuyển đổi. Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và có xu thế mở cửa để giao lưu buôn bán với thị trường quốc tế thì hoạt động xuất khẩu càng được coi trọng. Nhà Nước đã ban hành nhiều chính sách, nghị định nhằm khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này. Các nghị định 57/1998/NĐ-CP, 114/HĐBT, 33-CP đã quy định các chính sách về xuất nhập khẩu, về thực hiện luật thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu, về sự ưu đãi đối với một số mặt hàng mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu... những nghị định này sẽ giúp các doanh nghiệp hiểu rõ những quy định, những ưu đãi mà Nhà Nước đưa ra cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động này. Cụ thể như nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 ở Điều 9 có quy định :"Nhà Nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới, và xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu"... Một số công báo mới số 17 ngày 078/ 05/2001 đã được đưa ra trong dó có những quy định riêng về một số loại hàng hoá mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu những chính sách ưu tiên khi xuất khẩu những mặt hàng đó. Hàng dệt may là một trong số những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu và theo công báo số 17 thì Bộ Thương mại chủ trì cùng các bộ, ngành hữu quan và các nhà sản xuất lớn ở Việt Nam tiến hành đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngach đối với loại hàng hoá này: đồng thời các cơ quan trên cần xây dựng và ban hành các quyết định chung thực hiện hạn ngạch hàng dệt may, công bố tỷ lệ hạn ngạch hàng dệt may đấu thầu và tỷ lệ này phải tăng lên hàng năm để thay thế dần cho cơ chế Tuy nhiên bên cạnh những chính sách, nghị định trên trong một số chính sách khác còn có các quy đinh quá cứng nhắc, không gắn liền với thực tế của từng mặt hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động này. Vì thế ở đây tôi muốn đưa ra một số kiến nghị giúp cho các chính sách có phần linh hoạt hơn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thuận lợi hơn trọng hoạt động kinh doanh của mình. Đối với thị trường không hạn ngạch chúng ta nên bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến vì: Bộ thương mại hiện nay quy định phải có hợp đồng cụ thể mới được làm giấy phép xuất khẩu. Thực tế, đối với các quy định này các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc thường xuyên gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của hoạt động gia công. Khách hàng đến gia công có khi họ chỉ ký hợp đồng khung sau đó mới tìm hàng cụ thể. Chẳng hạn như thời hạn giao hàng, nhãn hiệu mẫu mã... có trường hợp sau khi nhập nguyên vật liệu về mới biết hàng sản xuất, hoặc phải thoả thuận thêm các điều khoản khác gây thiệt hại cho doanh nghiệp. 2.3 Về hội nhập. - Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường sử dụng công cụ phi thuế "hợp lệ" như các rào cản tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường...hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ gấp. - Tích cực xúc tiến việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quảnlý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho hàng may mặc Việt Nam Kết luận Với một vị trí mới trong nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong hoạt động xuất khẩu có một vai trò vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc duy trì và phát triển của doanh nghiệp. Đó chính là tiền đề cho các doanh nghiệp có thể thích nghi và đứng vững trong nền kinh tế đầy biến động. Công ty Dệt Kim Đông Xuân đã có nỗ lực trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu . Điều thể hiện rõ nhất trong việc công ty đã mở rộng được thị trường xuất khẩu của mình, trên thị trường truyền thống vẫn giữ được kim ngạch xuất khẩu ổn định và kéo dài thời hạn hợp tác. Sự thành công của công ty có sự đóng góp không nhỏ của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Những kết quả mà công ty đã đạt được có những ảnh hưởng tích cực không nhỏ đến nền kinh tế đất nước, góp phần đáng kể khẳng định vai trò của ngành may mặc Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do tình hình thực tế và nhiều khó khăn khách quan cũng như chủ quan, công ty vẫn chưa khai thác hết những khả năng, tiềm lực của mình để dùng sức mạnh cạnh tranh như là chìa khoá của sự thành công trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy công ty cần nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình hiệu quả hơn nữa. Trải qua những khó khăn với định hướng kinh doanh đúng đắn với bản lĩnh dầy dặn trên thương trường và những cố gắng không ngừng nâng cao, học hỏi công ty Dệt Kim Đông Xuân đang tiếp tục vươn mình ra thị trường thế giới. Nhiều cơ hội thuận lợi mới đang mở ra nhưng công ty Dệt Kim Đông Xuân có tận dụng được hay không đó là điều còn phụ thuộc vào công ty. Bài viết này chỉ nằm trong khuôn khổ của một bản báo cáo chuyên đề nhằm áp dụng những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập và thực tiễn sản xuất kinh doanh tại cơ sở thực tập song em hy vọng sẽ đóng góp một vài ý kiến có ích cho công ty. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình chỉ bảo của T.s Trần Hoè, Th.s Hoàng Hương Giang trong quá trình thực tập và hoàn thành bản báo cáo này. Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt thành của các cán bộ trong phòng Nghiệp vụ và công ty đã giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0046.doc