Lời nói đầu
Đất nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã tạo ra hàng loạt các loại doanh nghiệp mới đa dạng, đan xen và năng động. Để tồn tại và pháp triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn năng động, học hỏi vươn lên để tìm cho mình chỗ đứng vững chắc và ổn định trên thị trường. Để đạt được mục đích đó thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh là hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp.
Trong quá trình vận động của thị trường các doanh nghiệp luôn phải
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp giầy thể thao Xuất khẩu Kiêu Kỵ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đứng đầu với áp lực cạnh tranh và quy luật đào thải của thị trường thì các doanh nghiệp luôn có nguy cơ bị loại ra khỏi môi trường cạnh tranh khốc liệt vì thế để tồn tại họ phải ngăn cản điều đó bằng việc đa dạng hoá sản phẩm, giảm giá thành sản xuất nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh để thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ. Đây được xem là biện pháp để tồn tại và nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp trên thị trường.
Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ cũng không nằm ngoài áp lực cạnh tranh của thị trường. Hơn nữa ngành giầy dép là ngành cũng chịu sự cạnh tranh khốc liệt bởi các doanh nghiệp cùng ngành trong nước và mối đe doạ từ phía các các doanh nghiệp nước ngoài trong thời gian tới khi phá bỏ hàng rào thuế quan.
Từ tính cấp thiết của thực tế, đề tài “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ” giúp em tìm hiểu sâu hơn khả năng cạnh tranh và áp lực cạnh tranh của của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những giải pháp góp phần cùng doanh nghiệp tìm được thế đứng vững và phát triển trên thị trường.
Bố cục chuyên đề gồm ba chương:
Chương I : Một số lý luận cơ bản về nâng cao khả năng của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ
Chương III: Một số biện pháp chủ yêu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ trong thời gian tới
Trong quá trình hoàn thành bản chuyên đề này em đã nhận được sự động viên, tham gia, đóng góp ý kiến của các cô chú ở Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ –Hà Nội, cùng các bạn bè và sự hướnh dẫn nhiệt tình của các thầy cô trong khoa quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là thầy giáo Trần Hùng.Qua đây em xin trân trọng giửi lời cảm ơn, trân thành đến tất cả mọi người đã có những đóng góp thiết thựcvà to lớn trong việc hoàn thành bản chuyên đề này.
Do năng lực và kinh nghiệm thực tế của bản thâncòn có hạn, bản chuyên đề sẽ có những thiếu sót nhất định. Em mong được sự chỉ dẫn góp ý và thông cảm.
Chương I
Một số lý luận cơ bản về nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
I. Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghịêp
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự đua tranh giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành được những ưu thế hơn về cùng một lọai sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường.
Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp được hiểu như là một “ Mô men động lượng” phản ánh và lượng hóa tổng hợp thế lực, địa vị, cường độ, động thái vận hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong mối quan hệ tương tác với đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên thị trường mục tiêu xác định và trong các thời gian xác định.
2.Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranhcủa doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại, đứng vững được trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay để tồn tại được và đứng vững, các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nâng cao khả năng để dành giật khách hàng bằng việc tạo những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản phẩm của mình là tốt nhất, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng nhất và doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, cung cấp cho họ những dịch vụ thuận tiện và sản phẩm tốt nhất với giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Do vậy việc nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết.
doanh nghiệp tồn tại được hay không được thể hiện qua doanh thu của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp có được khi bán được sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ. Lượng bán càng nhiều thì doanh thu càng cao,lợi nhuận càng lớn. Như vậy để thu hút được càng nhiều người mua buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng liên tục. Đối với giá cả, các doanh nghiệp đưa ra các mức giá thấp nhất có thể, chính điều này đã buộc các nhà sản xuất phải lựa chọn phương án sản xuất tối ưu với chi phí nhỏ nhất. Điều này lại liên quan đến việc áp dụng khoa học tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại làm tăng chất lượng sản phẩm và giảm giá thành, tăng lượng bán, tăng doanh thu, lợi nhuận cao do đó doanh nghiệp mới tồn tại và đứng vững được.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là yếu tố thích kinh doanh. Theo quy luật cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá bán ra nhiều, số lượng người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Kết quả của cạnh tranh là loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn không tốt.Khi đã tiến hành hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp nào cũng muốn tồn tại và phát triển lớn mạnh, để làm được điều đó doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp phải phát huy hết những ưu thế của mình tạo ra những điểm khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác doanh nghiệp phải biết áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao, cải tiến trang thiết bị, máy móc vào việc sản xuất hàng hoá, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp có khả năng giảm được các chi phí trong việc tạo ra sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh tranh luôn là mục đích của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó, khách hàng là người tự do lưa chọn nhà cung ứng, là người quyết định cho doanh nghiệp tồn tại hay không .Họ không phải tự tìm đến doanh nghiệp như trước đây nữa mà buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tự tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Tức là muốn khách hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tự giới thiệu, quảng cáo sản phẩm của mình, làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp để họ cảm nhận và quyết định dùng hay không.
Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp có được một khách hàng đã khó nhưng để giữ được khách hàng điều đó còn khó hơn. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để tự khẳng định mình, để tồn tại, phát triển từ đó doanh nghiệp sẽ đạt được những thành công trong kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều có những mục tiêu nhất định.Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần đặt ra cho mình những mục tiêu khác. Nếu như giai đoạn mới bước vào kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là muốn thị trường biết đến sản phẩm kinh doanh của mình( nói cách khác là xâm nhập thị trường) thì ở giai đoạn phát triển mục tiêu của doanh nghiệp là đạt được lợi nhuận tối đa và tăng thị phần, tạo uy tín và niềm tin cho khách hàng. Đến giai đoạn suy thoái thì mục tiêu của doanh nghiệp là thu hồi vốn và xây dựng chiến lược sản phẩm mới.Do đó, muốn đạt được mục tiêu của mình thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh. Vì chỉ có cạnh tranh mới có thể đưa doanh nghiệp đến sự phát triển. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh buộc các doanh nghiệp tìm ra những phương thức, biện pháp tốt nhất để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, cung cấp những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
3.Động lực của việc nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp
Trong thời đại ngày nay khi mà xu thế hội nhập quốc tế cũng như liên khu vực diễn ra ngày một nhanh chóng thì việc nâng cao khả năng của toàn bộ nền kinh tế cũng như từng thành phần trong nền kinh tế có một ý nghĩa vô cùng to lớn.Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, để tạo ra và chi phối các cơ hội đang xuất hiện, để kiểm tra không gian cạnh tranh mới. Sự sáng tạo và phát triển của tương lai mang đến đày khó khăn thử thách hơn là đuổi kịp nó, ở đay doanh nghiệp phải tìm ra một hướng đi riênh của chính mình. Mục tiêu không chỉ đơn giản là đuổi kịp sự đổi mới, quy trình sản xuất của đối thủ cạnh tranh và học hỏi các phương pháp của họ mà nhằm phát triển 1 quan điểm cơ bản về các cơ hội của ngày mai, làm thế nào để khai thác được chúng.
Như vậy cạnh tranh sẽ dẫn đến kết quả là làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, số lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Mặt khác cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải dành một phần lợi nhuận thích đáng để hiện đại hoá. Để đúng được lâu dài trên thị trường của các doanh nghiệp phải đầu tư các trang thiết bị, máy móc hiện đại, không ngừng đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động.
Cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp. điều này đã toạ ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm các chi phí, tối ưu hoá sản xuất đầu vào trong sản xuất kinh doanh. Điều này một mặt cũng phù hợp với yêu cầu của xã hội, song bên cạnh đó cũng làm cho một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả phát triển mặt khác nó cũng đưa một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả phá sản – cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế những doanh nghiệp kinh doanh kém phát triển nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Như vậy cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như mỗi doanh nghiệp . Với cách hiểu như vậy ta thấy vai trò đặc biệt của nhà kinh doanh trong việc làm tăng sự giầu có của xã hội.
4. Các công cụ nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Thứ nhất: chất lượng hàng hoá. Trên thương trường nếu nhiều hàng hoá có công dụng như nhau giá cả bằng nhau thì người tiêu dùnh sẽ mua hàng hoá có chất lượng cao hơn. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, chất lượng của hàng hoá phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất, từng ngành, từng vùng và từng quốc gia.
Thứ hai: giá cả hàng hoá. Hai hàng hoá có công dụng, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hoá có giá rẻ. Thực tế cho thấy hàng tiêu dùng của Trung Quốc được tiêu thụ mạnh tại Việt Nam. Các nhà sản xuất đã thực thiện một chiến lược kinh doanh là làm ra hang hoá có khả năng thanh toán về phía mình. Trong kinh doanh để cạnh trang về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận ít lời, bán giá thấp nhưng dùng số nhiều để thu lại. Ngược lại, khi mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đến hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao.
Thứ ba: áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ thấp hơn giá trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại và trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp đã tồn tại và phát triển được cần có dây chuyền công nghệ mới, hiện đại có phương pháp tổ chức khoa học.
Thứ tư: là thông tin, một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ cạnh tranh... có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đầy đủ thông tin và xử lý thông tin đúng, một mặt giúp các doanh nghiệp hạn chế rủ ro trong kinh doanh, mặt khác qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra lợi thế so sánh của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá. Thông tin đủ, đúng có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những như cầu gỉa tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu, trưng bày sản phẩm chiếm tỉ trọng nhất định trong chi phí chung của doanh nghiệp.
Thứ năm: Phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phương thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá quan trọng. Ai nắm bắt được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì công cụ này tạo ra được tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết được thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: Trước khi bán hàng và trong quá trình bán hàng, sau khi bán hàng. Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các việc như: quảng cáo, giới thiệu, hướng dẫn thị hiếu khách hàng, các hoạt động triển lãm, trương bày hàng hoá. Những việc làm này nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Trong quá trình bán hàng khâu quan trọng nhất là nnghệ thuật bán hàng, lịch sự,ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng, phải có các dịch vụ như bao bì và giao hàng đến tận tay người tiêu dùngvà các dịch vụ bảo hành sửa chữa hàng hoá ... Những dịch vụ này tạo ra sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Sau nữa, phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi đảm bảo được các yêu cầu sau : các dịch vụ phải nhanh, chính xác... phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng như : thanh toán một lần, thanh toán chậm, bán trả góp, bán có thưởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ.
Thứ sáu: tính độc dáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thương trường đều mang một chu kỳ nhất định, đặc biệt vòng đời của nó rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp là thường xuyên cải tiến mọi mặt của sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ. Trong điều kiện doanh nghiệp chưa đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm mới thì có thể sử dụng nhãn hiệu của một sản phẩm đang được uy tín trên thị trường qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thương xuyên về mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng của hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phái triển của các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ bẩy: chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm thu hút khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toá như: qui ước về giá cả, số lượng kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoạc bằng miệng, hay việc thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu... Những hành vi này sẽ thực hiện tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy trữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng tiên lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều người ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng được thị phần hàng hoá... tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn. Tuy nhiên sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì có nhiều vấn đề phức tạp nẩy sinh như tình trạng đối tác làm ăn có ý đồ đen tối.
Thứ tám: sự mạo hiểm rủi ro. Trong kinh doanh lợi nhuận doanh nghiệp thường tỉ lệ thuận với sự mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh (kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học) và những mặt hàng mới, lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây là khuynh hướng khách quan vì nó hy vọng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác nó giảm được áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhầm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả, nhưng cũng cực hỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiêu quả, nhưng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi doanh nghiệp có tài năng và bản lĩnh.
Như vậy, các công cụ cạnh tranh mà các doanh nghiệp hiện nay sử dụng có thể khái quát như sau: Lấy chất lượng, rẻ, thông tin, nhanh, mới, nhiều, linh hoạt,lòng tin, nổi tiếng, thúc đẩy liên doanh, độc đáo, mạo hiểm và bán chịu để thắng trong cạnh tranh.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mối quan hệ giữa chúng.
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1. Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực chính là những người tạo ra sản phẩm một cách trực tiếp, có thể gián tiếp. Đội ngũ cán bộ quản lý sẽ là người quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Như thế nào? và bao nhiêu? Mỗi quyết định của họ có ý nghĩa quan trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính họ là người quyết định cạnh tranh như thế nào, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở mức nào, bằng cách nào?...
Bên cạnh những người quản lý, công nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Sản lượng sản phẩm cũng như chất lượng sản phẩm cũng là do họ quyết định bởi các thao tác công việc, những kinh nghiệm nhằm tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm tốt ở họ, trình độ tay nghề cộng với lòng hăng say làm việc là cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
1.2. Công tác quản trị của doanh nghiệp
Công tác quản trị giữ một vị trí trung tâm trong các hoạt động của doanh nghiệp. Công tác quản trị bao gồm các công việc như lập kế hoạch, tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh, xây dựng bộ máy quản lý như thế nào vừa tinh giảm nhất vừa hiệu quả nhất.
Lập kế hoạch được xem như là xương sống của công tác quản trị, trong việc lập kế hoạch, việc đưa ra chiếnlược kinh doanh của doanh nghiệp là rất quan trọng nó định hướng đường đi nước bước của doanh nghiệp,sự tồn tại của doanh nghiệp. Lập kế hoạch được xem như cầu nối giữa hiện tại với tương lai. Lập kế hoạch phải chặt chẽ và hợp lý nhất nhằm phân phối các hoạt động một cách nhịp nhàng dựa trên cơ sở kế hoạch nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu kế hoạch không đi sát thực tế sẽ không những không tăng mà còn làm giảm đi khả năng cạnh tranh. Và hơn bao giờ hết, vai trò của ban lãnh đạo quyết định phần lớn đến sự sống còn của doanh nghiệp.
1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật và máy móc thiết bị.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của phản ánh khả năng phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với công nghệ tiên tiến chắc chắn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Với một hệ thống máy móc thiết bị tân tiến, chất lượng và số lượng sản phẩm sẽ được nâng cao hơn, cùng với nó giá thành sản phẩm hạ kèm theo sự giảm giá bán trên thị trường, khả năng thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là rất lớn, trái lại, mặc dù đội ngũ quản lý có năng lực và các yếu tố khác là khá tốt, doanh nghiệp sẽ khó có khả năng cạnh tranh cao khi mà công nghệ máy móc lạc hậu , vừa làm giảm chất lượng sản phẩm vừa làm tăng thêm chi phí sản xuất.
1.4. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
Đặc điểm của sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm phải thích ứng với thị trường một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu thụ trên thị trường. Mặt khác sự vượt trội về đặc điểm của sản phẩm sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Chính sách sản phẩm là công cụ tốt để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đa dạng hoá sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm áp lực cạnh tranh, cho phép doanh nghiệp kiểm soát được tình hình cạnh tranh ở mức nào. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải thiện các thông số về chất lượng, mãu mã, bao bì, kiểu dáng...đa dạng hóa sản phẩm bao gồm nghiên cứu sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm không chỉ để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh. Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm là trọng tâm hoá sản phẩm tức là đi sâu nghiên cứu một số loại sản phẩm chính (sản phẩm mũi nhọn) cho thị trường, nhu cầu khách hàng tiêu dùng nhất định. Khi đó, doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Ngoài ra chiến lược khác biệt hoá sản phẩm sẽ tạo ra nét độc đáo riêng trong việc thu hút tạo sự hấp dẫn cho khách hàng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
1.5. Giá cả sản phẩm hàng hoá
Yếu tố giá được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận với nhau trên thị trường để từ đó đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong việc khách hàng quyết định mua hay không mua sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm cùng loại, chất lượng tương đương nhau thì mức giá bán thấp hơn sẽ làm tăng sản lượng tiêu thụ của sản phẩm. Chính sách giá đóng một vai tròn quan trọng như một thứ vũ khí để cạnh tranh, định giá thấp, định giá ngang hay cao hơn giá thị trường sao cho việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp là tốt nhất.
Mức giá thấp hơn giá thị trường cho phép doanh nghiệp thu hút ngày càng nhiều khách hàng và tăng sản lượng tiêu thụ, cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Ngược lại chính sách giá cao chỉ sử dụng trong các doanh nghiệp có tính độc quyền cao vươn tới lợi nhuận siêu ngạch. Với mức giá ngay bằng giá thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, nếu có biện pháp giảm giá thành thì lợi nhụân sẽ tăng nên và khả năng cạnh tranh được khẳng định.
Như vậy, chính sách giá cả là quan trọng ảnh hưởng đến ưu thế cạnh tranh và do đó doanh nghiệp phải định giá phù hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của thị trường.
1.6. Chất lượng sản phẩm.
Với xu thế hiện nay trên thế giới, chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nó trở thành yếu tố cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm tốt vừa đáp ứng yêu cầu của khách hàng, vừa nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ.
Chất lượng sản phẩm mang tính chất nội tại của sản phẩm. Nó được xác định bằng các thông số có thể đo được thông qua việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và xã hội. Chất lượng sản phẩm quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó là việc làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, thị phần doanh nghiệp chiếm lĩnh lớn, khả năng cạnh tranh cao.
1.7. Khả năng tài chính của doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện được phải có sự giúp đỡ về tài chính. Dựa trên cơ sở nguồn tài chính doanh nghiệp mới quyết định các hoạt động như mua sắm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, quy mô quảng cáo, mở rộng quy mô sản xuất.
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính cao có khả năng thu hút khách hàng từ đối thủ cạnh tranh nhờ sử dụng một số chính sách chẳng hạn ban đầu bán với mức giá cùng hoặc thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh, chịu chấp nhận không có lợi nhuận hoặc có thể hỗ trợ trong thời gian đầu. Sau đó khi đã chiếm được thị trường rộng lớn và tạo đựơc lòng tin từ phía khách hàng mới quay trở lại thu hồi vốn.
1.8. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm .
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cũng là khâu quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và khách hàng là người mua sản phẩm thông qua kênh tiêu thụ, hoặc trực tiếp. Việc xây dựng các kênh tiêu thụ vững chắc sẽ giúp cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Đó là việc tăng sản lượng hàng hoá, tăng lợi nhụân với tốc độ thu hồi vốn nhanh, kích thích phát triển sản xuất.
Công tác tiêu thụ tốt giúp doanh nghiệp quyết định tăng sản lượng hay không, là nhờ các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại, hoạt động dịch vụ sau bán, hay việc tham gia các hội trợ, tổ chức hội nghị khách hàng làm tăng thêm danh tiếng cho doanh nghiệp. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp giúp khách hàng tiếp xúc nhiều hơn với sản phẩm của mình, giúp doanh nghiệp tạo ra nhiều bạn hàng khách hàng mới và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.9. Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường .
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Vị trí này có được đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần với khách hàng mà còn uy tín với bạn hàng, với nhà cung ứng, với tổ chức cá nhân có liên quan, với nhà nước. Những doanh nghiệp có uy tín sẽ có những bạn hàng lâu dài và tin tưởng trong việc cung cấp nguyên vật lịêu cho sản xuất kinh doanh, sẽ tạo ra nhiều mối quan hệ mới đặc biệt trong vấn đề liên doanh, liên kết.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự liên doanh liên kết, tương trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Liên doanh với nhau nhằm tận dụng thế mạnh của nhau và uy tín đã được lượng hoá để tính phần vốn góp vốn của doanh nghiệp. Dựa vào những uy tín sẵn có của hãng kinh doanh mà công t có khả năng bán được nhiều hơn sản phẩm của mình. Như vậy, uy tín ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các nhân tố đều gián tiếp, trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Nói đến khả năng cạnh tranh mặc dù bằng nỗ lực bên trong của mỗi doanh nghiệp. Song kết quả lại là thể hiện bên ngoài đó chính là khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Và như vậy, để có một vị thế cạnh tranh tốt doanh nghiệp còn phải đối đầu với những áp lực bên ngoài mà liên quan gần nhất là những áp lực thuộc ngành - năm thế lực cạnh tranh.
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
áp lực của nhà cung ứng
Doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh hiện tại
áp lực của người mua
Sản phẩm và dịch vụ thay thế
(Theo tạp chí Việt Nam Economics news số ra năm 1999)
* Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Đây là lực lượng thứ nhất trong số 5 lực lượng của mô hình này là quy mô cạnh tranh trong số các doanh nghiệp hiện tại vừa là một ngành sản xuất, nếu các đối thủ cạnh tranh càng yếu thì doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiêù lợi nhuận hơn. Ngược lại khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại thì sự cạnh tranh về giá cả là đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn đến tổn thương. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: Cơ cấu cạnh tranh, thực trạng cầu của ngành, các hàng rào lối ra ...
* Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn .
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ được lựa chọn và quyết định gia nhập ngành.Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiện tại .
*Nhà cung ứng
Nhà cung ứng có thế coi là áp lực đe dọa khi họ có khả năng tăng giá đầu vào hoặc giảm chất lượng sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp, áp lực này sẩy ra khi là nhà cung ứng độc quyền, không có sản phẩm thay thế, doanh nghiệp mua yếu tố sản phẩm không phải là khách hàng quan trọng và ưu tiên của họ, cũng có thể loại đầu vào của nhà cung ứng là quan trọng đối với doanh nghiệp hay các nhà cung ứng vật tư cũng có chiến lược kết dọc, tức là khép kín sản xuất.
* Khách hàng
Đây là lực lượng tạo ra khả năng mặc cả của người mua. Người mua có thể mặc cả thông qua sự ép giá giảm từ khối lượng hàng hoá mua của doanh nghiệp hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng tốt hơn nhưng họ cũng có thể tạo cơ hội cho doanh nghiệp tăng giá kiếm lợi nhuận. Các nhân tố gây sức ép đó là mua khối lượng lớn, nắm bắt được thông tin của doanh nghiệp, thị trường... thậm chí họ có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, xu hướng khép kín sản xuất.
* Sản phẩm thay thế.
Là sản phẩm khác có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có những ưu thế hơn sản phẩm bị thay bởi đặc trưng riêng biệt hay giá rẻ hơn. Tạo điều kiện ưu đãi hơn về dịch vụ hoặc các điều kiện tài chính.
Như vậy, trong một ngành kinh doanh luôn có những đe dọa buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu phân tích nhằm đưa ra những chiến lược cho mình để đối phó với các thế lực trên nhằm nần cao khả năng cạnh tranh của mình trong nền kinh tế thị trường.
2. Mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh phụ thuộc và rất nhiều nhân tố. Ngoài các nhân tố kể trên đó chỉ là các điển hình còn có rất nhiều nhân tố khác. Tuy nhiên các nhân tố ảnh hưởng này không phải là ảnh hưởng một cách đơn lẻ, mà giữa chúng có sự liên kết, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau cùng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Thực vậy các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng kết hợp với nhau tạo lên một khả năng tốt nhất cho hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh nguồn nhân lực phải được đào tạo về chất lượng, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp để có được điều này đòi hỏi phải trang bị máy móc công nghệ kỹ thuật cao cho hoạt động tay nghề của công nhân, phải có khả năng về tài chính để trang bị máy móc, thiết bị, bồi dưỡng cán bộ.
Công tác quản trị của doanh nghiệp trong đó đặc biệt là chiến lược cho hoạt động của doanh nghiệp. Để hoạch định, đưa ra một chiến lược cho hoạt động của doanh nghiệp có khả thi đòi hỏi cán bộ quản lý phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ có tầm nhìn rộng và._. sâu, khả năng phân tích cao, tư duy sắc bén, logic. Song có được điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý, công tác phát triển nguồn nhân lực phải đặt lên trên.
Cơ sở vật chất, công nghệ và máy móc ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh trong công nghiệp. Bởi công nghệ máy móc thiết bị hiện đại thì tạo ra năng suất lao động cao chi phí giảm, tăng lợi nhuận, ảnh hưởng đến sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, tới giá cả sản phẩm, tới uy tín của doanh nghiệp.Tuy nhiên, để trang bị máy móc thiết bị công nghệ hiện đại đòi hỏi khả năng tài chính phải cao mới có đủ khả năng trang bị cho hoạt động sản xuất, mua sắm của doanh nghiệp.
Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, yếu tố này chịu tác động của công tác quản trị của doanh nghiệp, của nguồn nhân lực, của công nghệ máy móc thiết bị. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong đó có chiến lược vì sản phẩm cơ cấu sản phẩm như thế nào, giá sản phẩm ra sao cho phù hợp với chi phí bỏ ra, với giá trên thị trường.
Giá cả của sản phẩm lại ảnh hưởng bởi máy móc công nghệ thiết bị. Công nghệ có hiện đại thì mới giảm được chi phí sản xuất khi đó giá mới giảm đồng thời chất lượng sản phẩm lại tốt do đó khách hàng sử dụng yên tâm hoạt động tiêu thụ mạnh mẽ, lợi nhuận tăng, doanh nghiệp mở rộng thị phần, khả năng cạnh tranh được nâng cao.
Khi uy tín doanh nghiệp được khẳng định thì khả năng cạnh tranh rất cao bởi khách hàng và bạn hàng đã biết đến. Để tạo dựng được uy tín đòi hỏi sản phẩm của doanh nghiệp phải tốt, đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng, giá cả hợp lý, cơ cấu sản phẩm đa dạng.
Như vậy tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra tốt đẹp nhất.
III. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Thị phần và vị thế cạnh tranh
Thị phần là chỉ tiêu mà các doanh nghiệp thường dùng để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn càng thể hiện rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Biểu hiện cụ thể là thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh, uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, bạn hàng thậm chí cả với đối thủ cạnh tranh.
Khi xem xét người ta đề cập đến các loại thị phần sau :
+Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đây chính là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn ngành.
+Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ : Đó là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp đối với doanh số của toàn phân khúc.
+Thị phần tương đối: Đây là tỉ số giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào.
+Thị phần tuyệt đối là so với toàn ngành
doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng doanh thu toàn ngành
Dễ thấy thị phần của doanh nghiệp càng lớn thì doanh thu của doanh nghiệp càng cao. Chính vì thế nó là nhân tố quyết định hiệu quả, lợi nhuận của doanh nghiệp hay là yếu tố quan trọng quyết định đối với vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. doanh thu và lợi nhuận
Ngoài việc đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu, thị phần và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, người ta còn đánh giá kết quả cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong sự cạnh tranh gay gắt với các đối thủ cạnh tranh.
doanh thu : là tổng doanh thu của doanh nghiệp so với tổng doanh thu của đối thủ cạnh tranh, khi chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt, sức cạnh tranh mạnh. Và ngược lại nếu chỉ tiêu này nhỏ cũng có nghĩa khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là không cao.
Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp thu được phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nếu hiệu quả cao sẽ đem lại lợi nhuận lớn, tăng khả năng tái sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh canh của doanh nghiệp nhờ vào quy mô sản xuất ngày càng mở rộng tạo lợi thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh .
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận =
doanh thu
doanh thu tỷ lệ nghịch với tỷ xuất lợi nhuận, khi doanh thu càng cao thì tỷ xuát lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại. Chính vì thế muốn tăng doanh thu ta có thể giảm tỷ xuất lợi nhuận.
Chương II
Thực trạng khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ
I. Những nét khái quát về Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ.
1.Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp.
Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thượng mại có chức năng và nhiệm vụ là: sản xuất và kinh doanh mặt hàng giầy dép các loại.
Địa chỉ của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ:
Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ, Gia Lâm – Hà Nội
Điện thoại : 8766879
Fax : 8276289
Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp có thể được khái quát như sau:
Do nhu cầu xuất khẩu ngày cao và nền kinh tế mở cửa cần nâng cao mở rộng phạm vi hoạt động của một số ngành hàng đặc biệt là giầy dép xuất khẩu nên: ngày 22 tháng 7 năm 1995 doanh nghiệp được quyết định thành lập và đi vào hoạt động.
Sau nhiều năm hoạt động và phát triển doanh nghiệp đã dần khẳng định được mình là một trong những doanh nghiệp lớn mạnh trên cơ sở đội ngũ công nhân viên là những người có trình độ và lòng nhiệt huyết cao đã đưa doanh nghiệp đến nhưng bước nhảy vọt về sản lượng cũng như chất lượng và hoàn thành tốt những chỉ tiêu đã đề ra.
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế thị trường, hơn nữa là một doanh nghiệp trẻ mới được thành lập với đặc thù nhiệm vụ sản xuất kinh doanh giầy dép là một mặt hàng dân dụng phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ, sức sống dân cư... Song doanh nghiệp vẫn không ngừng đổi mới đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ rất chú trọng tới nguồn nhân lực, doanh nghiệp đã xác định lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo chất lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao, số lượng và chất lượng lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất hiệu quả máy móc thiết bị của doanh nghiệp, do đó những năm qua doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay tổng số lao động của doanh nghiệp là 1215 người trong đó có 87% lực lượng lao động trẻ khoẻ, có đủ trình độ tiếp thu những công nghệ sản xuất tiên tiến. Trong những năm gần đây doanh nghiệp đã không ngừng nâng cao và cải thiện điều kiện làm việc. Đối với các phòng ban và nghiệp vụ nhân viên được làm việc trong điều kiện khá tốt. Có đầy đủ thiết bị văn phòng, kể cả hệ thống thông tin liên lạc, từng phòng có gắn máy điều hoà nhiệt độ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp được làm việc trong môi trường an toàn có đủ hệ thống chiếu sáng, quạt máy và đủ máy móc chuyên dùng thay thế cho những công việc nặng nhọc.
Như vậy do chú trọng tới việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại và không ngừng phát triển nguồn nhân lực của mình, nên từ chỗ doanh nghiệp chỉ sản xuất được mặt hàng giầy dùng cấp thấp chủ yếu tiêu thụ thị trường nội địa, đến nay sản phẩm của doanh nghiệp đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại, chất lượng sản phẩm được nâng cao, khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm. Từ chỗ doanh nghiệp có rất ít khách hàng nhất là khách hàng nước ngoài thì đến nay sản phẩm của doanh nghiệp đã có mặt ở nhiều nơi trên thị trường thế giới như thị trường EU, Uc, Bắc Mỹ...
* Tài sản Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ
Với quá trình phát triển như vậy tính đến năm 2002 quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là:
- Tổng số vốn kinh doanh: 32.198.725.000 đồng
- Vốn ngân sách cấp: 20.271.321.080 đồng
- Vốn vay: 9.269.187.000 đồng
- Vốn tự bổ sung: 2.658.216.920 đồng
2. Chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp:
2.1. Chức năng:
Doanh nghiệp có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các loại giầy dép và một số mặt hàng khác từ cao su phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Ngoài ra doanh nghiệp còn có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy phép kinh doanh XNK số 2051081 cấp ngày 18/12/1992. Phạm vi kinh doanh XNK của doanh nghiệp là:
* Xuất khẩu: Các loại giầy dép và mặt hàng doanh nghiệp sản xuất ra.
* Nhập khẩu: vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập trên cơ sở lấy thu bù chi, khai thác các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của đất nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
2.2. Nhiệm vụ:
Là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng thủ đô hà Nội và ngành giầy da Việt Nam. Nhiệm vụ của doanh nghiệp được thể hiện:
- Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật pháp.
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Bộ Thương mại giải quyết các vấn đề vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tuân thủ luật pháp nhà nước về quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng liên quan đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng đổi mới trang thiết bị tự bù đắp chi phí, tự cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.
- Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả nâng cao các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. kinh doanh nhằm tăng sức cạnh tranh và mở rộng doanh thu tiêu thụ.
- Quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và theo kịp sự đổi mới của đất nước.
3. Bộ máy tổ chức và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp:
Xuất phát từ tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu của thị trường và để phù hợp với sự phát triển của mình, doanh nghiệp đã không ngừng nâng cao, hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lý của doanh nghiệp được chia làm 3 cấp: doanh nghiệp, Xưởng - Phân xưởng sản xuất. Hệ thống lãnh đạo của doanh nghiệp bao gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc trong việc tiến hành chỉ đạo quản lý.
- Ban giám đốc gồm:
+ giám đốc
+ Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật
+ Phó giám đốc phụ trách kinh doanh
- Hệ thống các phòng ban bao gồm:
+ Phòng tổ chức
+ Phòng tài vụ kế toán
+ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
+ Phòng hế hoạch vật tư
+ Phòng cơ điện
+ Phòng kỹ thuật
Mô hình tổ chức quản lý của doanh nghiệp là mô hình trực tuyến, chức năng. Đứng đầu là giám đốc doanh nghiệp sau đó là các phòng ban nghiệp vụ và sau là các đơn vị thành viên trực thuộc.
Giám đốc
P.Giám đốc
P.Giám đốc
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán tài vụ
Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Phòng cơ điện
Phòng kỹ thuật
Phòng kế hoạch vật tư
Phân xưởng cắt
Phân xưởng may
Phân xưởng gò ráp
Phân xưởng đế
Sơ đồ 1: cơ cấu bộ máy tổ chức của doanh nghiệp
II. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ
1. Đặc điểm về sản phẩm của doanh nghiệp
Ngành giầy là ngành công nghiệp nhẹ, sản phẩm của ngành vừa phục vụ cho sản xuất, vừa phục vụ cho tiêu dùng. Đối tượng phục vụ của ngành giầy rất rộng lớn bởi nhu cầu về chủng loại sản phẩm của khách hàng rất đa dạng.
Mặt khác sản phẩm giầy phụ thuộc nhiều vào mục đích sử dụng và thời tiết, mùa vụ, thời trang. Do đó doanh nghiệp đã chú trọng sản xuất những sản phẩm chất lượng và yêu cầu kỹ thuật cao - công nghệ phức tạp, giá trị kinh tế của sản phẩm cao.
Vì thế, trong điều kiện hiện nay đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng doanh nghiệp đã tung ra thị trường những mặt hàng giầy dép chủ yếu sau:
- Giầy vải cao cấp dùng để du lịch và thể thao
- Giầy, dép nữ thời trang cao cấp
- Giầy giả da xuất khẩu các loại
- Dép giả da xuất khẩu các loại
Do có sự cải tiến về công nghệ sản xuất cũng như làm tốt công tác quản lý kỹ thuật nên sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng tương đương với chất lượng sản phẩm của những nước đứng đầu châu á. Sản lượng của doanh nghiệp ngày càng tăng nhanh, biểu hiện khả năng tiêu thụ sản phẩm lớn.
Đặc điểm sản phẩm của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt sản phẩm của doanh nghiệp chủ yếu là xuất khẩu, đây là một đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp sản phẩm xuất khẩu, doanh thu xuất khẩu chiếm một tỷ lệ lớn (trên 90%) giá trị sản phẩm sản xuất và tổng doanh thu, Qua đó ta có thể thấy vai trò quan trọng của nó trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc tăng khối lượng sản phẩm xuất khẩu sẽ góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu lợi nhuận từ đó làm tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2. Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất giầy của doanh nghiệp
Từ ngày thành lập là một doanh nghiệp làm ăn độc lập với những dây chuyền cũ, lạc hậu không thích ứng với thời cuộc, đứng trước tình huống đó ban giám đốc doanh nghiệp đã tìm ra hướng đi riêng cho mình, tìm đối tác làm ăn, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Hiện nay, dây chuyền sản xuất chủ yếu của doanh nghiệp đều nhập từ Đài Loan, Hàn Quốc, phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam về kỹ thuật và sử dụng nhân công nhiều.
Đến nay doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sản xuất, công suất dự tính 2,5 triệu đôi/năm trong đó gồm dây chuyền sản xuất giầy dép thời trangvà dây chuyền sản xuất giầy thể thao, giầy vải cao cấp xuất khẩu, giầy bảo hộ lao động và các sản phẩm may mặc, cao su hoá. Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ giầy vào form, cắt dân. "OZ" (đường viền quanh đế giầy), các dây chuyền có tính tự động hoá. Trong công xưởng công nhân không phải đi lại, hệ thống băng chuyền cung cấp nguyên vật liệu chạy đều khắp nơi. Chính đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất này đảm bảo cho dây chuyền sản xuất cân đối, nhịp nhàng cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất. Nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ có thể biểu diễn theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất giầy của doanh nghiệp
Nguyên vật liệu
Lưu hoá
Dán mặt gò
Gò, dán, ép
Cắt
Ra hình
Sơ luyện
Hỗn luyện
Bồi, vải, mus
Vải, mus, chỉ, ozê
Cao su tự nhiên
Nguyên liệu hoá chất
In
Cắt may
Đóng gói bao bì
Thu hoá
Nhập kho
Xuất hàng
3. Đặc điểm về lao động
Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó doanh nghiệp đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo số lượng, chất lượng lao động sẽ mang lại hiệu quả cao vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, hệ số sử dụng lao động, hiệu quả máy móc thiết bị. Do đó trong những năm qua doanh nghiệp đã không ngừng chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Điều này ta có thể thấy qua biểu sau:
Biểu 3: Nguồn lao động của doanh nghiệp
Năm
Tổng số CBCNV
Trình độ đại học (người)
Trình độ trung cấp (người)
Bậc thợ bình quân
Số đào tạo huấn luyện (người)
Số thợ giỏi (người)
2000
952
14
32
2,1/6
425
50
2001
1034
25
48
2,6/6
549
75
2002
1215
49
48
2,95/6
726
88
Ngày mới thành lập số cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp chỉ có 545, do nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động nên số lượng lao động doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của doanh nghiệp là 1215 người trong đó 87% lực lượng lao động của doanh nghiệp là những người trẻ khoẻ, có trình độ văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiên tiến. Lao động trực tiếp của doanh nghiệp là 1158người chiếm 77% tổng số lao động. Hầu hết công nhân của doanh nghiệp đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn của ngành. Số công nhân có trình độ tay nghề bậc 6/7 là 117 người trình độ bậc 5/7 là 133 người trình độ tay nghề 3/7 là 426 người. Số còn lại là lao động thủ công đã qua lớp đào tạo tay nghề từ 3-6 tháng do doanh nghiệp tổ chức. Số lao động gián tiếp là 57 người chiếm 23%, tổng số lao động toàn doanh nghiệp trong đó 49 người đã tốt nghiệp đại học, 48 người đã tốt nghiệp trung cấp hoặc sơ cấp. Bậc thợ bình quân của doanh nghiệp qua các năm ngày càng tăng chứng tỏ chất lượng lao động càng được chú ý đào tạo, huấn luyện nâng cao.
Về nguồn lao động thì chủ yếu thu hút từ các nguồn sau:
- Từ các trường đại học, trung học chuyên nghiệp: về làm cho các phòng ban, hành chính, phụ trách kỹ thuật tại doanh nghiệp.
- Con em các CBCNV trong ngành tuyển dụng vào làm tại doanh nghiệp.
- Tuyển qua các trung tâm giới thiệu việc làm...
Về thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp đã không ngừng nâng cao và cải thiện đời sống người lao động. Lương tháng trung bình của người lao động năm 2000 là 651.000 đồng, năm 2001 là 700.000 đồng, năm 2002 là 762.000 đồng.
Như vậy do chú trọng đến việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại và không ngừng phát triển nguồn nhân lực nên doanh nghiệp từ chỗ chỉ sản xuất một số mặt hàng giầy dép phẩm cấp thấp chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa, đến nay sản phẩm doanh nghiệp rất đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại, chất lượng sản phẩm nâng cao, được khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm, sản phẩm của doanh nghiệp đã có mặt ở những thị trường khó tính trên thế giới. Việc phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp đã góp phần quan trọng vào công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh.
4. Đặc điểm về nguyên vật liệu phục vụ cho sản phẩm
Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm, chất lượng sản phẩm, góp phần vào việc làm hạ giá thành sản phẩm, nó quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều loại như vải, cao su, nhựa, da, giả da, ni lông, hoá chất... Hiện nay phần lớn hoạt động sản xuất giầy dép của doanh nghiệp là làm hàng gia công cho nước ngoài, nên nhiều loại nguyên vật liệu hoá chất đều phải nhập từ nước ngoài vào. Đây là một khó khăn lớn cho doanh nghiệp vì việc nhập các loại nguyên vật liệu ở nước ngoài thường thì giá cao, phải phụ thuộc vào nguồn hàng cho nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác làm hạ giá thành sản phẩm, quá trình sản xuất không ổn định, không đảm bảo tiến độ từ đó ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nhập khẩu các loại nguyên vật liệu từ nước ngoài doanh nghiệp còn khai thác nguồn nguyên vật liệu ở trong nước thông qua các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Hiện nay doanh nghiệp khai thác nguyên vật liệu theo hai nguồn sau:
4.1. Nguồn trong nước
Những năm gần đây vải sợi trong nước có nhiều tiến bộ về chất lượng đã đáp ứng phần nào nhu cầu vải có chất lượng coa để phục vụ hàng xuất khẩu. Nguyên vật liệu gồm có cao su tự nhiên, cao su tổng hợp Calo3, vải bạt, vải phù dù, khoá, đế và các loại hoá chất khác. doanh nghiệp đã hợp tác với các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu trong nước như các doanh nghiệp:
+ doanh nghiệp dệt 8/3, doanh nghiệp Dệt kim Hà Nội, doanh nghiệp Dệt 19/5...
+ doanh nghiệp cao su sao vàng
+ Mút sốp Vạn Thành
+ Đế Đức Sơn
+ Tổ hợp dệt Tân Thành...
các doanh nghiệp này tuy đã đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng, chất lượng nhưng còn một số điểm tồn tại như đôi khi còn chậm chạp, giá cao, chưa theo kịp với sự thay đổi của mốt giầy.
Biểu 4: Tình hình cung ứng nguyên vật liệu
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Loại NVL
2000
2001
2002
1
Vải, da
11.357
11.718
12.594
2
Hoá chất
8.187
8234
8303
3
Nguyên liệu khác
8.406
9.868
10.368
Tổng
27.944
29.820
31.265
Từ biểu trên ta thấy các mặt hàng mua vào đều tăng hơn điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn phát triển mở rộng. doanh nghiệp luôn ý thức được tầm quan trọng của hoạt động đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tìm các nguồn hàng, các bạn hàng cung cấp thường xuyên, ổn định. doanh nghiệp đã có những biện pháp để thích ứng với sự thay đổi của thị trường: chuyển dịch cơ cấu hàng hoá cung ứng chủ động khai thác nguồn nguyên vật liệu trong nước sẵn có để giảm nguồn nguyên vật liệu phải nhập từ bên ngoài, đã làm giảm được chi phí sản xuất, giảm lượng vật tư dự trữ và tránh hao hụt tự nhiên đồng thời tập trung được vốn lưu động cho kinh doanh đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cảu doanh nghiệp.
4.2. Nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu
Hiện nay, ngoài nguồn nguyên vật liệu ở trong nước. doanh nghiệp còn phải nhập một số lượng lớn các loại nguyên vật liệu từ nước ngoài (chủ yếu là Đài Loan và Hàn Quốc). Việc phải nhập nguyên vật liệu từ nguồn nước ngoài do nhiều nguyên nhân bắt buộc doanh nghiệp phải nhập như là:
- Do yêu cầu của chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu, vì vậy phải nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Ngày càng nhiều khách hàng mua hàng cung cấp nguyên vật liệu cho doanh nghiệp.
- Do nguồn nguyên vật liệu trong nước không đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng nguyên vật liệu.
Việc nhập khẩu hầu hết các hoá chất từ nước ngoài làm cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp tăng tương ứng, làm giảm lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ trên thế giới. Đây cũng chính là một khó khăn lớn cho doanh nghiệp cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sản xuất.
Biểu 5: Biểu giá xuất khẩu các mặt hàng của GDXKKK
Đơn vị: USD
Năm Tên hàng
2000
2001
2002
Gia công xuất khẩu
- Giầy vải
1,98
2,1
2,3
- Giầy giả da
2,98
3
3,2
- Dép giả da
1,78
1,71
1,81
Xuất khẩu trực tiếp
- Giầy vải
2,5
2,52
2,63
- Giầy giả da
3,5
3,4
3,4
- Dép giả da
2,15
2
2,1
Qua biểu trên ta thấy giá các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tăng tương đối qua các năm. Vì vậy trước hết doanh nghiệp phải xác định lại giá thu mua nguyên vật liệu, cơ cấu nguyên vật liệu nhập khẩu để tạo ra một mức giá tối ưu cho một sản phẩm của doanh nghiệp.
5. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ sản xuất và kinh doanh nhiều chủng loại sản phẩm và hoạt động trong phạm vi cả nước và nước ngoài. Do đó sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ trên nhiều thị trường khác nhau. doanh nghiệp giành 20 - 30% sản lượng hàng năm để phục vụ thị trường trong nước thông qua hệ thống đại lý và ký kết hợp đồng làm sản phẩm cho khách hàng. Do đặc điểm về phương thức sản xuất kinh doanh, đặc điểm sản phẩm cho nên thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chủ yếu là thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp quyết định chuyển hướng kinh doanh sang thị trường EU nơi mà doanh nghiệp đang có lợi tế so sánh. Trong những năm còn rất nhiều khó khăn trong việc tường hướng đi cho phù hợp với điều kiện doanh nghiệp, doanh nghiệp đã thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường, khai thác tất cả các thị trường có thể. doanh nghiệp đã tìm kiếm được nhiều thị trường rộng lớn với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Biểu 6: Kết quả xuất khẩu năm 2002 của doanh nghiệp GDXKKK
Nước
Thực hiện năm 2002
doanh thu
Số lượng (1000 đôi)
Trị giá (1000 USD)
1. Tây Âu
3.417
5.574,75
92,58
Đức
1720
2.740,40
45,51
Anh
872
1370,50
22,76
Pháp
394
624,43
10,37
Hà Lan
303
746,31
7,91
Bỉ
113
177,64
2,95
Hy Lạp
75
121,033
2,01
Ai Len
40
64,44
1,07
2. Thị trường khác
283
446,8
7,42
úc
56
83,32
1,45
Canađa
189
296,86
4,93
Niudilân
38
66,62
1,04
Tổng cộng:
3800
6.021,55
100,00
Nguồn: báo cáo thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2002 - GDXKKK
Thông qua hai biểu trên về tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp ta thấy thị trường nhiều loại, khối lượng hàng hoá ở mỗi thị trường nhỏ lẻ, cơ hội tìm kiếm lợi nhuận thấp, các chi phí phục vụ cho hoạt động xuất khẩu cao. Và các số liệu cũng cho ta thấy rằng những năm gần đây thị trường EU là thị trường chính của doanh nghiệp, thị trường này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp. Mặc dù có sự biến động về một vài thị trường, một số thị trường mất nhưng doanh nghiệp đã mở rộng bán sang một số thị trường khác và tăng doanh số bán tại các thị trường truyền thống nên doanh thu xuất khẩu từ thị trường EU vẫn đạt trên 90% cụ thể là 92,58%. Trong thị trường EU các bạn hàng lớn của doanh nghiệp là ở các nước như Đức, Anh, Pháp và hàng năm tại ba thị trường này đều chiếm 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp. Đặc điểm của khách hàng trong thị trường EU là họ quan tâm nhiều về mẫu mã và tính thích hợp thời trang của sản phẩm. Hiện nay, các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất không chỉ đáp ứng về mặt chất lượng mà còn phù hợp với điều kiện khí hậu khác biệt ở nơi sử dụng và còn đáp ứng được sở thích về kiểu dáng và mẫu mã mà khách hàng khó tính nhất yêu cầu. Để làm được điều này doanh nghiệp đã không ngừng tạo ra các sản phẩm với kiểu dáng và mẫu mã phong phú phù hợp với yêu cầu của khách hàng lựa chọn.
Ta thấy thị trường chủ yếu của doanh nghiệp là khu vực thị trường EU đặc biệt là năm 2000 kim ngạch xuất khẩu giầy của Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu kiêu kỵ vào thị trường EU là 90,90% tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp. Kết quả này đạt được là do nhiều nguyên nhân như:
- Do đầu những năm 1990 tất cả các nước thuộc cộng đồng châu Âu (EU) cho phép nước ta hướng quy chế ưu đãi tối huệ quốc (MFNs) để tạo hai chiều buôn bán thuận lợi.
- Tháng 7-1995 các nước EU cho phép ta được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển.
- EU cấp cho nước ta nhiều hạn ngạch (Quota) về lĩnh vực xuất khẩu các mặt hàng vào EU.
Như phần tính ở trên ta thấy đặc điểm thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chủ yếu là thị trường nước ngoài. Đây là một đặc điểm rất thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách tăng doanh thu xuất khẩu nhờ tận dụng triệt để những quy chế, ưu đãi chung của các nước EU.
tuy nhiên, việc thị trường chủ yếu của doanh nghiệp là các nước EU (chiếm trên 90%) có những ưu điểm nhất định song nó cũng có những khó khăn lớn cho doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, vì chính sách tập trung vào một thị trường trọng điểm thường gặp những rủi do về sự biến động thị trường, hoạt động kinh doanh quá lệ thuộc vào một thị trường. Vì vậy việc cân đối tỷ trọng các thị trường cũng là yếu tố quan trọng trong công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, do đặc điểm thị trường của doanh nghiệp chủ yếu là thị trường nước ngoài, đặc điểm này nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh bởi vì việc xâm nhập vào các thị trường này rất khó khăn, chi phí cho hoạt động tìm hiểu nghiên cứu thị trường cao, chi phí cho hoạt động tiêu thụ cao. Cho nên vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp hiện nay là việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm với chi phí thấp thì sẽ đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn.
III. đánh giá thực trạng kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Giầy dép xuất khẩu Kiêu Kỵ
1. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp trong thời gian gần đây.
Trong những năm gần đây doanh nghiệp đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. doanh nghiệp đã không ngừng đổi mới một cách toàn diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về quy mô tổ chức đến công nghệ khoa học kỹ thuật. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm qua được thể hiện thông qua biểu dưới đây:
Bảng 7: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của GDXKKK
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
2000
2001
2002
So sánh %
01/00
02/01
1. Sản lượng
1000 đôi
2416
3266
4117
35,21
20,42
2. Tổng doanh thu
tr.đ
56.097
73.500
85.995
31,02
17,00
3. Tổng chi phí
tr.đ
50289
66030
77396
31,30
17,2
4. doanh thu thuần
tr.đ
5808
7470
8599
28,79
15,11
5. doanh thu xuất khẩu
tr.đ
54.119
71.800
84.000
32,67
17,00
6. Nộp ngân sách
tr.đ
930
1075
1247
15,6
11,6
7. Lợi nhuận
tr.đ
4878
6.395
7352
31,09
14,96
8. Lao động
người
952
1034
1215
8,61
17,5
9. Thu nhập bình quân
đồng
651.000
700.000
762.000
7,53
8,86
10. Tỷ suất LN/DT
%
0,869
0,87
0,855
Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2002 của GDXKKK
Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn, eo hẹp về tài chính, thị trường biến động, cạnh tranh gay gắt nhưng doanh nghiệp đã năng động trong việc thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong ba năm 2000-2002 doanh nghiệp đã phấn đấu thực hiện được các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh như sau:
- Về sản lượng sản phẩm sản xuất: năm 2001 vượt năm 2000 là 35,2%, năm 2002 vượt năm 2001 là 20,4%. Như vậy số lượng sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp tăng nhanh mạnh qua các năm. Điều này chứng tỏ sức sản xuất của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng. Có được thành tích này là do doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất, cải tiến thiết bị, tăng dây chuyền và người sử dụng lao động, thu hút thêm nhiều lao động mới vào làm việc tại doanh nghiệp. - Về doanh thu: qua số liệu trên ta thấy không chỉ có số lượng sản phẩm sản xuất tăng mà doanh thu bán hàng cũng tăng đáng kể qua các năm. Năm 2001 tăng so với năm 2000 là 31,02%, năm 2002tăng so với năm 2000 là 17%. Những chỉ tiêu trên cho thấy sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra không chỉ tăng về lượng mà còn tăng cả về mức tiêu thụ. Điều đó chứng tỏ sản phẩm của chỉ tiêu đã được thị trường khách hàng chấp nhận.
- Về chi phí và lợi nhuận: trong năm 2001 doanh nghiệp đã nỗ lực trong việc tiết kiệm chi phí để thu mức lợi nhuận đạt 31,09%. Nhưng trong năm 2002 do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0047.doc