Trường đại học ngoại thương
Khoa kinh tế ngoại thương
***********
Khóa luận tốt nghiệp
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế.
Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn
Lớp Nga – khóa K38 E
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh
Hà Nội - 2003
Mục lục
Nội dung Trang số
Lời nói đầu
Chương I
Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội nhập kinh tế
I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3
2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4
II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp 7
1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9
III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành giấy 16
1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế nước ta 16
2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy
nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng
nhu cầu trong nước 18
3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế 20
Chương II
Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước
thềm hội nhập kinh tế quốc tế
I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam 22
1. Những thuận lợi 24
2. Khó khăn đối với ngành giấy 26
3. Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 29
III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy
Việt Nam trong điều kiện hội nhập 36
1. Những thỏch thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam
trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 37
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam 45
Chương III
Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành giấy Việt Nam
I/ Mục tiêu định hướng phát triển ngành giấy Việt Nam
đến năm 2010 52
1. Quan điểm 52
2. Mục tiêu của ngành giấy đến năm 2010 54
II/ Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy
A/ Về phía các doanh nghiệp 56
1. Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp 56
2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập 57
3. áp dụng biện pháp giảm chi phí, nâng cao chất lượng 59
4. Phát huy nhân tố con người 61
5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy 64
6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ 66
B/ Về phía Nhà nước 68
1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý 68
2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy 70
3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường
năng lực cạnh tranh cho toàn ngành 72
4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy,
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ 73
Kết luận
Tài liệu tham khảo
&
Lời nói đầu
Trong điều kiện, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng làm nảy sinh rất nhiều vấn đề mới mẻ. Quá trình hội nhập đã, đang và sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Hội nhập mang đến cơ hội cho nhiều ngành công nghiệp phát triển, xuất khẩu được nhiều hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm mới, nhưng cũng gây ra thách thức cho không ít ngành của nước ta, trong đó có ngành công nghiệp giấy.
Giấy là một mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đối với nhu cầu của nhân dân và công nghiệp giấy có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất mặt hàng giấy là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong ba chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, học tập, sản xuất công nghiệp. Nhưng hiện đang có không ít ý kiến cho rằng, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có năng lực cạnh tranh yếu và có thể sẽ bị hàng nước ngoài lấn áp hoàn toàn. Có thực như vậy không?
Xuất phát từ ý định đưa ra một cái nhìn và một sự đánh giá tương đối tổng quát và công bằng hơn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam trước những thách thức của quá trình hội nhập, tác giả đã thực hiện khóa luận này. Mục đích của tác giả không phải là đi sâu vào tình hình, thực trạng sản xuất, kinh doanh của ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay, mà đi vào phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội và năng lực cạnh tranh của ngành, thông qua đó đề ra một hệ thống giải pháp ngành nên áp dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành.
Khóa luận sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn giải để nêu rõ mục đích của khóa luận.
Ngoài phần lời nói đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, kết cấu khóa luận được tác giả chia làm 3 chương:
- Chương I :Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
- Chương II :Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế
Chương III : Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam
Do ngành giấy là một ngành tương đối đặc thù dẫn đến khó khăn trong việc thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, đồng thời kiến thức và tư duy còn hạn hẹp, nên ý kiến của tôi nêu ra có thể còn chưa được hợp lý. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, và các bạn đọc.
Qua khóa luận này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Song Hạnh, người đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Cám ơn khoa KTNT, thư viện trường đại học ngoại thương, chú Hoan, giám đốc công ty VPP Hồng Hà đã giúp đỡ và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khóa luận. Cám ơn bố mẹ đã tạo điều kiện cho con được học tập ở trường đại học ngoại thương, cám ơn các thầy cô đã dạy dỗ em trong bốn năm qua.
Bùi Đức Chí Toàn
Chương I
Lý thuyết về năng lực cạnh tranh (nlct) và sự cần thiết phải nâng cao nlct của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh
Trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang lan rộng, nền kinh tế thế giới đang phát triển rất nhanh thì vấn đề cạnh tranh trong thương mại và trong sản xuất không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp của một quốc gia, mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế và mang tính toàn cầu. Cạnh tranh giữa các công ty của các quốc gia để tiêu thụ hàng hoá rất quyết liệt. Nhà sản xuất, xuất khẩu nào cũng muốn tiêu thụ hàng hóa sao cho được nhanh chóng, được nhiều để có thể thu được thật nhiều lợi nhuận, nhưng thị trường thì có muôn vàn khó khăn và nghiệt ngã cản bước họ. Thương trường là chiến trường, trong cuộc cạnh tranh tất nhiên sẽ có người chiến thắng và kẻ chiến bại. Người chiến thắng phải là người có năng lực cạnh tranh cao hơn kẻ chiến bại. Năng lực cạnh tranh chính là chìa khóa để một doanh nghiệp dành chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh. Thế nhưng ta hiểu thế nào là năng lực cạnh tranh? Và những nhân tố nào ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh?
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm nhiều loại:
Năng lực cạnh tranh của quốc gia
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa
Mỗi loại lại có những cách hiểu, khái niệm khác nhau, có những nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia.
- ở tầm quốc gia: Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
- ở cấp doanh nghiệp: Theo Fafchamps, một chuyên gia về năng lực cạnh tranh, cho rằng: “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì coi là có năng lực cạnh tranh.
Theo tôi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là “năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao”. Hiểu một cách đơn giản năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đó bán được hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới
- “Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là khả năng bán được hàng nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán hàng đó”. Nó liên quan trực tiếp đến quyết định lựa chọn của người mua.
Trong khóa luận này tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Có rất nhiều chỉ tiêu để phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và chỉ có qua những chỉ tiêu này, chúng ta mới có thể theo dõi, đáng giá được đúng năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trong đó, điển hình nhất là một số chỉ tiêu sau:
a) Doanh số: là số tiền bán hàng thu được trong một thời gian nhất định.
Doanh số = giá bán x số sản phẩm bán ra
Trên thực tế, người ta không chỉ xem xét thuần túy về giá trị mà còn chú trọng về mặt hiện vật của số sản phẩm bán ra đó, kể cả số lượng và chất lượng. Trong khi lợi nhuận chỉ rõ khả năng sinh lời thì doanh số lại cho biết quy mô hay tầm cỡ của doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mức nào. Tuy nhiên, không phải khi nào doanh số của hãng này lớn hơn hãng kia, thì cũng có nghĩa là lợi nhuận của nó cũng sẽ lớn hơn một cách tương ứng. Điều này do sự tác động của nhiều yếu tố chi phối như việc lựa chọn loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, chất lượng kinh doanh…
b) Thị phần của doanh nghiệp: là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Số sp bán ra của doanh nghiệp
Thị phần =
Tổng số sp tiêu thụ của thị trường
- Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỷ lệ % giữa giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành.
- Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó chính là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phân khúc.
- Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào?
Số sp bán ra của doanh nghiệp
Thị phần =
Số sp bán ra của đối thủ
Nếu hệ số trên của thị phần tương đối lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp, và ngược lại.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp sẽ biết mình đang đứng ở vị trí nào, và có thể vạch ra một chiến lược hành động phù hợp. Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không hiệu quả. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà phần thị trường của doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trường đã ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình…
Mục tiêu doanh số và thị phần có liên quan mật thiết với nhau. Doanh số cho biết kết quả của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động, còn thị phần thì chỉ rõ doanh nghiệp chiếm được bao nhiêu trong cả “chiếc bánh thị trường” đó. Hai mục tiêu này còn gọi là những mục tiêu tạo lợi thế cạnh tranh hay mục tiêu thế lực. Khi doanh số và thị phần càng vượt xa đối thủ, doanh nghiệp càng có nhiều lợi thế trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và thao túng giá cả. Mức lợi thế áp đảo tuyệt đối sẽ dẫn tới sự lũng đoạn và độc quyền thị trưòng, hình thành giá cả lững đoạn và lợi nhuận lũng đoạn.
c) Lợi nhuận: Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Chỉ tiêu lợi nhuận là thước đo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp.
d) Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ suất này thể hiện sự bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả.
e) Tỷ suất doanh thu trên vốn: cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đồng vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh.
f) Tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu: Đây cũng là một chỉ tiêu được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, hay của một ngành liên quan trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà doanh nghiệp, ngành đó cung cấp. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hóa cũng chính là những yếu tố tạo ra năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành. Qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa ta có thể thấy được năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Vì thế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tổng thể, bao gồm nhiều nhân tố.
Chất lượng: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh tranh. Khi chất lượng cuộc sống ngày càng tăng thì người ta càng có xu hướng lựa chọn hàng hóa đẹp, tốt, có chất lượng cao hơn là chọn hàng hóa có giá rẻ. Tùy theo mặt hàng mà tiêu chí chất lượng có thể thay đổi, đối với hàng tiêu dùng, thì những hàng hóa có kiểu dáng hiện đại, màu sắc phù hợp thị hiếu, chất lượng tốt,… sẽ thu hút khách hàng và được lựa chọn. Đối với mặt hàng thiết bị máy móc, tiêu dùng dài ngày thì sự ưu việt của các tính năng, độ tin cậy cao, tiện nghi sử dụng là những yếu tố quyết định.
Giá cả: giá cả cũng là một yếu tố có sức lôi cuốn người mua, và được người mua cân nhắc khi mua một sản phẩm nào đó. Tuy nhiên, giá thấp chưa chắc đã là một lợi thế, cái quyết định là tương quan hợp lý của giá và chất lượng. Trong trường hợp, khi hàng hóa có giá trị tương đương nhau, thì hàng hóa của doanh nghiệp nào có giá thấp hơn hàng hóa đó sẽ dễ bán hơn, và có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Chi phí sử dụng: Đối với những hàng hóa sử dụng dài ngày thì chi phí sử dụng là yếu tố rất quan trọng. Chi phí sử dụng thấp sẽ làm cho hiệu quả sử dụng cao. Người mua hàng rất quan tâm đến yếu tố này, bởi vì, nhiều khi chi phí sử dụng có thể vượt xa chi phí mua hàng. Hàng giá thấp nhưng chi phí sử dụng cao có thể làm cho tổng chi phí vẫn cao và sử dụng không kinh tế.
Chi phí sử dụng thường là chi phí cho việc tiêu tốn năng lượng, nhiên liệu, vật liệu kỹ thuật, chi phí cho người vận hành, chi phí bảo dưỡng, duy tu…. Để chi phí sử dụng thấp thì sản phẩm phải được chế tạo hoàn hảo, trình độ kỹ thuật cao.
Phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán ( hậu mãi ): để tạo thuận lợi và lôi cuốn người mua, các doanh nghiệp thường cung cấp những dịch vụ miễn phí như chở hàng đến tận nơi, lắp đặt, hướng dẫn bảo hành,… Đó là những phục vụ kỹ thuật khi bán.
Phục vụ kỹ thuật sau khi bán là bảo hành, cung cấp phụ tùng, tổ chức sửa chữa,… Đây cũng là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp, ngành nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình, và cho chính bản thân doanh nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, hàng hóa của hai doanh nghiệp có chất lượng, giá cả tương đương nhau thì khách hàng sẽ chọn hàng được doanh nghiệp phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán hoàn hảo. Điều này sẽ khiến khách hàng yên tâm, thoải mái hơn, tạo một ấn tượng đẹp nơi khách hàng, đồng thời giúp doanh nghiệp nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót, nhược điểm của sản phẩm và những đòi hỏi mong muốn của khách hàng… Từ đó, sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố, có những nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát (các nhân tố bên trong doanh ngiệp), và những nhân tố phức tạp, không lệ thuộc và không bị nhà doanh nghiệp chi phối (môi trường vĩ mô, môi trường ngành). Những nhân tố này tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo những chiều hướng khác nhau, và đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp để ứng phó.
* Môi trường vĩ mô
Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở các phương diện sau.
- Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã…) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và trên thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi suất tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
Các nhân tố về chính trị, pháp luật: những yếu tố thuộc môi trường này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp. Trong số những yếu tố này thì luật pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì luật pháp điều tiết hoạt động kinh doanh, giải quyết mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội trước những hoạt động của doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đã coi thường lợi ích chung toàn xã hội. Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố như tài nguyên, đất đai, vấn đề ô nhiễm môi trường… những vấn đề này có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến các sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường, liên quan đến giá thành và lợi nhuận. Đây là một yếu tố quan trọng nhưng không phải mang tính quyết định, tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không nên coi thường ảnh hưởng của những yếu tố này được.
Trình độ phát triển khoa học, công nghệ: Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Những tiến bộ về khoa học và công nghệ mới làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm được đổi mới, tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Hiện nay, khi trên thế giới, có sự chuyển hướng quan tâm từ giá cả sang chất lượng của hàng hóa, các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao, vòng đời của sản phẩm ngày càng ngắn, thì trình độ khoa học công nghệ lại càng nắm giữ vai trò trọng yếu hơn.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
* Môi trường ngành
Hoạt động trên thương trường, doanh nghiệp tự ý thức được rằng không phải mình đang “múa giáo ở chốn không người”, mà là giữa các đối thủ cạnh tranh dù ở trong lĩnh vực nào cũng vậy. Trong ngành nghề của mình, doanh nghiệp nào cũng sẽ phải bươn chải trong một “cái ao”, hay còn gọi là môi trường ngành của mình, và phải chịu những tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nào thích ứng tốt được với môi trường ngành của mình thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao và là người chiến thắng.
Trong tác phẩm “chiến lược cạnh tranh” của Michael Poter, một chuyên gia đầu ngành về chiến lược cạnh tranh, đồng chủ tịch của báo cáo cạnh tranh toàn cầu, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là năm lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Sức mạnh tổng hợp của năm lực cạnh tranh sẽ quyết định khả năng cạnh tranh của các hãng trong cùng ngành. Sức mạnh của chúng ở mỗi ngành, và mỗi lúc lại khác nhau. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới chúng, trước khi có những quyết định lựa chọn phương thức, nhiệm vụ phát triển của mình. Năm lực lượng đó là:
Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lược lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành.
Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ… Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó.
Sức ép của nhà cung ứng
Những nhà cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp.
- Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẽ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
Sức ép của khách hàng
Sức mạnh khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành.
Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng cũng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp.
* Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Đây là những nhân tố thuộc nội bộ doanh nghiệp, nó là những yếu tố có thể kiểm soát được hay cũng có thể nói đấy là những yếu tố chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể kiểm soát chúng để quản lý hoạt động kinh doanh của mình. Có thể kể ra một số nhân tố như sau:
Nguồn nhân lực: đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp
Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
Các quyết định từ các cấp thuộc doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
Nguồn nhân lực: Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh. Trong nguồn nhân lực thì gồm có các bộ phận sau:
+ Ban giám đốc doanh nghiệp
+ Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp
+ Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân
- Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những công ty lớn ngoài ban giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Các thành viên ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất
- Công nhân: Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Nguồn lực vật chất và tài chính
- Máy móc thiết bị và công nghệ: Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc hậu.
- Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét, đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và kể cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, thì ta phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động đến nó, từ đó mới có thể “gạn đục, khơi trong” và tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp.
III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy
Ngành giấy Việt Nam có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nhu cầu về giấy ngày càng tăng khi nền kinh tế phát triển, chính vì thế nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ cấp thiết và mang tính tất yếu đối với nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trong điều kiện nước ta đang hội nhập kinh tế rất sâu và rộng như hiện nay. Nâng cao năng lực cạnh tranh là nhằm phát triển ngành. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sẽ được lý giải qua ba nguyên nhân chính.
1. Do ngành giấy là một ngà._.nh có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta
Tuy hiện nay, ngành giấy Việt Nam còn chưa phát triển được đúng với tiềm năng của mình, giá trị sản xuất của ngành còn khá khiêm tốn mới chỉ chiếm hơn 2% trong tổng giá trị công nghiệp của cả nước, nhưng ngành giấy vẫn được coi là một ngành công nghiệp quan trọng đối với nước ta và có vị trị nhất định trong nền kinh tế nước ta. Sự quan trọng của ngành thể hiện trong vai trò của nó đối với nền kinh tế nước ta:
Thứ nhất, ngành giấy là một ngành thu hút nhiều lao động. Số lao động làm việc trực tiếp cho các đơn vị công nghiệp sản xuất giấy là khoảng 50.000 người. Những người lao động này bao gồm: những người sản xuất bột giấy và những người sản xuất ra các sản phẩm giấy. Nếu chỉ xem xét số lao động làm việc trực tiếp trong ngành thì ta có thể cho rằng ngành giấy mới thu hút được một số lao động không phải là lớn lắm so với những ngành như may mặc, da giày…. Nhưng để thấy hết vai trò của ngành trong việc tạo công ăn việc làm, ta phải đi từ đặc điểm của ngành. Ngành giấy là một ngành sử dụng khối lượng nguyên vật liệu thô đầu vào rất lớn, và để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho ngành thì sẽ cần phải có một đội ngũ hùng hậu những người trồng rừng, khai thác rừng. Bên cạnh đó, để phục vụ cho nhu cầu về hóa chất, xút, và các chất phụ gia của ngành thì cũng dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực sản xuất chuyên phục vụ nhu cầu này của ngành giấy và cũng sẽ tạo ra rất nhiều chỗ làm. Chính vì thế, tuy số lao động làm việc trực tiếp trong ngành có thể còn khiêm tốn, nhưng nếu cộng cả số lao động làm việc gián tiếp trong ngành thì tổng số lao động của ngành có thể không kém gì những ngành thu hút nhiều lao động như dệt may hay da giày.
Thứ hai, phát triển ngành giấy là tiền đề phát triển nhiều ngành kinh tế khác, góp phần tích cực vào quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Nguyên liệu chủ yếu của ngành giấy là từ gỗ, chính vì vậy, nếu ngành giấy phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành lâm nghiệp, tạo đầu ra ổn định cho ngành lâm nghiệp. Đồng thời, do trồng, khai thác nguyên liệu cho ngành giấy phải được chuyên môn hóa, tập trung thâm canh nên dẫn đến yêu cầu phải áp dụng các giống cây trồng có năng suất cao, kỹ thuật thâm canh tiên tiến, và sử dụng máy móc vào trồng, khai thác, nên sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong lâm nghiệp. Đầu ra của ngành giấy là để phục vụ cho nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp và cho nhu cầu của nhân dân. Ngành giấy phát triển sẽ tạo điều kiện cho những ngành sử dụng nguyên liệu đầu vào là giấy như ngành in, ngành sản xuất bao bì …phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của những ngành này nhờ vào nguyên liệu đầu vào có giá rẻ, chất lượng cao. Ngành giấy phát triển sẽ phục vụ tốt nhu cầu học tập, giải trí, nghiên cứu, tìm hiểu đa dạng và ngày càng cao của người dân, góp phần nâng cao nhận thức của họ, qua đó sẽ nâng cao trình độ nguồn nhân lực của nước ta, tạo ra một tác động nhất định đến quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, phát triển ngành giấy sẽ giúp tái chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng, xóa đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Vai trò của ngành giấy trong việc bảo vệ môi trường thể hiện ở chỗ: Ngành giấy ngoài việc sử dụng nguyên liệu là gỗ, thì còn sử dụng nguyên liệu là những thứ đã qua sử dụng như giấy phế liệu, bã mía….Chỉ trong năm 2002, ngành giấy nước ta đã thu gom và sử dụng được 206.000 tấn trong nước để đưa vào tái sản xuất. Điều này không chỉ giúp ngành giấy đáp ứng được 36% nguyên liệu cho sản xuất giấy, mà còn góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ, làm sạch môi trường, tiết kiệm chi phí cho xã hội trong việc giải quyết đống “phế liệu” khổng lồ này. Bên cạnh đó, do cây nguyên liệu giấy không đòi hỏi cao về chất đất, nên phát triển ngành giấy sẽ giúp phủ xanh diện tích đất trống đồi trọc đang ở mức đáng lo ngại. Trồng rừng nguyên liệu giấy vừa giúp bảo vệ môi trường, vừa tăng thu nhập cho người dân trồng rừng, khiến họ gắn bó với rừng, không phá rừng nữa và sẽ bảo vệ rừng như bảo vệ tài sản của mình. Rừng nguyên liệu giấy thường được trồng ở các đồi núi, vùng sâu vùng xa nên nó sẽ giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng lạc hậu, kém hiệu quả của người dân địa phương, nâng cao đời sống cho họ, qua đó, xóa đói giảm nghèo ở những vùng này. Đời sống của người dân ở vùng sâu, vùng xa được cải thiện không chỉ làm kinh tế của vùng được nâng cao, mà còn tạo điều kiện để nhân dân gắn bó với đất đai, kết hợp với các đơn vị bộ đội, công an trong việc giữ đất, giữ rừng, bảo vệ an ninh quốc phòng ở địa phương.
2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước
Thực trạng thị trường cầu được xem xét thông qua mối quan hệ với qui mô sản xuất của ngành và lượng giấy nhập khẩu. Từ dó, ta sẽ thấy được yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành để sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu. Theo hiệp hội giấy Việt Nam, năm 2001, nhu cầu giấy bình quân trên đầu người của nước ta là 8kg/người/năm, đây là mức tương đối thấp so với mức trung bình của khu vực và thế giới, nhưng ngành giấy cũng chỉ sản xuất được 420.107 tấn, đáp ứng được chưa đầy 60% nhu cầu trong nước, nên nước ta phải nhập 290.000 tấn giấy các loại, trị giá hơn 100 triệu USD. Năm 2002, ngành đã tăng sản lượng sản xuất, đạt 538.231 tấn, tăng 28%, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 59% nhu cầu, còn lại nước ta vẫn phải nhập 371.554 tấn giấy, trong đó có 145.251 tấn giấy tráng, loại giấy có giá trị cao nhưng trong nước chưa sản xuất được. Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, GDP tăng 6-7%/năm, cộng với sự gia tăng dân số, nhu cầu về giấy sẽ chỉ có tăng chứ khó có khả năng giảm, nó sẽ tăng tỉ lệ thuận với tốc độ tăng của GDP. Dự báo mức tiêu dùng giấy của nước ta sẽ tăng ổn định bình quân 10 %/năm (trong đó giấy in báo tăng 7%, giấy in viết và bao bì tăng 10%, các loại khác là 15%/năm).
Đến năm 2020 thì nhu cầu về giấy của Việt Nam có thể lên tới 3.420.000 tấn/năm.
Năm
2005
2010
2020
Dân số
83
89
102
Tiêu thụ giấy bình quân (kg)
9,4
14,5
33,6
Nhu cầu giấy (triệu tấn)
Trong đó:
Giấy in báo
Giấy in, viết
Giấy bao bì
Loại khác
781.000
85.000
226.000
410.000
60.000
1.286.000
120.000
365.000
691.000
110.000
3.420.000
236.000
947.000
1.729.000
445.000
(Nguồn tổng công ty giấy Việt Nam)
Theo nghiên cứu trên thì ta có thể thấy rằng nhu cầu giấy của nước ta là rất lớn so với năng lực sản xuất hiện tại của toàn nghành (năm 2002 là 538.554 tấn). Để có thể đáp ứng được nhu cầu này thì phải phát triển sản xuất giấy trong nước. Nếu không mỗi năm chúng ta lại có thể phải bỏ ra 200 – 300 triệu USD để nhập khẩu giấy, tương đương với số tiền đầu tư, xây dựng một nhà máy giấy hiện đại, công suất lớn, trong khi chúng ta có đủ khả năng về con người và nguyên liệu tự nhiên để phát triển ngành dẫn tới một sự lãng phí lớn nguồn lực của đất nước. Chính vì vậy đặt ra yêu cầu phát triển ngành để đáp ứng đủ được nhu cầu trong nước.
3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mạnh, xu hướng cắt giảm thuế quan diễn ra ngày càng nhanh, để phát triển ngành giấy thì một nhiệm vụ cấp bách là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Trong những năm qua sản phẩm của ngành giấy đã chiếm được 50-60% thị phần trong nước và phần nào đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đặc biệt là các sản phẩm giấy in, giấy viết, in báo, giấy vệ sinh đã chiếm 80 - 90% thị phần phục vụ cho nhu cầu in ấn, văn hoá, giáo dục, sinh hoạt... của nhân dân. Nhưng trong thời gian tới khi thuế suất đối với các mặt hàng giấy chỉ còn 0-5% vào năm 2006, sản phẩm giấy nội địa sẽ phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của giấy ngoại nhập về chủng loại, chất lượng, giá cả. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của ngành hiện còn đang rất yếu, nếu chúng ta không nâng cao chất lượng và đặc biệt là hạ được giá thành sản phẩm thì khả năng tồn tại của sản phẩm giấy nội địa là rất khó, chứ đừng nói đến phát triển ngành, thay thế hàng nhập khẩu, phát huy nguồn lực trong nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ giúp phát triển ngành giấy, và ngành giấy có phát triển thì mới có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài , hai vấn đề này có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, đề ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ tất yếu khách quan để phát triển ngành giấy, đặc biệt là trong thời điểm hội nhập ngày càng gần. Đó là nhiệm vụ, yêu cầu không phải chỉ của riêng một mình tổng công ty giấy, của ngành giấy, mà là của toàn xã hội.
&
Chương II
Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước
thềm hội nhậpkinh tế quốc tế
I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam
Sản xuất giấy ở Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng ngành công nghiệp giấy Việt Nam thì chỉ mới ra đời vào đầu thế kỷ 20, trong thời gian đầu các nhà máy giấy có tính chất thủ công, vào những năm trước 1945 cả nước có khoảng 7 nhà máy sản xuất giấy, sản lượng trung bình mỗi năm chỉ vào khoảng 1000 tấn/năm, chất lượng giấy rất thấp, qui trình sản xuất còn rất thủ công. Đến những năm 50-60, công nghiệp giấy bắt đầu đi vào phát triển, trang bị những máy móc thiết bị sản xuất giấy công nghiệp, công suất các nhà máy được nâng lên mức 20.000 tấn/năm, điển hình trong giai đoạn này là sự ra đời của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ(1949), “cái nôi của ngành giấy Việt Nam”, sản phẩm giấy trong thời kỳ này chủ yếu là để phục vụ nhu cầu in ấn và viết. Trong giai đoạn 1960 – 1970 xuất hiện hàng loạt các nhà máy giấy với qui mô nhỏ ở khắp miền Nam và miền Bắc. Trong thời gian này sản phẩm giấy được sản xuất cũng đa dạng hơn bao gồm các loại giấy báo, giấy viết, carton… Sản lượng đạt khoảng 40.000 tấn/năm. Sản lượng giấy năm 1970 tăng 10 lần so với năm 1960 đạt mức hơn 50.000 tấn. Tuy nhiên, chỉ sau năm 1975 công nghiệp giấy mới thực sự được đầu tư phát triển với những nhà máy mới có công suất trung bình. Đặc biệt sau tám năm xây dựng, ngày26/1/1982 lễ khánh thành nhà máy giấy Bãi Bằng đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp giấy Việt Nam. Vào thời điểm đó thì công ty giấy Bãi Bằng được coi là một nhà máy sản xuất tương đối hiện đại, với qui trình sản xuất khép kín, ứng dụng kỹ thuật cơ giới hoá và tự động hóa khá đồng bộ với năng suất thiết kế là 55.000 tấn giấy/năm và 48.000 tấn bột giấy/năm. Với sự ra đời của nhà máy giấy Bãi Bằng thì tổng công suất của ngành giấy đã tăng lên 90.000 tấn/năm, chất lượng giấy cũng được cải thiện rõ rệt so với trước, đặc biệt là hai mặt hàng giấy in và giấy viết. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành giấy Việt Nam cũng vấp phải không ít khó khăn, có lúc tưởng chừng không thể vượt qua do cơ chế quan liêu bao cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sản phẩm sản xuất ra lại không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dụng. Chính sách đổi mới do Đảng và chính phủ ta đề ra năm 1986 đã tạo ra sự thay đổi lớn lao trong mọi mặt đời sống xã hội và kinh tế nước ta. Theo đó, thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự quản lý của Nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh sản xuất, chuyển từ mục tiêu tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Sự thay đổi đó đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt trong nền kinh tể nói chung và ngành công nghiệp giấy nói riêng. Lúc này, ngành giấy Việt Nam đã có hai nhà máy có công suất tương đối lớn hơn 50.000 tấn/năm là Bãi Bằng và Tân Mai. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành giấy trong giai đoạn 1990-1999 bình quân đạt 16%/năm, tốc độ tăng trưởng này nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến nước ta nói riêng và công nghiệp nói chung, nhiều thành phần kinh tế đã tham gia vào đầu tư, sản xuất giấy đã đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm giấy, ngành giấy Việt Nam đã xuất khẩu được một số loại giấy sang các thị trường nước ngoài (Đài Loan, Srilanca, Trung Đông,…). Năm 1999 sản lượng toàn ngành đạt 292.000 tấn gấp gần 4 lần năm 1990. Sau 10 năm liền tăng trưởng với tốc độ bình quân 16%/năm(1990 – 1999), nhạy bén nắm bắt thời cơ, ngành giấy Việt Nam đã vươn lên tốc độ tăng trưởng rất cao (cao nhất trong các ngành công nghiệp) với tốc độ tăng trưởng trong 3 năm gần đây ( 2000 –2002 ) là 24%/năm, ngành giấy cũng đã có một số biện pháp chủ động để hội nhập kinh tế. Dù đã đạt được một số thành tựu, vẫn giữ vững được thị trường, và bước đầu xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng ngành giấy Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém và khuyết điểm. Để làm rõ những điểm yếu đó, tôi xin trình bày, những thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam, tình hình hoạt động của ngành trong những năm gần đây. Qua đó, ta có thể xác định được năng lực cạnh tranh của ngành và đề ra giải pháp để phát triển ngành, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, phát huy, khai thác lợi thế của ngành, đồng thời khắc phục những khó khăn, thách thức.
1. Những thuận lợi
- Điều kiện tự nhiên
Việt Nam có hình chữ S với tổng diện tích là 330.541 km2 trải dài suốt dọc bờ biển đông nam Châu á, ba phần tư lãnh thổ là núi đồi với những đỉnh cao trên 300 m trên mặt nước biển trung bình, khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Hầu hết vựng nỳi là đất đỏ, trờn nỳi cao cú đất mựn và thung lũng sụng và đồng bằng chõu thổ cú đất phự sa phỡ nhiờu, cỏc vựng đỏ vụi cú đất bazan và ở một vài vựng ven biển đất cỏt nhiều. Đất đai, và khí hậu như vậy rất phù hợp để phát triển trồng rừng nguyên liệu giấy, cây nguyên liệu có tốc độ tăng trưởng nhanh.
Tổng diện tích đất của Việt Nam là khoảng 33 triệu ha, diện tích đất đã sử dụng là 23,840 triệu ha chiếm 57,04% quỹ đất tự nhiên, diện tích đất chưa sử dụng là khoảng 8 triệu ha (theo niên giám thống kê năm 2000), diện tích đất này có khá nhiều khu vực có tiềm năng thích hợp để trồng cây nguyên liệu giấy.Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng thì rừng trồng nguyên liệu giấy nước ta hiện có 803 000 ha, trong đó có 618.000 ha rừng tự nhiên, 185 000 ha rừng trồng các loại. Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2001 - 2010 đã được Quốc hội thông qua, cả nước sẽ trồng mới 1.140.000 ha rừng cây nguyên liệu giấy trong Chương trình 5 triệu ha rừng. Một vùng nguyên liệu dồi dào đang mở ra cho ngành giấy trong tương lai.
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, ngành giấy Việt Nam có lợi thế về nguồn nguyên liệu thô rất phong phú. Đến nay, tuy chưa tuyển chọn được nhiều, nhưng tập đoàn cây nguyên liệu giấy ở Việt Nam đã khá đa dạng, với một số loài sinh trưởng nhanh, cho năng suất và chất lượng cao như thông 2 lá, 3 lá làm nguyên liệu cho sợi dài, bồ đề, bạch đàn làm nguyên liệu cho sợi ngắn, lồ ô, tre cho nguyên liệu sợi trung bình. Với tổng trữ lượng gỗ là 751,5 triệu m3, tổng trữ lượng rừng tre nứa là 8,4 tỷ cây, ngành có thể sử dụng nguyên liệu từ cây lá rộng, từ tre nứa, vầu, luồng… Ngoài ra, ngành còn có thể sử dụng một nguồn nguyên liệu có khối lượng rất lớn và được cung cấp ổn định những phụ phẩm của các ngành khác hàng chục triệu tấn/mỗi năm như rơm rạ của các vùng sản xuất lúa gạo, bã mía của các nhà máy sản xuất đường… Với nguồn nguyên liệu đa dạng, phong phú như vậy, ngành giấy có khả năng chủ động được về nguyên liệu, từ đó có thể nâng cao vị thế của mình. Vấn đề đặt ra là ngành phải khai thác và sử dụng chúng sao cho hợp lý và có hiệu quả.
- Nguồn nhân lực
Thuận lợi thứ hai đối với ngành giấy là Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào. Ước tính, hiện nay, Việt Nam có lực lượng lao động khoảng 50 triệu người, và được bổ sung thường xuyên hàng năm với tốc độ tăng trung bình là 1,7%. Lao động của chúng ta được đánh giá là trẻ, cần cù, thông minh, chịu khó và có khả năng tiếp thu công nghệ nhanh. Giá nhân công của nước ta lại chỉ ở mức thấp. Đối với một ngành cần sử dụng nhiều lao động như ngành giấy thì đây có thể coi là một yếu tố tương đối thuận lợi. Bên cạnh nguồn nhân lực dồi dào, ngành giấy nước ta còn được hưởng lợi từ một thị trường nội địa rộng lớn với dân số hơn 80 triệu người , thị trường này còn đang sơ khai và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết.
- Chính sách của Nhà nước
Ngành giấy, hiện nay cũng được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước và Chính phủ. Trong chính sách của mình, Chính phủ đánh giá ngành giấy như một ngành sản xuất thay thế xuất khẩu, góp phần phát triển các vùng kinh tế sâu và xa, do vậy Chính phủ đã đề ra một loạt chính sách để hỗ trợ phát triển ngành giấy như cấp vốn bằng nguồn vốn đầu tư ưu đãi, quỹ đầu tư phát triển, giảm thuế cho ngành, khuyến khích đầu tư vào ngành giấy. Kết quả là hiện nay có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia vào kinh doanh, sản xuất trong ngành, sản lượng của ngành tăng vọt, mặt hàng cũng phong phú hơn. Chính phủ đã và đang xây dựng qui hoạch phát triển ngành, vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng cho nhân dân, khuyến khích nhân dân trồng rừng nguyên liệu giấy để tạo vùng nguyên liệu ổn định cho ngành. Sự quan tâm ưu ái của Chính phủ cũng sẽ là một nhân tố thuận lợi để phát triển ngành.
- Thuận lợi khác
Do đã kinh doanh lâu năm, nên ngành đã xây dựng được cho mình một kênh phân phối, mạng lưới đại lý trải khắp mọi miền của đất nước, sản phẩm của ngành đã trở nên quen thuộc với mọi người, từ các nhà in lớn tiêu thụ hàng nghìn tấn giấy một năm đến những em nhỏ lớp 1 với những trang vở đầu đời. Những cái tên như Bãi Bằng, Tân Mai,…. đã trở thành thương hiệu lớn của ngành không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, thành một tài sản vô hình của ngành. Đây là một ưu thế để ngành có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài.
2. Khó khăn đối với ngành giấy
Tuy ngành giấy Việt Nam có được một số thuận lợi khách quan nói trên, nhưng ngành này cũng gặp rất nhiều khó khăn đặt ra do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Thứ nhất, nước ta có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào và chi phí nhân công rẻ, nhưng nguồn nhân lực nước ta lại có những điểm yếu nhất định khi so sánh với lao động nước ngoài
- Sức khoẻ hạn chế, độ bền dai rất kém: Sản xuất theo phương pháp công nghiệp trong kinh tế thị trường, và đặc biệt khi hội nhập kinh tế đòi hỏi một cường độ lao động cao hơn và căng thẳng hơn nhiều. Một phần do đặc điểm về sinh học và hình thể thấp bé và nhẹ cân, một phần do phần lớn người Việt Nam xuất thân từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu nên khó có thể đáp ứng được một cường độ làm việc cao.
- Tác phong công nghiệp còn ít và chưa được định hình bền chặt: sinh ra và trưởng thành trong một nền sản xuất tiểu nông manh mún, lộn xộn, nhiều người Việt Nam quen làm việc theo kiểu tùy hứng, nước đến chân mới nhảy, không thích hợp tác với nhau, nên khó có sự hợp tác nhịp nhàng, đồng bộ ăn khớp. Mà trong điều kiện hội nhập kinh tế, thì tác phong công nghiệp là một tố chất rất cần thiết đối với người công nhân.
- Hiểu biết chưa đủ sâu rộng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế: do sống và làm việc quá lâu trong môi trường khép kín và dựa dẫm vào Nhà nước, nên người lao động Việt Nam chỉ quen làm việc bằng kinh nghiệm là chính, họ không thấy sự bức xúc lớn của việc sử dụng kiến thức, phương pháp khoa học.
Chính những điểm yếu của nguồn nhân lực là một trong những nguyên nhân làm cho sức cạnh tranh của ngành giấy cũng như nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam không cao. Tác phong công nghiệp yếu kém làm khả năng phối hợp làm việc, hoạt động của dây chuyền không đồng bộ, nhịp nhàng. Mà trong ngành công nghiệp giấy thì tính đồng bộ, nhịp nhàng lại là một đòi hỏi rất quan trọng, bởi sản xuất giấy phải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn, chỉ cần một giai đoạn có vấn đề thì cả dây chuyền sẽ gặp sự cố. Đây là một trong những nguyên nhân làm năng suất lao động kém, hao phí nguyên vật liệu nhiều. Nguồn nhân lực thì nhiều, nhưng những người lao động có trình độ, năng lực, có khả năng tiếp thu công nghệ, đặc biệt là người có trình độ trong ngành, thì lại thiếu dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới, sử dụng thiết bị hiện đại, hệ thống quản lý cồng kềnh, thiếu hiệu quả.
Thứ hai, công nghệ của ngành khá lạc hậu không chỉ so với các nước trên thế giới, mà ngay cả với các nước trong khu vực Đông Nam á. Đây là khó khăn lớn nhất đối với ngành giấy. ở Việt Nam có những nhà máy được xây dựng từ năm 60, đến giờ vẫn còn hoạt động và hầu như không được đầu tư, nâng cấp trong 40 năm qua. Cả nước có hàng trăm nhà máy giấy, nhưng công suất nhà máy trung bình thì lại nhỏ, cả nước chỉ có hai nhà máy có công suất lớn hơn 50.000 tấn là Bãi Bằng, Tân Mai, công suất của các nhà máy giấy Việt Nam là khoảng 10.000-15.000 tấn/năm, trong khi của Indonesia là hơn 100.000 tấn/năm. Nguồn lực của ngành lại phân tán trải rộng khắp ba miền, chưa có những khu vực tập trung sản xuất công nghiệp lớn chuyên nghiệp do nguồn nguyên liệu phân bổ không tập trung, lại thường nằm ở các khu vực có hạ tầng cơ sở chưa phát triển. Công nghệ lạc hậu nên đòi hỏi phải đầu tư, nâng cấp, nhưng chi phí vốn đầu tư lớn, suất phí đầu tư cho ngành tương đối lớn (1 800 - 2 200 USD/tấn bột giấy từ cây nguyên liệu và 1 000 - 1 200 USD/tấn giấy từ bột giấy). Khả năng thu hồi vốn lại chậm, do tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận thấp. Hiệu suất thu hồi nội bộ khoảng 11 - 12%/năm đối với các dự án đầu tư mới. Chi phí để xử lý môi trường cao, đặc biệt các dự án đều nằm ở thượng nguồn nên chi phí đầu tư hệ thống xử lý môi trường theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam chiếm khoảng 20 - 25% tổng chi phí đầu tư. Nếu không có những chính sách đặc thù riêng thì rủi ro sẽ rất lớn. Nên ngành rất khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư vào ngành, đặc biệt là vào vùng nguyên liệu và sản xuất bột giấy. Đây là khó khăn lớn đòi hỏi ngành phải có những chính sách đầu tư phát triển sao cho thật hợp lý, phù hợp với đặc điểm về nguyên liệu và tài chính của Việt Nam.
Thứ ba, do đặc điểm của ngành giấy đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn, thời gian đầu tư lại khá dài, đòi hỏi về trình độ công nghệ tương đối cao. Nhưng nước ta vẫn còn nghèo, nguồn lực về tài chính còn yếu, lại có nhiều ngành, nhiều việc đòi hỏi phải được đầu tư, rót vốn ngay, nên ngành giấy nước ta gặp nhiều khó khăn trong việc có được vốn để đầu tư xây dựng nhà máy, phát triển ngành, nâng cao sức cạnh tranh, tiềm lực tài chính của mỗi doanh nghiệp còn nhỏ bé nên chưa thể khai thác hết lợi thế về nguồn nhân lực và nguyên liệu dồi dào.
3. Thực trạng của ngành giấy Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Cơ cấu tổ chức
Hiện nay, trên toàn quốc nếu không kể các cơ sở sản xuất giấy nhỏ lẻ thủ công, có 473 đơn vị sản xuất công nghiệp giấy và bột giấy, với 441 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó những cơ sở thuộc loại vừa và lớn ở Việt Nam là khoảng 145 đơn vị, 100 đơn vị sản xuất giấy, 45 đơn vị sản xuất bột giấy. Các đơn vị sản xuất giấy trong ngành công nghiệp được chia ra làm 3 bộ phận chính:
Các doanh nghiệp Nhà nước: tổng công ty giấy Việt Nam
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: gồm có các công ty cổ phần, TNHH, tổ hợp tác.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng công ty giấy Việt Nam: Tổng công ty giấy Việt Nam (tổng công ty 91), đây là doanh nghiệp mạnh nhất, lớn nhất, ra đời vào năm 1996 với mục tiêu mong muốn hình thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đủ điều kiện chi phối các hoạt động của ngành, giúp đỡ lẫn nhau. Tổng công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và được điều hành bởi Tổng giám đốc. Tổng công ty giấy Việt Nam bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp, có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp giấy và trồng rừng nguyên liệu giấy, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu về giấy của thị trường. Tổng công ty chịu sự quản lý, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của Bộ Công nghiệp nhẹ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương với tư cách là các cơ quan quản lý Nhà nước; đồng thời chịu sự quản lý của các cơ quan này với tư cách là cơ quan thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại Luật Doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. Các doanh nghiệp của tổng công ty được phân bổ ở hai vùng chủ yếu là Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ. Đặc trưng của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty là:
- Có nguồn vốn thường được rót từ ngân quỹ Nhà nước hay sự bảo lãnh vay của Nhà Nước. Nên tuy dự án đầu tư của họ thường có quy mô lớn nhưng lại có sự phụ thuộc, không được linh hoạt như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Có quy mô thuộc loại vừa và lớn so với các doanh nghiệp giấy khác ở Việt Nam, thường được xây dựng tương đối đồng bộ, thường là với một vùng nguyên liệu quy hoạch đi kèm.
Từ ngày được thành lập, tổng công ty đã liên tục phát triển và đã có một tiếng nói quan trọng đối với ngành, đóng góp một vai trò không nhỏ trong ngành. Tổng công ty giấy Việt Nam, có thể nói đã khẳng định được vai trò là thành phần kinh tế chủ đạo. Bằng chứng là Tổng công ty đã cung cấp hơn 80% các mặt hàng sản phẩm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội như giấy báo, giấy in, giấy viết. Sản phẩm giấy in, giấy viết, giấy in báo của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty không chỉ phục vụ ngày càng tốt nhu cầu trong nước, mà còn bước đầu xuất khẩu được sang một số nước. Tổng công ty hiện là chủ đầu tư của những công trình lớn nhất về công nghiệp giấy như dự án dây chuyền giấy bao bì công nghiệp Việt Trì (35 triệu USD), dự án mở rộng Công ty giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 lên 100.000 tấn/năm (54 triệu USD), xây dựng nhà máy bột giấy Kon Tum công suất 130.000 tấn/năm (244 triệu USD),...(nguồn tạp chí cộng sản số 14 năm 2002). Tuy nhiên, do cơ chế, cách thức quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu còn rơi rớt, nên hoạt động đầu tư, nâng cấp của tổng công ty còn thực hiện rất chậm, ì ạch, tốc độ tăng trưởng của tổng công ty giấy trong 3 năm gần đây chỉ đạt 4%/năm.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trước năm 1990, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa thực sự phát triển. Sau năm 1990, với sự cởi mở về cơ chế, chính sách, sự khuyến khích của Nhà nước, đặc biệt là khi có luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong ngành giấy mọc lên nhanh chóng ở trên mọi miền đất nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và công ty TNHH, chịu sự quản lý và kiểm tra của Sở công nghiệp và UBND các địa phương theo luật doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ hơn, số vốn hoạt động chỉ trong tầm từ vài tỉ đến vài chục tỉ, nguồn vốn của họ huy động từ nhiều nguồn khác nhau: vốn tự đóng góp, vốn từ bán cổ phần, vốn huy động qua kênh thị trường chứng khoán…nhưng cơ cấu mặt hàng của họ rất đa dạng, từ giấy vệ sinh, bìa carton, giấy kraft đến giấy in, giấy viết. Các đơn vị sản xuất giấy ngoài quốc doanh thường nằm ngay ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, hoặc ở các khu vực công nghiệp như Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Ninh để thuận tiện cho sản xuất và lưu thông hàng hóa của họ. Hoạt động của họ rất linh hoạt, bộ máy quản lý gọn nhẹ, sử dụng lao động rẻ, quản lý vật tư, nguyên liệu chặt chẽ. Hoạt động đầu tư của họ có tính nhạy bén trong việc đoán trước nhu cầu của thị trường, chuẩn xác trong việc chọn thời điểm, đa dạng trong đầu tư, phối hợp nhịp nhàng giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Họ mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mà họ cho là có triển vọng, nhiều dây chuyền sản xuất giấy duplex, giấy kraft, giấy viết đã ra đời như thế. Quy mô đầu tư mới điển hình của khu vực ngoài quốc doanh là 12.000 tấn/năm (thay vì 700 – 1500 tấn/năm như trước đây). Đã và đang xuất hiện một số công ty lớn sản xuất giấy ở khu vực ngoài quốc doanh có quy mô trên dưới 30.000 tấn/năm, đứng hàng thứ 3,4,5 trong các cơ sở sản xuất lớn của ngành, sản lượng tăng đều qua từng năm như Vạn Phát, An Bình, Hapaco, công ty giấy Sài Gòn….Tuy nhiên, các doanh nghiệp này cũng còn gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn và cơ chế hoạt động, qui mô, nên rất cần có sự trợ giúp, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Từ năm 1991, cùng với sự phát triển của đầu tư nước ngoài, thì trong ngành giấy cũng ra đời những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút hơn 3.000 lao động và chiếm 2% sản lượng toàn ngành, trong đó lớn nhất là nhà máy giấy Newtoyo. Hiện tại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giấy tissue, các tông, và một số loại giấy chuyên dụng… Nhưng trong tương lai, khi nhu cầu về giấy của nước ta tăng mạnh thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có thể tăng lượng đầu tư vào ngành giấy của nước ta với cơ cấu mặt hàng đa dạng hơn, và xây dựng thêm nhiều nhà máy khác.
3.2 Thực trạng về năng lực sản xuất
Trong những năm gần đây, công suất của ngành giấy Việt Nam liên tục được cải thiện, nâng cấp. Hiện nay, tổng công suất của toàn ngành đạt 658 .000 tấn giấy và 200.000 tấn bột giấy. Do máy móc, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu, và sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập, nên nhìn chung ngành cũng chỉ khai thác được khoảng 80- 90% công suất. Tuy nhiên, sản lượng của ngành cũng liên tục tăng, năm sau nhiều hơn năm trước. Năm 1999, sản lượng của toàn ngành là 292.200 tấn, thì đến năm 2002, ngành giấy đã đạt mức sản lượng 538.231 tấn, gấp 1,84 lần năm 1999, hoàn thành toàn diện và vượt mức mục tiêu năm 2005 mà Đảng và Nhà Nước đã giao cho ngành (vượt 8% so với chỉ tiêu 500.000 tấn).
Năm
Sản lượng toàn
Ngành
Trong đó
So sánh
Tcty giấy VN
Các DN khác
1
2
3
2/1
Tấn
%
Tấn
%
Tấn
%
%
1999
292.200
100
168.924
100
123.276
100
58
2000
350.103
119
173.965
103
176.035
143
50
2001
420.107
120
187.000
107
243.000
132
45
2002
538.231
128
192.665
103
345.463
148
36
( Nguồn hiệp hội giấy Việt Nam)
Năng lực sản xuất của tổng công ty giấy Việt Nam đến thời ._. không chỉ là một “tấm áo đẹp” để đi triển lãm, quảng cáo mà còn là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn khách hàng, cải tiến chất lượng, tăng cường sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý nhằm giảm chi phí, phát huy nội lực, đạt được sự phát triển bền vững, lâu dài, nếu doanh nghiệp biết cách áp dụng và sử dụng đúng, hiệu quả. Nó không phải là một khoản chi phí doanh nghiệp bất đắc dĩ phải bỏ ra, mà là một khoản đầu tư cho chất lượng thực sự, trong đó đặt hiệu quả lên hàng đầu. Hiện tại, trong ngành mới chỉ có một số ít các doanh nghiệp ( Bãi Bằng, Tân Mai, cổ phần giấy Sài Gòn ) áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, và thực tế đã chứng minh rằng những doanh nghiệp này cũng đã đạt được một số kết quả tốt, chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn so với trước và so với các doanh nghiệp không áp dụng, giảm được chi phí, sản phẩm bị hỏng và ô nhiễm môi trường. Sản phẩm của các doanh nghiệp này đã được người tiêu dùng tín nhiệm qua các cuộc bình chọn “hàng Việt Nam chất lượng cao”. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đang và sẽ áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, cũng phải lưu tâm đến một số điểm sau để việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đạt được hiệu quả cao nhất
- Mục đích của hệ thống tiêu chuẩn chất lượng là nhằm giảm chi phí , nâng cao năng lực cạnh tranh và kết quả kinh doanh, thông qua công tác quản lý để làm ra những sản phẩm có chất lượng theo ý muốn, chứ không phải là nhận một tờ giấy chứng nhận sản phẩm.
- Không nên đánh đồng giá trị của chứng chỉ về HTQLCL với giá trị của HTQLCL được chứng nhận. Không nên coi mục tiêu được chứng chỉ là trọng yếu, mà phải coi việc thực hiện HTQLCL sao cho có hiệu quả mới là quan trọng.
- Để áp dụng hệ thống quản lý chất lượng có hiệu quả, doanh nghiệp phải biết cách sử dụng, và sử dụng có hiệu quả, chứ không chỉ là sở hữu hệ thống quản lý chất lượng để đem khoe nó như một “tấm áo đẹp”.
- Khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, phải thực hiện một cách thường xuyên, liên tục với mục đích rõ ràng.
- Trong quá trình thực hiện phải tuân thủ nghiêm ngặt một số nguyên tắc sau:
+ Coi trọng vai trò con người trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
+ “Chất lượng là trên hết”
+ Quản lý theo văn bản.
+ Nguyên tắc kiểm tra
+ Nguyên tắc toàn diện
+ Nguyên tắc đồng bộ
+ Nguyên tắc kế hoạch
4. Phát huy nhân tố con người
Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Để phát triển, công ty phải hướng tới thị trường, công việc này là công việc của cả tập thể chứ không phải của cá nhân riêng ai. Tài sản lớn nhất của các công ty ngày nay không phải là lâu đài hay công xưởng, mà là ý tưởng, là chất xám của con người, con người làm ra sản phẩm, máy móc, chứ không phải máy móc “sản xuất” ra con người. Việc phát triển nhân tố con người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện giải pháp kinh doanh của mình, đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động sinh lời nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì vai trò của nguồn nhân lực lại càng được đánh giá cao hơn. Bởi trong điều kiện nước ta, khi các yếu tố như năng lực công nghệ và năng lực tài chính còn thiếu và yếu thì nguồn nhân lực dồi dào, thông minh, cần cù, chăm chỉ chính là lợi thế lớn nhất để Việt Nam hội nhập thành công. Chính vì thế, công nghiệp Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp giấy nói riêng phải tập trung phát huy nhân tố con người một cách hiệu quả nhất để khai thác được những thế mạnh của họ, hạn chế, khắc phục những điểm yếu của người lao động mới có thể cạnh tranh được thành công khi chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Khi đầu tư cho nguồn nhân lực, ngành giấy nên thực hiện một số biện pháp sau:
Doanh nghiệp của ngành giấy (đặc biệt là DNNN) cần phải chú trọng hơn nữa trong vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức, đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ, cải tiến lề lối làm việc, rèn luyện đạo đức tác phong lao động phải sắp xếp, bố trí lao động một cách hợp lý đúng người đúng việc, tránh tình trạng chuyên môn một đằng phân công một nẻo. Sắp xếp lại các phòng ban theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, năng động và có hiệu quả, xây dựng nội quy làm việc rõ ràng, nghiêm khắc, thưởng phạt phân minh để thúc đẩy tác phong làm việc công nghiệp cho người lao động. Doanh nghiệp nên quan tâm đào tạo và đầu tư thích đáng cho cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp. Bởi các thành viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu lợi nhuận, mà còn cả lợi ích - uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thế nên, Ban giám đốc phải nắm vững kiến thức vững chắc không chỉ về kinh tế, quản lý, mà còn phải có kiến thức cả về công nghệ để bắt kịp tốc độ phát triển của quá trình hội nhập. Để phát huy năng lực của bộ phận này đòi hỏi ngành giấy phải chú trọng vào việc tìm và bồi dưỡng những cán bộ trẻ có tài, có năng lực, năng động với thời cuộc. Đối với người lao động, cần thông qua việc “xã hội hóa giáo dục và đào tạo”, tiến hành đào tạo và tái đào tạo đội ngũ lao động theo chiến lược sản phẩm đã xác định, theo hướng tỷ trọng lao động cơ bắp giảm dần và tỷ trọng lao động trí tuệ tăng lên và ngày càng chiếm ưu thế trong tổng lao động của doanh nghiệp.
Chủ động đề xuất và tổ chức nhiều phong trào thi đua phấn đấu lao động với những khẩu hiệu như “Năng suất, chất lượng, tiết kiệm là nguồn thu nhập của chúng ta”, “lao động hiệu quả là tăng thu nhập của chính mình”, tổ chức những cuộc thi tay nghề, sáng kiến của cán bộ công nhân viên. Điều này vừa làm cho người công nhân gắn bó chặt chẽ hơn với nhà máy của mình, vừa giúp doanh nghiệp tìm được những cá nhân điển hình tốt để bồi dưỡng và nhân rộng. Những phong trào thi đua này phải đi sâu vào thức tế lấy năng suất, chất lượng, hiệu quả làm thước đo, chứ không được mang nặng tính hình thức, phô trương. Song song với việc phát động các phong trào thi đua, các doanh nghiệp ngành giấy cũng nên đề ra hình thức khen thưởng tôn vinh xứng đáng cho những cá nhân, tổ chức có sáng kiến hay, làm việc hiệu quả. Việc khen thưởng phải đúng người, đúng việc, đúng năng lực, khả năng, đúng lúc, đúng nơi để kịp thời khích lệ người lao động làm việc hăng say và tư duy sáng tạo.
Luôn luôn chú ý quan tâm đến nguyện vọng, tâm tư của người lao động, đảm bảo tính công bằng trong đãi ngộ, môi trường lao động ít độc hại và một bầu không khí tập thể hoà thuận, thoải mái và năng động. Xây dựng một bầu không khí “văn hóa doanh nghiệp” lành mạnh và phù hợp với ngành, làm người lao động từ trên xuống dưới luôn thấm nhuần tư tưởng, mục đích hoạt động của doanh nghiệp, của ngành. Nó sẽ góp phần tạo ra một chất keo gắn bó giữa những người lao động với nhau và giữa người lao động với công ty của mình. Từ đó, có thể thúc đẩy động cơ làm việc, năng lực của người lao động, phát huy năng lực sáng tạo của người lao động, giúp người lao động tiếp thu được các chuẩn mực đạo đức và có thái độ hăng hái làm việc, nhằm đạt được mục đích của công ty, tạo động lực mạnh mẽ cho sự thành đạt của công ty.
Doanh nghiệp cũng như ngành giấy nên lập ra một quỹ để khuyến khích nhân viên đến các trường đại học cập nhật những kiến thức mới, tiếp cận vấn đề một cách hiện đại đáp ứng đòi hỏi của điều kiện hội nhập. Có biện pháp khuyến khích, thu hút nhân tài về với doanh nghiệp, với ngành giấy như tặng học bổng cho sinh viên khá giỏi, tạo điều kiện thuận lợi, sắp xếp cho những sinh viên khá giỏi được dễ dàng vào làm việc trong ngành, đãi ngộ cho họ thỏa đáng, bình đẳng để họ yên tâm cống hiến sức lực và tài năng của mình cho doanh nghiệp.
5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy
Liên kết kinh tế là sự thiết lập mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh nhằm bổ sung, hỗ trợ nhau, giảm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất, tạo ra sức cạnh tranh mạnh... Đối với doanh nghiệp, liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra sự thành công. Lợi ích của việc liên kết kinh tế thể hiện ở chỗ :
- Tạo điều kiện để tiết kiệm về qui mô, chi phí.
- Giúp doanh nghiệp chủ động với sự phức tạp của thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa thương mại, dễ chinh phục những thị trường mới.
- Tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp, phản ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của môi trường kinh doanh.
- Giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng hơn với các công nghệ mới.
- Giúp giảm thiểu các rủi ro.
- Tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp, thông qua việc chuyên môn hóa trong các công đoạn sản xuất, kinh doanh.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt, doanh nghiệp của ngành giấy dù thuộc quốc doanh, hay ở ngoài quốc doanh đều có những điểm yếu lớn so với những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh của nước ngoài, tổng sản lượng của ngành giấy Việt Nam năm cao nhất (năm 2002) mới chỉ khoảng 500.000 tấn không bằng một tập đoàn giấy của Indonesia (tập đoàn APP sản xuất 3 triệu tấn giấy/năm), máy móc còn lạc hậu, tiềm lực tài chính còn nhỏ bé. Thì như đã trình bày ở trên về lợi ích của liên kết kinh tế, một trong những lối ra khả thi nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành giấy, chính là phải liên kết các doanh nghiệp lại với nhau để phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp ngành giấy có thể liên kết đôi bên, ba bên, liên doanh với doanh nghiệp trong nước, hay liên doanh với công ty nước ngoài, liên doanh liên kết để cùng đầu tư sản xuất một loại sản phẩm,…nhưng hiệp hội là hình thức tổ chức phù hợp nhất để hỗ trợ, liên kết và xây dựng tinh thần cộng đồng của các doanh nghiệp ngành giấy. Đây sẽ là một kênh hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển các doanh nghiệp của ngành giấy trong việc cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, tình hình tài chính,...tư vấn để doanh nghiệp có thể hoạt động một cách tốt nhất, đồng thời, các doanh nghiệp trong hiệp hội sẽ có điều kiện dễ dàng liên kết, phối hợp hoạt động với nhau. Hiệp hội là một tổ chức đại diện hợp pháp về mặt quyền lợi, giúp doanh nghiệp giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua, tuy hiệp hội giấy vẫn chưa thực hiện được hết những chức năng quan trọng của mình, hoạt động vẫn mang tính hình thức, tự phát chưa chủ động, quy chế hoạt động, nội dung hoạt động còn đơn điệu, thiếu chặt chẽ, chưa phát huy được hết hiệu quả như mong muốn, nhưng không thể nói hiệp hội ngành giấy đã hoạt động không có hiệu quả gì. Hiệp hội đã lập và hiệu đính một số tiêu chuẩn ngành, tạo lập được mối quan hệ với các hiệp hội giấy khác trong khu vực và nhiều nước trên thế giới, đã gia nhập liên đoàn công nghiệp Bột giấy và giấy ASEAN, thường xuyên tổ chức hàng năm các cuộc tham quan, tìm kiếm cơ hội hợp tác với các đối tác nước ngoài cho các thành viên của hiệp hội giấy Việt Nam hay tổ chức các cuộc hội thảo mang tính chuyên đề của ngành... Với cách tiếp cận như vậy đã giúp các doanh nghiệp giảm bớt chi phí cho hoạt động tìm kiếm khảo sát đối tác cung cấp thiết bị ở nước ngoài mà vẫn đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Trong tương lai, vì lợi ích của chính mình, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn phải tích cực tham gia vào hoạt động của hiệp hội, góp phần nâng cao vai trò của hiệp hội. Để từ đó sẽ chuyển hướng phát triển hiệp hội giấy theo hướng mới, biến hiệp hội thành một tổ chức xã hội hoạt động vì lợi ích của ngành với cơ chế gọn nhẹ thu hút được sự tham gia của mọi doanh nghiệp trong ngành từ lớn đến nhỏ, tập trung ủng hộ các quyền lợi chính đáng và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, thuận lợi trong hoạt động. Hiệp hội sẽ là một đầu mối đủ năng lực, uy tính để tập hợp các doanh nghiệp trong toàn ngành trên cơ sở tự nguyện phân công hợp tác theo chuyên môn hóa sâu, mới đem lại hiệu quả cao, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau.
6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ
Với tư duy thiển cận, trước mắt thì dường như hoạt động đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đạivà tăng tỷ suất khấu hao tài sản cố định dẫn đến hệ quả làm cho giá thành hàng hóa vống lên trong khi giá bán hàng hóa không đổi. Nhưng trong trung và dài hạn, kỹ thuật, công nghệ mới cho phép các doanh nghiệp tiệm cận trình độ kỹ thuật – công nghệ trung bình của thế giới, đưa năng suất lao động tăng lên, tạo ra những sản phẩm với chất lượng cao, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp chuyển từ thế bị động sang thế chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại là lối thoát ra khỏi suy thoái. Đấy là một tất yếu không thể đảo ngược, đầu tư công nghệ là bắt buộc, vấn đề đặt ra là đầu tư công nghệ mới như thế nào? Đầu tư phải phù hợp đúng nơi, đúng chỗ, đúng thời gian. Như công ty giấy Việt Trì, khi đầu tư dây chuyền sản xuất giấy duplex đã gặp khó khăn về tài chính, dây chuyền đầu tư mới làm doanh nghiệp phải trả số tiền lãi nhiều trong thời gian đầu, sản phẩm tiêu thụ khó khăn, nên 9 tháng đầu năm nay doanh nghiệp lỗ tới 30,686 tỷ đồng. Có ý kiến cho rằng khó khăn về tài chính trên của doanh nghiệp là do đầu tư dây chuyền mới, nếu công ty cứ duy trì nhà máy cũ, sản phẩm cũ, thì trong vài năm vẫn có lãi vài tỷ đồng. Nhưng khi mà thời điểm hội nhập của Việt Nam ngày càng gần. Không đầu tư thì vẫn với cơ cấu sản phẩm như cũ, trong vài năm nữa, khi thuế suất giảm xuống, với dây chuyền cũ như vậy, liệu nhà máy còn có lãi nữa không hay sẽ bị sập tiệm? Khó khăn công ty giấy Việt Trì gặp phải chỉ một phần là do khoản vốn đầu tư lớn, còn phần quan trọng là do thời gian đầu tư quá dài dẫn đến bỏ lỡ mất cơ hội. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nguồn vốn còn hạn hẹp hơn nhiều, phải trả lãi suất cao hơn, nhưng họ đầu tư nhanh và gọn nên sản phẩm của họ nhanh chóng tung ra thị trường, nắm bắt cơ hội. Để đầu tư công nghệ hợp lý, theo tôi trong thời gian tới các doanh nghiệp giấy Việt Nam nên đầu tư theo những phương hướng sau:
- Thời gian đầu tư phải thật nhanh chóng, chủ động với diễn biến của thị trường.
- Với lợi thế của người đi sau, doanh nghiệp giấy Việt Nam có thể đầu tư mới cho mình những dây chuyền tương đối hiện đại và phù hợp với mình, tiến dần từ trình độ công nghệ lạc hậu lên công nghệ khu vực. Đối với các dây chuyền cũ thì tiến hành nâng cấp những dây chuyền còn tương đối tốt, loại bỏ dần dần những dây chuyền quá cũ, hao phí nguyên liệu nhiều.
- Đầu tư, hợp tác, liên kết với các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong nước để phát triển sản phẩm mới, công nghệ mới. Đây là một hình thức đầu tư rất tốt, đôi bên cùng có lợi, mà hiện nay các doanh nghiệp trong nước còn chưa quan tâm lắm.
- Đầu tư có chiều sâu, chuyển dần từ những dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm có chất lượng trung bình, kém sang dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn. Đầu tư vào CNTT như một biện pháp hỗ trợ quản lý cho doanh nghiệp, giảm chi phí hành chính.
- Đầu tư phù hợp với năng lực của mình, trình độ của mình về tiềm lực tài chính và khả năng nắm bắt kỹ thuật.
- Đa dạng hóa hình thức đầu tư, các doanh nghiệp trong ngành có thể liên doanh liên kết cùng đầu tư một dây chuyền, phối hợp với các doanh nghiệp ngoài nước xây dựng nhà máy mới, huy động vốn đầu tư qua kênh chứng khoán…
B/ Về phía Nhà nước
1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý, kịp thời
Hiện nay, đang có tình trạng tự phát quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu giấy, và nhà máy sản xuất ở khắp nơi, rộ lên phong trào “nhà nhà làm giấy, người người làm giấy”. Chương trình chiến lược của các cơ quan liên quan đến ngành giấy cũng rất khác nhau. Tình trạng đó là do các tỉnh đều muốn thông qua đầu tư này để hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, và từ một phép tính đơn giản, năng lực sản xuất hiện tại chưa cung cấp đủ 60% thị trường, với tiềm năng về con người và tự nhiên, chúng ta đủ khả năng đáp ứng nhu cầu mà không cần phải nhập khẩu, và lại quên mất khả năng cạnh tranh gay gắt của hàng nước ngoài. Nhưng để một nhà máy giấy hoạt động hiệu quả cần phải đầu tư quy mô lớn với công suất trên 50.000 tấn, với vốn đầu tư lên đến vài trăm triệu USD/dự án, đồng thời phải xây dựng được vùng nguyên liệu đảm bảo thuận lợi cho việc khai thác và vận chuyển nguyên liệu cho các nhà máy. Thế nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước để tạo sự thống nhất trong quy hoạch tổng thể phát triển ngành giấy và vùng nguyên liệu giấy, có vậy mới tạo được điều kiện phát triển ngành giấy.
Thực tế, biểu hiện thừa nguyên liệu sản xuất giấy và bột giấy ở Việt Nam hiện nay chỉ diễn ra cục bộ, còn xét tổng thể, ngành giấy vẫn thiếu nguyên liệu. Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần đặt ra tiêu chí bắt buộc để xây dựng vùng nguyên liệu và những nhà máy sản xuất bột giấy mới. Cụ thể, dự án phải đáp ứng được các yêu cầu như giá thành sản phẩm phải thấp hơn mức giá nhập khẩu tại thời điểm đó, phải đảm bảo thu hồi được vốn đầu tư. Về nguyên liệu, các nhà máy mới phải đảm bảo thu mua nguyên liệu tại chỗ cho người trồng rừng với mức giá thấp nhất là 300.000 đồng/m3. Đối với từng vùng, dự án xây dựng các dự án phải chi tiết, đồng bộ và hợp lý giữa vị trí đặt nhà máy và vùng nguyên liệu; cần tính tới yếu tố cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ vận chuyển nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy. Đối với các địa phương đã hội đủ các điều kiện nêu trên, theo công nghệ tiên tiến và tiêu chuẩn về môi trường của Việt Nam hiện nay, quy mô tối thiểu phải là 50 000 tấn/năm. Đi kèm theo nó là vùng nguyên liệu được quy hoạch khoảng 80 000 ha. Quy mô công suất này là phù hợp với thực tế của nước ta về vùng, sự phân tán của vùng nguyên liệu, khả năng đáp ứng về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn đầu tư cũng như việc tổ chức quản lý... Sau này, nếu có điều kiện thì các nhà máy có thể sẽ được mở rộng thêm quy mô và tăng công suất lên gấp 2 hoặc 3 lần. Về phân bố, Nhà nước nên đặt các nhà máy giấy tập trung lại không nên bố trí các nhà máy chạy dọc theo vùng chiều dài đất nước, bởi lẽ, đặc thù của công nghiệp giấy cho thấy, một nhà máy dù có qui mô lớn hay nhỏ đều phải trải qua các giai đoạn chế biến gỗ, sản xuất bột giấy và giấy, sản xuất năng lượng điện, nước sạch, xử lý hóa chất, nước thải... để đảm bảo được những công đoạn đó thì phải đầu tư lớn cho thiết bị và công nghệ. Do vậy, nếu công suất không đủ lớn thì sản xuất sẽ không hiệu quả (vì định phí quá cao).
Chúng ta đã có những bài học cay đắng từ 1.000.000 tấn mía đến 10.000.000 tấn thép do xây dựng nhà máy tràn lan, không có qui hoạch tổng thể, nên sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao, chất lượng kém. Chính vì vậy, Nhà nước nên giao cho một cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm xây dựng qui hoạch, chiến lược phát triển vùng nguyên liệu và nhà máy giấy trên cả nước, các cơ quan khác chỉ có quyền tư vấn, để trách tình trạng chồng chéo trong qui hoạch, gây lãng phí và chậm trễ trong đầu tư. Tránh tình trạng việc xây dựng chiến lược thiếu tính khả thi, khi xây dựng chiến lược phải dựa trên thực tế nguồn lực của đất nước, quan hệ cung cầu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chiến lược, khi xây dựng chiến lược cho ngành, Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp trong ngành tham gia đóng góp ý kiến xây dựng để từ chiến lược đến thực tế không còn là một khoảng cách quá xa.
2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy
Nhìn lại tổng thể sự phát triển của ngành trong nhiều năm qua, ta thấy ngành vẫn gặp phải một số trở ngại khá lớn từ cơ chế quản lý của nhà nước. Nên tôi xin có một số đề xuất mà Nhà nước nên áp dụng để hỗ trợ, khuyến khích những người sản xuất và nhà đầu tư trong ngành trong thời gian tới:
- áp dụng thuế suất VAT 5% đối với sản phẩm giấy sản xuất trong nước, góp phần giảm giá bán, nâng sức cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước sản xuất. Miễn giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, hóa chất là đầu vào cho sản xuất của ngành. Hạn chế giải ngân các nguồn vốn ODA bằng giấy trong thời gian trước mắt.
- Đối với những nhà máy sử dụng nguyên liệu là giấy phế liệu. Đề nghị nhà nước có chính sách hỗ trợ bằng việc cho phép khấu trừ thuế VAT đầu vào đối với loại nguyên liệu này. Có thể khi thực hiện chính sách này sẽ có nhiều khó khăn, vì phần lớn những người thu gom giấy loại trong nước đều buôn bán nhỏ và không hề có chứng từ hóa đơn, nhưng là việc nên làm vì sẽ hạn chế ô nhiễm môi trường, và khuyến khích những người sản xuất.
- Có chính sách bảo lãnh vốn vay cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư phát triển ngành. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tư duy năng động và nhạy bén của mình đã góp phần làm đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm trong nước. Nhưng với tiềm lực tài chính nhỏ bé thì mỗi doanh nghiệp sẽ khó có thể đầu tư những dự án lớn đem lại hiệu quả lớn cho xã hội, nếu không có sự giúp sức của Nhà nước về vốn cho họ, tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng và thuận lợi cho họ phát triển.
- Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, thường có các dự án đầu tư lớn. Nhà nước cần đẩy nhanh quy trình xét duyệt dự án, giảm sự chồng chéo trong cơ chế quản lý, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong ngành với lãi suất ưu đãi với thời hạn trả xong nợ là 15 năm và thời gian khấu hao là 18 năm thay vì chỉ 10 năm (trả nợ) và 12 - 15 năm (để khấu hao) theo những quy định hiện nay của Chính phủ để đảm bảo tiến độ triển khai các dự án mới hiệu quả, góp phần gia tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Cần phải đẩy nhanh quá trình giải ngân cho các dự án của nhà nước. Cho phép các dự án đầu tư trong chiến lược tăng tốc được vay thương mại (khi quỹ hỗ trợ phát triển chưa có điều kiện cấp đủ) để đầu tư cho kịp tiến độ, sau đó có thể cấp bù chênh lệch lãi suất.
- Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách phù hợp để bảo hộ “hợp pháp” cho sản xuất trong nước bằng việc cho ra đời luật thuế chống bán phá giá, luật cạnh tranh để bảo vệ sản xuất trong nước nói chung và sản xuất giấy nói riêng, trước những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh của các tập đoàn nước ngoài (bán phá giá hàng…).
- Đối với rừng nguyên liệu giấy: Thực tế cho thấy, không có rừng nguyên liệu giấy thì không thể có công nghiệp giấy. Nhưng đầu tư trồng rừng nguyên liệu thường rất lâu (7-9 năm đối với cây nguyên liệu sợi ngắn, 10-15 năm đối với cây nguyên liệu sợi dài), rủi ro trong quá trình đầu tư lớn, lợi nhuận lại không cao. Vì thế, Nhà nước nên có chính sách hợp lý để khuyến khích nhân dân trồng rừng nguyên liệu giấy, ưu đãi cho nông dân các địa phương tham gia phát triển vùng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất bột giấy và giấy. Cụ thể là:
+ Thực hiện tốt chính sách giao đất giao rừng; gắn đất rừng với từng hộ nông dân, khuyến khích lợi ích vật chất với trách nhiệm người trồng rừng, từng bước nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc vùng cao, vùng sâu. Bảo đảm thu nhập cho người trồng rừng nguyên liệu.
+ Lập quy hoạch vùng nguyên liệu giấy trên phạm vi toàn quốc để có cơ sở thiết lập các dự án đầu tư. Trong quy hoạch phải hình thành những vùng tương đối rộng, liên tục cho trồng rừng nguyên liệu giấy để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp trồng rừng. Từ đó có thể đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm của người nông dân, đảm bảo thu nhập cho họ.
+ Lãi suất vay vốn trồng rừng chỉ nên bằng 50% lãi suất ưu đãi hiện hành.
+ Miễn thu thuế trồng rừng ở chu kỳ đầu và giảm 50% ở chu kỳ thứ hai.
+ Dự án được sử dụng nguồn vốn ngân sách cấp để thực hiện giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm lâm nghiệp vào mục đích trồng rừng .
+ Hướng dẫn, cung cấp giống cây trồng tốt, thường xuyên tư vấn, hỗ trợ về kỹ thuật canh tác cho người trồng rừng.
3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cho toàn ngành
Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong ngành giấy, chỉ riêng tổng công ty giấy đã chiếm 36% tổng sản lượng giấy, nhưng doanh nghiệp Nhà nước cũng là bộ phận có sức cạnh tranh khá yếu, nhiều doanh nghiệp đang thua lỗ, công nghệ lạc hậu từ 30-40 năm so với mặt bằng chung của thế giới. Chính vì vậy Nhà nước cần có biện pháp kiên quyết tác động vào bộ phận này để tăng năng lực cạnh tranh cho toàn ngành bằng hai biện pháp chính:
- Giải thể ngay những nhà máy quá lạc hậu, liên tục làm ăn thua lỗ. Đối với những nhà máy công nghệ quá lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, sản lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường, làm ăn lại thường xuyên thua lỗ, thì tốt nhất là giải thể để có thể tập trung nguồn lực về tài chính và công nghệ vào những doanh nghiệp có năng lực lớn hơn. Dù có tiếc nhưng là biện pháp bắt buộc phải thực hiện, nếu không để đến thời điểm vài năm nữa thì các doanh nghiệp này cũng phải tự sập tiệm mà thôi.
- Tiến hành cổ phần hóa nhằm tập trung, thu hút nguồn lực: Trong ngành giấy hiện nay ở nước ta, công ty cổ phần đang là một hình thức khá phổ biến, các công ty này đang làm ăn khá hiệu quả (điển hình như Hapaco, cổ phần giấy Sài Gòn,…). Các công ty cổ phần xét trên nhiều phương diện rõ ràng mang lại hiệu quả cao và lợi ích thiết thực cho doanh ngiệp, nó đang và sẽ trở thành định hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện đại do những ưu thế cạnh tranh vượt trội của nó trong huy động vốn, chia sẽ rủi ro, kích thích lao động sáng tạo, trách nhiệm và xã hội hóa lực lượng sản xuất xã hội. Chính vì vậy chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần là một biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong thời gian qua, Nhà nước đã tiến hành cổ phần hai doanh nghiệp thuộc tổng công ty giấy là công ty giấy Viễn Đông và công ty diêm Thống Nhất, hai công ty này sau khi được cổ phần đã hoạt động tương đối tốt. Nhà nước cũng dự định đến năm 2006 sẽ cổ phần thêm một số công ty nữa thuộc tổng công ty giấy. Nhưng theo tôi thời điểm năm 2006 mới bắt đầu tiến hành cổ phần hóa là quá chậm, nhất là từ năm 2003 trở đi ngành giấy phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt do giấy nhập từ các nước Asean có mức thuế nhập khẩu là 20% và năm 2006 là 5%. Chính vì vậy Nhà nước cần có biện pháp đẩy nhanh hơn quá trình cổ phần hóa, đồng thời khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào các doanh nghiệp sẽ được cổ phần: Như bán cổ phần ưu tiên cho các đối tượng là cán bộ công nhân viên công tác tại nhà máy, phát hành cổ phiếu thông qua kênh thị trường chứng khoán…
4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ
Để thúc đẩy quá trình ứng dụng công nghệ hiện đại vào ngành, tăng năng lực cạnh tranh, đề nghị Nhà nước cấp vốn ngân sách cho nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu tư cho công trình nghiên cứu cải tạo giống cây trồng cho năng suất cao, nghiên cứu ứng dụng những nguyên liệu sẵn có vào sản xuất. Phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý nhằm phát triển thị trường công nghệ, coi sản phẩm nghiên cứu là loại hàng hóa đặc biệt, đi đôi với phát huy tính tự chủ của các tổ chức nghiên cứu khoa học - công nghệ ; coi trọng nhập khẩu và ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới tạo động lực về lợi ích để thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ gắn bó với sản xuất, kinh doanh, hướng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp trong ngành. Chính phủ tạo môi trường thúc đẩy các doanh nghiệp đặt hàng cho các tổ chức khoa học - công nghệ, liên kết với nhau nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, thúc đẩy hoạt động tự nghiên cứu, sáng tạo trong các doanh nghiệp. Có chính sách để nhà doanh nghiệp bắt tay với người nghiên cứu, để kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế.
Nhà nước nên có những cơ chế cụ thể cho việc giải quyết nguồn nhân lực để đáp ứng và đi kịp với yêu cầu của các dự án đầu tư xây dựng mới với quy mô lớn và hiện đại. Mở thêm trường đào tạo công nhân kỹ thuật cho ngành, ở cấp đại học và sau đại học, mở thêm khoa về công nghệ sản xuất giấy và liên quan đến công nghệ sản xuất giấy.
&
Kết luận
Tóm lại, với năng lực cạnh tranh và qui mô sản xuất như hiện nay, để ngành công nghiệp giấy có thể tồn tại và phát triển đủ lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cùng với nỗ lực của chính mình, các doanh nghiệp ngành giấy vẫn đang rất cần được sự quan tâm đúng mức của Chính phủ, của xã hội bằng những cơ chế đặc thù riêng cho việc đầu tư phát triển. Chỉ có như vậy, ngành công nghiệp giấy mới hội đủ các điều kiện cần thiết để ổn định và phát triển, chủ động hội nhập vào khu vực,và thực sự trở thành ngành kinh tế chủ lực của công nghiệp Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số giải pháp mà tác giả trình bày ở trên đây chỉ mang tính đề xuất, các doanh nghiệp trong ngành tùy thuộc vào đặc điểm, nguồn lực của mình mà sẽ xây dựng một cho riêng mình một chiến lược, giải pháp phù hợp, thích ứng với tình hình hoạt động kinh doanh của mình. Với tư duy và kiến thức còn hạn hẹp, nên giải pháp tác giả đưa ra có thể chưa phải tối ưu cho các doanh nghiệp giấy, nhưng tác giả mong rằng, những giải pháp đã đưa ra có thể có một tác dụng nhất định cho ngành và cho các doanh nghiệp của ngành trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài.
*******
Tài liệu tham khảo
Trần Sửu, trường đại học ngoại thương. Giáo trình quản lý chất lượng hàng hóa và dịch vụ, năm 1999.
Nguyễn Trung Vãn, trường đại học ngoại thương. Giáo trình marketing lý thuyết.
Thời báo kinh tế Việt Nam các năm 2002, 2003.
Báo cáo tổng kết của tổng công ty giấy Việt Nam năm 2001, 2002.
Báo cáo kết quả sxkd 9 tháng đầu năm 2003 và dự báo kế hoạch sxkd năm 2004 của tổng công ty giấy Việt Nam.
Tạp chí công nghiệp giấy số 6 và số 9 năm 2003.
Tạp chí công nghiệp nhịp sống số cuối tháng năm 2003
Tạp chí công nghiệp số 6, 10, 14 năm 2003.
Quyết định số 160/QĐ-TTg, ngày 4-9-1998 về việc phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp giấy đến năm 2010.
Thời báo kinh tế Sài Gòn năm 2003.
Tạp chí cộng sản năm 2002, 2003.
Niên giám thống kê của tổng cục thống kê năm 2000 và 2001.
Trang web www.vinapimex.com.vn
Một số trang web khác: www.vir.com.vn, www.tapchicongsan.org.vn,..
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoaluantotnghiep.DOC