Nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn

Lời mở đầu Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con người không nằm ngoài quy luật của thuyết "Tiến hoá": bất kỳ một thành viên nào của thế giới cũng phải luôn luôn đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh doanh chúng ta gọi là "cạnh tranh". Trong thời kỳ bao cấp, ngành ngân hàng Việt Nam nằm ngoài quy luật phát triển này và chậm bước so với toàn thế giới. Cùng với sự đổi mới trong hệ thống ngân hàng theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt. Hoạt động cho va

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y trung và dài hạn nhận được nhiều sự quan tâm chú ý do tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế cũng như sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay trung và dài hạn hiện nay là một vấn đề bức xúc cần có hướng giải quyết đúng đắn. Trong thời gian thực tập tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn nhưng một số hạn chế nghiêm trọng đã làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau một thời gian nghiên cứu và thực tập, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: "Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn". Các nội dung chính của luận văn được sắp xếp theo kết cấu sau Chương I : khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trong chương này, các vấn đề lí luận chung như khái niệm "cạnh tranh", "cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại"... được trình bày một cách khái quát. Đồng thời, theo hướng tìm hiểu và từ những kiến thức rút ra trong quá trình nghiên cứu , em đã mạnh dạn đưa ra một hệ thống chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đó. Chương II: thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trên quan điểm là một cán bộ ngân hàng, em đã cố gắng đánh giá một cách khách quan hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng cũng như các kết quả đã đạt được và các hạn chế trong khả năng cạnh tranh của ngân hàng cùng cới các nguyên nhân gây ra các hạn chế đó. Thời gian thực tập tại ngân hàng và sự giúp đỡ của các bạn đã tạo điều kiện cho em có những tài liệu cần thiết trong quá trình đánh giá này. Chương III: một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Em xin cảm ơn cô giáo TS. Lưu Thị Hương đã góp ý và nêu ra cho em những hướng nghiên cứu đề tài rất bổ ích và các bạn đã giúp đỡ em về mặt tài liệu để em có thể hoàn thành tốt luận văn của mình. Sinh viên Đàm Thanh Hương Chương I Khả năng Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn Là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, ngân hàng thương mại thực hiện những nghiệp vụ đặc trưng của mình tài trợ cho các hoạt động diễn ra không ngừng của cuộc sống. Nếu như theo quy định của luật pháp nước Mĩ, việc ngân hàng được định nghĩa như 1 công ty thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (dựa trên nguyên tắc cơ quan chính phủ nào bảo hiểm cho tiền gửi của ngân hàng đó) đã gây ra những xáo trộn to lớn về cách hiểu “một ngân hàng là gì” thì có lẽ đối với chúng ta, cách tốt nhất để nhìn nhận và tìm hiểu về ngân hàng chính là thông qua những loại hình dịch vụ mà nó cung ứng, qua đó có thể đưa ra những nhận xét tương đối về hoạt động của một ngân hàng thương mại. Peter Rose đã khẳng định: ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ hạch toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Peter Rose, “Quản trị ngân hàng thương mại” Qua đó, ta nhận thấy, tín dụng là một hoạt động đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của một ngân hàng. Thông qua các khoản mục tín dụng của mình, ngân hàng tài trợ cho hầu hết các hoạt động sản xuất của các hãng kinh doanh hay là nguồn ứng cứu của các tổ chức tài chính khác, trợ giúp cho các hộ gia đình và cá nhân bằng các khoản vay tiêu dùng và đem lại một nguồn lợi vô cùng lớn cho bản thân ngân hàng.Và hoạt động cho vay của ngân hàng không phải là chuyển một tài sản của ngân hàng cho một người nào đó mà chính là tạo ra tiền mới. Điều này cũng hoàn toàn đúng khi đối tượng cho vay là một cá nhân, một doanh nghiệp hay là chính phủ. Hoạt động tín dụng không chỉ dựa trên chữ “tín” làm đầu mà còn phải phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh doanh, xu hướng phát triển của nền kinh tế cũng như vào khả năng thẩm định độ tín nhiệm của khách hàng và nhiều yếu tố khác. Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, các sản phẩm dịch vụ ngày càng được đa dạng nhằm đáp ứng đầy đủ được các nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Cùng với sự thay đổi không ngừng của thế giới tài chính, các loại hình cho vay cũng được mở rộng và đổi mới. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng nhưng không có loại nào là đặc biệt thỏa đáng và chính xác. Dưới đây là một số loại hình tín dụng được phân biệt dựa trên những tiêu thức khác nhau nhằm làm rõ sự đa dạng và phát triển của hoạt động này. (1) Dựa trên đặc điểm của sản phẩm cung ứng: Tín dụng vãng lai Đây là loại tín dụng lâu đời nhất nhưng vẫn góp một phần quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một tài khoản để khách hàng có thể sử dụng theo nhu cầu nhưng không vượt quá hạn mức trong hợp đồng. Số lượng sử dụng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính của khách hàng. Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản. Do các điều kiện tín dụng, tín dụng vãng lai không được cấp cho đầu tư dài hạn, vì vậy thực chất ngân hàng cấp tín dụng vãng lai cho khách hàng nhằm bổ sung vốn cho sản xuất lưu thông thường xuyên. Việc cấp tín dụng vãng lai đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm. Khách hàng phải trả lãi suất cho vay và phí của nghiệp vụ thanh toán trung gian. Tín dụng thế chấp Khách hàng sử dụng tín dụng thế chấp khi muốn vay một khoản nợ ngắn hạn và thế chấp bằng động sản hay trái quyền. Giá trị vật thế chấp được chiết khấu theo loại động sản và tính lỏng của động sản đó. Vật thế chấp có thể bao gồm: các giấy tờ có giá(dài hạn hay ngắn hạn, cổ phiếu vô danh); hàng hoá; kim loại quý; các trái quyền (yêu cầu chi trả). Khách hàng phải trả lãi suất và phí. Phí được tính chủ yếu trên chi phí bảo quản vật thế chấp. Tín dụng bảo lãnh Về thực chất, bảo lãnh không phải là tín dụng thuần tuý. Một ngân hàng đồng ý bảo lãnh cho khách hàng trong giao dịch mua chịu với công ty nước ngoài hay vay của ngân hàng nước ngoài, đóng thuế cho nhà nước hay trong các hợp đồng đấu thầu. Chỉ khi nào khách hàng chưa có khả năng chi trả hay công ty nước ngoài đòi hỏi phải có sự bảo đảm cho hàng hoá mua chịu thì ngân hàng bảo lãnh coi như cấp cho khách hàng một khoản tín dụng bằng cách chi trả hộ khách hàng. Khách hàng phải trả một khoản hoa hồng bảo lãnh. Do tính rủi ro cao nên các ngân hàng thường phải dựa vào uy tín của khách hàng cũng như việc kiểm tra chặt chẽ tình hình tài chính của khách hàng để quyết định có cấp tín dụng bảo lãnh hay không. Đồng tài trợ Có những trường hợp hợp đồng tín dụng quá lớn và mang tính rủi ro quá cao mà một ngân hàng không thể đảm nhận. Lúc này ngườt ta thường sử dụng hình thức đồng tài trợ, hay liên kết tín dụng, trong đó một số ngân hàng cùng tham gia cho vay do một ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đầu mối giao dịch với khách hàng bằng các điều khoản đã được thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau. Hoặc 2 hay nhiều ngân hàng độc lập đàm phán và cho vay với khách hàng trong khi cùng thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức tín dụng song song. (2) Dựa vào thời hạn của hợp đồng tín dụng thông thường có 2 loại tín dụng: Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà khách hàng có những nhu cầu khác nhau về thời hạn của khoản tiền vay. Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn không quá 1 năm. Loại tín dụng này được dùng cho các kế hoạch có tính thời điểm và thường xuyên. Tín dụng trung và dài hạn: loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm, thường không quá 25 năm. Để có được sự chấp nhận của ngân hàng cho khoản vay này, khách hàng phải thoả mãn những điều kiện ngặt nghèo về năng lực sản xuất, tình hình tài chính và tính khả thi của dự án. 3) Dựa vào đặc điểm khách hàng: Trên thực tế , khách hàng của ngân hàng có thể bao gồm các hãng kinh doanh, các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức phi lợi nhuận …Nhưng ta có thể phân chia các khoản cho vay của ngân hàng thành các loại chính sau: Cho vay kinh doanh (commercial and industry): Đây là khoản mục quan trọng nhất, chiếm một phần lớn trong tổng tài sản của ngân hàng. Các khoản mục cho vay kinh doanh ngắn hạn bao gồm: cho vay mua hàng dự trữ, cho vay vốn lưu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản. Các khoản mục này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh đột xuất hay tạm thời của doanh nghiệp. Các khoản cho vay dài hạn như cho vay kinh doanh kỳ hạn, cho vay luân chuyển, cho vay theo dự án, cho vay hỗ trợ mua lại công ty giúp cho các hãng kinh doanh có một lượng vốn lớn hơn rất nhiều và ổn định, tạo điều kiện phát triển cho các hãng. Cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản Lí do tồn tại mạnh mẽ của loại hình tín dụng này là tâm lý gửi tiền của dân cư: người ta hi vọng khi gửi tiền vào một ngân hàng thì sẽ có khả năng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó lúc cần. Tiền huy động từ tiết kiệm trong dân cư hiện nay là nguồn vốn quan trọng nhất và sinh lợi cao nhất cho ngân hàng, vì thế các ngân hàng không nề hà cho vay khoản mục này. Tuy nhiên tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình không ổn định chắc chắn, khiến cho chi phí và rủi ro đối với ngân hàng rất lớn. Cho vay tiêu dùng lại chịu tác động của chu kỳ kinh doanh. Do vậy một đặc điểm quan trọng của tín dụng tiêu dùng là có lãi suất rất cao. Người vay lại thường không nhạy cảm với lãi suất mà yếu tố tác động chủ yếu lại là thu nhập và trình độ dân trí của người vay. Cho vay mua nhà thế chấp hay cho vay không thế chấp, cho vay theo thẻ tín dụng là những hình thức phổ biến của loại tín dụng này. 1.1.2. Các loại hình cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu là cho vay kinh doanh mà đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước lớn. Trước khi có thể tìm hiểu hoạt động tín dụng này của ngân hàng thương mại Việt Nam có những đặc điểm gì nổi bật, ta có thể xác định một số phương thức cho vay dài hạn trên thế giới hiện nay. Theo cách phân chia một cách có khoa học về phương thức cho vay của ngân hàng, ngườt ta chia các khoản vay làm 2 loại: cho vay luân chuyển và cho vay theo số dư. Cho vay luân chuyển Đây là loại hình cho vay mang lại nhiều ích lợi nhất cho khách hàng. Hãng kinh doanh có thể vay không quá một mức tối đa giới hạn trước, có thể hoàn trả theo khả năng và tiếp tục vay khi có nhu cầu cho đến khi hết hạn hợp đồng tín dụng. Do tính linh hoạt của khoản vay này mà ngân hàng không đòi hỏi phải có bảo đảm. Đây là loại hình tín dụng đáp ứng rất kịp thời và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. Khách hàng sử dụng khi không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc quy mô chính xác của nhu cầu vay trong tương lai. Tín dụng luân chuyển cho phép khách hàng có thể giảm bớt ảnh hưởng của những biến động của chu kỳ kinh doanh, tạo điều kiện vay thêm trong thời kỳ khó khăn hay sẵn sàng hoàn trả khi tình hình tài chính được cải thiện. Như vậy vốn vay của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời những biến động tài chính của khách hàng, vận hành song song xuyên suốt với chu kỳ kinh doanh của khách hàng Loại cam kết tín dụng được sử dụng chủ yếu là cam kết vay vốn chính thức (formal loan commitment) mang tính chất hợp đồng, lượng vốn vay tối đa được xác định với một lãi suất được ấn định. Loại này được định giá cao hơn nhiều so với hạn mức tín dụng bảo đảm (confirm credit line) ít chặt chẽ hơn. Ngân hàng thường cho vay khoản mục này trong trường hợp khẩn cấp. Khách hàng được đánh giá tín nhiệm tín dụng cao thường ít khi sử dụng loại tín dụng này mà chỉ kí kết hợp đồng làm bảo đảm để có thể nhanh chóng vay vốn từ những tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra hiện nay một loại hình mới cũng đang được sử dụng ngày càng rộng rãi là thẻ tín dụng. Các doanh nghiệp ưa thích loại hình này do tính hiệu quả của nó và do không phải thường xuyên lập các đơn xin vay cho ngân hàng. Cho vay theo số dư Ngược lại với cho vay luân chuyển, việc cho vay theo số dư được tính toán dựa trên trị số tín dụng mà tại một thời điểm nhất định khách hàng đi vay đòi hỏi bổ sung vào tổng giá cả của khách hàng đó. Như vậy, mỗi lần chấp nhận thực hiện phương thức tín dụng này, ngân hàng sẽ ngay một lần trao cho khách hàng số vốn mà khách hàng yêu cầu. Hạn mức tín dụng chỉ phụ thuộc vào quy định của ngân hàng trung ương đối với mỗi khách hàng vay mà khách hàng trả nợ làm nhiều lần trong một thời gian dài nên các ngân hàng thường đòi hỏi phải có tài sản thế chấp hay điều kiện bảo lãnh ngặt nghèo. Cho vay theo số dư có thể gồm các hình thức sau: Cho vay kinh doanh kỳ hạn Các hãng kinh doanh sử dụng khoản vay này cho các hoạt động đầu tư trung và dài hạn: mua thiết bị, xây dựng công trình… Khách hàng xin vay trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án và sẽ thanh toán khoản vay làm nhiều lần. Như vậy dòng thu nhập trong tương lai của dự án là cơ sở của việc thanh toán khoản vay. Các khoản vay kỳ hạn đòi hỏi phải có bảo đảm bằng tìa sản cố định thuộc sở hữu của người vay. Do mức độ rủi ro lớn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà các cán bộ tín dụng phải cân nhắn cẩn thận các yếu tố: (1) trình độ quản lý của hãng, (2)chất lượng hện thống kế toán và kiểm toán hãng đang sử dụng, (3)lịch sử trình bày tình hình tài chính của hãng trong qua khứ, (4)cam đoan không thế chấp tài sản cho các chủ nợ khác, (5)bảo hiểm tài sản của hãng có thoả đáng hay không, (6)rủi ro công nghệ đối với hãng, (7)độ dài khoảng thời gian trước khi dự án thu được lợi nhuận, (8) các xu hướng của nhu cầu thị trường và(9) trạng thái tài sản ròng của hãng. Cho vay dự án dài hạn Cho vay dự án dài hạn là loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro cao nhất.Khoản tín dụng này được dùng để tài trợ cho việc xây dựng các tài sản cố định có thể mang lại thu nhập trong tương lai có quy mô lớn hơn nhiều so với cho vay kinh doanh kỳ hạn. Các tài sản cố định trên có thể là các công trình mang tính chiến lược quốc gia. Cũng do khoản tín dụng này có quy mô lớn và tính rủi ro cao mà ngân hàng thường đòi hỏi phải có bảo lãnh theo đó ngân hàng có thể thu hồi khoản vay từ tổ chức bảo lãnh khi khách hàng không có đủ khả năng trả nợ. Đồng thời việc cho vay đòi hỏi sự tham gia của một số tổ chức tài chính khác nhằm chia sẻ rủi ro. Ngoài ra, các khoản tín dụng trên có thể được thực hiện không cần có bảo lãnh nhưng mức lãi suất áp dụng sẽ cao hơn nhiều và phải có tài sản thế chấp cho tới khi kết thúc dự án. Cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty Một hình thức tín dụng đang phát triển hiện nay là cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty bằng nợ đòn bẩy - Lbos(leveraged buyouts). Khi một nhóm các nhà quản lý của một công ty tin rằng nó bị định giá trên thị trường thấp hơn so với khả năng vốn có, họ sẽ mua lại công ty khi sử dụng đòn bẩy tài chính với tỷ lệ nợ rất cao (thường chiếm 80-90% giá trị của vụ mua lại) với tin chắc rằng công ty sẽ đạt được doanh thu cao hơn chi phí nợ vay nhờ vào việc quản lý tốt hơn. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của nền tài chính thế giới mới. Tuy nhiên loại hình tín dụng này cũng gặp rất nhiều rủi ro khi các công ty vay nợ quá nhiều không có đủ khả năng trả nợ nếu lãi suất tăng hay nền kinh tế suy thoái. Đây là kết quả tổng hợp của 3 nhân tố: (1)luồng thu nhập của hãng thấp tương đối so với giá mua lại nên không đủ bù đắp cho chi phí nợ vay, (2)các ngân hàng và tổ chức tài chính khác gia tăng sức ép thu nợ, (3)vốn của các nhà quản lý và cổ đông bị rút ra quá sớm gây ra thâm hụt nghiêm trọng trong ngân quỹ của công ty khi mà thu nhập của công ty chưa đủ mạnh để bù đắp các luồng ra này. Trên đây mới chỉ là những loại hình tín dụng phổ biến trên thế giới hiện nay nhưng mỗi quốc gia có những nền kinh tế với những nét đặc thù riêng nên không thể hoàn toàn áp dụng những hình thức trên trong kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam. Chúng ta mới chỉ tạm thời đưa ra những chuẩn mực của thế giới phát triển để định hướng cho sự vận hành của bộ máy ngân hàng Việt Nam trong tương lai. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1.2.1.Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại 1.2.1.1. Cạnh tranh là gì? “ Cạnh tranh là hành động của một cá nhân hay tổ chức cố gắng để chiến thắng hoặc giành được công việc kinh doanh từ các đối thủ của mình “ Longman, Dictionary of Business English Tương tự như vậy, theo kinh tế học, cạnh tranh là sự tranh giành thị trường (khách hàng ) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy, một nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành thị phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường. Cạnh tranh được phân chia thành 2 loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường có cạnh trạnh hoàn hảo là thị trường có quá nhiều người bán và người mua cùng một hàng hoá đồng nhất đến mức không ai có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Nếu có ít nhất một người bán lớn đến mức có thể ảnh hưởng tới giá thị trường thì xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo(tình trạng độc quyền). Độc quyền được biểu hiện dưới các dạng: độc quyền tuyệt đối (một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp) ; độc quyền nhóm (một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước(sự câu kết giữa một nhóm tài phiệt tư bản với nhà nước tư bản). Để đạt được lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, những nhà kinh doanh phải thông qua cạnh tranh. Vì vậy cạnh tranh trở thành một yếu tố không thể thiếu trong sự vận động của thị trường và là đối tượng của nhiều môn khoa học kinh tế và luật pháp. Adam Smith, cha đẻ của cuốn “ Của cải của các dân tộc”, 1776, đã có những nhận xét vô cùng xác đáng: “Trong cuộc cạnh tranh, mỗi cá nhân cố gắng vì lợi ích của riêng mình đã vô tình đem lại lợi ích lớn nhất cho xã hội.” Adam Smith, “Của cải của các dân tộc”.1776 . Theo ông một thị trường tự do là một đòi hỏi cho sự tăng trưởng chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, Paul A. Samuelson lại cho rằng sự can thiệp của chính phủ là cần thiết “người ta không chỉ vỗ bằng một bàn tay” và đã đưa ra học thuyết “2 bàn tay” nổi tiếng. Điều này có thể được giải thích bằng sự mất ổn định của môi trường cạnh tranh tự do được biết đến dưới cái tên ”thất bại thị trường”, dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ. Ta cũng có thể có những nhận định sau: Trên thực tế, không có một thị trường nào là cạnh tranh hoàn hảo hay hoàn toàn độc quyền. Mọi nền kinh tế thị trường đều ở trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo. “Cả hai loại lực lượng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong việc xác định phần lớn giá cả” Paul A. Samuelson, “Kinh tế học” , tập II. . Như vậy, đánh giá một thị trường có tính cạnh tranh hay độc quyền chỉ là tương đối. Về nguyên tắc, một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh một mặt tạo động lực của sự phát triển kinh tế, mặt khác là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người cung cấp và người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Theo quy luật chung, cạnh tranh luôn có xu hướng dẫn đến độc quyền một mặt do tác động của quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô, mặt khác độc quyền là hình thức đem lại cho các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế cuộc cạnh tranh trên thị trường là cuộc ganh đua giành vị trí độc tôn. Đây cũng chính là một khía cạnh không hoàn hảo của cạnh tranh. Cạnh tranh bằng phương thức độc quyền có thể gây ra những tác hại to lớn: nhà cung cấp tạo sự khan hiếm giả bằng cách hạn chế số lượng hàng hoá và đặt mức giá cao một cách giả tạo để kiếm lời một cách không chính đáng; do không bị cạnh tranh nên nhà sản xuất không có nhu cầu sáng tạo, đổ mới công nghệ nên hạn chế áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật và giảm năng suất lao động. Vai trò điều tiết của chính phủ là vô cùng quan trọng nhằm hạn chế những điểm không hoàn hảo của thị trường. Nhiệm vụ tạo lập môi trường kinh tế có cạnh tranh, chống độc quyền chắc chắn thuộc về những chức năng riêng của chính phủ. ở các nền kinh tế phát triển, luật chống độc quyền luôn được đặc biệt chú ý. Cùng với khái niệm cạnh tranh, “lợi thế cạnh tranh” đã trở thành một nội dung quan trọng đối với bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đang hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên sau vài thập kỷ trước của sự phồn thịnh và bành trướng mạnh mẽ, nhiều công ty đã đánh mất cái nhìn đúng đắn về lợi thế cạnh tranh trong việc tranh đấu để đạt được sự tăng trưởng và theo đuổi mục đích đa dạng hoá. Các công ty trên toàn thế giới phải đối mặt với sự tăng trưởng ngày càng chậm cũng như việc các dối thủ cạnh tranh trong nước và trên thế giới không còn hành động như thể chiếc bánh lợi nhuận còn đủ lớn cho tất cả. Và như vậy, lợi thế cạnh tranh lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Vậy thì trước hết, lợi thế cạnh tranh là gì? Từ điển kinh doanh của nhà xuất bản Longman cho rằng lợi thế cạnh tranh là “một khía cạnh của một sản phẩm hay một dịch vụ do một công ty cung cấp đã mang lại lợi thế cho công ty đó so với các đối thủ khác”. Nhưng theo Micheal Porter, một nhà nghiên cứu kinh tế chuyên sâu về cạnh tranh thì “về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát triển nhờ vào những sản phẩm mà công ty có thể cung cấp cho người mua có giá trị cao hơn chi phí công ty phải chịu để tạo ra được sản phẩm đó” Micheal Porter, “Competitive strategies”, 1985 . Giá trị của sản phẩm là thứ người mua sẵn sàng trả tiền, và lợi nhuận tăng thêm xuất phát từ việc mời chào giá cả thấp hơn của đối thủ cạnh tranh để giành được lợi nhuận tương đương hoặc cung cấp những dịch vụ duy nhất có lợi ích lớn hơn đủ bù đắp cho giá thành cao hơn. Như vậy, có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá và sự phân biệt. Ta sẽ tiếp tục phân tích việc thực hiện 2 hình thức này trong cạnh tranh giữa các ngân hàng ở phần sau. Tổng hợp các ý kiến trên, ta nhận thấy, lợi thế cạnh tranh của một công ty là những đặc tính nổi trội hơn về mặt giá cả hay tính năng khác biệt của sản phẩm giúp cho công ty đứng vững trên thị trường và giành được ưu thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Cũng như doanh nghiệp hay các công ty trong một nền kinh tế, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên ngân hàng cũng gặp phải những khó khăn trên thị trường với vô số những đối thủ cạnh tranh đang ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy vấn đề cạnh tranh đối với ngân hàng cũng vô cùng cấp thiết. Ta hãy cùng tìm hiểu cạnh tranh trong ngân hàng thì có gì khác biệt với các ngành kinh tế khác. 1.2.1.2. Khái niệm "cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại" Môi trường kinh tế của một ngân hàng chịu sự tác động của một số yếu tố trong đó không thể không kể đến môi trường hoạt động của bản thân các ngân hàng. Ngành ngân hàng các nước phát triển theo những phương thức không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên luôn tồn tại một lực lượng quan trọng là ngân hàng Nhà nước hay ngân hàng trung ương điều hành mọi hoạt động về mặt chính sách của khối ngân hàng nói chung. Các ngân hàng thương mại có thể thuộc nhà nước hay do tư nhân lãnh đạo dưới hình thức hội đồng quản trị nhưng đều liên quan mật thiết đến mọi hoạt động của nền kinh tế và không chỉ một ngân hàng có thể tạo nên thị trường mà cần có sự tham gia hoạt động của các ngân hàng khác. Nơi đâu có dân cư và sản xuất kinh doanh, nơi đó có ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng phát triển đang đặt các ngân hàng vào một tình thế khó khăn: những nghiệp vụ trước kia do ngân hàng đảm nhận nay được các tổ chức khác thực hiện dưới những hình thức ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hướng tới những thị trường mà ngân hàng đã bỏ ngỏ. Rõ ràng ngân hàng đang phải cùng lúc cạnh tranh với nhiều lực lượng: các ngân hàng trong cùng khối và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có những thế mạnh riêng. Có thể nói, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là sự nỗ lực hoạt động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy. Sức mạnh đồng bộ của toàn bộ ngân hàng được phát huy khi ngân hàng tận dụng được hết những khả năng sắn có của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh. Mỗi ngân hàng đều có những lợi thế riêng và đều có khả năng tận dụng những lợi thế ấy nếu có những nhận thức thực sự hiệu quả và đúng đắn, tức là mỗi ngân hàng đều có khả năng phát triển mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của ngân hàng được đánh giá như một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không phải đã được tán thưởng từ lâu. Đặc điểm của ngành ngân hàng là một môi trường hoạt động trong đó các ngân hàng vừa là nhà cung ứng vừa là khách hàng của nhau. Vì vậy hoạt động của mỗi ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới các ngân hàng khác và toàn bộ hệ thống. Một câu hỏi luôn được đặt ra đối với những người quan tâm: “Có cần thiết phải có cạnh tranh giữa các ngân hàng?” . Để trả lời cho câu hỏi này, ta lại phải bắt đầu giải quyết câu hỏi khác : “Cạnh tranh giữa các ngân hàng là xấu hay tốt, lợi hay hại?”. Qua đó, tính tất yếu của cạnh tranh trong ngành ngân hàng sẽ được minh chứng. Hoạt động ngân hàng liên quan rất mật thiết tới những đánh giá độ an toàn, đặc biệt là sự an toàn liên quan tới tương lai. Theo ý kiến của nhiều người, sự bất ổn định chắn chắn sẽ xảy ra do cạnh tranh trong cùng hệ thống, ít nhất là ở cấp độ cá nhân hãng kinh doanh, thật sự không dễ chịu đối với hoạt động ngân hàng. Theo lời của thống đốc ngân hàng Italy những năm 50 thì cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng đáng sợ như là nguồn gốc tiểm ẩn của những sự sụp đổ nghiêm trọng. Các nước trên thế giới đã có những hành động ngăn chặn cạnh tranh trong ngành ngân hàng nhằm bảo đảm cho một môi trường hoạt động "an toàn" cho các nhà tài chính. Một cách cụ thể hơn, sự giám sát chặt chẽ đã được áp dụng: các cải cách luật pháp được áp dụng ở hầu hết các nước sau cuộc khủng hoảng tài chính và ngân hàng những năm 30 cùng chia sẻ một ý cơ bản là “nhằm duy trì sự ổn định trong ngành ngân hàng và tài chính, cạnh tranh bị giới hạn” Tommaso Padoa-Schioppa,thành viên uỷ ban điều hành ngân hàng trung ương chân Âu, “Competiton among banks, good or bad?” . Người ta tin tưởng rằng trong một môi trường độc quyền nhóm bán, các ngân hàng có thể thu thêm được nhiều lợi nhuận, điều này làm thúc đẩy sự ổn định của bản thân các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung. Thị phần phân chia giữa các ngân hàng tỏ ra là đủ cho mọi thành viên của thị trường và không ai phải cạnh tranh để làm mất thế ổn định đã được định sẵn. Trong điều kiện này, bản thân các ngân hàng có thể giảm bớt các tổn thất dễ dàng hơn và ngành ngân hàng luôn luôn có những quỹ đủ để ứng cứu cho một tổ chức yếu kém trong những trường hợp hiếm hoi có khó khăn xảy ra. Khi đó, một phương pháp thường được dùng để giải quyết khủng hoảng của một ngân hàng là kêu gọi các tổ chức khác và thuyết phục họ tiếp quản “tổ chức có vấn đề”. Cho đến gần đây, việc hạn chế cạnh tranh vẫn được duy trì và ủng hộ. Các nhà hoạch định chính sách hạn chế cạnh tranh trong ngân hàng bằng nhiều cách. Có thể ví dụ ra đây như: hạn chế việc cấp giấy phép ngân hàng và phân biệt giữa các dịch vụ tài chính về mặt luật pháp (như giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư) như ở Mỹ cho đến thời gian gần đây, và nhiều nước khác không áp dụng hệ thống ngân hàng toàn cầu. Một loại ràng buộc khác được sử dụng rộng rãi là phân loại thị trường theo địa lý. Nó được áp dụng khi có lệnh cấm hoạt động ngân hàng và mở chi nhánh giữa các bang ở Mỹ. Tại các nước khác, ngân hàng thường bị giới hạn chỉ được cho vay một khoản tiền hạn chế ở ngoài khu vực có trụ sở chính, trong khi việc thành lập các chi nhánh mới bị giới hạn thông qua các thủ tục hành chính đặc biệt. Trong nhiều trường hợp, người giám sát có quyền kiểm tra một số lượng rất lớn các hoạt động ngân hàng và mỗi hành động thuộc loại này lại được uỷ quyền rõ ràng. Trong khi đó, chính sách tiền tệ cũng gắn liền với quan điểm cạnh tranh là xấu. Công cụ chủ yếu để quản lý tiền tệ là trần lãi suất, quy định một lãi suất cao nhất được phép cho hoạt động tín dụng. Hơn nữa, lãi suất trao đổi được cố định không phải với ý nghĩa là có một lãi suất trung tâm cố định mà trên thực tế được quyết định bởi ngân hàng trung ương trong từng ngày. Một trong những yếu tố quan trọng nhất là chính sách cạnh tranh: cho đến khi luật cạnh tranh được quan tâm thì có lẽ Mỹ là nước duy nhất ban hành luật Chống độc quyền từ những năm 30. Nhiều nước ở châu Âu chỉ ban bố luật cạnh tranh vào khoảng 2 thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong khi ở Italy, cơ quan chống độc quyền đầu tiên được thành lập năm 1990. Tương tự, ở những nơi có cơ quan luật pháp và cơ quan chức năng trong việc bảo hộ cạnh tranh thì thường là những phán quyết của họ không hề được chính thức mở rộng ra lĩnh vực ngân hàng. ở những nơi có cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm về vấn đề cạnh tranh thì bản thân cơ quan đó lại làm nhiệm vụ giám sát . Thậm chí ở Mỹ, hệ thống dự trữ liên bang(FED) cũng có một số thẩm quyền pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh của một vài ngân hàng mà nó kiểm soát. Mô hình này cũng được áp dụng ở Italy và Hà Lan là những nơi mà ngân hàng trung ương được uỷ quyền với rất nhiều nhiệm vụ trong lĩnh vực cạnh tranh. Thậm chí ở những nơi có cơ sở mạnh mẽ của quyền cạnh tranh n._.hư trường hợp EU từ năm 1958 thì cũng thường không được mở rộng ra lĩnh vực ngân hàng. Cho đến tận những năm 1980 toà án tư pháp chân Âu mới tuyên bố không nên loại trừ hoạt động ngân hàng ra khỏi phạm vi thực thi của các điều khoản trong Hiệp ước liên quan đến cạnh tranh. Tuy nhiên những quan niệm trên đã dần bị thay đổi theo thời gian. Giữa hệ tư tưởng cũ và mới đang ngày có nhiều xung đột và có những khác biệt quan trọng. Những chính sách mới đang ngày càng được áp dụng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Chính sự phân biệt giữa cái cũ “cạnh tranh trong ngân hàng là xấu” và cái mới “cạnh tranh là tốt” là đã chứng tỏ một tất yếu khách quan: cạnh tranh giúp cho các ngân hàng tồn tại và phát triển. Các ngân hàng phát triển mạnh trong thời kỳ thống trị của mình khi các ngành công nghiệp phụ thuộc vào ngân hàng là chính để có được nguồn vốn hỗ trợ sản xuất. Ngân hàng tồn tại ở thế độc tôn và phát triển mạnh mẽ trong những năm 50-60, khi mà chiếc bánh thị phần còn đủ chia cho các thành viên kể cả những ngân hàng hoạt động không mấy linh hoạt. Tuy nhiên sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các ngân hàng thương mại khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới cũng như các dịch vụ truyền thống do các ngân hàng đảm nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người mua sản phẩm tức là các doanh nghiệp và hộ gia đình có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn. Tốc độ phát triển của ngành ngân hàng chững lại. Giờ đây những kẻ bại trận là các ngân hàng không thể nhận thức được rằng vị thế trước kia của mình không còn như cũ và phải đổi mới và thực sự chiến đấu, tức là cạnh tranh, để có thể đứng vững và tiếp tục phát triển. Ngày nay người ta cho rằng khi các ngân hàng mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh thì hệ thống ngân hàng sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế. Tất nhiên cạnh tranh là có chọn lựa. Quan niệm trên đồng nghĩa với việc các nhà chức trách phải chấp nhận cho những ngân hàng yếu kém nhất rời khỏi thị trường. Một trong những chuyển biến quan trọng nhất được thể hiện qua việc chính sách cạnh tranh được áp dụng cho ngành ngân hàng, và các giám sát viên chứng khoán coi ngân hàng không khác bất cứ một công ty hữu hạn nào khác. Một trong những đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thông tin. Tất cả mọi người đều nắm được thông tin và đều tận dụng các thông tin ấy, nhờ đó không một cá nhân nào có thể ảnh hưởng đến thị trường. Nhưng thị trường không thể hoàn hảo do thông tin bất cân xứng. Để có một thị trường cạnh tranh lành mạnh, người ta quan niệm là phải có thật nhiều thông tin và phải thật đầy đủ và chính xác. Từ quan điểm trên, giám sát viên thông tin tới mức độ rõ ràng nhất và điều đó càng cung cấp một bức tranh chi tiết hơn về vị trí của ngân hàng phát hành cổ phiếu mới. Mặt khác, có một truyền thống của giám sát viên ngân hàng là nếu ngân hàng có điểm nào yếu kém, có lẽ tốt nhất là không nên để cho thị trường biết. Do đó có một cuộc tranh luận tự nhiên, hay thậm chí là sự căng thẳng giữa 2 loại giám sát viên ngân hàng này. Chừng nào giám sát về chứng khoán không đưa ra những quyền hạn đối với ngân hàng, cho dù vì ngân hàng là một tổ chức công cộng hay do có truyền thống là chúng có những đặc quyền khác với các công ty hữu hạn, thì sự căng thẳng này sẽ không tăng lên. Ngoài lí do tồn tại khiến các ngân hàng phải cạnh tranh, các ngân hàng dù đã có những thoả thuận để tránh cạnh tranh lẫn nhau nhưng trong một nền kinh tế không ai kinh doanh không vì để tăng thêm tài sản của mình, khối ngân hàng cũng không thể loại trừ. Đây là một tất yếu của nền kinh tế. Không ngân hàng nào lại có thể bỏ qua các cơ hội đem lại cho mình nhiều lợi ích hơn và hoạt động chỉ dựa theo nguyên tắc đạo đức thuần tuý. Có thể nói rằng các ngân hàng cạnh tranh không phải để xoá bỏ sự có mặt của đối phương trên thị trường mà trước hết là khẳng định được mình, để vượt lên đối phương. Thực chất ngân hàng cần thiết phải tồn tại theo một hệ thống để tạo cơ sở giúp đỡ lẫn nhau. Và khi đã có ngân hàng này tận dụng cơ hội thì ngân hàng kia cũng không thể bỏ ngơ trước những điều kiện mà với sức mạnh riêng của mình họ có thể thu lợi nhiều hơn. Cho dù đây là một thị trường độc quyền nhóm, các bộ phận có thể phân chia một cách hoà bình với nhau trong nhiều lĩnh vực nhưng sự xuất hiện nhanh chóng và phát triển chóng mặt của các tổ chức khác và xu thế phát triển không ngừng để tồn tại không cho phép bất cứ ngân hàng nào có thể đứng ngoài cuộc cạnh tranh. Ngoài ra, sự ổn định về vị trí trên thị trường góp phần làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng chây ỳ trước sự phát triển đầy tính biến động của nền kinh tế. Không lường trước được sự phát triển của các tổ chức khác, bộ máy lãnh đạo và hoạt động không linh hoạt, sản phẩm không sáng tạo và tiện dụng hơn các dịch vụ khác ngày càng phát triển trên thị trường cùng với một phương thức kinh doanh sai lầm không tiến bộ đã đẩy nhiều ngân hàng vào tình trạng khó khăn. Thị phần bị xâm phạm, thu nhập giảm và mất khách hàng là những biểu hiện tiêu biểu của một ngân hàng đang bị các đối thủ cạnh tranh chèn ép. Không một ngân hàng nào muốn mình ở trong một tình thế bấp bênh như thế. Muốn khẳng định lại mình, ngân hàng phải có những hành động quyết liệt giành lại thị phần và thu hút lại các khách hàng đã mất cũng như tạo thêm được nhiều mối quan hệ mới. Như vậy, chính ngân hàng cũng đã tham gia vào hoạt động cạnh tranh một cách tự phát và tất yếu. Nhưng để hành động có hiệu quả và đạt được những thành tựu đáng kể, ngân hàng còn cần nhiều hơn là ý thức cạnh tranh. Đó chính là khả năng tận dụng những lợi thế cạnh tranh của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhưng nói cách khác, sự lựa chọn trong hệ thống ngân hàng có thể được hiểu là phải loại bỏ những ngân hàng yếu kém và chỉ để lại những ngân hàng mạnh nhất và có đủ khả năng nhất điều khiển thị trường. Khi đó thị trường này lại có xu hướng trở thành thị trường độc quyền nhóm, các ngân hàng có thoả thuận với nhau, cùng nhau ngăn chặn sự xâm nhập của các tổ chức mới và lại tiếp tục lũng đoạn thị trường. Như vậy cạnh tranh trong thị trường ngân hàng đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước nhằm giữ vững được sự công bằng trong cạnh tranh trên thị trường. Ngành ngân hàng tạo lập nên một thị trường đặc biệt, trong đó các sản phẩm mang tính tương tự và bổ sung cho nhau. Các ngân hàng vừa là các đối thủ cạnh tranh vừa là bạn hàng của nhau. Một mặt, các thành viên của thị trường tích cực cạnh tranh để có thể khẳng định vị trí của mình trên thị trường và chiếm lĩnh thị trường tuỳ thuộc mục tiêu của từng cá nhân thành viên. Mặt khác, với tư cách là một bộ phận của bộ máy vận hành thị trường tài chính mà mỗi mắt xích liên quan đến nhau và bảo đảm cho sự hoạt động xuyên suốt của cả thị trường, mỗi ngân hàng cũng phải dựa vào nhau và tương trợ cho nhau những lúc khó khăn, trước hết là để đảm bảo những biến đổi bất thường này không ảnh hưởng quá mạnh đến hoạt động của thị trường và của nền kinh tế mà theo lý thuyết hệ thống là cũng ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân ngân hàng, bên cạnh đó còn tạo lập quan hệ lâu dài và có hi vọng ở sự giúp đỡ ứng cứu trong tương lai. Đây chính là một khía cạnh đặc biệt của khái niệm cạnh tranh được vận dụng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. 1.2.1.3. Khái niệm cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn? Tín dụng trung và dài hạn là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng nào cũng phải sử dụng nghiệp vụ này nhằm sử dụng nguồn vốn huy động được đem lại thu nhập cho ngân hàng. Vì thế cạnh tranh trong hoạt động tín dụng cũng chính là việc tận dụng hết những lợi thế của ngân hàng về nguồn vốn, hệ thống thông tin… để chiếm lĩnh thị trường cho vay trung và dài hạn đảm bảo cho ngân hàng thu được nguồn lợi nhuận lớn nhất khi cung cấp các dịch vụ và thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng ở đây được hiểu theo nghĩa là đòi hỏi của khách hàng về chất lượng tín dụng. Ngân hàng không những phải quan tâm đến việc mình cung cấp cho khách hàng dịch vụ gì mà còn phải chú ý mình cung cấp dịch vụ đó theo cách nào, cho ai và vì mục đích gì. Chỉ có như vậy khách hàng mới thực sự cảm nhận được nỗ lực của ngân hàng trong mối quan hệ hai bên cùng có lợi này. Không chỉ khách hàng cần ngân hàng mà ngân hàng còn cần có khách hàng để tồn tại. Trong môi trường cạnh tranh thì nhận thức này lại cần được các ngân hàng nhận thức được một cách triệt để. 1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại a) Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn Đây là chỉ tiêu cho biết rõ nét nhất về kết quả cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Giá trị của các khoản cho vay phản ánh phần nào khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng cũng như cho biết ngân hàng có khoản vốn huy động mạnh đến thế nào mới có thể cung ứng một cách đầy đủ cho những khoản vay trên. Kết hợp với chỉ tiêu thị phần, khối lượng của dư nợ tín dụng trung và dài hạn khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường. b) Chất lượng khách hàng Chỉ cần nhìn vào các khách hàng của một ngân hàng, người ta đã có mường tượng được phần nào khả năng thu hồi nợ của ngân hàng và qua đó biết được hoạt động cho vay của ngân hàng có đáng tin cậy không cũng như những thế mạnh khác của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn thông tin tốt về khách hàng mới có thể bảo đảm về khả năng tài chính của khách hàng và quyết định cho vay. Khách hàng còn cho biết ngân hàng quan hệ với khách hàng tốt như thế nào nhờ vào khả năng của đội ngũ lãnh đạo. qua danh sách khách hàng ta còn có thể có thông tin về uy tín và danh tiếng của ngân hàng. Chất lượng khách hàng được đánh giá thông qua uy tín, danh tiếng và tình hình tài chính và một loạt những thông số khác về khách hàng mà ngân hàng phải tìm hiểu được trước khi cho vay. Khách hàng tốt nên là một doanh nghiệp có tiếng tăm trên thị trường, vì cũng giống như ngân hàng, uy tín của doanh nghiệp cũng do những thành quả đạt được trong quá khứ gây dựng nên. Không một ngân hàng nào muốn mạo hiểm cho một doanh nghiệp không có tên tuổi và chỗ đứng trên thị trường hay một doanh nghiệp đã có tiếng xấu trong hoạt động trước đây vay vốn với lí do một trong những mục tiêu hoạt động của ngân hàng là an toàn. Tình hình tài chính của khách hàng có ổn định mới bảo đảm khách hàng hoạt động có hiệu quả và do đó có khả năng trả nợ cho khách hàng khi có một dự án khả thi và một phương án trả nợ vay hợp lý. c) Trình độ của cán bộ tín dụng Chỉ tiêu này được biểu hiện thông qua trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng có trình độ cao bảo đảm cho quá trình thẩm định dự án không sai sót và có độ tin cậy cao. Trình độ của cán bộ tín dụng còn thể hiện chính sách đào tạo và đãi ngộ cũng như khả năng thu hút nhân tài của ngân hàng, tạo thành một lực lượng làm nên một nửa thành công của ngân hàng: đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. d) Thị phần tín dụng Các ngân hàng cạnh tranh với nhau mà một trong những kết quả của cuộc cạnh tranh đó được phản ánh trên thị phần của mỗi ngân hàng. Thị phần cho biết độ tập trung về phía mỗi ngân hàng trong một lĩnh vực hoạt động thông qua tỷ lệ phần trăm của từng ngân hàng đó so với cả một tổng thể ví dụ như khối ngân hàng quốc doanh chẳng hạn. Thị phần cũng cho biết khả năng chiếm giữ thị trường của một ngân hàng cụ thể. Lẽ tất nhiên, không phải ngân hàng nào có thị phần lớn hơn sẽ tập trung được nhiều ảnh hưởng về mình nhưng điều này cũng cho thấy vị thế và sự ổn định của ngân hàng này trên thị trường. Vì vậy thị phần luôn là một mục tiêu được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm để đạt được lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ta quan tâm chủ yếu đến thị phần tín dụng trung và dài hạn của mỗi ngân hàng hay thị phần tín dụng nói chung, từ đó có thể có những nhận xét khách quan về hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này tại ngân hàng. e) Khả năng giải quyết nợ xấu Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các biện pháp mà ngân hàng đã sử dụng từ xưa tới nay trong quá khứ để giải quyết nợ xấu, góp phần nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng, đem lại lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Khi một ngân hàng có thể làm tốt công tác này chứng tỏ ngân hàng đó có những quyết sách phù hợp và linh hoạt nhằm cải cách hệ thống hoạt động của ngân hàng. Như trên đã khẳng định, khả năng cạnh tranh của một ngân hàng không phải là một chỉ tiêu đơn lẻ mà nó được đánh giá tổng hợp thông qua sự kết hợp các chỉ tiêu nói trên. Chỉ có như vậy chỗ đứng của ngân hàng trên thị trường mới có thể được phản ánh một cách chính xác và đầy đủ, chi tiết, cung cấp cho chúng ta những nhận xét thấu đáo hơn về hoạt động của một ngân hàng trong tương lai. 1.2.3. Các công cụ cạnh tranhcủa ngân hàng thương mại Trong sách “Lợi thế cạnh tranh”, nhà kinh tế học Micheal Porter đã nhận xét: trong cạnh tranh, mỗi công ty có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá hay sự khác biệt. Cho dù công ty có vô số những điểm mạnh và điểm yếu so với các đối thủ cạnh tranh thì công ty chỉ có thể có một trong hai hình thức cạnh tranh trên. Tầm quan trọng của bất kỳ một điểm mạnh hay yếu nào cũng là do ảnh hưởng của công ty lên giá cả hay sự khác biệt. Đến lượt mình, ưu thế về giá và sự khác biệt lại xuất phát từ cấu trúc của ngành đó. Nó phản ánh khả năng của công ty khi đương đầu với 5 lực lượng thị trường tốt hơn so với các đối thủ của mình. 2 hình thức cạnh tranh trên gắn liền với quy mô hoạt động mà công ty tìm kiếm nhằm chỉ đạo 3 chiến lược cạnh tranh nói chung: chiến lược về giá, chiến lược phân biệt và chiến lược trọng điểm. Mỗi loại chiến lược lại phù hợp với từng mục tiêu cạnh tranh mà công ty vươn tới với những cách thức khác nhau. a) Cạnh tranh bằng lãi suất Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lược rõ ràng nhất, trong đó công ty cố gắng trở thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các ngành sản xuất khác, đây có thể là một trong những chiến lược hiệu quả nhất và giá cả có thể được sử dụng như một yếu tố cơ bản đánh giá trình độ cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên ngành ngân hàng có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi phải có những phân tích khác. Dữ liệu về giá của các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các ngành khác nhưng rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng. Các ngân hàng khó có thể sử dụng công cụ này trong cạnh tranh vì những đặc thù rất riêng của ngành ngân hàng. Sản phẩm của các ngân hàng hầu như là giống nhau tạo nên sự đơn điệu chung trên thị trường sản phẩm nhưng những ngân hàng có ý định hạ giá để tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình sẽ không thành công. Ngân hàng nào cũng có tiềm năng cạnh tranh về giá nên giá cho vay chung trên thị trường chính là giá thấp nhất đảm bảo cho ngân hàng vẫn còn có thể có lãi từ hoạt động cho vay. Bất cứ ngân hàng nào muốn phá vỡ thế ổn định đó sẽ kéo theo sự chuyển động của cả một hệ thống và tính suy yếu cũng mang tính hệ thống sâu sắc. Vượt qua giới hạn cuối cùng, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và tiếp đó là khả năng tài chính giảm sút, làm mất đi khả năng cạnh tranh trong tương lai do không thể đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy là các ngân hàng có thể sử dụng những lãi suất khác nhau cho những khách hàng khác nhau trong những khoản vay thoạt trông là cùng loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các nhân tố rủi ro khác nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo đảm, thời điểm trả nợ,v.v…Khách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn không cần vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thường nhận được lãi suất thấp hơn so với những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn nào. Những sự lựa chọn trên cho phép khách hàng “mua hàng” giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác để có được những điều kiện tốt nhất. Nếu điều này xảy ra ở quy mô lớn, sự khác biệt về lãi suất của mỗi ngân hàng đối với các khoản cho vay sẽ có xu hướng thu hẹp lại và sẽ chỉ có một sự khác biệt không đáng kể về lãi suất giữa các ngân hàng trên cùng một thị trường. Nói cách khác, quyền lực của độc quyền bán quan hệ nghịch đảo với khả năng lựa chọn của khách hàng. Tóm lại, đối với ngành ngân hàng, cạnh tranh bằng lãi suất không phải là một công cụ đem lại lợi ích mong muốn. . Một minh chứng dẽ thấy nhất là tại các nước phát triển, lãi suất không phải là một công cụ được ưa thích và trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất LIBOR và SIBOR không cách biệt nhau bao nhiêu. Để có thể sử dụng công cụ này có hiệu quả trong cạnh tranh là một điều vô cùng khó khăn, trong những trường hợp cụ thể thì biện pháp an toàn và thực tế nhất là bám theo lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ươngĐây cũng chính là cách thức mà các ngân hàng trên thế giới đang sử dụng trong cho vay trung và dài hạn nhằm bảo đảm được kết quả hoạt động kinh doanh nhưng cũng không vượt quá khỏi ngưỡng của lãi suất cạnh tranh. b) Cạnh tranh bằng sự phân biệt Như trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo được sự khác biệt với các ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lược riêng thật hiệu quả nhằm đạt được sự tán thưởng và ủng hộ cao nhất của khách hàng, từ đó mới có thể hi vọng sẽ tạo được chỗ đứng trên thị trường và hoạt động có chất lượng, vượt lên hẳn các đối thủ cạnh tranh trước đó. Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một số công cụ chủ yếu của ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn như sau: uy tín của ngân hàng, năng lực của bộ máy lãnh đạo, nguồn vốn tự có và huy động , hệ thống thu thập và xử lý thông tin, khả năng phân tích rủi ro, chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ ngân hàng và đổi mới công nghệ, và công tác quản trị chiến lược. (1) Uy tín của ngân hàng Uy tín của một tổ chức tài chính có lẽ là tài sản quan trọng nhất và cũng là tài sản vô hình nhất của nó, một loại tài sản có thể phân biệt được những đối thủ thành công nhất trong ngành dịch vụ tài chính so với những người còn lại. Nó là sản phẩm của những thành tích tích luỹ được trong quá khứ của một tổ chức. Uy tín có thể nâng cao từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nói chung là được rút ra từ một khả năng và chuyên môn cụ thể mà thị trường đánh giá cao và bản thân tổ chức đó đã phát triển trong một thời gian. Khái niệm về uy tín đã được sử dụng để giải thích cho rất nhiều hiện tượng cạnh tranh và thường được liên hệ với vị trí của ngân hàng trên thị trường như là kết quả của sự phối hợp đồng bộ của tất cả các thành phần như công nghệ tài chính và đổi mới, hệ thống thông tin, chất lượng nguồn nhân lực, khả năng phân tích rủi ro và cơ sở về vốn. Uy tín, hay còn được gọi là “good will”, gắn kết chặt chẽ với ngân hàng như là một sản phẩm của những hoạt động trong quá khứ được phản ánh trong tương lai. Uy tín của một ngân hàng thường được quyết định qua nhận xét của những khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng. Một khi ngân hàng đã tạo được vị trí trong lòng khách hàng, điều này sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc quảng cáo và bán sản phẩm mới. Thị trường của ngân hàng rộng lớn và phức tạp với rất nhiều kênh thông tin dày đặc cũng có tính 2 mặt của nó. Nếu ngân hàng hoạt động tốt và phục vụ khách hàng tận tình chu đáo, điểm tốt mà ngân hàng thu được sẽ lan rộng nhanh chóng. Nhưng khi ngân hàng sơ sót thì danh tiếng của ngân hàng còn bị hạ thấp nhanh chóng hơn. Trên thị trường tín dụng trung và dài hạn, uy tín của ngân hàng giúp cho khách hàng có những lựa chọn tốt nhất để quyết định vay vốn đầu tư. (2) Bộ máy lãnh đạo Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều lợi thế như địa điểm, nguồn vốn tự có… để có thể phát huy thành một lợi thế cạnh tranh của mình. Vậy trong trường hợp này, các ngân hàng trên làm thế nào để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển giữa những lực lượng hùng hậu khác? Một trong những chiếc chìa khoá của sự thành công chính là năng lực sáng tạo và điều hành của bộ máy lãnh đạo ngân hàng. Sức mạnh của bộ máy này là biết đánh giá, kết hợp một cách tài tình tất cả mọi nguồn lực có trong tổ chức và phát huy tối đa khả năng của từng bộ phận vào kết quả tổng hợp chung của ngân hàng. Để có thể thành công trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng cần có những tố chất sau đây: Khả năng chuyên môn: tuy có ý kiến cho rằng người quản lý ngày nay không cần thiết phải có những hiểu biết chuyên sâu nhưng thực chất, muốn có một sự sắp xếp cho cơ chế hoạt động của bất cứ một bộ máy thì người quản lý phải có những hiểu biết nhất định, nhờ thế mới có thể phát huy được khả năng của từng bộ phận trong tổ chức. Khi mỗi cá nhân và bộ phận được đặt vào đúng vị trí và năng lực hoạt động của mình , họ mới có thể phát huy hết khả năng phục vụ cho lợi ích của ngân hàng cũng như là lợi ích của chính họ. Khả năng phán đoán: ban lãnh đạo ngân hàng cần phải có tầm nhìn xa chiến lược, nhờ đó có thể phán đoán tương đối chính xác các xu hướng của thị trường, có khả năng phân tích và dự đoán tác động của các biến đổi hiện tại, từ đó đưa ra các chiến lược ở tầm vĩ mô nhằm trang bị cho ngân hàng những vũ khí hiệu quả nhất giữ vững vị trí trên thị trường. Khả năng, nghệ thuật đối nhân xử thế: khả năng này không những thể hiện trong phương pháp bố trí nhân lực, khuyến khích cố gắng của nhân viên trong ngân hàng để thu được hiệu quả làm việc xuất sắc nhất mà còn được áp dụng trong giao tiếp đối với khách hàng và các cấp có thẩm quyền. Hoạt động ngân hàng diễn ra ở trung tâm của xã hội, mối quan hệ của ngân hàng với các thành phần kinh tế khác lại dày đặc cũng như chịu ảnh hưởng tác động của các bộ ngành khác nhau trong nền kinh tế nên sự khéo léo và uyển chuyển trong giao tiếp của cán bộ lãnh đạo ngân hàng sẽ mang lại cho ngân hàng những ưu thế đặc biệt trong mối quan hệ với khách hàng và bộ máy chính quyền trung ương và địa phương. Điều này cho thấy ngân hàng không chỉ đơn thuần thực hiện công việc kinh doanh mà ngân hàng phải thực hiện công việc kinh doanh đó một cách nghệ thuật. Như vậy chính là cán bộ lãnh đạo ngân hàng đã thể hiện được văn hoá trong kinh doanh của ngân hàng. (3) Nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động Trong những năm gần đây, các tổ chức tài chính và các bộ phận của chúng đã bắt đầu có sự chú ý ngày càng tăng đối với việc sử dụng nguồn vốn như là một sức mạnh cạnh tranh giống như năng lực điều hành. Điều này luôn là sự thật đối với các hoạt động được thể hiện trên bảng cân đối tài chính, ví dụ như giới hạn cho vay trên nguồn vốn trong trường hợp các khoản cho vay, và cũng chính trong lĩnh vực này, chất lượng chung của các tài sản ngân hàng đã xấu đi trông thấy ỏ nhiều nước. Tuy nhiên cũng có những lí do tại sao ngân hàng thương mại lại miễn cưỡng trong việc tăng nguồn vốn cơ bản. Họ sẽ phải đối mặt với việc thu nhập bị loãng đi và với tầm quan trọng của chính sách đòn bẩy, và một vài tổ chức đã phát hành các món nợ hạng dưới, các giấy tờ thanh toán có lãi suất thả nổi vô thời hạn và những hình thức nợ khác có thể được coi như vốn chủ sở hữu. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn mà đối tượng cho vay là các dự án có quy mô vốn vay lớn thì điều kiện này lại càng quan trọng. Ngân hàng phải có đủ lượng vốn cần thiết mà không mong được hoàn trả ngay trong một thời gian dài, thường xuyên phải xem xét cho gia hạn nợ. Ngân hàng cũng phải đảm bảo trong khoảng thời gian đó không bị thiếu hụt ngân quỹ cho các hoạt động bình thường khác của ngân hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn đang ngày càng trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng trong cho vay trung và dài hạn. (4) Khả năng phân tích rủi ro Các tổ chức tài chính tự tài trợ cho mình bằng cách tạo lập ra các tài sản tài chính do người khác nắm giữ. Những trừơng hợp dễ nhận thấy nhất là tài khoản tiền gửi của khách hàng, giao dịch liên ngân hàng, và phát hành chứng chỉ tiền gửi cũng như cổ phiếu. Do đó các tài sản cũng được xếp loại từ các tài sản có lãi suất thấp và tính lỏng cao cho tới tài sản có lãi suất cao và tính lỏng thấp . Mỗi loại có một loại rủi ro đặc trưng. Trong bối cảnh này, chất lượng của một ngân hàng (khả năng phân tích rủi ro) là một yếu tố quyết định quan trọng đến khả năng ngân hàng có thể bán các sản phẩm tài chính của mình cho người khác với chi phí thấp nhất có thể. Các khoản vay liên ngân hàng đã trở thành một nguồn tài trợ quan trọng cho các ngân hàng, nguồn này trở thành một nguồn kém an toàn và có chi phí cao hơn nguồn tiền gửi của khách hàng. Trong lúc đó, cho vay liên ngân hàng là một khoản tài trợ bổ sung cho bên tài sản của bảng cân đối. Khả năng phân tích rủi ro trở nên có ý nghĩa đặc biệt trong hoàn cảnh này. Những ngân hàng có chất lượng phân tích kém hơn sẽ rơi vào khó khăn khi họ bắt buộc phải trả một khoản phí cao hơn những ngân hàng khác để tự tài trợ cho mình trên thị trường liên ngân hàng, vì tình trạng yếu kém về chất lượng tín dụng của họ bị phản ánh thông qua khoản phí này do các ngân hàng khác đặt ra. Như vậy trong tương lai, khả năng phân tích tài chính sẽ là một vũ khí quan trọng giúp cho ngân hàng được đánh giá chất lượng tín dụng cao hơn. Đồng thời nó cũng cung cấp cho ngân hàng những thông tin cần thiết trong hoạt động đầu tư của mình, nâng cao khả năng an toàn và giảm bớt những biến động về nguồn vốn huy động của ngân hàng trong lĩnh vực cho vay. Một nguồn vốn ổn định cho phép ngân hàng phục vụ khách hàng tốt hơn và khẳng định mạnh mẽ hơn uy tín của ngân hàng. (5) Hệ thống thu thập thông tin Nếu tiền là “thông tin vận động” thì các dịch vụ tài chính chính là lĩnh vực cần thông tin nhất trong nền kinh tế. Nhiều dịch vụ tài chính ( VD như dịch vụ tư vấn tài chính) có bản chất hoàn toàn là thông tin, và sự vận động của các tổ chức tài chính để thoát ra khỏi các hoạt động có hình thức trao đổi hàng hoá trở thành các hoạt động kinh doanh có giá trị gia tăng cao hơn đang tăng cường tầm quan trọng của các sản phẩm đòi hỏi có nhiều thông tin, cả về khối lượng và chất lượng. Các dịch vụ không có bản chất thông tin cũng vẫn có xu hướng phụ thuộc ngày càng nhiều vào chất lượng thông tin vì giá trị của mình. Hơn thế nữa, thông tin không đối xứng giữa các đối thủ cạnh tranh và khách hàng của họ góp phần rất lớn vào việc giải thích những khác biệt trong hoạt động cạnh tranh. Một trong những chức năng quan trọng nhất của các tổ chức tài chính là đánh giá rủi ro lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thông tin. Tất cả các hình thức cho vay và các hoạt động liên quan đến tín dụng phụ thuộc vào việc thu thập, xử lý và đánh giá một khối lượng thông tin rất lớn. Tương tự, sự đồng hoá thông tin về các nhu cầu của khách hàng rất quan trọng trong quá trình phát triển và đáp ứng nhu cầu của các dịch vụ. Có 3 yếu tố liên quan tới nhận định thông tin là yếu tố quyết định trong hoạt động cạnh tranh: Thông tin là nhân tố duy nhất trong quá trình sản xuất có thể được sử dụng đồng thời trong quá trình thực hiện của một số lượng bất kỳ các dịch vụ và điều này đem lại một số tính chất đặc trưng cho thông tin. Thông tin thứ cấp cho tổ chức này có thể là thông tin sơ cấp cho bộ phận khác và phục vụ cho những mục đích khác nhau. Chu kỳ phân nửa của thông tin có chiều hướng rất ngắn và có thể giảm. Do mức độ biến đổi của thị trường cao, những thông tin tài chính có tính quan trọng sống còn nhanh chóng mất tác dụng, và những diễn biến được bảo đảm vào lúc đó không còn được đánh giá cao ngay sau đó Sự phức tạp ngày càng tăng của môi trường cạnh tranh và sự đa dạng của các loại hình dịch vụ tài chính đã làm tăng khó khăn đối với các công ty và cá nhân khi lập kế hoạch cho các nhu cầu tài chính của họ một cách rõ ràng. Thật vậy, khách hàng cần có một phương tiện để đánh giá những thông tin thích hợp, một cách nào đó để phân biệt giữa thông tin có liên quan với thông tin không liên quan. Các tổ chức tài chính có thể cung cấp các dịch vụ thực hiện công việc này. Nói tóm lại, thông tin đưa khách hàng đến với ngân hàng và ngân hàng dựa vào thông tin để chọn lựa khách hàng. Cán bộ tín dụng coi thông tin là một công cụ quan trọng trong công tác thẩm định dự án. Cho vay trung và dài hạn gặp rất nhiều rủi ro và thông tin là rất cần thiết để ngân hàng có thể quyết định dự án có khả thi hay không hay khách hàng có thể tin cậy được không, tình hình tài chính của khách hàng có đúng như đã báo cáo hay không. Nhờ có hệ thống thông tin mà cán bộ ngân hàng còn có thể nắm bắt được những nhu cầu của khách hàng và sáng tạo ra những sản phẩm đa dạng hơn nhằm thoả mãn khách hàng tốt hơn. (6) Chất lượng của nguồn nhân lực: Trong khi trong một thời gian dài người ta đã nhận thấy các dịch vụ tài chính cơ bản là “kinh doanh bằng con người” thì chỉ mới gần đây tầm quan trọng của việc có được một nguồn nhân lực thực sự tài giỏi hơn mới bộc lộ ra với tất cả các đấu thủ hàng đầu. Như Guth Wilfried Guth, “Bank Strategy in 1980s” , tạp chí The Banker, tháng 4 năm 1986 đã chỉ ra: trong môi trường cạnh tranh ngày nay, nguồn "vốn" con người có thể được coi như tài sản quan trọng nhất của một tổ chức tài chính, và trong việc tận dụng các cơ hội cạnh tranh, có rất nhiều khả năng để có thể ra quyết định trực tiếp phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực trong bản thân tổ chức đó. Sự xét đoán dựa trên kinh nghiệm tích luỹ được là một biến số trung tâm trong việc sáng tạo ra một loạt các dịch vụ tài chính, bởi vì nhiều quyết định phải đưa ra rất phức tạp. Đặc biệt, đánh giá phân tích tín dụng và phân tích rủi ro dựa vào phẩm chất trí tuệ, kinh nghiệm và quá trình đào tạo của người ra quyết định. Các cá nhân ngày càng phải đưa ra quyết định ở mức độ phức tạp cao hoặc thật nhanh chóng hoặc sẽ bỏ lỡ các vụ kinh doanh này. Một điều hiển nhiên trong hoạt động buôn bán là phải có quyết định một cách mau lẹ và chính xác. Và việc tiếp tục quan hệ với khách hàng, đoán biết trước những nhu cầu tài chính của khách hàng và đáp ứng họ cũng không kém phần quan trọng. Trong nhiều trường hợp, đây là cội nguồn của những lợi nhuận khác thường trong ngành dịch vụ tài chính. Cạnh tranh tăng nhanh cùng với sự phức tạp ngày càng lớn đã dành một vị trí quan trọng cho nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này được phản ánh ngay t._.huy động USD, nhất là trên thị trường liên ngân hàng do phải chịu chi phí quá lớn. đồng thời tăng cường vệc bán USD ra thị trường một cách khoa học và có kế hoạch để thu thêm được tiền đồng trong dân cư. Việc làm này phải chịu sự giám sát và chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước, tránh sự xáo động quá lớn trong dân cư và những biến động bất lợi cho nền kinh tế. Cải thiện bộ máy tổ chức Một trong những cản trở ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng Ngoại thương là sự hoạt động thiếu đồng bộ và chưa hợp lý của bộ máy tổ chức. Hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư dự án của ngân hàng phụ thuộc vào sự trợ giúp của nhiều phòng ban khác nhau như phòng thông tin tín dụng, phòng Marketing... Ngân hàng vận hành bộ máy của mình như 1 thể thống nhất và sự khiếm khuyết của một hay nhiều bộ phận sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của từng nghiệp vụ. Trong thời gian tới, cùng với các ngân hàng thương mại quốc doanh khác thực hiện kế hoạch tái cơ cấu ngân hàng, ngân hàng Ngoại thương cũng phải nhìn nhận đây là một trong những khâu hạn chế nhiều nhất đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng và lại có điều kiện thực hiện thực tế nhất. Tuy nhiên, việc cải thiện bộ máy tổ chức phải được thực hiện một cách khoa học và không hấp tấp, không để xảy ra các cú sốc nội bộ ảnh hưởng đến hoạt động của toàn ngân hàng. Thứ nhất là chia cán bộ phòng đầu tư dự án thành các nhóm làm việc, mỗi nhóm quản lý chung một số dự án, loại bỏ tình trạng mỗi cán bộ tín dụng quản lý một số dự án độc lập như hiện nay. Phương pháp này đòi hỏi mỗi cán bộ trong nhóm thực hiện một khâu riêng trong quá trình thẩm định dự án và ý kiến được tổng hợp thông qua trao đổi các đánh giá và quyết định của cả nhóm, có như vậy công việc được thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ, sâu sát hơn, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân sử dụng được sở trường và sở đoản của mình và được trau dồi trong môi trường làm việc đồng thời phải có tính đoàn kết cao độ mới có thể hoạt động có hiệu quả. Mỗi quyết định cuối cùng đều là sự tổng hợp ý kiến của nhiều bộ phận, tận dụng hết nguồn nhân lực có trong phòng, tránh tình trạng có những cán bộ có năng lực và kinh nghiệm lại phải đảm nhận quá nhiều dự án trong khi những nhân viên trẻ lại chưa đủ tư cách thẩm định một dự án hoàn chỉnh không có việc làm và khá rỗi rãi so với những người khác, gây mất cân đối trong hoạt động của phòng. Điều này giúp cho các cá nhân mới phát huy hết khả năng của mình cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm của những người đi trước. Đây có thể được coi là một hình thức đào tạo nâng cao cán bộ tiết kiệm và có hiệu quả cao vì đối với người trẻ tuổi, không gì tốt hơn là được học hỏi từ những người có kinh nghiệm đồng thời được áp dụng ngay trong thực tế công việc. Ngoài ra tính độc lập của mỗi cán bộ sẽ được nâng cao do phải tận dụng hết các năng lực để tránh bị đào thải ra khỏi môi trường làm việc. Làm việc theo nhóm đòi hỏi các cá nhân không chỉ có trách nhiệm với công việc mình làm mà còn phải chịu trách nhiệm với kết quả hoạt động của cả nhóm, nhờ đó mà nâng cao tinh thần chịu trách nhiệm của các cán bộ, một đức tính có thể nói là không được đánh giá cao của nguồn nhân lực Việt Nam so với các nhân viên nước ngoài. Thứ hai là sắp xếp lại hoạt động của phòng Khách hàng. Bộ phận này sẽ không còn làm một số việc đơn giản như chăm sóc, tặng quà cho khách hàng mỗi dịp lễ tết mà sẽ chuyên tâm vào lĩnh vực nghiên cứu khách hàng và sản phẩm, có thể đổi luôn thành phòng Marketing chuyên trách và tập hợp một số cá nhân có kinh nghiệm trong từng nghiệp vụ, quản lý phần việc Marketing ngân hàng và quản trị chiến lược. Việc chăm sóc khách hàng sẽ do một nhóm của phòng đầu tư có trách nhiệm làm việc trực tiếp với khách hàng đảm nhận, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn do mối liên hệ trực tiếp và cụ thể hơn. Thứ ba là cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng, ban của ngân hàng để có thể mang lại những thông tin bổ ích nhất và tiện lợi nhất cho hoạt động của bộ phận đầu tư dự án. Bộ phận thông tin phải thường xuyên thông báo về các biến động trong thị trường và xu hướng phát triển của từng ngành trong nền kinh tế cũng như bất cứ một thông tin gì liên quan đến từng khách hàng mà phòng đầu tư đang có quan hệ sau khi đã xử lý và phân tích thông tin. Ngoài ra cần tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của phòng đầu tư, tạo cho các cán bộ thái độ có trách nhiệm cao với công việc mình đang thực hiện nhưng không can thiệp vào công việc chuyên môn hay quyết định của cán bộ tín dụng trong phòng. Bên cạnh đó, phòng Tổ chức và Đào tạo cán bộ nên quan tâm tới nhu cầu nhân lực của phòng đầu tư, sắp xếp những cá nhân thích hợp và có năng lực làm việc trong phòng. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Một trong những nguồn nội lực quan trọng của ngân hàng là nguồn nhân lực. Chất lượng của đội ngũ này ảnh hưởng đến kết quả thẩm định dự án đầu tư và hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn cũng như uy tín của ngân hàng và do đó quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương hoàn toàn có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có trong tay mình để có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng đánh giá sức mạnh cạnh tranh nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng. Do phòng đầu tư dự án đòi hỏi những cá nhân có năng lực rất cao trong một loạt các công việc phức tạp như phân tích tài chính dự án, thẩm định dự án, dự báo tài chính doanh nghiệp... nên khâu tuyển lựa vào phòng phải được thực hiện một cách gắt gao và nghiêm túc, bảo đảm đầu vào có chất lượng tốt mới có thể đưa đến những sản phẩm đầu ra thuyết phục. Đi kèm với việc tuyển chọn có chất lượng thì các mức ưu đãi, khen thưởng cũng phải xứng đáng, khuyến khích được người lao động hết lòng làm việc sao cho xứng đáng với thành quả lao động của mình, đồng thời có những hoạt động quan tâm đến người lao động nhằm có một sợi dây liên kết giữa người lao động và ngân hàng, ngăn chặn tình trạng các ngân hàng khác cũng lôi kéo và có mức đền bù cao đối với nhân viên có năng lực của mình. Đây là một xu thế tiến bộ của nền kinh tế thị trường, tại đó mỗi cá nhân đều nhận thức được những phẩm chất và khả năng của bản thân và tin tưởng rằng những phẩm chất và khả năng đó sẽ được trả công xứng đáng. Nắm bắt được xu thế phát triển này, ngân hàng Ngoại thương có thể tránh được áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng khác thu hút các cán bộ có trình độ về với ngân hàng mình. Tổ chức đào tạo, huấn luyện nhân viên phòng đầu tư với những kĩ năng mới nhất và theo chuẩn quốc tế về phân tích tài chính, phân tích rủi ro tín dụng và nghiệp vụ cho vay, cho điểm tín dụng nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động của cán bộ. Xây dựng một trung tâm đào tạo riêng của ngân hàng, cố gắng mời các chuyên gia kinh tế và ngân hàng nước ngoài giảng dạy, qua đó có thể cung cấp những kiến thức mới và nâng cao trình độ ngoại ngữ cũng như kĩ năng giao dịch với các đối tác nước ngoài của cán bộ. Đầu tư cho cán bộ theo hướng cấp một số học bổng cao học hoặc đào tạo chuyên sâu, sao đó những cán bộ này sẽ quay về phục vụ ngân hàng với những kiến thức mới tiên tiến hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. Không ngừng tìm kiếm và bổ sung đội ngũ cán bộ bằng những nhân viên mới, các sinh viên có năng lực thuộc chuyên ngành ngân hàng–tài chính. Bên cạnh đó, tăng cường thu hút, lôi kéo các cán bộ có kinh nghiệm và năng lực từ các ngành khác vào hoạt động trong khâu phân tích kỹ thuật của dự án để có thể tận dụng những kiến thức của họ trong những hoạt động mang tính chuyên môn cao mà các cán bộ xuất phát từ ngành ngân hàng không thể có. Đi kèm theo đó là các hoạt động đào tạo lại và nâng cao về nghiệp vụ cho vay trung dài hạn cũng như các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. 3.1.4. Chú trọng hơn đến chiến lược sản phẩm Chiến lược sản phẩm xác định những gì ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng. Ngày ngay, khách hàng không chỉ cần đến sản phẩm của ngân hàng như một lựa chọn duy nhất mà đã có những thị trường sản phẩm thật sự cho phép khách hàng có thể mua hàng tuỳ thuộc vào khả năng và nhu cầu cảu mình. Chiến lược sản phẩm hướng tới khách hàng tỏ ra là có ý nghĩa trong thời điểm này khi tất cả các ngân hàng phải đặt nhu cầu của khách hàng lên làm mục tiêu hoạt động chính mới có thể đứng vững trên thị trường. Vì vậy, ngân hàng ngoại thương cũng cần phải có những chiến lực phù hợp và có hiệu quả Thứ nhất là ngân hàng phải nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng không thể hoạt động theo quan niệm khách hàng cần đến mình, chỉ bán những gì mình có mà phải bán những gì khách hàng cần. Chỉ có như thế, chiến lược sản phẩm hướng tới khách hàng mới đạt hiệu quả cao và có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó với hoạt động của phòng nghiên cứu khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra những chiến lược Marketing phù hợp cho hoạt động của ngân hàng. Thứ hai, ngân hàng phải ngày càng nhanh nhạy trong vấn đề đa dạng hoá sản phẩm tín dụng. Hiện nay cho vay luân chuyển mới đang được áp dụng kèm theo dự án nhằm cung cấp vốn lưu động cho dự án của doanh nghiệp. Nhưng bản chất của cho vay luân chuyển cũng là một loại hình tín dụng trung và dài hạn được cấp cho những khách hàng quen thuộc và có chất lượng tín dụng tốt, vì vậy khi ngân hàng cung cấp sản phẩm này cho khách hàng sẽ được coi như một hình thức ưu đãi cho khách hàng, mang thêm nhiều tiện ích cho khách hàng và giữ khách hàng lại với ngân hàng. Thứ ba, tiếp tục tiến hành việc xây dựng sản phẩm tín dụng mới mang tính chuyên biệt cao dành cho các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ đi đôi với việc mở rộng chi nhánh tại những trung tâm kinh tế lớn và các vùng kinh tế mới phát triển.. Thiết lập hệ thống thông tin ngân hàng Thông tin là một trong những công cụ sắc bén nhất mà ngân hàng có thể sử dụng để chiến thắng trong cạnh tranh. Xuất phát từ những yếu kém nội tại trong hệ thống thông tin của ngân hàng, chúng ta có thể nhận thấy cách khắc phục không ở đâu xa mà cũng phải bắt nguồn từ chính bản thân ngân hàng. Xây dựng được một hệ thống thông tin mạnh, chính xác và kịp thời tức là ngân hàng đã trang bị cho mình các phương tiện để nhìn ra thế giới bên ngoài cũng như tạo cho mình những cơ quan có chức năng phân tích tất cả những gì ngân hàng nắm bắt được. Có như vậy, ngân hàng mới có thể cải thiện tình trạng thông tin không cân xứng để tồn tại một cách tự tin trên thị trường. Bước đầu thực hiện, ngân hàng có thể đưa ra những hoạt động cụ thể cho phòng thông tin của ngân hàng. Phòng này hiện nay chỉ thực hiện việc thông báo về dư nợ của khách hàng tại các ngân hàng khác cũng như các biến động chính trên thị trường. Càng sớm càng tốt, ngân hàng cần phải thiết lập được một cơ sở dữ liệu về khách hàng chứ không phải chỉ là những số liệu tài chính mà khách hàng cung cấp. Mạng lưới thông tin này sẽ mang tính cục bộ sử dụng riêng cho ngân hàng. Mạng lưới bao gồm những bộ phận chủ yếu như: (1)bộ phận thu thập thông tin(trong nước và ngoài nước) về các lĩnh vực: xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, xu thế và các biến động của thị trường xuất nhập khẩu thế giới, các biến động về tỷ giá,thông tin về doanh nghiệp…; (2)bộ phận xử lý thông tin: gạn lọc các thông tin cần thiết, phân tích thông tin…; (3)bộ phận cung cấp thông tin : quản lý và cung ứng thông tin qua mạng LAN nội bộ giúp cho tất cả các phòng ban có thể nhanh chóng cập nhật thông tin, giảm bớt được các thủ tục hành chính phiền hà, có chuyên viên phụ trách mạng thông tin của ngân hàng và sẵn sàng cộng tác như chuyên viên về thông tin mỗi khi các phòng ban cần tới. Ngoài ra ngân hàng có thể đầu tư để thành lập một công ty chuyên cung cấp thông tin cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, thu phí cung cấp. Vốn đầu tư vào đây không chỉ phục vụ cho bản thân ngân hàng mà còn góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế. Hoặc thậm chí ngân hàng có thể tận dụng ngay hệ thống thông tin mình đang có và tiến hành nối mạng toàn cầu, có thể đáp ứng thông tin về thị trường và doanh nghiệp Việt Nam cho tất cả những tổ chức quan tâm đến môi trường đầu tư tràn đầy triển vọng này. Trao đổi thông tin giữa các ngân hàng không có nghĩa là làm rò rỉ thông tin mà mục đích chính là phục vụ cho sự an toàn của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hoạt động này có thể phục vụ cho khía cạnh hợp tác giữa các ngân hàng.Thời gian đầu có thể hoạt động miễn phí để thu hút khách hàng và khẳng định uy tín cũng như chất lượng của nguồn thông tin, sau một thời gian tiến hành thu phí, khẳng định chất lượng của thông tin đi đôi với giá trị phải bỏ ra để có được thông tin đó. Công việc tiến hành thu thập thông tin là một khâu cơ bản trong hoạt động của hệ thống thông tin. Thông tin có thể được thu thập từ nhiều nguồn nhưng nguồn cơ bản nhất cũng là từ chính bản thân doanh nghiệp và từ các ngân hàng khác. ở đây ngân hàng phải tận dụng được tất cả những lợi thế trong quan hệ trước kia cũng như tài ngoại giao, khéo léo để thuyết phục doanh nghiệp cung cấp thông tin cho mình. Dựa vào các hợp đồng cho vay dự án đồng tài trợ, ngân hàng có thể tận dụng được tất cả các thông tin có ích từ phía các ngân hàng cùng tham gia dự án, thực hiện và thuyết phục các ngân hàng khác hỗ trợ và hợp tác trong lĩnh vực thông tin. Ngoài ra, các nguồn không chính thức cũng phải được tận dụng triệt để nhưng phải thận trọng và nhạy bén. Các cán bộ cũng cần đến sự giúp đỡ, phối hợp của các ban, ngành liên quan mới có thể có được những thông tin tổng quát nhất về doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khách hàng Phòng Khách hàng dựa trên những thông tin do mạng thông tin cung cấp để có thể có những phân tích và đánh giá về khách hàng. Một mảng chủ yếu trong những thông tin quan trọng mà phòng này có thể cung cấp cho phòng đầu tư dự án là các đánh giá, phân loại về khách hàng, cho điểm tín dụng khách hàng và phân loại thị trường khách hàng mục tiêu. Thực chất ngân hàng Ngoại thương đã có đề án xây dựng hệ thống cho điểm tín dụng dựa trên một loạt các tiêu chí như khả năng tài chính của doanh nghiệp, khả năng lãnh đạo của ban giám đốc doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và trong nội bộ ngành, quan hệ giữa ban giám đốc và công nhân viên cũng như quan hệ trong nội bộ ban giám đốc ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp và hiệu quả thực hiện dự án như thế nào...nhưng rất tiếc dự án này chưa thể thực hiện do thông tin chưa đầy đủ đồng thời tại Việt Nam chưa có một hệ thống tương tự để có thể tiến hành so sánh đối chiếu tính hiệu quả của hệ thống này, còn nếu dựa theo tiêu chuẩn của thế giới thì lại không thể áp dụng vào hoàn cảnh của các doanh nghiệp Việt Nam và thị trường ngân hàng Việt Nam. Nên chăng ngân hàng Ngoại thương mạnh dạn đưa ra một hệ thống cho điểm tín dụng khách hàng của mình để có những quyết định đúng đắn về khả năng được chấp nhận cho vay của khách hàng. Hệ thống này có thể trở thành chuẩn mực của hoạt động cho vay, giúp các cán bộ ngân hàng có một cái nhìn tổng quát nhất về bản thân doanh nghiệp, tiết kiệm được không ít công sức và chi phí so với việc vẫn tuần tự tiến hành các bước thẩm định như trước kia. Hệ thống này có thể bao gồm những thông tin sau: Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp: - thông tin dựa trên báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp trong ít nhất 4 năm trở lại đây - thông tin dựa trên thu thập ngoài luồng của hệ thống thông tin ngân hàng Thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một số năm gần đây - quan hệ của doanh nghiệp với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác - tình hình trả nợ của doanh nghiệp trong những năm gần đây: nợ có được trả đúng hạn không, nếu quá hạn thì thường là trong bao lâu, phương thức trả nợ, trạng thái các loại tài sản thường được doanh nghiệp đem ra thế chấp... Thông tin về nội bộ doanh nghiệp - thông tin về bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp: trình độ học vấn và chuyên môn của ban giám đốc; trình độ quản lý của ban giám đốc;... - tư cách đạo đức của ban giám đốc, các mối quan hệ cá nhân của ban giám đốc có ảnh hưởng tới kết quả của dự án như quan hệ với các ban, ngành chủ quản, với các cấp lãnh đạo hay các thành phần khác trong xã hội..... Để làm được điều này, ngân hàng phải thực sự có được sự hoạt động đồng bộ giữa các tổ chức như phòng thông tin tín dụng, phòng đầu tư dự án... Đây sẽ là kết quả hoạt động của cả bộ máy ngân hàng. Đồng thời tìm cách liên hệ và thuyết phục để có những quan hệ trao đổi với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài về cơ chế cho điểm tín dụng của ngân hàng họ, tạo cơ hội học hỏi và rút kinh nghiệm, không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống. Cơ cấu khách hàng ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng, vì thế phòng nghiên cứu khách hàng phải đưa ra được cơ cấu khách hàng phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế và khả năng của riêng ngân hàng. Các khách hàng là TCty lớn của nhà nước là các khách hàng truyền thống mà ngân hàng cần phải tích cực duy trì nhưng trước sự cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của các ngân hàng khác đang dần dần chia sẻ các khách hàng quan trọng này, ngân hàng cần phải nhanh chóng mở rộng thị trường, đa dạng hoá khách hàng nhằm chiếm được ưu thế trên thị trường tín dụng trung và dài hạn. Thị trường doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất rộng lớn và phát triển mạnh nhưng ngân hàng chưa có đủ thông tin và điều kiện xây dựng một sản phẩm có tính chuyên biệt so với các ngân hàng khác nên đây vẫn là một nhiệm vụ mà ngân hàng phải cố gắng thực hiện trong thời gian tới. Đối với thị trường các doanh nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư của nước ngoài ngân hàng mới chỉ có thể thâm nhập rất nông và kết quả đạt được chưa cao. Các công ty xuyên quốc gia hoạt động tại Việt nam cũng chưa là khách hàng của ngân hàng. Rõ ràng đây là những thị trường đầy tiềm năng mà ngân hàng phải nỗ lực rất nhiều về vốn, trình độ nghiệp vụ cũng như nâng cao uy tín của ngân hàng mới mong có được chỗ đứng và giành được lòng tin của khách hàng. Không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng và cung ứng dịch vụ ngân hàng Tuy ngân hàng đã có những nỗ lực vượt bậc để cải tiến cũng như áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng nhưng những gì còn phải cố gắng vẫn còn rất nhiều vì trình độ công nghệ của ngân hàng Ngoại thương so với các ngân hàng trong nước tuy là vượt trội nhưng lại chưa thể so sánh với trình độ chung trong khu vực, nhất là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trang bị công nghệ vô cùng hiện đại. Trước mắt các cán bộ ngân hàng nên nắm vững và sử dụng nhuần nhuyễn các công nghệ hiện có trong ngân hàng, phát huy hết hiệu quả của các công nghệ hiện có. Có như vậy họ mới có cơ sở để tiếp nhận và sử dụng các công nghệ mới hơn mà không gặp khó khăn hay lúng túng đáng kể. Ngân hàng nên đầu tư nhiều hơn nữa vào việc trang bị các thiết bị hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định mà đơn giản nhất là hệ thống máy tính đầy đủ,bằng các phần mềm tiên tiến và các thiết bị kết nối thu thập thông tin... Bên cạnh đó việc ứng dụng các công nghệ mới sẽ góp phần giúp cho tốc độ giao dịch tăng nhanh, tạo nên một lợi thế mới cho ngân hàng trong cố gắng thu hút khách hàng. Không ngừng cải tiến và thay thế các trang thiết bị lạc hậu, không đồng bộ bảo đảm cho hoạt động giao dịch của ngân hàng dược tiến hành thuận lợi và suôn sẻ nhất. Đẩy mạnh hoạt động cơ cấu lại nợ Công tác cơ cấu lại nợ của ngân hàng cũng rất cần thiết cho hoạt động cho vay dài hạn của ngân hàng. Nợ của ngân hàng Ngoại thương cần được phân chia theo 3 nhóm: nợ có tài sản bảo đảm, nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ không còn tồn tại ; và nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ vẫn còn tồn tại. Ngân hàng sẽ dùng nguồn dự phòng rủi ro để trang trải cho những khoản nợ không có khả năng thu hồi ở nhóm 1 và 3. Những khoản nợ này chủ yếu là nợ chờ xử lý liên quan đến các vụ án và nợ quá hạn lâu năm của các doanh nghiệp đã giải thể và phá sản. Thực chất đây không phải là xoá nợ mà là chuyển nợ ra ngoại bảng để làm sạch bảng tỏng kết,sau đó sẽ có biện pháp để tận thu nợ. Những khoản nợ có khả năng thu hồi sẽ được chuyển sang AMC để xử lý. Những khoản nợ nhóm 2 chủ yếu là những khoản nợ mà nhà nước đã cho phép khoanh mà con nợ không còn tồn tại sẽ được báo cáo xin nhà nước hỗ trợ tái cấp vốn... Cùng với sự ra đời của công ty AMC-NHNT, hi vọng ngân hàng sẽ có đợc những chuyển biến mới trong hoạt động cho vay dài hạn của mình. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Việt Nam 3.2.1. Cấp thêm vốn điều lệ cho ngân hàng Ngoại thương Uy tín của ngân hàng có một vị trí quan trọng trong lợi thế cạnh tranh của ngân hàng mà uy tín lại đánh giá rất nhiều qua nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương như được phân tích trong chương II là có nguồn vốn tự có quá thấp khiến chỉ tiêu quốc tế về an toàn vốn trong tổng tài sản có điều chỉnh là quá nhỏ trong khi mức tối thiểu của thế giới là 8%. Vốn điều lệ của ngân hàng so nhà nước cấp cộng với các quỹ hiện nay chỉ khoảng 1100 tỷ VND. Theo tính toán, để ngân hàng có thể đạt được mức 8% thì nguồn vốn bổ sung phải khoảng 5500 tỷ VND. Vì vậy trong kế hoạch 5 năm tới, đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp thêm vốn điều lệ vào khoảng 4000 tỷ VND nữa để bảo đảm cho ngân hàng có chỗ đứng trên thị trường thế giới, có thể phát huy được chức năng là ngân hàng đối ngoại của Việt Nam và có đủ uy tín cũng như danh tiếng đủ sức hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài. 3.2.2 Từng bước xoá bỏ những ưu đãi giành cho các ngân hàng khác Ngân hàng Nhà nước nên loại bỏ những ưu đãi vốn có giành cho các ngân hàng khác như ngân hàng Đầu tư và phát triển cũng như ngân hàng NNo. Các chính sách ưu đãi về vốn và khách hàng của Nhà nước giành cho các ngân hàng này đang bóp nghẹt thế cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương nói riêng và các ngân hàng TM khác nói chung, đồng thời gây ra tâm lý trì trệ cho rằng không cần cạnh tranh mà có thể tồn tại dựa vào sự bảo trợ của Nhà nước. Để các ngân hàng này tự tìm kiếm khách hàng và tiếp thị sản phẩm của mình không có nghĩa là đẩy các ngân hàng này vào đường cùng mà chỉ có tác dụng bắt họ phải cạnh tranh một cách lành mạnh và tự giác hơn, từ đó có thể hi vọng tiến trình lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng TMQD có hiệu quả hơn và chứng minh được nỗ lực của ngân hàng Nhà nước trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng. Một hoạt động có thể được sử dụng để ngăn chặn hành động ưu đãi của nhà nước là tổ chức đấu thầu trực tiếp và công khai đối với các dự án của chính phủ kể cả trong trường hợp bao gói tài trợ hay đồng tài trợ chứ không theo chế độ giao cho một ngân hàng thực hiện như trước kia. Lúc này các ngân hàng có cơ hội thể hiện toàn bộ những năng lực đặc biệt trong hoạt động cũng như tạo hình ảnh uy tín của mình để có thể cạnh tranh và thành công một cách lành mạnh. Yếu tố cần thiết để thành công chính là nội lực của ngân hàng. Nếu ngân hàng nào không có khả năng hay năng lực tài chính hoặc hiệu quả hoạt động quá yếu kém, lẽ dĩ nhiên ngân hàng đó sẽ bị đánh bật khỏi cuộc chiến. Kết quả của các cuộc đấu thầu này cũng phần nào làm tăng uy tín của ngân hàng chiến thắng và giúp cho thị trường đánh giá lại uy tín của ngân hàng thất bại. Các dự án của nhà nước thường có giá trị rất lớn và có tính khích lệ đặc biệt đối với các ngân hàng nên hình thức này sẽ đem lại một làn sóng mới cạnh tranh có hiệu qủa hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. 3.2.3. Ban hành các văn bản pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền Cạnh tranh là một yếu tố cần thiết cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam , vì cạnh tranh liên quan tới mọi mặt hoạt động của ngân hàng và tới sự phát triển của toàn xã hội nên cạnh tranh cũng phải được đưa một cách chính thức vào các văn bản pháp quy của nhà nước. Nếu luật cạnh tranh chống độc quyền được đưa vào áp dụng ở Mỹ vào những năm 1930 và ở các nước phát triển khác sau chiến tranh thế giới thứ hai thì ở Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản chính thức nào đề cập đến vấn đề này. Trong khi đó, rõ ràng một nền kinh tế mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường non trẻ giống như của chúng ta đang cần có sự quản lý hợp lý của nhà nước, cạnh tranh lại đang diễn ra hàng ngày một cách sôi động và quyết liệt giữa các ngân hàng và tổ chức tài chính thì luật về cạnh tranh và chống độc quyền lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Do đặc điểm của độc quyền ngân hàng ở Việt Nam là độc quyền nhà nước nên các văn bản pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền của Việt Nam nên chia ra 2 hệ thống: Hệ thống văn bản loại trừ các ưu đãi cho các ngân hàng thương mại quốc doanh của nhà nước trong cơ chế cũ. Các loại văn bản này nêu rõ các hình thức bảo trợ của Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng như các tổ chức tín dụng Nhà nước trong hoạt động của ngân hàng đồng thời tuyên bố loại bỏ các ưu đãi trên một cách triệt để. Về phần tín dụng trung và dài hạn, các khoản cho vay đều phải do các ngân hàng tự giành được trong tay các đối thủ cạnh tranh bằng nỗ lực của bản thân ngân hàng, đồng thời cũng ngừng việc tài trợ vốn cho các ngân hàng với lãi suất thấp mà các ngân hàng này phải tự tìm kiếm trên các thị trường I và II bằng các chiến lược kinh doanh cụ thể và có hiệu quả, không tiếp tục dựa dẫm vào nguồn vốn tài trợ của nhà nước. Hệ thống văn bản với các khoản mục nêu rõ các hành vi được coi là cạnh tranh không lành mạnh cũng như các mức xử phạt cho các vi phạm này Các hành vi được coi là cạnh tranh không lành mạnh có thể bao gồm hành động bôi nhọ danh tiếng của ngân hàng đối thủ, phá giá bằng cách hạ lãi suất cho vay xuống quá thấp để lôi kéo được khách hàng, dùng các hành vi mua chuộc hay đe doạ, ép buộc cán bộ của ngân hàng khác để mua thông tin hoặc thu nạp các nhân viên xuất sắc về ngân hàng mình,... Cần có một khung pháp luật cụ thể và chính xác để có thể phân định các hoạt động cạnh tranh là lành mạnh hay không. Ngoài ra một khi đã cạnh tranh có hiệu quả và loại bỏ ra khỏi thị trường những tổ chức yếu kém, ngành ngân hàng lại có nguy cơ rơi vào tình trạng độc quyền nhóm. Do vậy cũng cần có những văn bản ngăn cản các hành động trên nhằm duy trì thế cân bằng của thị trường. Kết luận Nâng cao khả năng cạnh tranh để khẳng định vị thế trên thị trường là một vấn đề bức xúc của bất kỳ doanh nghiệp nào đang hoạt động. Ngân hàng Ngoại thương với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước cũng như là một bộ phận trọng yếu của nền kinh tế lại càng phải nhận thức rõ được quan điểm trên. Tuy nhiên đây là một đề tài rất lớn đòi hỏi phải có sự tổng hợp thông tin và kiến thức từ rất nhiều nguồn khác nhau nên bước đầu trong luận văn của mình, em chỉ đề cập đến một số khía cạnh và đã rút ra được những kết quả sau: - Phân tích được tính tất yếu và sự cần thiết của cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại - Bước đầu xây dựng một hệ thống chỉ tiêu chủ yếu đánh giá khả năng cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. - Đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động cho vay đầu tư dự án. - Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương trong thời gian tới. Do sự khan hiếm về mặt thông tin tổng hợp của các ngân hàng khác nên em chưa thể phân tích một cách thật đầy đủ những nội dung còn lại trong luận văn. Hi vọng rằng trong tương lai khi có điều kiện nghiên cứu, em sẽ tiếp tục phát triển đề tài trên một cách toàn diện hơn. Em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và góp ý thẳng thắn của cô giáo TS. Lưu Thị Hương trong quá trình thực hiện luận văn của em. Ngoài ra, em cũng xin cảm ơn sự trợ giúp và đóng góp ý kiến của các bạn trong và ngoài lớp về mặt nghiên cứu và tài liệu tham khảo. Sinh viên Đàm Thanh Hương Mục lục Trang Chương I: Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 1.1. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1 1.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn 1 1.1.2 Các loại hình cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 4 1.2. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 7 1.2.1 Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại 7 1.2.2 Hệ thống chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại 17 1.2.3 Các công cụ cạnh tranh của ngân hàng thương mại 19 1.2.4 Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại 29 Chương II: thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 2.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của ngân hàng Ngoại thương 32 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Ngoại thương 32 2.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua 33 2.2 Thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 35 2.2.1 Tình hình hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng Ngoại thương 35 2.2.2 Phân tích chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương 39 2.3 Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 47 2.3.1 Kết quả đạt được 47 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 50 Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 3.1 Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn 66 3.1.1 Đổi mới cơ cấu vốn huy động theo hướng có lợi và hợp lý hơn 66 3.1.2 Cải thiện bộ máy tổ chức 68 3.1.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 70 3.1.4 Chú trọng hơn đến chiến lược sản phẩm 71 3.1.5 Thiết lập hệ thống thông tin ngân hàng 72 3.1.6 Tăng cường hoạt động nghiên cứu khách hàng 74 3.1.7 Không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng và cung ứng dịch vụ ngân hàng 76 3.1.8 Đẩy mạnh hoạt động cơ cấu lai nợ 77 3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 77 3.2.1 Cấp thêm vốn điều lệ cho ngân hàng Ngoại thương 77 3.2.2 Từng bước xoá bỏ những ưu đãi giành cho ngân hàng khác 78 3.2.3 Ban hành các văn bản pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền 79 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29883.doc
Tài liệu liên quan