Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Từ hơn một thập kỉ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các nền kinh tế, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Thực tế cho thấy trong thập kỉ qua, thế giới kinh doanh sống trong môi trường mà sự xáo động của nó không ngừng làm cho các nhà kinh tế phải ngạc nhiên, mọi dự đoán đều không vượt quá 5 năm. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường, là công cụ để t

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
húc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Sự cạnh tranh gay gắt diễn ra giữa các doanh nghiệp, các quốc gia tăng mạnh, hầu hết các thị trường đều được quốc tế hóa, chỉ có những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mới có thể tồn tại trong thị trường này. Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, đánh dấu cột mốc mới trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đặc biệt đối với ngành dệt may- ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng, sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô của nước ta, hàng dệt may có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trường quy định hạn ngạch mà cả những thị trường không có hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng ba năm kim ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần. Do có đặc điểm không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành hầu hết các nước đang phát triển tham gia nên mức độ cạnh tranh càng cao. Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt may Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh thị trường quốc tế, trong đó có ba thị trường lớn: thị trườngEU, thị trường Nhật Bản và thị trường Mỹ. Tuy nhiên sức cạnh tranh của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lượng và giá cả. Do vậy, nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế là cánh cửa duy nhất, là vấn đề sống còn đảm bảo thành công cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhận thấy tầm quan trọng của cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, nhóm nghiên cứu khoa học của em đã chọn đề tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế ” Đề tài của nhóm em được chia làm 3 phần: Phần mở đầu Chương I: Lí luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế Chương III: Kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế Phần kết luận Để hoàn thành đề tài này, nhóm em xin chân thành cảm ơn trung tâm thư viện trường Đại học kinh tế quốc dân đã tạo điều kiện giúp đỡ nhóm trong việc nghiên cứu và thu thập tài liệu. Đặc biệt, nhóm em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hồng Thắm đã giúp nhóm tiếp cận và hoàn thành đề tài này đúng thời gian quy định. CHƯƠNG I LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH I - Khái niệm 1. Cạnh tranh Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận mọi hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động lực của sự phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Khái niệm cạnh tranh được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được nhắc đến trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau. Theo các cách tiếp cận, chúng ta có hai khái niệm sau: -   Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát: Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. -   Trong kinh tế chính trị học: Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa  những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Ngoài ra chúng ta cũng thường gặp một số quan điểm về cạnh tranh của các tổ chức lớn. Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”. Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa đối với một quốc gia: “Cạnh tranh là khả năng cạnh tranh của một nước đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”. Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế. 2. Khả năng cạnh tranh Thuật ngữ “Khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh… Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở các cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở có nhiều cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh. Đối với một số người, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thực hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại. Trong khi đó, đối với những người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu đảm bảo mức sống cao cho các công dân trong nước. Trong cuốn sách nổi tiếng “ Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, M.Porter đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghiã khi nói về khả năng cạnh tranh quốc gia. Còn Krugman (1994) thì lại cho rằng : “Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù đắp chi phí của mình thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản”. 3. Vai trò của cạnh tranh Cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ với doanh nghiệp mà đối với cả người tiêu dùng và nền kinh tế. - Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp do khả năng cạnh tranh tác động đến tiêu thụ mà kết quả tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định trong việc doanh nghiệp tiếp tục sản xuất hay dừng lại. Cạnh tranh là động lực cho sự phát trển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần mà doanh nghiệp đang nắm giữ. - Đối với người tiêu dùng: Nhờ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà người tiêu dùng có cơ hội nhận được nhiều sản phẩm hơn, chất lượng tốt hơn và giá cả hợp lý hơn. - Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh là động lực phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cạnh tranh là biều hiện quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ. Cạnh tranh là điều kiện giáo dục tính năng động của doanh nghiệp bởi cạnh tranh góp phần gợi mở nhu cầu mới của xã hội thông qua các sản phẩm mới. điều này chứng tỏ chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên cạnh tranh cũng dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, có thể dẫn đến độc quyền trong kinh doanh. II - Phân loại khả năng cạnh tranh Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế bao gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ. Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế của nước ta. 1. Khả năng cạnh tranh quốc gia Đây là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô đồng thời cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng cạnh tranh được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút đựơc đầu tư đảm bảo ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống người dân. 2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ. Vì vậy mà có phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ. 3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên thị trường. Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh. Ngược lại để tạo điều kiện doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chất chuyên nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho khả năng cạnh tranh quốc gia. Đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả năng cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chính sách quốc gia, vào năng lực và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ I – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua Ngành may Việt Nam thực sự khởi sắc từ thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Số liệu về tốc độ tăng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam trên ba thị trường chủ yếu : Mỹ, EU và Nhật Bản đã phản ánh những cố gắng lớn của ngành này hơn mười năm qua. Bảng: Kim ngạch xuất khẩu (KNXK) hàng dệt may Việt Nam qua một số năm Đơn vị : Triệu USD Năm Tổng KNXK KNXK sang Nhật Bản KNXK sang EU KNXK sang Mỹ KNXKk sang thị trường khác 1996 1.150 248 225 9,1 668 1997 1.349 325 410 12 612 1998 1.351 321 521 26,34 483 1999 1.747 417 605 34 690,9 2000 1.892 620 599 49,57 725,5 2001 1.962 588 617 44,6 710 2002 2.710 419 540 975 775 2003 3.602 480 550 1.731 840 (Nguồn: Bộ thương mại và Tổng công ty VINATEX ) KNXK hàng dệt may của Việt Nam trong một số năm được thể hiện qua biểu đồ sau: Đơn vị: Triệu USD Năm 2008, theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, KNXK hàng dệt may của Việt Nam tháng 6/2008 đạt 865 triệu USD, tăng 17,58% so với tháng trước và tăng 17,48% so với cùng kỳ năm ngoái. Đạt được mức tăng 17% trong tháng 6 là nhờ xuất khẩu sang EU, Canada, Nga, Trung Quốc tăng mạnh. KNXK hàng dệt may của nước ta sang EU tăng 22,67% so với tháng trước và tăng 16,43% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 177 triệu USD. Xuất khẩu sang Canada tăng 18,21% và KNXK sang Nga tăng 54% so với tháng trước. Đặc biệt, KNXK hàng dệt may của nước ta sang Trung Quốc tăng đột biến, hơn 108% so với tháng 5 và tăng tới 147% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 9,2 triệu USD. Đây là tháng có mức tăng cao nhất và đạt KNXK cao nhất trong nhiều năm qua. KNXK hàng dệt may của nước ta sang Hong Kong, Campuchia… cũng tăng cao. Tuy nhiên, xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Úc… giảm. Tiến độ xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã có những dấu hiệu tăng chậm lại. Tốc độ tăng trưởng chung chỉ tăng 17,58% - thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch tăng trung bình là 23%. Nguyên nhân chính do KNXK sang thị trường Mỹ tăng chậm lại. Trong tháng 6, KNXK hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ tăng 10,91% - thấp hơn nhiều so với mức tăng chung 17%, đạt 471 triệu USD. Tính chung, 6 tháng đầu năm 2008, KNXK hàng dệt may của nước ta đạt 4,162 tỷ USD, tăng 19,30% so với nửa đầu năm 2007. Như vậy, ngành dệt may Việt Nam mới hoàn thành được 44% kế hoạch xuất khẩu trong cả năm. Với những khó khăn chung của tình hình kinh tế thế giới cũng như những khó khăn riêng của ngành, ngành dệt may Việt Nam vẫn đạt được kết quả như trong 6 tháng đầu năm nay là khá thuận lợi. KNXK hàng dệt may của nước ta sang các thị trường trọng điểm đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã mở rộng thêm nhiều thị trường mới trong khu vực Đông Âu, Nam Mỹ và úc. Thị trường và KNXK hàng dệt may của Việt Nam nửa đầu năm 2008 Thị trường Tháng 6 So với T5/2008 (%) So với T6/2007 (%) 6 tháng So với 6T/2007 (%) Tổng 865.639.618 17,58 17,48 4.162.189.691 19,30 Mỹ 471.963.728 10,91 9,43 2.394.979.756 17,24 EU 177.283.422 22,67 16,43 771.123.200 20,26 Nhật 58.607.930 6,47 10,13 365.126.612 12,48 Đài Loan 19.536.825 11,09 85,37 96.799.652 28,68 Canada 17.700.129 18,21 10,87 74.687.089 18,88 Nga 12.423.840 54,80 0,56 38.991.768 24,54 Trung Quốc 9.235.168 108,28 147,74 27.237.058 67,32 Hàn Quốc 7.063.130 -14,97 11,50 54.056.159 47,68 Mexico 6.855.286 53,91 1,86 25.138.195 31,80 Thổ Nhĩ Kỳ 5.796.056 10,06 10,63 26.863.490 59,43 Hồng Kông 4.174.825 65,83 53,27 18.119.882 12,27 Malaixia 3.438.565 26,82 132,72 14.314.710 -2,80 UAE 3.379.991 21,47 26,68 16.368.995 17,17 Campuchia 2.891.193 21,55 10,79 17.462.577 30,43 Indonesia 2.708.883 -2,57 -3,77 16.089.353 30,47 Arap Xeut 2.537.645 29,38 12,00 11.928.418 19,51 Ôxtraylia 2.201.959 -5,68 2,55 15.810.238 48,08 Ucraina 1.944.195 -15,59 34,77 15.310.063 149,40 Singapo 1.586.144 -33,49 -34,25 12.447.430 4,61 Thái Lan 1.472.272 -17,03 -3,13 8.759.072 24,21 Braxin 1.009.562 15,58 43,66 5.962.858 59,89 Nauy 984.833 236,15 7,80 4.960.399 63,73 Nam Phi 978.761 -20,10 -29,94 6.665.514 14,70 Lào 882.194 1,11 69,56 3.806.909 4,90 Philippines 796.458 -11,76 -1,15 4.953.527 0,64 Achentina 735.592 21,52 94,14 4.194.504 162,77 Ấn độ 603.602 -0,63 116,85 4.683.534 187,24 Thụy Sỹ 602.004 -57,30 -8,41 3.990.817 -25,88 Mianma 597.460 29,74 245,56 2.793.162 99,66 New Zealand 264.728 7,72 35,77 1.533.362 29,67 (Tin thương mại) Trong thời gian gần đây, Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 57% thị phần, trong khi cả một thị trường rộng lớn như EU chỉ là 18%. Đặc biệt, năm 2009, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu KNXK khoảng 9.2 tỷ USD, trong đó sẽ đạt trên 5tỷ USD ở thị trường Mỹ. Con số này vào năm 2010 là khoảng 10.5 tỷ. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam khi xâm nhập thị trường nước ngoài đã gặp phải không ít trở ngại mà tiêu biểu nhất là rào cản kỹ thuật. Ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật mới trong việc bảo vệ môi trường cho người tiêu dùng Mỹ, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Theo đạo luật này, các lô hàng XK vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Do vậy, Việt Nam phải có 1 phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được phía Mỹ công nhận và cấp giấy chứng nhận. Bên cạnh đó chúng ta cũng phải tiếp tục tăng tỷ lệ sản xuất nguyên vật liệu trong nước, giảm nhập siêu. Ngành dệt may Việt Nam cũng được một số doanh nghiệp Mỹ cảnh báo rằng nếu không sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, sẽ khó cạnh tranh được với các đối tác khác đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến ngành dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Không chỉ có Mỹ đưa ra những rào cản kỹ thuật đối với ngành dệt may Việt Nam, mà hầu hết các nước có hàng Việt Nam nhập khẩu đều đưa ra những rào cản kỹ thuật, khiến dệt may Việt Nam phải đối đầu với nhiều thách thức. Ví dụ khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản (đứng sau thị trường Mỹ và EU), rào cản kỹ thuật là việc yêu cầu các sản phẩm phải có chứng chỉ sạch và thân thiện với môi trường. Với vị trí thứ hai, sau Hoa Kỳ, EU luôn được coi là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Trong những năm gần đây xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này đều duy trì được mức tăng trưởng khá. Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch đứng thứ hai sau giày dép. Số liệu thồng kê cho thấy, nếu năm 2003 KNXK hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỉ USD (đạt 1,245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,432 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2006, tăng 62,2% so với năm 2005, gấp gần 3 lần so với năm 2003. Theo các chuyên gia thương mại, đặc điểm của khu vực thị trường EU là nhiều thị trường “ngách” có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam. Tuy nhiên, việc mất giá của đồng đôla Mỹ so với đồng Euro là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2008, EU cũng sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng dệt may của các nước( trong đó có Việt Nam) sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc vốn có năng lực cạnh tranh lớn do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hoá. Mặc dù vậy, Bộ Công Thương Việt Nam vẫn tự tin cho rằng, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn có cơ hội không chỉ giữ vững thị trường mà còn có mức tăng trưởng do duy trì tốt thị trường này trong những năm qua. Theo kế hoạch của Bộ Công Thương Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt trong năm 2008 là 9,5 tỷ USD, tăng 23,4% so với năm 2007. Trong đó dự kiến các thị trường chính như sau: Thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6-1,8 tỷ USD, thị trường Nhật đạt khoảng 800 triệu USD. Bộ Công Thương Việt Nam cho biết, Hoa Kỳ và EU đang có đề xuất trong khuôn khổ WTO về dự thảo thoả thuận quy định về nhãn mác đối với hàng dệt may, giày dép và hàng du lịch. Theo đó, hàng dệt may xuất khẩu cần phải có nhãn mác nêu rõ xuất xứ hàng hoá, thành phần vải và hướng dẫn sử dụng. Với đề xuất này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị cho việc nhận đơn hàng và sản xuất của mình cho phù hợp. Trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang hai thị trường truyền thống Mỹ và EU đạt được mức tăng trưởng thấp thì xuất khẩu mặt hàng này của nước ta sang các thị trường Đông Bắc lại tăng trưởng rất khả quan. Theo số liệu thống kê của Tổng cục  Hải quan, trong năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 820 triệu  USD, tăng 16,38% so với năm 2007, cao hơn nhiều so với mức tăng 12% của năm 2006. Nhìn lại diễn biến tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong năm 2008 ta thấy sự nỗ lực bứt phá mạnh của các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này đặc biệt từ tháng 7 đến cuối năm. Vào tháng 8/2008, KNXK hàng dệt may sang Nhật Bản lần đầu tiên tăng vọt và vượt xa mức đỉnh 78 triệu vào năm 2007, đạt trên 113 triệu USD. Và đến tháng 12, kim ngạch đạt trên 79 triệu USD, tăng 20 triệu so với cùng kỳ năm 2007. Kết quả này có thể coi là tiền đề để tạo đà cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường này sẽ có nhiều đột phá trong năm 2009, trong bối cảnh hàng dệt may của nước ta sang các thị trường lớn đang gặp khó khăn. Năm 2009, hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản không phải chịu thuế nhập khẩu, điều này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho hàng dệt may xuất khẩu của nước ta. Dự báo, năm 2009, KNXK mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản tăng 20% so với năm 2009. Tháng 12/2009, KNXK hàng dệt may của Việt Nam là 882 triệu USD, tăng 20,8% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này năm 2009 lên 9,06 tỷ USD, giảm 0,6% so với năm 2008. Năm 2009, Hoa kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng xuất khẩu lần lượt là 55,1%; 18,2% và 10,5% trong tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tuy nhiên so với năm 2008, chỉ có xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là có tốc độ tăng trưởng dương (tăng 16,3%), đạt kim ngạch 954 triệu USD còn thị trường Hoa Kỳ đạt 4,99 tỷ USD, giảm 2,2% và EU đạt 1,65 tỷ USD, giảm 3,1%. Trong tháng 12/2009 trị giá nhập khẩu nguyên phụ liệu là 730 triệu USD, tăng 6,6% so với tháng 11/2009. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là gần 400 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 191 triệu USD, tăng 0,6%; xơ sợi dệt là gần 94 triệu USD, tăng 14,8% và bông 44,5 triệu USD, tăng 20,4%. Hết tháng 12/2009, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày có kim ngạch là 7,36 tỷ USD, giảm 8,5% so với năm 2008. Trong đó, nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 4,6 tỷ USD, giảm 6,2% so với năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm qua là: Trung Quốc: 2,09 tỷ USD, Đài Loan: 1,47 tỷ USD, Hàn Quốc: 1,44 tỷ USD, Nhật Bản: 466 triệu USD, Hồng Kông: 415 triệu USD. Tổng KNXK tháng 1 năm 2010 đạt 5,01 tỷ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,39 tỷ USD, giảm 6,4% so với tháng 12/2009 và chiếm 47,7% tổng KNXK hàng hoá của cả nước. Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 810 triệu USD, giảm 8,2% so với tháng 12/2009. Hàng dệt may là mặt hàng dẫn đầu về KNXK và chiếm gần 16,2% tổng KNXK của cả nước trong tháng 1/2010. Trong tháng, Hoa Kỳ và EU vẫn là hai thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ đạt kim ngạch là 468 triệu USD và EU đạt kim ngạch là 136 triệu USD. Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trường : thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch. Trong các thị trường xuất khẩu đó thì ba thị trường quan trọng nhất là: thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường Nhật Bản với tình hình xuất khẩu cụ thể như sau: 1. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trong 6 tháng đầu năm 2008, KNXK hàng dệt may của nước ta sang Mỹ đạt 2,394 tỷ USD, tăng 17,24%, thấp hơn so với tốc độ tăng xuất khẩu sang các thị trường như EU, Nga, Canada… và đặc biệt tăng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 32% của năm 2007. Nguyên nhân khiến xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Mỹ tăng chậm là do kinh tế nước này suy giảm mạnh tốc độ tăng trưởng và có nguy cơ rơi vào suy thoái. Chính những khó khăn của nền kinh tế đã khiến nhập khẩu hàng hoá của Mỹ 6 tháng đầu năm nay giảm, nhất là ở mặt hàng tiêu dùng. Như đã thống kê, KNXK hàng dệt may của Mỹ 5 tháng đầu năm nay giảm 4% so với cùng kỳ. Nhưng nhập khẩu từ Việt Nam trong thời gian này vẫn tăng 25,51%. Như vậy, mặc dù xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ 6 tháng đầu năm đạt thấp so với kế hoạch nhưng trong bối cảnh suy giảm của kinh tế Mỹ thì KNXK hàng dệt may những tháng đầu năm 2008 của nước ta sang thị trường này tăng tới 17,24% vẫn là một tín hiệu tốt. Đây sẽ là cơ sở để xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Mỹ sẽ tiếp tục duy trì và sẽ bứt phá mạnh khi kinh tế Mỹ thoát ra khỏi những khó khăn hiện nay và tăng trưởng cao trở lại. Suy thoái kinh tế đã khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ. Trong quý I/2009, KNXK hàng dệt may của cả nước sang thị trường Mỹ giảm 4,46% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi đó cùng kỳ năm 2008 và so với 2007 chỉ số này tăng 18,86%. Riêng tháng 3 năm 2009, KNXK mặt hàng này của Việt Nam sang Mỹ đã tăng 18% so với tháng 2/2009, nhưng vẫn giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 361 triệu USD. Các mặt hàng có KNXK chính đều giảm là áo thun, quần short, áo sơ mi, áo jacket, quần áo trẻ em, quần áo bơi, quần áo vest, quần áo thể thao, găng tay, áo len, khăn….Cụ thể: + KNXK áo thun giảm nhẹ 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 327 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu quần short giảm mạnh trên 25,2% so với cùng kỳ năm 2008. + KNXK mặt hàng áo sơ mi và áo jacket cùng xu hướng giảm lần lượt 10,6%; 11,5% so với cùng kỳ năm 2008, đạt lần lượt 52,3 triệu USD và 52 triệu USD. + KNXK các mặt hàng khác như quần áo, đồ lót, váy, áo khoác, quần áo ngủ…vẫn duy trì mức tăng trưởng trong quý I như: quần tăng 3,5%, đạt 180,4 triệu USD; váy tăng 4,8%, đạt 87,1 triệu USD; đồ lót tăng 161,9% đạt 24,8 triệu USD; áo khoác tăng 23,5%,d dạt 23,1 triệu USD; quần áo ngủ tăng 3,14%, đạt 15,4 triệu USD… Mặc dù KNXK mặt hàng khác có mức tăng trưởng khả quan so với cùng kỳ năm 2008 nhưng kim ngạch thấp. Cụ thể: + KNXK quần Jean tăng 1269,3%, đạt 6,28 triệu USD + KNXK sợi tăng 7.041,1% , đạt 4,0 triệu USD + KNXK khăn bông tăng 2580%, đạt 1,5 triệu USD Tham khảo một số chủng loại hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong quí I/2009: Chủng loại Lượng (cái) Trị giá (USD) Đơn giá (USD/cái) Áo thun 97.183.545 327.081.948 3,37 Quần 33.453.053 180.478.550 5,39 Quần short 25.420.778 107.790.010 4,24 Váy 15.158.399 87.137.359 5,75 Áo 18.494.877 67.412.679 3,64 Áo sơ mi 10.337.246 52.325.490 5,06 Áo jacket 4.885.609 52.034.069 10,65 Quần áo trẻ em 46.848.956 Đồ lót 24.876.670 Áo khoác 2.701.178 23.181.144 4,50 Quần áo bơi 20.834.526 Quần áo ngủ 15.460.392 Quần áo các loại 9.210.832 Quần áo vest 7.504.685 Sợi 4.029.732 Áo y tế 1.528.475 3.589.910 2,35 Găng tay 3.190.900 Áo len 524.135 2.907.888 5,55 Khăn 1.886.208 Khăn bông 1.505.716 Vải 1.413.977 Hàng may mặc 1.152.478 Áo nỉ 193.128 1.033.531 5,35 Bít tất 990.005 Quần áo BHLĐ 932.716 Áo ghilê 175.645 907.530 5,17 Quần áo thun 591.435 Khăn lông 576.327 PL may 497.106 Áo gió 31.798 284.278 8,94 Quần áo jacket 191.671 Màn 156.204 Áo lễ hội 18.409 94.765 5,15 Tạp dề 39.919 Quần áo mưa 30.570 Khăn bàn 22.835 Tủ vải 22.731 2. Xuất khẩu sang thị trường EU: Đúng như dự đoán của Thông tin Thương mại, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang EU vẫn tăng trưởng rất tốt cho dù xuất khẩu sang Mỹ tăng chậm. Trong 6 tháng đầu năm 2008 KNXK sang EU đạt 771 triệu USD, tăng 20,28% so với nửa đầu năm 2007. Tháng 1/2009, KNXK hàng dệt may của nước ta sang thị trường EU đạt 102 triệu USD, giảm 39% so với tháng 1 năm 2008, đạt 102 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu dệt may sang Đức đạt 42,3 triệu USD, chiếm 41,5% trong tổng KNXK mặt hàng dệt may vào thị trường Đức. Tiếp đến là thị trường Tây Ban Nha, KNXK sang thị trường này đạt 23,1 triệu USD, tăng 6,28% so với tháng 1/2008. Ngoài ra, một số thị trường khác mà hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang cũng đạt kim ngạch khá cao trong tháng 1/2009. Cụ thể: - Xuất sang Anh đạt trị giá 18,9 triệu USD - Xuất sang Hà Lan đạt 11,8 triệu USD - Xuất sang Italia đạt 11,4 triệu USD - Xuất sang Pháp đạt 10,5 triệu USD - Xuất sang Bỉ đạt 5,4 triệu USD - Xuất sang CH Séc đạt 4,1 triệu USD. Theo số liệu thống kê, trong tháng 1/2009, xuất khẩu áo jackét và áo khoác của nước ta sang EU tiếp tục tăng trưởng khá. Xuất khẩu áo jackét tăng 11% về lượng và tăng 10% về trị giá so với tháng 1 năm 2008, đạt 1,7 triệu chiếc và 28,2 triệu USD. Đơn giá áo jackét xuất khẩu giảm nhẹ, đạt trung bình 16,01 USD/chiếc. Tương tự xuất khẩu áo khoác của nước ta sang EU tăng 18,9% về lượng và tăng 38,78% về trị giá so với tháng 1 năm ngoái, đạt 1,34 triệu chiếc và 10,8 triệu USD. Đơn giá áo khoác xuất khẩu tăng khá cao, tăng 16,6%, đạt trung bình 8,01 USD/chiếc. Đáng chú ý, giá áo sơmi xuất khẩu của nước ta sang EU tăng cao, tăng 30%, đạt trung bình 6,54 USD/chiếc. Vì vậy, dù khối lượng xuất khẩu áo sơ mi giảm 22%, nhưng KNXK vẫn tăng 1% so với tháng 1 năm 2008. Trong khi đó, xuất khẩu mặt hàng quần dài, áo thun giảm khá mạnh. Xuất khẩu quần dài của ta sang EU giảm 38% về lượng và giảm 25% về trị giá; xuất khẩu áo thun giảm 21% về lượng và giảm 17% về trị giá. 3. Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn tăng chậm, chưa có sự bứt phá với kim ngạch đạt 365 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này sẽ thuận lợi sau khi Việt Nam và Nhật Bản ký hiệp định thương mại hợp tác song phương. Khi đó, hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật Bản nếu có nguyên phụ liệu nội địa hoặc từ khối Asean, Nhật Bản sẽ không còn bị đánh thuế nhập khẩu (0%) so với thuế suất hiện nay là 10%. Về chủng loại, trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật B._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25611.doc
Tài liệu liên quan