lời mở đầu
Phát triển kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, từng bước tham gia hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đã, đang và sẽ tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng mở rộng và phát triển được thị trường mới, tiếp cận trực tiếp với thị trường nguồn, giảm bớt khâu trung gian và gia tăng thị phần trên thị trường nội địa cũng như trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó họi nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới cũng đang đặ
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t ra những thách thức cho các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm gành giật khách hàng và mở rộng thị phần cả trên thị trường nội địa và thị trường thế giới, trong đó thử thách nổi bật vẫn là các doanh nghiệp Việt nam sẽ phải cạnh tranh với hàng loạt các công ty đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm và trình độ quản lý kinh doanh, có tiềm lực tài chính, công nghệ, có mạng lưới tiêu thụ khắp toàn cầu.
Tuy vậy, dưới tác động của hàng loạt các chính sách và biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các doanh nghiệp thương mại cũng từng bước tăng trưởng và thích nghi dần với môi trường cạnh tranh, song số doanh nghiệp thương mại hoạt động hiệu quả còn ít và nhỏ bé, sức cạnh tranh còn rất yếu ớt. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên bắt nguồn từ thực trạng hệ thống kinh doanh thương mại trên thị trường bị rời rạc, cắt khúc, manh mún, không có sự liên kết và hợp tác ổn định, trong đó cơ cấu của hệ thống kinh doanh chỉ mới tồn tại và hoạt động ở phạm vi quy mô nhỏ và vừa, mang đặc điểm thích ứng và điều tiết thị trường sẵn có mà chưa có khả năng liên kết, hợp tác dài hạn để hình thành và mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước. Trên thực tế, cấu trúc của thị trường đang thiếu hụt cơ cấu chủ đạo của hệ thống kinh doanh thương mại có khả năng liên kết ổn định với các thành tố kinh tế khác để hình thành các hệ thống kinh doanh thương mại gắn liền với nhãn hiệu thương mại, quy mô hoạt động không chỉ trên toàn bộ quy mô thị trường nội địa mà cả trên thị trường thế giới, theo đuổi các chiến lược cạnh tranh quốc tế … là các doanh nghiệp thương mại quy mô lớn, vừa có khả năng hình thành và mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm sản xuất trong nước, liên kết với sản xuất để sản xuất những sản phẩm mới, vừa có khả năng trực tiếp phân phối hàng hoá từ các nguồn cung ứng hàng hoá của thị trường thế giới trên thị trường nội địa một cách hiệu quả nhất, liên kết đa ngành để có sức cạnh tranh quốc tế, hình thành các cầu nối để gắn liền thị trường trong nước với thị trường thế giới, tăng cường khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy, quản lý sự phát triển thị trường cần thiết phải có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để chuẩn bị cho quá trinh hội nhập kinh tế quốc tế thành công của Việt nam cần thết phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, tôi đề xuất đề tài: "Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt nam trong điều kiện hội nhập". Xác định các thành tố của năng lực cạnh tranh nhận dạng và đo lường các thành tố lực cạnh tranh là: nhận dạng và đo lường các thành nội lực của doanh nghiệp trong so sánh cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh của nó trong mỗi đoạn thị trường/sản phẩm được chọn.
* Mục đính nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận của sự hình thành doanh nghiệp thương mại ở Việt nam. Đề xuất một số kiến nghị và hoàn thiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Là các vấn đề lý luận và thực tiễn hình thành doanh nghiệp thương mại
* Phạm vi nghiên cứu: là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại.
Về lý luận: làm rõ yêu cầu về nội dung các thành tố tạo nên năng lực cạnh tranh ở các doanh nghiệp thương mại hiện nay
* Phương pháp: Phân tích mô hình cạnh tranh với 5 lực lương cạnh tranh của Michael Porter; Phân tích mô hình Pest
Kế thừa chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước
* Nội dung của đề tài: bao gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của các doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương2: Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam giai đoạn 1995 – 2001
Chương 3: Một số giải pháp năng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mạiViệt Nam trong quá trình hội nhập
Tôi xin trân trọng cảm ơn ban lãnh đạo, các anh chị Ban thị trường và các phòng ban khác trong Viện nghiên cứu Thương mại, Thầy giáo: ThS . Trịnh Anh Đức đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành tốt chuyên đề này.
Phần nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của các doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
I. Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của Doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái quát chức năng, đặc điểm của doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Qua khái niệm này chúng ta có được những đặc điểm chung của doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp là các tổ chức, các đơn vị được thành lập theo quy định của pháp luật để chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh có quy mô đủ lớn (vượt quy mô của các cá thể, các hộ gia đình) như hợp tác xã, công ty, xí nghiệp, tập đoàn.
- Doanh nghiệp là một tổ chức sống, theo nghĩa nó cũng có vòng đời với các bước thăng trầm, suy giảm, tăng trưởng, phát triển hoặc bị diệt vong.
Chức năng của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, mọi loại hình doanh nghiệp đều có 3 chức năng cơ bản.
- Chức năng sản xuất, là chức năng hết sức quan trọng, là khâu quyết định tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ và giá trị gia tăng. Sự phát triển sản xuất hay dịch vụ là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hội phát triển.
- Chức năng tài chính: đầu tư đảm bảo đầy đủ, kịp thời tài chính cần thiết cho hoạt động sản xuất và tác nghiệp; phân tích đánh giá phương án đầu tư mua sắm máy, công nghệ mới; cung cấp các số liệu về chi phí cho hoạt động tác nghiệp.
- Chức năng Marketing, cung cấp thông tin về thị trường cho hoạch định sản xuất và tác nghiệp, tạo điều kiện đáp ứng tốt nhất nhu cầu trên thị trường với chi phí thấp nhất.
1.2. Doanh nghiệp thương mại.
Doanh nghiệp thương mại xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá, nó gắn sản xuất và tiêu dùng đáp ứng ngày càng tăng của đời sống xã hội. Doanh nghiệp thương mại là các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các công việc mua bán hàng hoá. Bên cạnh đó doanh nghiệp thương mại ra đời do sự phân công lao động xã hội, một bộ phận sản xuất và chuyên môn hoá trong việc trao dổi mua bán, từ đó tổ chức này có chức năng riêng biệt độc lập với bộ phận sản xuất. Trước đây theo cách hiểu thông thường có hai loại hình tổ chức kinh tế đó là tổ chức sản xuất và tổ chức kinh doanh. Đối với các đơn vị tổ chức sản xuất chuyên lo việc sản xuất sản phẩm hàng hoá không làm nhiệm vụ kinh doanh còn đối với đơn vị tổ chưc kinh doanh được hiểu là tổ chức thương mại chuyên làm việc mua bán hàng hoá. Ngày nay, để tồn tại trong một môi trường cạnh tranh, xu hướng chung các doanh nghiệp thương mại có quan hệ chặt chẽ xâm nhập vào các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp dịch vụ duới các hình thức đầu tư vốn cho sản xuất, kết hợp thực hiện các dịch vụ trong và sau bán hàng vì vậy thuật ngữ doanh nghiệp và kinh doanh đuợc sử dụng bao hàm không chỉ các tổ chức kinh tế chuyên làm nhiệm vụ buôn bán mà các đơn vị đảm nhiệm sản xuất và cung ứng dịch vụ.
2. Cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp.
2.1. Khái niệm.
Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh trong cơ chế kinh tế thị trường có thể được hiểu là cuộc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật các lợi ích kinh tế về mình.
Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được Mác đề cập như sau: “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm thu hút những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch ”(kinh tế chính trị tập II). ở đây, Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong một không gian hẹp chủ nghĩa tư bản. Lúc này cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại, quan niệm về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ khá tiêu cực.
ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được hiểu một cách cứng nhắc. Trong một thời kỳ dài, chúng ta chỉ nhìn thấy mặt trái của cạnh tranh, phê phán cạnh tranh, coi cạnh tranh là doanh nghiệp mạnh đè bẹp doanh nghiệp yếu mà chưa thấy được mặt tích của cạnh tranh.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về cạnh tranh của các doanh nghiệp ở nước ta đã được thay đổi. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh của các doanh nghiệp được quan niệm là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ để thu được lợi nhuận lớn nhất đồng thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chúng ta cũng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất cạnh tranh của các doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc thu hút khách hàng hoặc thị trường mà kết quả cuối cùng là để tiêu thụ được ngày càng nhiều hàng hoá với lợi nhuận cao.
Nếu xét trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau và trên cơ sở nhu cầu mua sắm của xã hội thì chúng ta hiểu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực sáng tạo nhằm tồn tại được trên thị trường và ngày càng thu được nhiều lợi nhuận trên cơ sở tạo ra các ưu thế về sản phẩm cũng như trong tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Các loại hình cạnh tranh.
Cạnh tranh có thể được phân loại dựa theo một số tiêu thức khác nhau:
a. Dưới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó mà mức cung nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh càng gay gắt và giá hàng hoá hay dịch vụ đó sẽ tăng lên.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: chủ yếu là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh chính trên vũ đài thị trường, đồng thời đây cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp.
ở đây cạnh tranh xoay quay vấn đề: Chất lượng hàng hoá, giá cả và điều kiện dịch vụ.
b. Dưới góc độ thị trường, góc độ thực chứng thì có:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn
+ Độc quyền
+ Cạnh tranh mang độc quyền.
c. Duới góc độ các công đoạn của sản xuất kinh doanh:
- Cạnh tranh trước khi bán.
- Cạnh tranh trong quá trình bán.
- Và sau khi bán hàng.
Cuộc cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và dịch vụ.
d. Xét theo phạm vi ngành kinh tế người ta chia ra:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa, nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh, giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất.
e. Xét theo phạm vi lãnh thổ: người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Cần lu ý rằng cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay trong thị trờng nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước sản xuất với hàng ngoại nhập (nhất là hàng nhập lậu).
2.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường cùng với sự tự do trong sản xuất kinh doanh, sự đa dạng hoá kiểu hình và nhiều thành phần kinh tế, nhiều chủ thế kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ xuất hiện. Lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp là cội nguồn cho cạnh tranh. Cạnh tranh là bất khả kháng trong cơ chế kinh tế thị trờng. Khác với cạnh tranh để đoạt một giải thởng nào đó, cạnh tranh về mặt kinh tế là một cuộc chạy đua không có đích giữa các doanh nghiệp, là một cuộc chạy đua không đơn cuộc, không phải một lần rồi thôi mà là một quá trình liên tục. Cạnh tranh về mặt kinh tế của doanh nghiệp để giành thắng lợi hai mục đích đó là: Cạnh tranh để giành thắng lợi giữa các doanh nghiệp với nhau và cạnh tranh để tiêu thụ được hàng hoá, giành được thị trường hay là cạnh tranh giữa người mua với người bán. Trong cơ chế kinh tế thị trường, cạnh tranh không chỉ có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với người tiêu dùng cũng như đối với toàn xã hội.
2.3.1. Đối với doanh nghiệp
- Trong cơ chế kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì cạnh tranh tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Mà chức năng tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, nó có vai trò quyết định trong việc doanh nghiệp có tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh hay không.
- Cạnh tranh là động lực cho doanh nghiệp phát triển, thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tìm các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Cạnh tranh quyết định vị thế của doanh nghiệp, nó làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
2.3.2. Đối với người tiêu dùng.
- Cạnh tranh mang lại cho người tiêu dùng những loại hàng hoá dịch vụ tốt hơn, giá cả hợp lý hơn, ưu việt hơn.
- Cạnh tranh đem đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều chủng loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Cạnh tranh sẽ đem lại sự thoả mãn hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
2.3.3. Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung.
- Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.
- Cạnh tranh góp phần làm xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.
- Cạnh tranh còn là điều kiện giáo dục tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo cho các nhà doanh nghiệp, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi, chân chính.
- Cạnh tranh ngày càng nâng cao đời sống xã hội, góp phần gợi mở nhu cầu, kích thích nhu cầu phát triển.
- Cạnh tranh góp phần làm cho các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm của xã hội.
Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực mà cạnh tranh tạo ra cho xã hội, chúng ta cũng phải thừa nhận những mặt tiêu cực của cạnh tranh.
- Cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực.
- Vì bị cuốn hút bởi các mục tiêu của cạnh tranh, các doanh nghiệp đã không chịu những chi phí cho việc xử lý các chất thải, ô nhiễm môi trờng và các vấn đề xã hội khác.
- Cạnh tranh có thể làm lãng phí nguồn lực.
- Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn đến độc quyền ..v..v
2.4. Mục đích cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào được bán đều chịu sức ép của cạnh tranh. Cạnh tranh của sản phẩm cùng loại của các đối thủ khác hoặc cạnh tranh của các sản phẩm thay thế. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, số lượng những nhà cung ứng cũng như số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều, khối lợng hàng hoá được cung ứng trên thị trường ngày càng tăng thì tình hình cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Lúc đó, thị trường là vũ đài của cạnh tranh, là nơi gặp gỡ các đối thủ là các chủ thể kinh doanh mà kết quả là sẽ có một số doanh nghiệp bị thu hẹp thị trường của mình, thậm chí bị gạt bỏ ra khỏi thị ửường, trong khi đó có một số doanh nghiệp khác lại mở rộng thị trường và ngày càng phát triển. Xã hội vẫn tiếp tục phát triển, nhu cầu thị trường ngày càng nâng cao và cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thì liên tục tiếp diễn. Vẫn có thể có các doanh nghiệp thành công ở cuộc cạnh tranh này, nhưng họ lại bị thất bại ở chặng đường tiếp theo, nếu họ không có chiến lược kinh doanh và các biện pháp nhằm nâng cao năng lực một cách đúng đắn, thích hợp. Như vậy, cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá, là nội dung cơ chế vận động của thị trường.
Dù trong hoàn cảnh nào thì mục đích bao trùm của cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn là nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, là làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ mục đích cuối cùng đó, trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, doanh nghiệp sử dụng các công cụ cạnh tranh nhằm để đạt được mục tiêu trước mắt. Các mục tiêu cạnh tranh trước mắt của doanh nghiệp thường là:
- Cạnh tranh để làm tăng thị phần hoặc tăng doanh thu.
- Cạnh tranh nhằm mở rộng thị trường, xâm nhập thị trường mới.
- Cạnh tranh nhằm đẩy nhanh quá trình tiếp cận sản phẩm mới với thị trường.
- Cạnh tranh để đánh bại đối thủ, để trả đũa các đối thủ mới xâm nhập.
- Cạnh tranh để nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như uy tín của công ty trên thương trường...
3. Đặc điểm cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ sở hoạt động của doanh nghiệp thương mại, đó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, giải quyết ba vấn đề to lớn của tổ chức kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là yếu tố cạnh tranh nó tồn tại trên cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị tất cả các đơn vị kinh doanh phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó để đứng vững trên thị trường họ không thể tính đến hiệu quả của sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức: giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí. Trước sức ép của nền kinh tế thị trường với các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, doanh nghiệp thương mại phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có hay phương châm thường trực của các doanh nghiệp “không bán cái không được bán và cái không bán được trong các doanh nghiệp” hoạt động kinh doanh phải mang lại hiệu quả kinh tế xã hội có nghĩa thu nhập phải bù đắp được chi phí đồng thời phải mang lại một khoản lợi nhuận cũng như phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Để đạt được mục tiêu đó không cách nào khác là hạ thấp chi phí kinh doanh bằng chi phí quản lý chặt chẽ và tránh những chi phí không cần thiết với phương châm sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, giá cả cạnh tranh có nh vậy doanh nghiệp mới tồn tại được.
II. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường phổ biến trong thực tế. Các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có năng lực cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài, nếu không muốn nói vĩnh viễn như quá trình duy trì sự sống.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh cũng phải nhận thức được hiện tại mình có khả năng cạnh tranh trên thị trường hay không. Nghĩa là hàng hoá của mình có thể bán được không và rằng về lâu dài việc bán hàng có mang lại nhiều lợi nhuận cho mình hay không. Doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét đánh giá những mặt mà doanh nghiệp có thể làm được tốt hơn so với các đối thủ. Rõ ràng là để doanh nghiệp có khả năng tích luỹ về sức cạnh tranh trên thị trường, cần phải có ý chí lâu dài để duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh, nhằm nâng cao năng suất và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao, một mục tiêu phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào đã tham gia kinh doanh trên thương trường. Một mặt, doanh nghiệp phải đảm bảo tính lâu dài, mặt khác phải lấy chỉ số tổng hợp về thị phần chiếm được làm tiêu biểu. Từ đó doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận cao và có thể lấy đó làm mục tiêu cần đạt được.
2. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trước đây, trong cơ chế hoạch hoá tập trung, chúng ta, không một ai nói đến nâng cao năng lực cạnh tranh là cần thiết cho các doanh nghiệp. Bởi vì một thực tế là các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau mà chỉ cần thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao, Nhà nước sẽ đảm bảo mọi khâu, mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp, tất cả đều thuộc sở hữu của Nhà nước và sở hữu tập thể.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cho dù nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì nó cũng hoạt động theo các quy luật khách quan vốn có của kinh tế thị trường đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Quy luật cạnh tranh thể hiện các bề nổi rõ của nền kinh tế thị trường, vì vậy cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Có kinh tế thị trường tất yếu sẽ có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế có nhiều thành phần với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Thêm vào đó, xu hớng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày một nhanh, với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam nên tình hình cạnh tranh càng trở nên quyết liệt hơn. Đồng thời tiến trình thực hiện cam kết AFTA, gia nhập WTO đang tới gần thì nâng cao năng lực cạnh tranh lại là vấn đề sống còn. Khi hàng rào thuế quan dần xoá bỏ và mở rộng hợp tác kinh tế, sẽ là khó khăn hơn đối với mỗi doanh nghiệp khi giành giật thị trờng và khách hàng từ tay các công ty xuyên quốc gia hùng mạnh dày kinh nghiệm, các doanh nghiệp bản địa nhạy bén, năng động cùng sự gia nhập ồ ạt của hàng ngàn doanh nghiệp mới.
Một tồn tại lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là năng lực cạnh tranh rất yếu. Rất nhiều doanh nghiệp đã không đứng vững đuợc trước sự chuyển đổi của nền kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra yếu thế hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài. Hàng hoá sản xuất trong nước bị hàng hoá nước ngoài cạnh tranh gay gắt và chèn ép điêu đứng. Hơn thế nữa, các hình thức kinh doanh, cách làm ăn của các doanh nghiệp trong nước thường mang tính chụp giật, đánh quả, cạnh tranh không lành mạnh. Một thực tế là ít có doanh nghiệp Việt Nam có chiến lược kinh doanh riêng cho mình.
Trước một thực tế khách quan của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cần thiết khách quan. Thực chất tăng năng lực cạnh tranh là tạo ra một hay nhiều hơn các ưu thế về các mặt như: Giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, các dịch vụ, uy tín. Cụ thể là các doanh nghiệp sẽ phải áp dụng các biện pháp làm giảm chi phí sản xuất, từ đó giảm giá thành đơn vị sản phẩm và có thể giảm giá bán, áp dụng các công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, sử dụng các yếu tố đầu vào có chất lượng và áp dụng các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm và hoàn thiện mạng lới tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải áp dụng một số biện pháp khác thông qua các công cụ cạnh tranh khác. Vì vậy, có thể nói tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là làm thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
3.1.1. Nhóm các nhân tố thuộc môi trờng vĩ mô.
a. Các nhân tố về mặt kinh tế.
Các yếu tố về mặt kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất đối với việc hình thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời các yếu tố này cũng có vai trò ảnh hưởng to lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao làm cho thu nhập trong các tầng lớp dân c tăng lên kéo theo sự gia tăng nhu cầu và sức mua. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng danh mục sản phẩm.
Bên cạnh đó, do nền kinh tế nuớc ta tương đối ổn định, ít chịu ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế thế giới và khu vực, nên tỷ lệ lạm phát luôn được giữ ở mức thấp, các doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư sản xuất, mua thêm máy móc trang thiết bị.
Tuy nhiên, với chính sách mở cửa và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước sẽ tác động tới sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước so với hàng hoá của nước ngoài. Sức cạnh tranh này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là chất lượng, chủng loại mẫu mã và giá cả. Đặc biệt khi tham gia vào AFTA, giá cả hàng hoá sẽ hạ thấp vì thuế quan được cắt giảm và thủ tục hành chính được đơn giản hoá. Chất lượng, mẫu mã hàng hoá cũng sẽ được thay đổi do sức ép cạnh tranh trong nội bộ AFTA.
b. Các nhân tố thuộc chính trị, luật pháp.
Một thể chế chính trị, một hệ thống luật pháp rõ ràng và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh và có hiệu quả. Chẳng hạn các luật thuế có ảnh hởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các loại thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với các doanh nghiệp sản xuất ở nước ngoài.
c. Các nhân tố về khoa học công nghệ.
Nhóm các nhân tố về khoa học công nghệ ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh. Nó tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của các doanh nghiệp, qua đó tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nói riêng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với các nước chậm và đang phát triển, giá cả và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, công cụ cạnh tranh đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất luợng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm luợng khoa học và công nghệ cao.
d. Các nhân tố về văn hoá xã hội.
Phong tục tập quán lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng tôn giáo, ảnh hưởng đến cơ cấu của nhu cầu thị trường và do đó nó sẽ ảnh hưởng đến điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau mà ở đó thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và chính sách tiêu thụ khác nhau. Sự phù hợp của các điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp với các yếu tố và văn hoá xã hội của một thị trường nào đó sẽ góp phần làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.1.2. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vi mô.
a. Khách hàng.
Những khách hàng mua sản phẩm của một ngành nào đó có thể làm giảm lợi nhuận của ngành nào đó bằng việc yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn hoặc dịch vụ sau bán hàng nhiều hơn hoặc có thể cùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp kia. Như vậy, khách hàng cũng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Số lượng các DN trong ngành và cường độ cạnh tranh của ngành.
Số lượng các doanh nghiệp trong ngành và các đối thủ ngang sức tác động rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một vấn đề cần xem xét là số lượng doanh nghiệp cạnh tranh ngang nhau và các doanh nghiệp đó có quy mô, thế lực thế nào. Các ngành mà có một hoặc vài doanh nghiệp thống lĩnh thì cờng độ cạnh tranh ít hơn bởi các doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò là ngời chỉ đạo giá. Trong trờng hợp này, nếu doanh nghiệp không phải là ngời thống lĩnh giá thì năng lực cạnh tranh là rất kém cỏi. Nhưng nếu ngành mà chỉ bao gồm một số doanh nghiệp có quy mô mà thế lực tương đơng nhau thì cư ờng độ cạnh tranh sẽ cao vì các doanh nghiệp đều muốn giành vị trí thống lĩnh. Khi đó cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao hơn nếu doanh nghiệp có lợi về giá cả, chất lợng, sản phẩm.... hoặc sẽ thấp đi nếu doanh nghiệp kém các đối thủ về các mặt trên. Cạnh tranh cũng sẽ trở nên căng thẳng trong các ngành có một số lớn doanh nghiệp, vì khi đó một số doanh nghiệp có thể tăng cường cạnh tranh mà các doanh nghiệp khác không nhận thấy ngay được. Do đó việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh là một việc hết sức cần thiết để giữ vững và tăng cường năng lực cạnh tranh.
c. Khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp tiềm ẩn.
Cạnh tranh trong ngành sẽ trở nên gay gắt và khốc liệt hơn nếu xuất hiện thêm các doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh trong ngành. Các doanh nghiệp cũ trong ngành có lợi thế hơn các doanh nghiệp tiềm ẩn về các mặt nh sau: uy tín, sản phẩm, các kênh phân phối... Tuy nhiên, các đối thủ tiềm ẩn lại có lợi thế về công nghệ sản xuất, có được các kinh nghiệm từ các doanh nghiệp đang tồn tại. Đồng thời họ có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để gây sự chú ý của khách hàng, tạo dựng uy tín và giành thị phần tiêu thụ. Các hàng rào gia nhập ngành mà càng thấp thì nguy cơ gia nhập mới của các đối thủ tiềm ẩn là cao. Khi đó, sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ yếu đi nếu nhiều doanh nghiệp không áp dụng vào các biện pháp, c._.ác chính sách nhằm sử dụng một cách hữu hiệu nhất các công cụ cạnh tranh.
d. Các đơn vị cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp.
Các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất có thể chia sẻ lợi nhuận của một doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp đó có khả năng trang trải các chi phí tăng thêm trong đầu vào được cung cấp. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn trong cạnh tranh của doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây:
- Nguồn cung cấp mà doanh nghiệp cần chỉ có một hoặc một vài Công ty được quyền có khả năng đáp ứng.
- Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung cấp nào khác thì doanh nghiệp sẽ yếu thế hơn trong mối tương quan thế và lực với nhà cung ứng hiện có.
- Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung ứng, có nghĩa là nếu nhà cung ứng đó không bán được hàng hoá cho doanh nghiệp thì tổn thất của họ là không đáng kể.
- Loại vật tư mà nhà cung ứng bán cho doanh nghiệp là đầu vào quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là khi loại vật tư đó có tính quyết định đến quá trình sản xuất hoặc quyết định đến chất lợng sản phẩm của doanh nghiệp. Khi đó nhà cung cấp có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp.
Với các trường hợp trên thì nhà cung cấp buộc các doanh nghiệp mua với giá cao các yếu tố đầu vào, khi đó chi phí sản xuất tăng lên, giá thành đơn vị tăng, lợi nhuận giảm hoặc doanh nghiệp không thể mua được nguyên vật liệu để sản xuất, không có sản phẩm bán ra làm cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp giảm đi đáng kể.
Để giảm bớt các ảnh hưởng xấu từ các nhà cung ứng, các doanh nghiệp cần có mối quan hệ tốt với họ, hoặc doanh nghiệp mua vật liệu từ nhiều nguồn cung cấp trong đó chọn ra một nguồn cung ứng chính, nghiên cứu tìm ra nguyên vật liệu thay thế, dự trữ nguyên vật liệu.
e. Sức ép của sản phẩm thay thế.
Sự ra đời của sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự phát triển của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng phong phú và cao cấp hơn. Sản phẩm thay thế làm giảm đi tính cần thiết, mức độ quan trọng của các sản phẩm bị thay thế.
Sản phẩm thay thế hầu hết được sản xuất trên những dây chuyền máy móc tiên tiến hơn, do đó nó có sức cạnh tranh cao hơn. Mặc dù các sản phẩm thay thế chịu sự chống trả của các sản phẩm bị thay thế nhng các sản phẩm này có nhiều ưu thế hơn và chúng sẽ dần dần thu hẹp thị trường của các sản phẩm bị thay thế, đặc biệt là đối với những loại sản phẩm và dịch vụ mà nhu cầu thị trờng xã hội đã nhàm. Sản phẩm thay thế sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp có sản phẩm bị thay thế
3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
3.2.1. Tài chính.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải được phân tích, tính toán và đánh giá dựa trên tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về tài chính sẽ có nhiều khả năng trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... để duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, tiềm lực tài chính mạnh còn góp phần làm cho doanh nghiệp có thể tăng cường các hoạt động chiêu thị, các chính sách phục vụ khách hàng, gây uy tín và tăng cường hình ảnh của Công ty. Đồng thời, tình trạng tài chính của doanh nghiệp mà tốt sẽ góp phần cho việc huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp dễ dàng hơn, công ty càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình. Ngược lại, khi có ít vốn doanh nghiệp khó có thể xoay xở được điều gì cho dù họ có khả năng về chuyên môn, quản lý, lãnh đạo... nghĩa là doanh nghiệp khó có thể tạo lập, duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thương trường
3.2.2. Công nghệ.
Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh huởng to lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp và nó tác động trực tiếp đến sản phẩm, chất lương và giá thành sản phẩm. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao, giá thành hạ và như vậy, nhất định tính cạnh tranh sẽ cao. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào dám khẳng định mình có năng lực cạnh tranh tốt khi trong tay họ là một hệ thống máy móc cũ kỹ, công nghệ sản xuất lạc hậu, vì tất yếu sản phẩm của họ có chất lượng không cao, chi phí sản xuất kinh doanh lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao.
3.2.3. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất trong mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp, theo cấp quản trị, có thể đuợc chia thành các nguồn sau: Ban Giám đốc doanh nghiệp - Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp - Cán bộ quản lý ở cấp trung gian, đốc công và đội ngũ công nhân
a. Ban Giám đốc doanh nghiệp.
Ban Giám đốc doanh nghiệp là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những nguời vạch ra chiến luợc, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh cuả doanh nghiệp.
Các thành viên Ban giám đốc ảnh hởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên của ban giám đốc có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm phân tích đánh giá năng động, sáng tạo, có mối quan hệ với bên ngoài tốt thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ những lợi ích truớc mắt nhu tăng doanh thu, lợi nhuận, mà còn nâng cao uy tín doanh nghiệp - lợi ích lâu dài. Đây là yếu tố quan trọng tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Độ ngũ cán bộ cấp doanh nghiệp.
Họ là những ngời điều hành các kế hoạch tác nghiệp của Công ty, có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý tốt, khả năng ra quyết định chính xác, kịp thời, biết xây dựng êkíp quản lý và hiểu biết nhiều về kinh doanh thì sẽ là một lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp. Mặt khác các cán bộ quản lý với những trình độ hiểu biết rộng các kiến thức chuyên môn khác nhau có thể tạo ra nhiều ý tuởng sáng tạo, nhanh nhạy với sự thay đổi, điều này góp phần to lớn cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
c. Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân.
Đây là lực luợng lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp. Họ có vai trò to lớn trong việc đảm bảo chất luợng sản phẩm. Trình độ tay nghề cao và lòng nhiệt tình của lực luợng lao động trực tiếp sẽ đảm bảo được chất luợng sản phẩm, năng suất lao động sẽ tăng . Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trên thơng trờng. Muốn có đợc điều này thì doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân, phân chia bậc thợ, có chính sách đãi ngộ công bằng hợp lý đối với ngời lao động. Doanh nghiệp cần phải tạo niềm tin cho ngời lao động để động lực lao động của họ là vì sự phát triển của doanh nghiệp, lợi ích của họ chính là một phần lợi ích của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam giai đoạn 1996 - 2002
I. Sơ lược về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới
1. Khái quát tình hình thị trường thương mại trong nước trong giai đoạn 1996-2002.
Sau Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 3/1/1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương mại, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thương mại trong nước nhìn chung có những biến chuyển rõ rệt.
Thứ nhất, hình thành được một thị trường thống nhất và ổn định trong toàn quốc, hoạt động thương mại sôi động, đáp ứng được các nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Về cơ bản đã tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, hàng hóa được tự do mua bán, thương nhân được tự do hoạt động theo pháp luật và các qui luật kinh tế của thị trường. Nhiều hàng hóa có khối lượng dồi dào, cơ cấu chủng loại phong phú, qui cách mẫu mã được cải tiến, chất lượng được nâng cao, phù hợp về cơ bản đòi hỏi của thị trường. Một số mặt hàng chiếm được vị thế quan trọng và tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Thứ hai, phát triển được một đội ngũ thương nhân đông đảo và đa dạng trong đó thương mại nhà nước được sắp xếp lại, về cơ bản đã thể hiện được vai trò nòng cốt ở những mặt hàng trọng yếu, ở những khâu và lĩnh vực then chốt, thơng mại tập thể bước đầu được chú ý khôi phục nhằm thích ứng với cơ chế thị trường, thương mại ngoài quốc doanh dưới hình thức các doanh nghiệp tư bản nhà nước, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được xác lập và hoạt động có kết quả tất cả tạo nên một thị trường phức tạp, đan xen nhiều thành phần và nhiều loại hình thương nhân.
Thứ ba, mạng lới kinh doanh thương mại dịch vụ tiếp tục được mở rộng trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với nhiều qui mô và hình thức tổ chức khác nhau. Kênh lưu thông một số mặt hàng đã bước đầu được định hình và củng cố với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, bước đầu góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn hàng hóa với thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ bốn, hệ thống quản lý nhà nước về thương mại được quan tâm hơn và từng bước được đổi mới về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy. Hành lang pháp lý cho lưu thông hàng hóa và hoạt động của thương nhân ngày một được bổ sung và hoàn thiện. Trật tự, kỷ cương trên thị trường được khôi phục đáng kể, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép bước đầu bị kiềm chế, góp phần bảo vệ sự tăng trưởng của sản xuất, hiệu quả của kinh doanh thương mại và lợi ích của người tiêu dùng.
Thứ năm, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nói chung còn yếu, nhiều mặt hàng công nghiệp còn đơn điệu, cũ kỹ về mẫu mã và qui cách, chất lượng thấp và giá thành cao, phần lớn mặt hàng nông sản cũng trong tình trạng tương tự, lại ít hoặc chưa qua chế biến, do vậy vị thế phổ biến của hàng hóa là khá cạnh tranh với hàng nước ngoài và khó tiêu thụ ngay với thị trường trong nước. Vấn đề "đầu ra" cho nông sản hàng hóa thường xuyên là vấn đề quan tâm hàng đầu của cả nền kinh tế. Tình trạng dư thừa lưu chuyển ách tắc, tồn kho ứ đọng lớn chỉ số giá tiêu dùng không tăng thậm chí còn giảm, dấu hiệu thiểu phát và trì trệ xuất hiện đã làm giảm nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế và làm chậm quá trình mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa.
Thứ sáu, mô hình tổ chức thị trường và doanh nghiệp còn nhiều lúng túng và bất hợp lý, thương nhân tuy đông nhưng chưa mạnh, năng lực và vị thế của đa số các doanh nghiệp còn yếu. Nhiều doanh nghiệp thương mại vốn liếng đã mỏng nhưng chậm hoặc không tích tụ và tăng trưởng được, mạng lới cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé và nghèo nàn, công nghệ quản lý và kinh doanh còn lạc hậu và thiếu các chiến lược kinh doanh. ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh cha thiết lập được các mối liên kết giữa người sản xuất và người lựa tiêu dùng, giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Đa số các doanh nghiệp thương nghiệp thuần túy không tăng trởng được, chỉ tồn tại cầm chừng và thậm chí ngày có lại.
Thực tế đã chứng minh được đường lối đổi mới đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn điều đó được thể hiện ở sự tăng trưởng mức sống nhân dân, sự phát triển của hệ thống dịch vụ giáo dục và y tế. Đặc biệt là giai đoạn 1996 – 2000
Theo số liệu thống kê kinh tế tỷ lệ đóng góp của thương mại trong GDP như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ đóng góp của thương mại trong GDP (1996-2000).
Đơn vị: tỷ đồng (giá hiện hành)
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng GDP
Thương mại
Tỷ lệ (%)
Tốc độ tăng GDP (%)
Tốc độ phát triểnTM (%)
272036
43125
15,85
18,85
15,03%
313623
48914
15,60
15,29
13,42%
361016
35783
15,45
15,11
14,04
399942
59384
14,85
10,78
6,54
444139
64460
14,51
11,05%
8,55
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số liệu trên cho thấy tỷ lệ đóng góp của thương mại vào GDP qua các năm lần lượt là năm 1996 thương mại đóng góp 15,85% GDP, năm 1997 là 15,60%, năm 1998 là 14,45% năm 1999 là 14,85% năm 2000 là 14,51%. Trung bình mỗi năm đóng góp 15,18% vào GDP. Đây là một đóng góp khá quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế thời gian qua. Mục tiêu tăng trưởng không thể không xem xét tới việc tăng trưởng của thương mại. Tốc độ tăng trưởng của GDP giảm dần. Năm 1996 tốc độ GDP là 18,85% giảm xuống còn 10,78% năm 1999. Nguyên nhân này được giải thích từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới làm giảm xuất khẩu và đầu tư dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng. Để ý bảng số liệu trên ta thấy tốc độ tăng của GDP giảm xuống cùng với tốc độ tăng thương mại. Điều đó cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng thương mại có mối liên hệ khá chặt chẽ: điều đó muốn nói lên rằng: Thương mại là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như kìm hãm tốc độ tăng trưởng đó.
Xem xét tỷ lệ đóng góp của ngành thương mại trong khu vực dịch vụ ta sẽ thấy, ngành thương mại có khả năng tham gia thực hiện chiến lược chuyển dịch vụ cơ cấu và giải quyết việc làm cho nền kinh tế.
Năm 1991 có 4 mặt hàng chủ lực :dầu thô, thuỷ sản.gạo và hàng dệt may với kim nghạch xuất khẩu mỗi loại đạt từ 100 triệu đô la trở lên thì năm 1999 có thêm 8 mặt hàng chủ lực nữa là :cà phê,cao su,giầy dép , hàng điện tử ,than đá ,hàng thủ công mỹ nghệ ,hạt điều rau quả .Bốn mặt hàng kim nghạch đạt từ 1 đến 1,3 tỷ USD là gạo, giày dép ,hàng dệt may và dầu thô.Ba mặt hàng đạt từ 500 đến một triệu USD là cà phê hàng điện tử và thuỷ sản.Cùng với đổi mới kinh tế các mối quan hệ kinh tế cũng ngày càng mở rộng, uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế ngày một nâng cao. Đến tháng 4 năm 2000 nước ta đã có hiệp định thương mại với trên 52 nước trên thế giới và có thoả thuận tối huệ quốc với 72 nước và vùng lãnh thổ .quan hệ thương mại với hơn 116 nước .Nước ta là thành viên của ASEAN năm 1995, ASEM năm 1996, APEC năm 1998 và là quan sát viên của WTO năm 1995.
Nước ta đã đứng ra tổ chức hội nghị các ưuớc nói tiếng pháp một cách thành công và nhiều hội nghị lớn khác mà gần đây nhất là hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Hà Nội tháng 6 năm 2001. Với vị thế không ngừng được nâng lên đó đã tác động không nhỏ đễ quyết định của thượng viên Mỹ ngày 4/10/2001. Thông qua hiệp định thương mại Việt Mỹ .Qua đó đã nâng cao vị trí của Việt Nam ,khẳng định được vai trò của Việt Nam trong các tổ chức và hội nghị thế giới .
Với đường lối đổi mới linh hoạt trong những năm qua đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và phát triển với tốc độ khá cao . Từ đó nâng cao được đời sống nhân dân. Tính đến năm 2001 GDP đầu người ước đạt 400 USD gấp gần hai lần so với năm 1991. Đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng cao. Nước ta đã được thế giới công nhận chuẩn về phổ cập giáo dục từ năm 2000. Đó là thành công lớn của nước ta. Về y tế cũng có những bước thay đổi đãng kể, số lượng các bệnh viên phòng khám tăng nhanh với nhữnh tranh thiết bị hiện đại,số lượng các gường bệnh đã tạm đủ đáp ứng nhu cầu của nhân dân về khám chữa bệnh .Các dịch bệnh lớn hầu như không xảy ra, trẻ em hầu hết đã được tiêm chủng vac xin phòng bệnh .đó là nhữnh thành công về lớn về y tế.
2. Những mặt còn tồn tại;
Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn nhiều vấn đề đang tồn tại đó là:
2.1.Nhìn chung Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu:
So với các nước trong khu vực và thứ giới nước ta có GDP trên đầu người quá thấp đời sống của nhân đân còn rất nhiều khó khăn ,đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi mà thu nhập cha đầy 100USD người một năm.
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém đã hạn chế năng lực sản xuất của nước ta ,hệ thống đường xá cầu cống đã được nâng cấp nhiều song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển đi lại của nhân dân.
Các nhà máy ,xí nghiệp vẫn còn sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu từ những thập niên 50-60 của thế kỷ 20 nên năng suất chất lượng sản phẩm kém giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Nghành cơ khí chế tạo máy chưa có thành tựu gì đáng kể, qúa trình chuyển giao công nghệ diễn ra chậm .Hoạt động của các viện nghiên cức ứng dụng kém hiệu quả .
Trình độ cơ giới hoá thấp ,lao động chân tay là chủ yếu .
2.2. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập:
Trong những năm qua nhà nước ta đã cố gắng đơn giản hoá các thủ tục hành chính cũng như ban hành luật, pháp lệnh, chỉ thị, hướng dẫn khuyến khích các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế .Do đó số lượng các đơn vị đăng ký kinh doanh đã tăng lên rất nhiều đặc biệt là sau khi ban hành luật doanh nghiệp .
Tuy nhiên hệ thống luật pháp của nước ta còn nhiều bất cập ,đã cản trở không ít các nhà doanh nghiệp tham gia kinh doanh đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Luật không đồng bộ, tệ quan liêu và hệ thống các thủ tục chằng chịt đang là cản trở lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào Việt Nam cũng như đối với các doanh nhân Việt Nam có ý định tham gia hoạt động kinh doanh
2.3. Chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên khi chuyển sang cơ chế thị trường nhiều doanh nghiệp Việt Nam lâm vào tình cảnh khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước.Do đó, nhìn trung các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn có hiệu quả thấp nhỏ lẻ manh múm, chưa có tư duy kinh doanh lớn, sức cạnh tranh không cao.
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong những năm đổi mới.
1. Hệ thống Doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam
1.1. Doanh nghiệp TM tập thể:
Là loại hình doanh nghiệp ra đời khá sớm ở Việt Nam và nó là thành phần chiếm ưu thế trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung.
Những năm đầu thập niên so loại hình này phát triển khá mạnh nhưng kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì mô hình tổ chức của loại hình doanh nghiệp này không còn thích hợp nữa số lượng doanh nghiệp thương mại tập thể giảm mạnh.
Nguyên nhân là do chuyển sang cơ chế thị trường thì làm ăn phải hạch toán, phải tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao nhưng trong khi đó các doanh nghiệp Thương mại tập thể lại vẫn còn mang nặng tư tưởng cũ, quản lý theo kiểu cũ., dẫn đến nó không có khả năng thích ứng với sự năng đông, mạnh mẽ cường độ cao của thị trường. Do đó loại hình này phần lớn đã bị phá sản, giải thể hoặc chuyển sang hình thái doanh nghiệp khác.
1.2. Doanh nghiệp TM tư nhân:
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị truờng. Đại hội Đảng VI đã đánh dấu sự ra đời các doanh nghiệp tư nhân nói chung.
Đến nay, hệ thống doanh nghiệp này đang chiếm số lượng đông nhất trong hệ thống các doanh nghiệp cả trong sản xuất, cả trong lưu thông trong những năm qua loại hình doanh nghiệp này hoạt động rất có hiệu quả trên thương trường vì nó có những lợi thế riêng mà các doanh nghiệp khác không có đó là chủ sở hữu đồng thời là chủ điều hành. Do đó nó chủ động trong việc gia quyết định, giữ được bí mật kinh doanh của người chủ, chủ động đón nhận cơ hội khi nó đến thời gian gia quyết định và thực thi quyết định ngắn.
Chính điều đó đã làm cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động rất có hiệu quả, chúng hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, số lượng không ngừng tăng lên. Nó đã tạo ra nhiều chỗ làm và tăng thu nhập cho nhân dân đồng thời tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, quy mô của các doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ nên nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông một cách đơn nhất, hoạt động của nó còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, manh mún. Chưa giám mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô, chưa có tư duy làm ăn lớn, cũng như viẹc lập các chiến lược phát triển lâu dài để thay đổi hình thái doanh nghiệp thành các tổ hợp sản xuất kinh doanh, tập đoàn kinh doanh lớn như Hon Da, TOYOTA.. của Nhật hay DEAWOO, SAMSUNG của Hàn Quốc.
Hiện nay, nạn chốn thuế, làm hàng giả, kinh doanh hàng hoá không đúng phẩm chất, không đúng ngành nghề đã đăng ký đang là vấn đề bức xúc đối với Nhà nước. Nhà nước cũng đang cố gắng tìm ra những giải pháp tối ưu cho để giải quyết tình trạng này, để sớm đưa ra các thể chế ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp này khắc phục những yếu kém trên.
1.3. Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp doanh:
Công ty cổ phần:
Đây là loại hình doanh nghiệp tiến bộ nhất. ở Việt Nam loại hình này ra đời khá muộn, với số lợng chưa nhiều. Nhưng nó có xu hướng phát triển mạnh thành loại hình chiếm ưu thế trong tương lại vì những tính năng ưu việt của loại hình này. Loại hình doanh nghiệp này có cơ cấu tổ chức linh hoạt tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp mà Đại hội đồng cổ đông quyết định. Mặt khác loại hình doanh nghiệp này có khả năng huy động vốn tốt hơn các loại hình doanh nghiệp khác, do đó nó có khả năng mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị. Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, để trở thành những doanh nghiệp lớn có tiềm lực. Hiện nay tuy số lượng các Công ty cổ phần chưa nhiều nhưng hoạt động của chúng hầu hết có hiệu quả cao đang dần lấy được vị thế và lòng tin của cổ động hiện tại cũng nh tiềm năng trong đó có Nhà nước, Nhà nước đang có chủ trương chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả hoặc làm ăn có hiệu quả nhưng không cần thiết phải quản lý sang loại hình Công ty cổ phần.
Tuy nhiên, do loại hình này còn mới mẻ nên cha thu hút đợc sự đầu tư ghép vốn của các tầng lớp dân có tiền nhàn rỗi.
Công ty TNHH:
Là hình thức doanh nghiệp ghép vốn, đa sở hữu, loại hình này trong những năm qua phát triển khá mạnh đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ nhà hàng với số lượng 3.816 doanh nghiệp (tính đến 31/12/1999).
Quy mô của loại hình doanh nghiệp này thường lớn hơn doanh nghiệp tư nhân, có khả năng huy động nguồn vốn lớn từ nguồn đóng ghóp của các thành viên trong Công ty. Với cơ cấu quản lý gọn nhẹ hệ thống này đã là mẫu hình doanh nghiệp phổ biến ở lĩnh vực lưu thông vừa và nhỏ. Nó đã góp phần giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên loại hình này thường có quy mô nhỏ làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún, hoạt động luồn lách thị trường gây nên nạn chốn thuế, buôn bán hàng giả gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý thị trường và thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Công ty hợp doanh:
Là loại hình doanh nghiệp thành lập dựa trên các mối quan hệ nghệ nghiệp hiểu biết, là loại hình doanh nghiệp đối nhân,là sự hợp tác kinh doanh của những ngời quen biết. Loại hình này không phổ biến ở Việt Nam, số lượng còn quá ít, chưa phát huy được vai trò của nó đối với xã hội.
1.4. Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Thực hiện chủ chơng đổi mới của Đảng, Nhà nước về mở rộng hợp tác làm ăn với nước ngoài. Nhà nước đã đa ra nhiều chính sách khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó những năm qua số lượng các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày một nhiều, số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, hoạt động của các doanh nghiệp này tập chung vào sản xuất và lu thông hàng hoá có hàm lượng chất sám cao.
Lợi thế của các doanh nghiệp này là vốn, công nghệ và phuơng pháp quản lý.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tu nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường có số vốn lớn. Nó thường được Công ty mẹ ở nước ngoài cung cấp, đầu tư khi vào thị trường Việt Nam. Cùng với công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến nên sản phẩm của các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh cao trên thị trường, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này rất tốt. Hàng hoá của các doanh nghiệp này không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu ra các thị trường khó tính trên thế giới. Nó giúp giảm bớt sự mất cân bằng trong cán cân thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước. Mang về một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Đây là hệ thống doanh nghiệp đáng để cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi về mọi mặt từ tổ chức quản lý sản xuất, phương pháp tiếp thị, mở rộng các mối quan hệ. Tuy nhiên số lợng các doanh nghiệp này cha nhiều, lĩnh vực hoạt động còn hạn hẹp mà nguyên nhân là do hệ thống chính sách của ta còn nhiều bất cập, gặp khó khăn cản trở các nhà đầu tư muốn vào Việt Nam.
Còn về phía Việt Nam trong các liên doanh thường bị thua thiệt nhiều, do không kiểm soát được yếu tố dầu vào dẫn đến việc phía đối tác nước ngoài lợi dụng, chèn ép, đẩy Việt Nam ra khỏi liên doanh để trở thống nhất doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Điều này đòi hỏi phía Việt Nam cần phải đào tạo con ngời cho tốt để khỏi bị phía nuớc ngoài lừa. Vì thông qua hệ thống doanh nghiệp này chúng ta thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý để từng bước đa đất nước đi lên.
2.Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại.
2.1. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Nhìn vào thực trạng thị trường vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam từ năm 1991 đến nay chúng ta nhận thấy rằng : hoạt động thương mại ở nước ta đã có một bước tiến đãng kể và đạt được những thành tựu nhất định trong cơ chế thị trường. Chẳng hạn chúng ta đã hình thành một thị trường thương mại thống nhất, hàng hoá được tự do lưu thông trong phạm vi cả nước ,tạo ra được mặt bằng sản phẩm hàng hoá đa dạng phong phú,mẫu mã đã có những bước cải tiến. Nghành thương mại đã từng bước đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của đời sống kinh tế xã hôị .Nếu tính trung thời kỳ 1991 đến 1995 tổng mức lu chuyển hàng hoá bán ra tăng bình quân 20% năm và trong năm 1995 tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán ra tính theo giá hiện hành là 150000 tỷ VND đã tăng 2,36 lần so với năm 1985. Nếu tính trong buôn bán thời kỳ 1991 đến 1995 trung bình trong cả nước thương mại quốc doanh nắm 70% thị trường bán buôn nhưng đối với các nghành thiết yếu có tính chiến lược như xăng dầu, phân bón,hoá học kim khí vật tư xây dựng cơ bản..Thương mại nông nghiệp vẫn nắm gần như toàn bộ thị trường này .Trong thời kỳ này tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ, việc cung ứng các mặt hàng chính sách cho các khu vực dân cư ,lưu thông hàng hoá trên một số nghành lớn và thiết yếu ( lương thực thực phẩm,vải may mặc, xi măng..) đều có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao và sự chuyển dịch cơ cấu tương ứng với sức mua và tổng mức hàng hoá bán ra. Trong lĩnh hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta những năm qua đã tăng trưởng rõ rệt .Thị trường xuất khẩu đã được mở rộng một cách đáng kể, tổng kim nghạch xuất khẩu thời kỳ 1991 đến 1995 đạt 17 tỷ USD nhịp độ tăng bình quân là 20%, từ năm 1995 đến 2000 tổng kim nghạch xuất nhập khẩu là:
Biểu 2: Kim nghạch xuất nhập khẩu giai đoạn từ 1995- 2000.
Đơn vị triệu USD
Năm
Tổng kim ngạch XNK
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Giá trị
Tỷ lệ %
1995
1996
1997
1998
1999
2000
13.604,3
18399,8
20777,3
20859,9
23162,0
29508,0
5.448,9
7255,8
9185,0
9360,3
11540,0
14308,0
8.155,4
111.44,0
11592,3
11499,6
11622,0
15200,0
-2.706,5
-3888,2
-2407,3
-2139,3
-82,0
-892,0
66,8
65,1
79,2
81,4
99,3
94,1
Nguồn: tổng cục thống kê
Nếu đánh giá một cách tổng quát trong giai đoạn vừa qua thương mại nhà nước ở nước ta phát triển tương đối mạnh và ổn định, thương mại nhà nước đã tường bước thích nghi với cơ chế mới từ nền kinh tế hàng hoá trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh đã không ngừng giảm xuống từ 2554 doanh nghiệp năm 1991 xuống còn 1650 doanh nghiệp năm 1994 và 1578 doanh nghiệp năm 1999.
Tỷ lệ giảm đáng kể chủ yếu là các doanh nghiệp thương mại nhà nước địa phương (giảm 46%) trong đó doanh nghiệp trực thuộc cấp huyện được hầu hết giải thể hoặc biến thành các cửa hàng trực thuộc công ty thương mại quốc doanh cấp tỉnh.Mặt khác số lao động trong thương nghiệp quốc doanh cũng giản từ 446700 năm 1985 xuống còn 264500 người năm 1994 với tỷ lệ giảm 45,3%. Trong đó 74 doanh nghiệp trực thuộc bộ thương mại hiên nay tổng số lao động là 47075 người ,quy mô của các doanh nghiệp là :
Biểu 3: Số lao động trong các doanh nghiệp trực thuộc Bộ thương mại
Đơn vị: Doanh nghiệp
Số lượng lao động (người)
<100
100-300
300-500
.500
Số lượng doanh nghiệp
13
28
15
18
Về nguồn vốn và quy mô của các doanh nghiệp thương mại. Tính đến 6 tháng cuối năm 1995 cả nước có 1849 doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại khách sạn nhà hàng với tổng số vốn là 17269 tỷ VND, như vậy bình quân mỗi doanh nghiệp có 9,34 tỷ VND tiền vốn. Tuy thế nhưng trong số đó có 31% các doanh nghiệp có mức vốn dới 500 triệu, theo số liệu gần đây nhất của bộ Thương mại thì nguồn vốn của thương nghiệp chỉ đảm bảo gần 40% nguồn vốn cho kinh doanh. Như vậy trong kinh doanh doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn khác. Hiện nay trực thuộc bộ Thương mại có 59 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại trên tổng số 74 doanh nghiệp nhưng quy mô vốn Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách và vốn tự bổ sung) của các doanh nghiệp không đồng đều, cụ thể là:
Biểu 4: Số vốn trong các doanh nghiệp trực thuộc Bộ thương mại
Đơn vị: Tỷ VND
Mức vốn (tỷ VND)
Số lợng doanh nghiệp
Tỷ lệ
<1
1-3
3-10
10-100
100-1000
1
10
39
21
3
1,35
13,5
52,7
28,3
4,15
Thế nhưng nếu đánh giá một cách công bằng chúng ta thấy rằng trong thời kỳ qua kể từ 1991 đén nay ngành thương mại nói chung và thương mại Nhà nước nói riêng đã góp phần quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế đất nước, với sự lớn mạnh của ngành thương mại hoạt động dịch vụ cũng không ngừng tăng lên dần chiếm vị trí chủ đạo của nền kinh tế.
Một số ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ của nước ta có tốc độ phát triển rất nhanh như ngành bưu chính viễn thông.
Về số lượng đơn vị doanh nghiệp thương mại Nhà nước tuy có giảm phương thức kinh doanh tuy có được cải tiến nhưng thực chất hoạt động kinh doanh vẫn còn lúng túng, trong cơ chế mới với nhiều tên gọi khác nhau như: “khoán nộp”, “khoán cửu hàng” ... nhưng thực chất là cho thuê danh nghĩa công ty quốc doanh, kéo theo nó là sự quản lý lỏng lẻo, hiệu quả thấp.
Thuơng mại Nhà nước tạp trung quá đông ở các đô thị lớn, các ngành hàng kinh doanh lại đây lại còn t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0075.doc