Mở đầu
ở nước ta, trong cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp trước đây, cạnh tranh thị trường được hiểu một cách méo mó. Suốt một thời gian dài chúng ta coi cạnh tranh thị trường là cá lớn nuốt cá bé và chỉ thấy mặt tiêu cực của nó. Thật ra cạnh tranh thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt, nó đẩy các Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả đến chỗ phá sản, mặt khác, nó lại tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp nắm vững “luật chơi” phát triển. Vì thế đừng lấy làm lạ khi một ngày kia sẽ có những chủ
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Doanh nghiệp mà tên tuổi của họ ngời chói trong làng kinh doanh cho dù hôm nay ta còn chưa biết họ ở đâu. Và cũng một ngày kia, sẽ có những cơ sở bị tiêu vong cho dù những cơ sở này đã từng một thời cung cấp phần lớn các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cho xã hội. Đó cũng là lý do giải thích vì sao có người cho rằng thị trường và cạnh tranh là con dao hai lưỡi Thị trường với doanh nghiệp này là cái “nôi” nhưng với Doanh nghiệp kia lại là “ nghĩa địa”, và cạnh tranh, với doanh nghiệp này là động lực, là niềm phấn khích để phát triển, trong khi với Doanh nghiệp khác lại như một hành động tự sát, là con đường dẫn đến diệt vong.
Thực tế cho thấy, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều Doanh nghiệp đã và đang khẳng định khả năng, vị trí của mình, đứng vững trong cơ chế mới và bắt đầu vươn lên. Bên cạnh đó, một số Doanh nghiệp khác do làm ăn kém hiệu quả đã phải sát nhập hoặc phá sản.
Là một Doanh nghiệp, công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương đã nhanh chóng thích ứng với cơ chế, từng bước tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thương trường, sản phẩm của Công ty đã được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, do mức độ cạnh tranh của ngành sản xuất kinh doanh xây dựng và vật liệu xây dựng ngày càng gay gắt, công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương sẽ phải đối đầu với rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh. Bởi vậy những gì đã đạt được của Công ty sẽ luôn luôn bị đe doạ trong tương lai. Do đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương là một tất yếu.
Qua thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương, với tâm huyết của mình, em xin chọn và trình bày luận văn với đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường ”, với hy vọng sẽ đóng góp phần nào vào sự phát triển của công ty trong thời gian tới.
Bản luận văn Gồm ba phần chính
Chương I : một số lý luận cơ bản về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Chương II : Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương.
Chương Iii : Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương.
Chương 1
Một số lý luận cơ bản về cạnh tranh
và Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Một số quan điểm về cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh là quy luật kinh tế tất yếu khách quan tồn tại gắn liền với cơ chế thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là nói đến cạnh tranh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải chấp nhận và tuân theo quy luật cạnh tranh. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể đưa một doanh nghiệp đạt đến vị trí cao hơn trên thị trường nhưng cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến con đường phá sản, diệt vong.
Khái niệm cạnh tranh đã được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội.
Theo Marx: Cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nghiên cứu về sản xuất Tư bản chủ nghĩa, Marx đã khẳng định rằng quy luật cơ bản của Chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư. Marx cũng chỉ rõ nhiều quy luật khác của phương thức sản xuất này trong đó có quy luật cạnh tranh. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành. Nếu ngành nào, lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia, ngược lại những ngành, lĩnh vực mà tỷ suất lợi nhuận thấp thì sẽ có sự thu hẹp về quy mô hoặc rút lui của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự tham gia hay rút lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm, một chiều mà là một chiến lược lâu dài, đó không phải là sự “né tránh cạnh tranh”, nói cách khác, cạnh tranh là tất yếu.
Hai nhà kinh tế học của Mỹ là P.A.Samuelson và W.D.Nordhause trong cuốn Kinh tế học cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành lấy khách hàng hay thị trường.
Theo cuốn từ điển kinh doanh thì cạnh tranh trong kinh tế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Từ các quan điểm khác nhau về cạnh tranh nêu trên, ta có thể hiểu một cách chung nhất về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: “ đó là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành lấy một số nhân tố sản xuất hay khách hàng nhằm cải thiện và nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được những mục tiêu cụ thể như lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Như vậy cạnh tranh đồng nghĩa với sự ganh đua giữa các doanh nghiệp.”
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay gắn liền với quá trình mở cửa thị trường của các quốc gia. Vì vậy, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là khái niệm không chỉ được sử dụng trong phạm vi doanh nghiệp hay phạm vi ngành mà nó được sử dụng cho cả phạm vi quốc gia, khu vực liên quốc gia… Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ là sự loại bỏ những Doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và sự tồn tại phát triển của các Doanh nghiệp làm ăn tốt. Đó là quy luật của sự phát triển, là cơ sở tiền đề cho sự thành công của mỗi quốc gia trong vấn đề thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lí cụ thể. Ngày nay có lẽ không ai còn hoài nghi về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước ta và vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận chung như là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Các loại hình cạnh tranh
Tuỳ theo từng tiêu thức mà người ta phân ra thành các loại hình cạnh tranh khác nhau.
1.1.2.1. Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường
a. Cạnh tranh hoàn hảo
Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Mỗi người đều có thể tự do gia nhập hay rút khỏi thị trường. Giao dịch bình thường của một người mua hay một người bán là quá nhỏ bé, không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường.
Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản lượng mà mình có thể sản xuất ra ở mức giá mà thị trường đang thịnh hành. Nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn giá thị trường thì doanh nghiệp sẽ không bán được sản phẩm do người tiêu dùng sẽ lựa chọn mua sản phẩm của những doanh nghiệp khác với mức giá rẻ hơn. Như vậy, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có khả năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm của mình bán ra. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với lượng cung của thị trường, vì thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đến tổng sản lượng hay giá cả trên thị trường.
b. Cạnh tranh không hoàn hảo
Là hình thức cạnh tranh trên thị trường mà ở đó một số nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình hay tác động đến giá cả thị trường.
c. Cạnh tranh độc quyền
Đây là hình thức cạnh tranh trên thị trường mà ở đó các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán những sản phẩm phân biệt đã được làm cho khác với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Sự khác nhau này có thể là về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác… Các sản phẩm do doanh nghiệp làm ra với các sản phẩm khác trên thị trường có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nói cách khác, độ co giãn của cầu theo giá chéo trong cạnh tranh độc quyền là cao nhưng không phải là vô cùng. Trong rất nhiều trường hợp, người bán có thể buộc người mua chấp nhận mức giá mà mình đưa ra.
1.1.2.2. Căn cứ vào các chủ thể tham gia thị trường
a. Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người mua luôn mong muốn mua được sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình với mức giá rẻ nhất. Ngược lại, người bán luôn muốn bán được sản phẩm của mình với mức giá cao nhất có thể để thu về lợi nhuận lớn nhất. Sự cạnh tranh này được thực hiện thông qua quá trình thương lượng giữa người người mua và người bán để đi đến một mức giá thống nhất mà cả hai bên đều thoả mãn. Khi đó hành động mua bán sẽ được thực hiện ở mức giá cuối cùng này.
b. Cạnh tranh giữa người mua với nhau
Loại hình cạnh tranh này chỉ xảy ra trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng hàng hoá dịch vụ nào đó được cung ứng trên thị trường nhỏ hơn so với nhu cầu tiêu dùng thì chúng sẽ gây nên hiện tượng khan hiếm trên thị trường. Lúc này người mua sẵn sàng chấp nhận trả mức giá cao hơn để có được hàng hoá, dịch vụ mà mình cần. Điều này khiến cho giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó không ngừng tăng lên. Kết quả là người bán sẽ thu được lợi nhuận tối đa còn người mua sẽ phải chịu thiệt hại.
c. Cạnh tranh giữa người bán với nhau
Là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh mang tính chất gay go, khốc liệt nhất. Nó có ý nghĩa quyết định sống còn đối với doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp tham gia trên thị trường đều mong muốn thu hút được nhiều khách hàng hơn, chiếm lĩnh được thị phần của đối thủ. Muốn vậy họ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Khi mà nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, số lượng người bán trên thị trường ngày càng nhiều thì cuộc cạnh tranh này ngày càng khốc liệt hơn. Những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, không có chiến lược cạnh tranh thích hợp sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Ngược lại, doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh hơn các đối thủ khác sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển.
1.1.2.3. Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Quá trình cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cách để không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao động nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội để giành được ưu thế trong cạnh tranh. Kết quả tất yếu của cạnh tranh trong nội bộ ngành là làm cho điều kiện sản xuất trung bình trong ngành đó thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
b. Cạnh tranh giữa các ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các ngành sản xuất khác nhau sẽ có điều kiện sản xuất khác nhau và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi những ngành mang lại lợi nhuận cao nên vốn đầu tư thường được chuyển từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi nhuận. Sự chuyển dịch này vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn cũng như các yếu tố sản xuất hợp lý giữa các ngành, kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là các chủ doanh nghiệp đầu tư một số vốn như nhau vào các ngành khác nhau thì lợi nhuận mà họ thu được là ngang nhau.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh
Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau để giành lấy phần thắng lợi. Một số công cụ mà doanh nghiệp thường dùng đó là: giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ bán hàng, hệ thống kênh phân phối và các hoạt động xúc tiến thương mại…
1.1.3.1. Giá cả sản phẩm
Giá là một trong những công cụ quan trọng trong cạnh tranh, cạnh tranh bằng giá cả đồng nghĩa với việc kinh doanh với chi phí thấp để bán với mức giá hạ và thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Mặc dù giá trị là cơ sở của giá cả nhưng trên thị trường, giá cả luôn biến động lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá. Trong kinh tế thị trường, giá cả là yếu tố rất nhạy cảm. Nó có thể thay đổi một cách nhanh chóng và do đó người ta có thể sử dụng nó như một công cụ để cạnh tranh.
Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó tạo điều kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng trên thị trường và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh ngày càng cao.
Có thể nói rằng, giá cả là công cụ cạnh tranh rất linh hoạt, được dùng phổ biến trong cạnh tranh nhưng không phải lúc nào cũng là công cụ hữu hiệu để giành chiến thắng. Do đó, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tập khách hàng mục tiêu của mình cũng như điều kiện thực tế trên thị trường để xây dựng chính sách giá hợp lý, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là hệ thống các đặc tính bên trong của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được và so sánh được. Phù hợp với những tiêu chuẩn kỹ thuật và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội.
Việc cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo ra danh tiếng cho thương hiệu sản phẩm của công ty. Từ đó cho phép công ty đặt giá sản phẩm của mình cao hơn so với các sản phẩm cùng loại, tạo ra lợi nhuận lớn hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là lực hút để kéo khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tạo lập được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi khách hàng có sự lựa chọn giữa các mặt hàng khác nhau của cùng một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ thì vấn đề sản phẩm càng trở nên quan trọng.
Tuy nhiên, để tăng chất lượng kết cấu của bất kỳ một sản phẩm nào cũng đòi hỏi phải tăng chi phí (C1). Điều đó khiến cho không ít doanh nghiệp ngại ngùng trước quyết định đầu tư vào chất lượng. Thực tế đã chứng minh rằng khi tăng chất lượng một sản phẩm cụ thể sẽ làm giảm đi những chi phí sản xuất tàng ẩn dưới các dạng:
Giảm số khuyết tật, tăng tỷ lệ sản phẩm chấp nhận được (C2);
Giảm tỷ lệ phế phẩm ở mức cao nhất (C3);
Giảm chi phí kiểm tra (C4)…
Khi đó với một hệ thống quản lý chất lượng tốt ta sẽ có:
C1 < ( C2 + C3 + C4 + Cn ).
Rõ ràng nâng cao chất lượng sản phẩm làm tối thiểu hoá các chi phí vô ích trong sản xuất. Điều này mang lại lợi thế cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp.
Do đó, chất lượng sản phẩm là công cụ giúp cho doanh nghiệp có thể giành được thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển.
1.1.3.3. Hệ thống kênh phân phối của doanh nghiệp
Kênh phân phối là sự kết hợp hữu cơ giữa người sản xuất, các trung gian để tổ chức phân phối và vận động hàng hoá hợp lý nhất nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của tập khách hàng tiềm năng, trọng điểm, trực tiếp và cuối cùng của doanh nghiệp. Việc xây dựng được một hệ thống kênh phân phối hợp lý một mặt giúp cho doanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng, mặt khác nó hạn chế tình trạng ứ đọng hàng hoá trong khâu lưu thông, góp phần tiết kiệm chi phí vận chuyển, tăng nhanh vòng quay của vốn đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống kênh phân phối như một công cụ cạnh tranh đắc lực.
Người
sản
xuất
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Người
bán
buôn
Người
bán
lẻ
Người
môi
giới
Kênh cấp 0
Kênh cấp 1
Kênh cấp 2
Kênh cấp 3
Sơ đồ 1. 1: Mô hình kênh phân phối của doanh nghiệp.
Khi nói đến kênh phân phối là chúng ta đề cập đến số lượng những nhà trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng. Nếu doanh nghiệp bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng, kênh phân phối sẽ ngắn. Nếu doanh nghiệp bán qua nhà bán buôn, bán lẻ thì kênh phân phối sẽ dài hơn.
Sự lựa chọn kênh phân phối ngắn hay dài phụ thuộc vào quyết định sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, yếu tố quyết định quan trọng nhất đến quy mô của kênh phân phối là mức độ phân tán hệ thống bán lẻ. Nếu hệ thống bán lẻ phân tán sẽ có khuynh hướng kích thích hình thành nhiều nhà bán buôn để phục vụ cho các nhà bán lẻ, làm cho kênh phân phối dài hơn.
Việc lựa chọn thành viên của kênh phân phối thường được dựa trên một số tiêu chí như:
Lĩnh vực kinh doanh của nhà phân phối;
Quy mô và phạm vi phân phối của nhà phân phối;
Chất lượng và hiệu quả phân phối;
Uy tín của nhà phân phối trên thị trường;
Mối quan hệ của nhà phân phối với chính quyền địa phương…
Việc đánh giá các thành viên của kênh phân phối được căn cứ vào mức doanh số mà nhà phân phối đạt được, mức dự trữ bình quân, mức thất thoát hư hỏng của hàng hoá và mức độ hợp tác với các thành viên khác của kênh…
Nhìn chung, do thị trường luôn có sự biến động nên hệ thống phân phối của doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự linh hoạt để có thể đáp ứng kịp thời những biến động đó. Sự linh hoạt này của hệ thống phân phối là rất cần thiết trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường. Phải nói rằng ngày nay, hệ thống kênh phân phối hàng hoá, dịch vụ là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên khả năng cạnh tranh mạnh mẽ cho doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải xây dựng được cho mình một hệ thống kênh phân phối tối ưu làm vũ khí cạnh tranh.
1.1.3.4. Dịch vụ trong và sau bán hàng
Là những dịch vụ liên quan đến thực hiện hàng hoá và đối với người mua, đó là những dịch vụ miễn phí. Nó giúp tạo tâm lý cho người mua và tiêu dùng hàng hoá. Hơn nữa, nó cũng thể hiện trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, các dịch vụ trong và sau bán là những hoạt động có ý nghĩa quan trọng trên cả hai góc độ: nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, do đó giữ được khách hàng và góp phần tăng doanh số. Những dịch vụ trong và sau bán thường được thực hiện là: vận chuyển đến tận nhà cho khách hàng, lắp đặt, vận hành, chạy thử, bảo hành, bảo dưỡng…
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt hiện nay, những đòi hỏi của người tiêu dùng ngày càng khắt khe thì bên cạnh việc phải có những hàng hoá chất lượng cao, giá cả hấp dẫn, các dịch vụ liên quan đến hoạt động bán hàng cũng phải ngày càng tăng lên cùng với yêu cầu chất lượng dịch vụ. Nếu trước đây cạnh tranh qua giá cả đóng vai trò quan trọng thì ngày nay, xu hướng cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá dịch vụ trong và sau bán ngày càng phổ biến hơn. Có thể nói, đây là vũ khí cạnh tranh lành mạnh và hữu hiệu, mang lại hiệu quả lâu dài cho doanh nghiệp.
1.1.3.5. Các hoạt động xúc tiến thương mại.
a. Quảng cáo:
Là hình thức xúc tiến thương mại của doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, tạp chí, báo… nhằm thông tin cho khách hàng biết về sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể sử dụng quảng cáo khi mới tung sản phẩm ra thị trường để tác động tới nhu cầu của khách hàng và thuyết phục họ mua sản phẩm của mình.
Hiện nay, chi phí dành cho quảng cáo của các doanh nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên hiệu quả của nó mang lại cũng không nhỏ chút nào. Thực tế cho thấy không ít doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường và giành chiến thắng trong cạnh tranh trên thương trường là nhờ vào những chiến dịch quảng cáo của mình. Vì thế, doanh nghiệp cần có sự đầu tư thích đáng vào hoạt động quảng cáo để thu được hiệu quả trong kinh doanh. Các doanh nghiệp phải nhận thức được rằng đầu tư cho quảng cáo là đầu tư có hiệu quả và phải coi quảng cáo như là một công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Khuyến mại:
Đây là hành vi thương mại của doanh nghiệp nhằm xúc tiến bán hàng và cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp. Các hình thức khuyến mại cơ bản của doanh nghiệp gồm: Tặng hàng hoá, cung ứng dịch vụ miễn phí, bán hàng hay cung ứng dịch vụ với giá thấp hay có thưởng… Với những loại hàng hoá mới gia nhập thị trường, doanh nghiệp có thể đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền nhằm làm cho khách hàng có những tiếp cận với hàng hoá một cách nhanh nhất. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hình thức tặng kèm quà khuyến mại với sản phẩm hàng hoá bán ra để kích thích người tiêu dùng mua sắm, đẩy mạnh hoạt động bán hàng qua đó tăng doanh thu và lợi nhuận.
c. Tham gia hội chợ triển lãm thương mại:
Hội chợ triển lãm là nơi trưng bày những sản phẩm của các doanh nghiệp trong hay ngoài nước. Hội chợ triển lãm là nơi gặp gỡ giữa các nhà sản xuất với nhau và cũng là nơi gặp gỡ giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng. Tham gia hội chợ triển lãm sẽ giúp doanh nghiệp có thể giới thiệu hàng hoá của mình một cách trực tiếp tới người tiêu dùng, thăm dò được nhu cầu của thị trường đồng thời qua hội chợ triển lãm doanh nghiệp có thể tìm kiếm và ký kết được hợp đồng. Hơn thế nữa các doanh nghiệp có thể nhờ vào việc trưng bày giới thiệu hàng hoá ở hội chợ triển lãm mà lấy được phiếu góp ý của khách tham quan và khách mua hàng.
Khi tham gia hội chợ triển lãm, doanh nghiệp phải hướng tới hiệu quả mà nó mang lại. Do đó, doanh nghiệp cần chú ý lựa chọn đúng sản phẩm tham gia hội chợ triển lãm và phải chuẩn bị tốt các điều kiện để tham gia.
1.1.4. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, khái niệm cạnh tranh hầu như không tồn tại. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi, vận động theo cơ chế thị trường thì cũng là lúc cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận. Vai trò của cạnh tranh ngày càng thể hiện ưu thế rõ nét hơn, cụ thể là:
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu;
- Khuyến khích và thúc đẩy áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật;
- Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng được thoả mãn tốt hơn;
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Vai trò của cạnh tranh được xem xét dưới các góc độ:
a. Đối với nền kinh tế xã hội:
Cạnh tranh có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế xã hội, cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cũng như năng suất lao động.
Trong quá trình cạnh tranh, để giành được ưu thế trên thị trường các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá bán, hoàn thiện chất lượng dịch vụ sau bán hàng. Do đó mà người tiêu dùng có quyền lựa chọn cho mình sản phẩm theo đúng yêu cầu. Như vậy cạnh tranh là lực lượng điều tiết sản xuất và tiêu dùng, đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng.
Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển văn minh nhân loại.
Các doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, thông qua cạnh tranh trên thị trường tạo ra sự đổi mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, cạnh tranh còn là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội.
Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thừa nhận vai trò của cạnh tranh và coi cạnh tranh không chỉ là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn là yếu tố quan trọng trong việc lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - xã hội.
b. Đối với doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều phải chấp nhận sự cạnh tranh. Cạnh tranh trên thương trường được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà doanh nghiệp không có cách nào lẩn tránh. Doanh nghiệp buộc phải tìm mọi cách để tồn tại và vươn lên giành chiến thắng.
Mục tiêu lớn nhất và xuyên suốt quá trình hoạt động của một doanh nghiệp là lợi nhuận. Doanh nghiệp chỉ có thể thu được lợi nhuận khi hàng hoá của họ được khách hàng chấp nhận và lợi nhuận đó sẽ lớn hơn nếu họ thu hút được nhiều khách hàng hơn về phía mình. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Trong kinh tế thị trường, khách hàng là thượng đế. Họ có quyền lựa chọn những gì mà mình thích, những gì mà họ cho là tốt nhất, phù hợp nhất. Như vậy cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Mặt khác nó cũng buộc nhà sản xuất phải lựa chọn cho mình phương án sản xuất tối ưu với chi phí nhỏ nhất và công nghệ hiện đại nhất. Nếu không làm được điều đó, doanh nghiệp sẽ thất bại trong cuộc chạy đua giành giật khách hàng và thị phần. Điều đó có thể đưa doanh nghiệp đến chỗ làm ăn không hiệu quả và phá sản.
Như vậy, cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu. Nói chung, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, là động lực cho sự phát triển và thúc đẩy doanh nghiệp phải tìm ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
c. Đối với người tiêu dùng:
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không ngoài mục đích thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì thế người tiêu dùng được coi là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì người tiêu dùng ngày càng có nhiều sự lựa chọn hơn, nhiều quyền lợi hơn. Thứ nhất, cạnh tranh tạo sức ép đối với các nhà sản xuất về mặt giá cả, buộc nhà sản xuất phải cải tiến quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra hàng hoá có giá cả cạnh tranh hơn so với đối thủ. Do đó, người tiêu dùng có thể thoả mãn nhu cầu của mình với chi phí thấp hơn. Thứ hai, các nhà sản xuất phải cạnh tranh với nhau về mẫu mã, chủng loại, chất lượng... của sản phẩm. Điều đó tạo cơ hội lựa chọn lớn hơn cho người tiêu dùng đối với một loại hàng hoá nào đó.
Qua việc phân tích vai trò của cạnh tranh, ta thấy được rằng cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế. Quá trình cạnh tranh đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Chỉ những doanh nghiệp biết nắm thời cơ, có một cái nhìn đúng đắn về cạnh tranh và có những chiến lược cạnh tranh thích hợp trên thị trường mới có thể tồn tại, đứng vững và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà cạnh tranh đem lại thì cạnh tranh cũng có những khuyết tật cố hữu mang tính đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong quá trình theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình mà không chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, từ đó làm xuất hiện mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp và nhà nước, kéo theo các vấn đề xã hội như nạn thất nghiệp, môi trường sinh thái bị huỷ hoại, các tệ nạn của bộ máy nhà nước phát triển ( tham nhũng, tha hoá…).
Như vậy, một mặt cạnh tranh thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh nhưng mặt khác nó cũng dẫn tới tình trạng phân hoá xã hội, dễ đưa đến cạnh tranh không lành mạnh hay tình trạng độc quyền trên thị trường. Để phát huy vai trò của cạnh tranh và hạn chế những mặt trái do nó gây ra đòi hỏi phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đảm bảo tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh được các nhà kinh tế học diễn đạt theo nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Fafchamps: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm vơí chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng chi phí thấp hơn được coi là khả năng cạnh tranh cao hơn.
Theo Randall: Khả năng cạnh tranh là khả năng giành đượcvà duy trì được thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Dunning: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Nhìn chung các khái niệm về cạnh tranh của các nhà kinh tế học tuy được diễn đạt khác nhau, song có thể thống nhất quan điểm rằng : “ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp.”
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường người ta sử dụng nhiều tiêu thức khác nhau, đó có thể là các chỉ tiêu định tính hay chỉ tiêu định lượng. Các chỉ tiêu định tính thường được sử dụng là chất lượng, sự khác biệt của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh, mức độ cải tiến sản phẩm, sự linh hoạt trong các quyết định về giá, trình độ nghiệp vụ của nhân viên… Các chỉ tiêu định lượng bao gồm thị phần, tỷ suất lợi nhuận, năng suất lao động, tỷ suất chi phí, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán… ở đây ta chỉ xem xét đến một số chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Thị phần
Thị phần hay tỷ lệ thâm nhập thị trường được hiểu là phần chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác trong ngành. Thực chất đây là phần thị trường của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Để đánh giá thị phần của một doanh nghiệp người ta có thể đánh giá qua phần chiếm lĩnh thị._. trường tuyệt đối hoặc phần chiếm lĩnh thị trường tương đối.
* Phần chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối: Là phần trăm kết quả tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với kết quả tiêu thụ sản phẩm cùng loại của tất cả các doanh nghiệp khác bán trên cùng một thị trường.
Thị phần của doanh nghiệp = x 100%
Trong đó:
QDN : Khối lượng hàng hoá doanh nghiệp tiêu thụ được.
Q :Tổng khối lượng hàng hoá cùng loại tiêu thụ trên cùng một thị trường.
Hoặc:
Thị phần của doanh nghiệp = x 100%
Trong đó:
MDN : Doanh thu của doanh nghiệp đạt được.
M : Tổng doanh thu của toàn ngành trên cùng một thị trường.
* Phần chiếm lĩnh thị trường tương đối: là tỷ lệ giữa phần chiếm lĩnh thịtrường tuyệt đối của doanh nghiệp so với phần chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành.
Thị phần tương đối = x 100 %
Trong đó:
MDN : Doanh thu của doanh nghiệp trên thị trường.
MĐT : Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên cùng thị trường.
Như vậy ta thấy, với thị phần tuyệt đối ta có thể so sánh trực tiếp thị phần của doanh nghiệp với tất cả các doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng một ngành còn thị phần tương đối chỉ cho phép ta đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành.
Có thể nói rằng, thị phần là chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp nào có thị phần càng lớn chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng của doanh nghiệp càng cao, tức là khả năng cạnh tranh mạnh. Ngược lại doanh nghiệp nào có thị phần nhỏ thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh thấp.
1.2.2.2. Tài chính
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều cần phải trang bị cho mình cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá, thuê nhân công… Để làm được điều đó doanh nghiệp cần phải có nguồn lực tài chính. Có thể nói tài chính là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng tiếp cận, trang bị cho mình các dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Từ đó doanh nghiệp có thể gia tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm trên cơ sở đó hạ giá thành và tạo được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
1.2.2.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải mang lại lợi nhuận để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển cũng như để tích luỹ đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
* Lợi nhuận: Là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu của doanh nghiệp và tổng chi phí trong một thời kỳ nhất định.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Với tư cách là khoản thu nhập mặc nhiên của vốn đầu tư, lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế lợi hại trong quản lý kinh tế nói chung và trong quản lý doanh nghiệp nói riêng. Không những là khoản thu nhập mặc nhiên của vốn đầu tư, lợi nhuận còn là phần thưởng cho những ai dám chấp nhận rủi ro và mạo hiểm, cho những ai dám đổi mới và dám chịu trách nhiệm về sự đổi mới của mình. Sự rủi ro mà doanh nghiệp phải gánh chịu có thể làm giảm, thậm chí mất hết các khoản đầu tư của mình. Chính vì vậy thông qua chỉ tiêu lợi nhuận ta có thể biết được khả năng cạnh tranh cũng như tình hình sử dụng các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Lợi nhuận càng cao chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là càng lớn.
* Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Là tỷ lệ so sánh giữa lợi nhuận và doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong một thời kỳ nhất định.
Tỷ suất lợi nhuận = x100 %
Trong đó:
LN : Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ ( Lợi nhuận trước thuế ).
M : Doanh thu thuần đạt được trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp càng cao, tức là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường càng lớn.
* Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí:
Tỷ suất lợi nhuận = x 100%
Trong đó:
GV : Trị giá vốn của hàng hoá bán ra.
F : Chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận doanh nghiệp đạt được trên một đồng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ chi phí để đạt được lợi nhuận của doanh nghiệp là thấp. Như vậy doanh nghiệp đã sử dụng chi phí có hiệu quả. Điều đó cũng thể hiện rằng doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1.1. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường kinh tế quốc dân.
a. Các nhân tố về mặt kinh tế :
Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp theo các hướng:
+ Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các Doanh nghiệp. Nếu Doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã...) thì chắc chắn Doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng Doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nến kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các Doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, vì khi đó giá bán của các Doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
+ Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp, nhất là đối với các Doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của Ngân hàng cao, chi phí của các Doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
b. Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các Doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp sản xuất trong nước.
c. Trình độ về khoa học về công nghệ.
Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh .
Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của Doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
d. Môi trường văn hoá - xã hội:
Mỗi vùng, mỗi khu vực mang những nét văn hoá đặc thù khác nhau và do đó phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá đã tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua cơ cấu nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó điều kiện tự nhiên khác nhau cũng tạo nên sự thuận lợi hay khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh.
Với những doanh nghiệp có vị trí thuận lợi như đặt tại những thành phố lớn, giao thông thuận tiện, gần nguồn nguyên liệu… sẽ có cơ hội giảm được các loại chi phí như chi phí vận chuyển, nhờ đó mà tăng được lợi nhuận. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng sẽ phải đối đầu với môi trường cạnh tranh gay gắt hơn. Chính vì vậy mà doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển.
1.3.1.2. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường ngành.
Ngoài những tác động từ phía các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn phải chịu sự tác động mạnh mẽ từ những nhân tố thuộc môi trường ngành. Đây là môi trường phức tạp nhất và sự biến động của nó ảnh hưởng rõ nét nhất đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự thay đổi của các nhân tố này thường rất khó dự báo chính xác.
Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế
của người cung ứng
Quyền lực
Thương lượng
lượng
Quyền lực
Thương lượng
của người mua
Người
mua
Các đối thủ tiềm năng
Các đối thủ cạnh tranh trong Ngành
Cuộc canh tranh giữa các đối thủ hiện tại
Sản phẩm thay thế
Người
cung
ứng
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các yếu tố thuộc môi trường ngành được thể hiện qua sơ đồ sau:
Nguy cơ đe doạ từ
những người mới vào cuộc
Sơ đồ 1.2: Sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Năm lực lượng cạnh tranh này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm lẫn nhau tạo thành môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua việc xác định và phân tích năm lực lượng này, doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh thích hợp đối với từng lực lượng để tạo lập cho mình vị thế cạnh tranh.
* Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại của doanh nghiệp là các doanh nghiệp khác đang kinh doanh những mặt hàng giống hoặc có khả năng thay thế cho mặt hàng của doanh nghiệp. Sự có mặt của các doanh nghiệp này và hoạt động của chúng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến các hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xác định được đối thủ cạnh tranh hiện tại của mình là ai cũng như năng lực cạnh tranh và vị thế hiện tại của họ trên thị trường thông qua nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ.
* Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Đây là các doanh nghiệp hiện tại chưa tham gia vào quá trình cạnh tranh trong ngành nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ quyết định gia nhập ngành. Sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh tiềm năng sẽ đe dọa trực tiếp đến lợi nhuận cũng như thị phần hiện tại của doanh nghiệp. Càng có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia một ngành, cùng thoả mãn một lượng nhu cầu nhất định thì điều đầu tiên ta có thể nhận thấy là sự san sẻ lợi nhuận. Không những thế nó còn làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt hơn, khốc liệt hơn.
Sức ép cạnh tranh của các đối thủ tiềm năng phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường.
* Nhà cung ứng
Đây là những tổ chức, cá nhân hay doanh nghiệp cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hoá, điện, nước… cho doanh nghiệp. Nhà cung ứng có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên hai phương diện: Thứ nhất, khi nhà cung ứng đe dọa tăng giá hay chất lượng cũng như thời gian giao hàng không đảm bảo sẽ gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể sẽ mất đi những cơ hội làm ăn lớn và do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bị giảm sút. Để đối phó với tình trạng này, doanh nghiệp cần quán triệt nguyên tắc “ không để trứng trong cùng một giỏ”, tức là phải lựa chọn cho mình nhiều nhà cung ứng khác nhau trong đó có một nhà cung ứng chính nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục.
* Khách hàng
Khách hàng là các tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu và có khả năng thanh toán đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Có thể nói khách hàng là động lực chính thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau. Do khách hàng có thể lựa chọn mua hàng hoá, dịch vụ của nhiều doanh nghiệp khác nhau nên họ có lợi thế trong việc đưa ra những yêu cầu về giá cả cũng như chất lượng. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải chịu sức ép giảm chi phí, nâng cao chất lượng để thu hút được khách hàng.
* Sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế cũng là một lực lượng tạo ra sức ép đối với việc tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một công cụ cạnh tranh đắc lực của sản phẩm thay thế chính là giá. Khi giá cả hàng hoá tăng lên, người tiêu dùng sẽ có xu hướng mua sắm những hàng hoá khác có khả năng đáp ứng nhu cầu của họ. Điều đó khiến cho doanh nghiệp sẽ bị mất đi một lượng khách hàng, vì thế mà doanh thu cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút đáng kể dẫn đến suy giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1.3. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp
* Nguồn lực tài chính
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều cần phải trang bị cho mình cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá, thuê nhân công… Để làm được điều đó doanh nghiệp cần phải có nguồn lực tài chính. Có thể nói tài chính là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng tiếp cận, trang bị cho mình các dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Từ đó doanh nghiệp có thể gia tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm trên cơ sở đó hạ giá thành và tạo được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
* Máy móc thiết bị và công nghệ
Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi nó có tính chất quyết định đối với chất lượng và giá thành sản phẩm. Một hệ thống máy móc trang thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại với công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp trang bị được cho mình cơ sở vật chất như vậy thì cùng với việc chất lượng sản phẩm được nâng cao là giá thành của sản phẩm giảm xuống. Do đó khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp là rất lớn. Ngược lại, với một doanh nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ lạc hậu thì sẽ không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác được. Như vậy đầu tư vào kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp là hoạt động rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp.
* Nguồn nhân lực
Đây là bộ phận có ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là những người trực tiếp và gián tiếp tham gia vào việc tạo ra sản phẩm. Nói tới nguồn nhân lực của doanh nghiệp phải nói đến đội ngũ các nhà quản trị, những người đứng đầu doanh nghiệp. Trước hết, họ là những người xây dựng nề nếp cũng như định hướng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không những thế, các quyết định của họ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ quản trị với trình độ quản lý cao cộng với nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, khả năng thiết lập các mối quan hệ với đối tác tốt thì doanh nghiệp sẽ có được lợi thế cạnh tranh lớn. Với đội ngũ nhân viên nhiều kinh nghiệm, trình độ tay nghề tốt cùng với tinh thần trách nhiệm cao sẽ chi phối việc tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng của sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp một khả năng cạnh
tranh mạnh mẽ.
* Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường:
Đây là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Để có được uy tín trên thương trường đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao vị thế của mình. Với những doanh nghiệp đã có uy tín thì các hoạt động của doanh nghiệp liên quan tới việc tìm kiếm bạn hàng hay huy động vốn sẽ thuận tiện hơn rất nhiều. Hơn thế nữa doanh nghiệp cũng có được lợi thế trong các cuộc đàm phán thương lượng hơn và khả năng ký kết hợp đồng cũng lớn hơn so với các đối thủ khác. Vì thế, uy tín của doanh nghiệp cũng được coi là yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp.
* Tinh thần doanh nghiệp:
Tinh thần doanh nghiệp là tập hợp các yếu tố: lý trí, tình cảm, truyền thống, cá tính, đặc điểm… của các tác nhân (con người) tạo lập nên doanh nghiệp. Nó đóng vai trò là tác nhân chủ lực, làm sống động toàn bộ doanh nghiệp. Nhờ có tinh thần doanh nghiệp mà các cá nhân trong doanh nghiệp được cố kết với nhau vào mục tiêu chung, cùng phấn đấu vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều đó cũng góp phần tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp mà ở đó các thành viên gắn bó với nhau, cùng nhau làm việc hết mình vì doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó sẽ có được sức manh tập thể, do đó có khả năng cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp thiếu đi sự đoành kết nhất trí giữa các thành viên.
ở đây, vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải nhận thức được, đó là nội lực của doanh nghiệp mới chỉ là điều kiện cần cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó, điều kiện đủ là doanh nghiệp phải biết sử dụng, phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc cạnh tranh khác nhau, tạo ra lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu kinh tế - xã hội mà nước ta đạt được đã chứng minh cho sự đúng đắn trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách mở cửa nền kinh tế để hội nhập đã mở ra nhiều thời cơ, cơ hội cho các doanh nghiệp nhưng cũng đem đến không ít nguy cơ và thách thức buộc các doanh nghiệp phải đối mặt. Khó khăn lớn nhất đặt ra đối với các doanh nghiệp đó là sự cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước khác mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra cũng phải tham gia vào quá trình cạnh tranh gay gắt hơn. Để tồn tại, đứng vững và phát triển trên thị trường, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải cạnh tranh và giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải nhận thức đúng đắn các vấn đề lý luận liên quan đến cạnh tranh cũng như phải vận dụng hợp lý các lý luận đó vào thực tiễn trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, nắm bắt thời cơ thị trường, năng động và linh hoạt trong quá trình cạnh tranh… Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải biết được vị trí của mình cũng như đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Việc nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ cho doanh nghiệp biết được điều đó mà nó còn giúp cho doanh nghiệp có thể đưa ra được những giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường được nâng cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp có khả năng nắm bắt thời cơ cũng như hạn chế rủi ro đến từ môi trường kinh doanh. Nhờ đó doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà còn có thể phát triển và mở rộng quy mô hơn nữa trong tương lai. Do vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều cần thiết để các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Chương 2
Thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty TNHH Thương mại và xây dựng Thái Phương được thành lập năm 1996, theo giấy phép kinh doanh số 2791/QP UB do UBND Thành phố Hà Nội cấp ngày 15/5/1996. Và giấy đăng ký kinh doanh số 044222 do Sở Kế hoạch đầu tư cấp ngày 18/6/1996. Nguồn vốn điều lệ để thành lập Công ty là 4.000.000.000 đồng. (Bốn tỷ đồng).
Trụ sở chính của Công ty đặt tại số 15, Tập thể 128C, đường Đại La, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Ngay từ khi mới thành lập Công ty đã nhanh chóng ổn định bộ máy tổ chức, xắp xếp bộ máy gọn nhẹ phù hợp với điều kiện kinh doanh của Công ty và xác định phương hướng kinh doanh đi vào hoạt động có hiệu quả và phát triển. Với đội ngũ lãnh đạo năng động, dám nghĩ dám làm cùng sự đoàn kết quyết tâm của cán bộ công nhân viên nên từ khi thành lập đến nay, Công ty đã dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng mừng. Đến tháng 1 năm 2003, Công ty đã nâng nguồn vốn pháp định lên 14.100.000.000 đồng. (Mười bốn tỷ một trăm triệu đồng).
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của công ty:
a. Chức năng :
Sản xuất và buôn bán các mặt hàng cơ khí và vật liệu xây dựng.
Xây dựng và thi công công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông và thuỷ lợi.
Đại lý mua, đại lý bán ký gửi hàng hàng hoá.
Dịch vụ thương mại và vận chuyển hàng hoá.
b. Nhiệm vụ của Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương:
- Tổ chức bộ máy điều hành các hoạt động kinh doanh, đầu tư phát triển theo các mục tiêu chiến lược và kế hoạch của Công ty.
- Kinh doanh doanh đúng ngành nghề được cấp giấy phép. Mở rộng qui mô kinh doanh, xây dựng các chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp với tình hình thị trường và nền kinh tế.
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh, duy trì bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước, trách nhiệm với xã hội và chính sách nhân đạo.
- Tạo việc làm ổn định và nâng cao đời sống cán bộ nhân viên trong Công ty. Đảm bảo mọi quyền lợi cho người lao động phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên đáp ứng nhu cầu kinh doanh theo cơ chế mới.
c. Cơ cấu tổ chức của Công ty:
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương bao gồm 3 khối:
Ban Giám đốc:
Đứng đầu là Giám đốc Công ty phụ trách chung về công tác tổ chức kinh doanh và đại diện cho Công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Giúp cho Giám đốc có hai Phó Giám đốc:
Một Phó Giám đốc chuyên trách về vật liệu xây dựng.
Một Phó Giám đốc chuyên trách kinh doanh về sửa chữa cơ khí.
Các phòng ban nghiệp vụ
+ Phòng Kế hoạch kinh doanh: Có chức năng giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh hàng tháng, hàng quý, năm và dài hạn cho toàn Công ty, xác định quy mô mặt hàng kinh doanh, định mức dự trữ hàng hoá đồng thời tổ chức khai thác, mở rộng thị trường.
+ Phòng Kế toán tài chính: Có chức năng giúp Giám đốc trong việc tổ chức hệ thống quản lý kinh tế từ Công ty đến các đơn vị cơ sở, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chế độ hạch toán kế toán trong toàn Công ty, quản lý và theo dõi tình hình tài sản của Công ty, thực hiện việc ghi sổ sách kế toán và những công việc phát sinh ở Công ty, đồng thời định kỳ tiến hành kiểm tra xét duyệt báo cáo của các đơn vị trực thuộc và tổng hợp số liệu để lập Báo cáo toàn Công ty theo đúng pháp lệnh và chế độ kế toán của Nhà nước ban hành.
+ Phòng Tổ chức hành chính lao động: Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc về công tác tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương...
+ Các đơn vị trực thuộc:
Công ty có 3 cửa hàng trực thuộc tại 31A đường Giải Phóng, 995B đường Giải Phóng và 206 đường Nguyễn Trãi, Thành phố Hà Nội, tạo thành mạng lưới tiêu thụ cung cấp hàng đến tận nơi cho người tiêu dùng. Sau đây là cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương:
Giám đốc
Phó Giám đốc
KD – VLXD
Phó Giám đốc
KD sửa chữa cơ khí
Phòng
Kế hoạch kinh doanh
Phòng
Kế toán tài chính
Phòng
Tổ chức hành chính LĐ
Các cửa hàng
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty TNHH
thương mại và xây dựng Thái Phương
2.1.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương
Mặc dù gặp bao khó khăn do thiếu vốn, thiết bị công nghệ, vật tư... bao thử thách bởi những cơn lốc cạnh tranh, Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương vẫn liên tục phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương đã phát huy mọi khả năng sản xuất kinh doanh của mình để đứng vững trên thị trường và nâng cao uy tín của công ty. Công ty gắn công tác tiêu thụ với thị trường, kinh doanh sản xuất ra nhiều mặt hàng, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng từ chất lượng, số lượng, mẫu mã đến giá cả nên sản phẩm của công ty đã chiếm lĩnh được thị trường. Hiện nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở khắp nơi trong nước. Tính đến nay Công ty đã có 4 cửa hàng chính chưa kể các đại lý, có tổng số cán bộ công nhân viên là 70 người, với thu nhập bình quân hàng tháng là 800 ngàn đồng/người. Sau đây là bảng kết quả tiêu thụ sản phẩm theo một số khu vực thị trường chính.
Đơn vị: Tấn
STT
Các chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So sánh 2004/2003
So sánh 2005/2004
Chênh lệch
Tỷ lệ
%
Chênh lệch
Tỷ lệ
%
1
2
3
4
5
6
7
8
1
Miền Bắc
1957
2513
2946
556
28,4
433
17,2
2
Miền Trung
1423
1782
2060
359
21
278
15,6
3
Miền Nam
175
274
269
99
5
-5
-0.56
4
Tổng SL
3557
4569
5358
4004
28,4
789
17,2
Bảng 2.2 : Tình hình bán ra của các mặt hàng
Dưới đây là kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trong 3 năm gần đây:
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Các chỉ tiêu
Năm 2003
Năm
2004
Năm
2005
So sánh 2004/2003
So sánh 2005/2004
Chênh lệch
Tỷ lệ
%
Chênh lệch
Tỷ lệ
%
1
2
3
4
5
6
7
8
1
Tổng DT
73.861,73
93.252,9
116.286,4
19.391,1
26,3
23.033,5
24,7
2
Tổng CF
71.847
72.394
75.182
547
0,76
2.788
3,85
3
LNTT
2.233
2.708
1.871
475
21,27
-837
-30,91
4
Thuế
7.150
9.675
13.661
2.525
35,3
3.986
41,2
5
LNST
1.641
2.151
2.695
510
31
544
25,3
6
Thu nhập BQ
700
750
800
50
0,7
50
0,66
Bảng 2.3. - Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH thương mại và
xây dựng Thái Phương trong 3 năm 2003-2005
Qua bảng ta thấy doanh số bán ra của Công ty có xu hướng tăng dần và đi vào ổn định. Tổng doanh số bán ra năm 2004 so với năm 2003 tăng 19391 tiệuđồng (tăng 26,3%), năm 2005 so với năm 2004 tổng doanh số bán ra tăng vượt trội với 23033,5 ngàn đồng (tăng 24,7%). Mặc dù tổng doanh số bán ra năm 2005 tăng một phần còn do giá cả có biến động theo xu hướng tăng nhưng chủ yếu vẫn là do sự năng động trong kinh doanh của Công ty đã đáp ứng và mở rộng tới tất cả các đối tượng khách hàng.
Như vậy, nếu loại trừ yếu tố tác động từ bên ngoài thì tốc độ tăng trưởng về doanh số của Công ty đạt khá, thể hiện sự cố gắng vươn lên kinh doanh chiếm lĩnh thị trường của toàn thể cán bộ nhân viên trong Công ty. Cụ thể, tình hình bán ra của các mặt hàng như sau: Doanh số mặt hàng thép năm 2004 so với năm 2003 tăng 26.904.782 ngàn đồng (đạt 145,1%) và năm 2005 so với năm 2004 doanh số vẫn tiếp tục tăng 49.436.317 ngàn đồng (đạt 157%). Doanh số bán ra của mặt hàng đá xẻ năm 2004 so với năm 2003 giảm 1.512.656 ngàn đồng (đạt 77%) do tác động của giá đầu vào tuy nhiên năm 2005 so với năm 2004 doanh số bán ra đã tăng 756.677 ngàn đồng (đạt 115%). Các mặt hàng khác, tình hình bán ra năm 2005 cũng tăng 5.999.881 ngàn đồng (đạt 142%) so với năm 2004.
Lợi nhuận năm 2004 tăng so với năm 2003 là: 31% là do ảnh hưởng của nền kinh tế (6 tháng cuối năm). Nhưng bước sang năm 2005 thì so với năm 2003 lợi nhuận tăng không bằng, còn nếu so với năm 2004 thì lợi nhuận tăng 25,3%.
- Giá trị tổng sản lượng năm 2004 so với năm 2003 tăng 36,11%, năm 2005 so với năm 2004 tăng 32,19%.
- Doanh thu tăng bình quân qua các năm là 25%.
Sản lượng các loại từ năm 2003 sang năm 2005 tăng gần gấp đôi, tăng trung bình 22,8%.
Các khoản nộp Ngân sách tăng bình quân gần 40%/năm.
2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương.
2.2.1. Sự tác động của môi trường kinh doanh chung :
2.2.1.1. Môi trường kinh tế:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao đã làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng trưởng dẫn đến khả năng thanh toán của họ cũng tăng lên, và do đó sức mua cũng lớn hơn. Đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp, trong đó có Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương. Một khi thị trường tiêu thụ tăng, Công ty có điều kiện đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh mở rộng danh mục sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Sau đây là mức sử dựng sản phẩm vật liệu xây dựng bình quân
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
Mức sử dụng bình quân
Kg/người
1,2
1,25
1,31
2
Sản lượng của công ty
Tấn
3.557,59
4.569,07
5.358,23
Bảng 2.4. - Mức tiêu thụ vật liệu xây dựng bình quân và sản lượng của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương
Nhìn vào bảng ta thấy mức tiêu thụ vật liệu xây dựng của dân cư ngày càng tăng và tương ứng với nó, sản lượng của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương cũng ngày một tăng.
Rõ ràng, tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân tăng qua đó làm mức tiêu dùng của dân cư tăng theo đã ảnh hưởng tới phát triển của doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát giảm đi rất nhiều đã làm cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, mua thêm máy móc thiết bị. Mặt khác việc đổi mới chính sách ngân hàng tài chính cắt bỏ bớt hàng rào khắc nghiệt đã tạo thuận lợi cho công ty được vay vốn, được quyền tính toán huy động sử dụng vốn một cách hợp lý, giúp cho công ty có điều kiện tăng cường đổi mới công nghệ, kỹ thuật, cải tạo cơ sở vật chất.
2.2.1.2. Môi trường về chính trị và luật pháp.
Thể chế chính trị ổn định cùng với mức tăng trưởng cao và chính sách mở cửa nền kinh tế đã làm cho số lượng các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp liên doanh tăng lên nhanh chóng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương. Ngoài ra một số Công ty khác khi liên doanh với nước ngoài đã được tăng khả năng cạnh tranh.
Luật pháp chưa thực sự được áp dụng một cách triệt để, chính trong hệ thống luật pháp còn nhiều bất bình đẳng. Nhà nước còn một số ưu đãi quá lớn cho các doanh nghiệp liên doanh, và doanh nghiệp nhà nước dẫn đến gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước trong lĩnh vực cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
2.2.1.3. Môi trường về khoa học, công nghệ.
Nhờ áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ ._.lợi giúp cho một tổ chức đạt được mục tiêu của mình và có được những phương án để đối phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài từ đó tìm ra phương hướng phát triển thích hợp cho tổ chức.
Mặt khác, nói chung trình độ quản lý các doanh nghiệp ở nước ta là còn rất yếu, chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý một cách chuyên sâu, họ thường quản lý thông qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm công tác. Hơn nữa tác phong lề lối theo kiều cũ vẫn còn. Do đó cần phải có sự đào tạo nhân sự và đổi mới trong công tác tổ chức quản lý tạo ra một cơ cấu gọn nhẹ làm việc có hiệu quả đáp ứng với sự biến đổi phức tạp với môi trường hiện nay, đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ nghiệp vụ, công ty nên tổ chức các lớp học trong theo khu vực cán bộ, nhân viên. Thực hiện các chương trình đào tạo nghiệp vụ ngắn, trung và dài hạn đồng thời phân loại chương trình theo kinh nghiệm công tác để đào tạo quản lý kinh doanh cho cán bộ chủ chốt. Công ty nên tổ chức và duy trì các lớp đào tạo kiến thức bổ trợ như: ngoại ngữ, tin học cho nhân viên. Ngoài ra luôn chú trọng đến công tác tuyển chọn đào tạo nguồn nhân lực mới của công ty cũng như các chính sách đã ngộ nhân sự sao cho thoả đáng thích hợp.
3.2.4. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý.
Mức giá hợp lý phải được tính toán trên cơ sở giá cả thị trường, thu nhập của người tiêu dùng và chi phí sản xuất của công ty. Sản phẩm thông thường chia gói, hộp nhỏ, giá thấp dễ tiêu thụ ở miền núi và nông thôn. Sản phẩm cao cấp, bao bì đẹp, giá cao tiêu thụ được ở thị trường thành thị. Không nên điều chỉnh giá cả theo thời vụ đối với sản phẩm vật liệu xây dựng vì như vậy sẽ gây tâm lý so sánh với giá của sản phẩm cùng loại trên thị trường của người mua. Vì vậy, chính sách giá linh hoạt là lấy lãi của sản phẩm này bù lỗ cho sản phẩm kia, lãi của thời vụ này bù lỗ cho thời vụ khác mà tổng lợi nhuận kinh doanh không giảm, vẫn đảm bảo được yêu cầu ổn định và phát triển thị trường. Đồng thời Công ty cần có biện pháp kế hoạch để ổn định giá, lợi dụng lúc nhu cầu tăng đột biến, các tư thương thường tổ chức gom hàng, ôm hàng để hưởng chênh lệch giá.
Để giữ được giá thấp mà vẫn thu được lời đòi hỏi Công ty phải quan tâm nhiều đến quá trình sản xuất : Thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm giảm giá thành như việc tính toán mua bán vật tư, nguyên liệu thế nào để vừa đảm bảo nhu cầu sản xuất vừa không phải chịu tồn đọng gây ra thất thoát hoặc chịu lãi vốn. Đặc biệt là việc đề cao vai trò quản lý sản xuất, tiết kiệm vật tư nguyên liệu. Hiện nay, chi phí nguyên vật liệu trong giá thành khá cao (chiếm 60 - 75%), Công ty nên có biện pháp giảm chi phí này.
Đa dạng hoá sản phẩm cũng có nghĩa là đa dạng hoá giá bán. Các sản phẩm công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương hiện nay được đa dạng hoá bằng cách cải tiến mẫu mã, thay đổi trọng lượng đóng gói, hình thức bao bì. Do vậy, việc định giá các sản phẩm sẽ tạo ra các khoảng cách giá hấp dẫn cho người mua. Chẳng hạn, sơn hộp 20 kg của công ty hiện bán với giá 140.000đ/ hộp, nếu đóng gói hộp 2 kg thì giá bán tương đương là: 20.000đ/ hộp nhưng có thể định giá 20.500đ/ hộp. Khoảng cách giá này có hai ưu thế:
- Thứ nhất là rất khó so sánh, vì người tiêu dùng họ không dùng máy tính để tính toán chính xác, mà đây là một cách tương đối làm lợi cho công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương là: Với hộp 2 kg giá 20.500đ thì 10 hộp giá phải là 200.500đ. Công ty dược lợi: 200.500 – 140.000 = 60.500 đ. Ngược lại, hộp 20 kg bán với giá 140.000đ (giảm 60.500đ) người tiêu dùng cảm thấy có vẻ hợp lý vì họ được lợi nhiều hơn.
- Mặt khác, với gói nhỏ 2 kg sẽ có thể đáp ứng cho người có nhu cầu ít, phù hợp với túi tiền. Giá cũng không đắt mà phù hợp với nhu cầu thị trường
Vậy, đa dạng hoá giá bán không chỉ hấp dẫn với người mua mà còn đem lại lợi nhuận cho Công ty.
Các sản phẩm khác cũng nên áp dụng hình thức này nhằm khai thác tối đa các đoạn thị trường có mức thu nhập khác nhau.
Giảm giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm được cấu thành bởi chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp sản xuất và khấu hao TSCĐ hay còn gọi là chi phí TSCĐ và một số chi phí khác về nguyên vật liệu, điện nước phục vụ trực tiếp cho sản xuất.
Để giữ được giá bán thấp mà vẫn có lãi, công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương cần áp dụng các biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Muốn hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần áp dụng các biện pháp làm giảm chi phí về nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí TSCĐ... Ngoài ra cần có chính sách, cách tính giá thành hợp lý.
a. Giảm chi phí nguyên vật liệu.
Để giảm được chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm Công ty cần thực hiện tốt các công tác sau:
* Thứ nhất, tổ chức tốt công tác thu mua nguyên vật liệu.
Chi phí cho công tác thu mua bao gồm: lượng tiền trả cho nhà cung ứng (chi phí này bằng giá bán đơn vị nguyên vật liệu nhân với khối lượng hàng mua) và chi phí mua hàng (chi phí bỏ ra để thực hiện công tác mua hàng). Như vậy để giảm chi phí thu mua, Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Tìm chọn người cung ứng có nhiều lợi thế về giá, chất lượng và sự ổn định... Vì thị trường trong và ngoài nước có nhiều nhà cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất đá xẻ và vật liệu xây dựng, Công ty hiện đang có ưu thế này.
- Đối với nguyên vật liệu trong nước, Công ty có thể thu mua tận gốc để giảm chi phí trung gian.
- Đối với nguyên vật liệu phải nhập ngoại, để tận dụng ưu đãi chiết giá, giảm giá cho mua với khối lượng nhiều, Công ty có thể kết hợp với các đối thủ hoặc các cơ quan khác thực hiện chung một đơn hàng.
- Với chi phí vận chuyển, để giảm chi phí này, Công ty có thể sử dụng phương tiện vận chuyển sẵn có, tạo thêm việc làm cho anh em lái xe của Công ty.
* Thứ hai, tối thiểu hoá chi phí bảo quản dự trữ nguyên vật liệu.
Để giảm chi phí cho công tác bảo quản dự trữ nguyên vật liệu, Công ty giao trách nhiệm cho phòng kế hoạch vật tư thực hiện một số biện pháp sau:
- Trưởng phòng kế hoạch vật tư giao trách nhiệm đồng thời giám sát thủ kho việc kiểm tra số lượng, chất lượng nguyên vật liệu trước khi nhập kho.
- Định kỳ 6 tháng lần một lần kiểm tra, nâng cấp hệ thống kho tàng, tăng cường các biện pháp chống ẩm, chống oxi hoá, hỏng vỡ gây hao hụt nguyên vật liệu trong kho, thực hiện công tác chống ẩm, bảo quản tốt chất lượng nguyên vật liệu, đồng thời có thể tăng được thời gian dự trữ nguyên vật liệu trong kho.
- Chất lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng thường đảm bảo trong một thời gian nhất định. Do vậy Công ty nên áp dụng biện pháp xuất kho là: nhập trước xuất trước. Để tránh tình trạng bị quên do sắp xếp lộn xộn, các cán bộ quản lý kho, phải xếp riêng mỗi loại nguyên vật liệu theo đợt nhập và ghi rõ ngày tháng nhập kho từng lô hàng riêng.
- Do sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng mang tính thời vụ rõ rệt. Bởi vậy nhu cầu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất cũng mang tính mùa vụ. Mặt khác chất lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng chỉ đảm bảo trong giới hạn thời gian nhất định.
- Công ty cần buộc trách nhiệm cho nhân viên quản lý kho về những sự cố phải mất mát, lập kế hoạch cho họ về kiểm tra, kiểm kê, báo cáo tình hình nguyên vật liệu trong kho theo định kỳ có thể là 5 ngày, 1 tuần.
* Thứ ba, xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu
Sau đây là bảng định mức nguyên vật liệu cho sản phẩm đá xẻ và gạch men:
stt
nguyên vật liệu
đơn vị tính
khối lượng (số lượng)
độ khô
(%)
giá (đ)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Đá nguyên liệu
Gạch men nguyên liệu
Xăng
Đá mài
dầu
Hộp
Nhãn
Bìa lót
Băng dính
kg
kg
kg
kg
kg
cuộn
cái
cái
cuộn
569
388
30
3
4
3
320
70
15
97
93
100
100
100
-
-
-
-
5.800
4.200
225.000
20.000
135.000
5.000
5.000
7.000
Bảng 3.1 - Định mức nguyên vật liệu cho đá xẻ và gạch men
Chỉ tiêu cho phép: Độ ẩm (W): 3%; hao hụt (HH): 3,5%.
- Tổng khối lượng bao bì (Băng dính, bìa lót, hộp, nhãn) cho 1 tấn là: 40 kg
Vậy theo số liệu trên thì sản lượng có thể đạt được từ việc định mức sẽ là:
[(569 x 0.97 + 388 x 0.93 + 40 x 0.81 + 30 + 31 + 4) x] x + 40 = 1045 (kg)
Như vậy định mức còn quá cao so với thực tế tiêu dùng. Công ty nên giảm 2% (vẫn đảm bảo khối lượng sản phẩm đạt được là:
1.045 - 2% x 1.045 = 1.024 kg đối với các nguyên liệu chính, đá, gạch nguyên liệu, xăng, dầu, ). Khi đó định mức mới cho 5 loại nguyên vật liệu này là:
STT
Nguyên vật liệu
Đơn vị
Định mức cũ
Khối lượng giảm(kg)
Định mức lại
1
Đá nguyên liệu
Kg
569
11
558
2
Gạch nguyên liệu
Kg
388
7.5
380.5
3
Xăng
Kg
40
0.8
39.2
4
Dầu
Kg
30
0.6
29.4
5
Đá mài
Kg
3
0.6
3.4
Bảng 3.2 - Định mức sau khi điều chỉnh
Vậy chi phí nguyên vật liệu cho 1 tấn sản phẩm sẽ giảm được là:
11 x 5.800 + 7,5 x 4.200 + 0,8 x 17.000 + 0,6 x 5.000 + 0,6 x 200.000 = 231.900 (đ)
Trong 1 năm, ví dụ như năm 2005 sản lượng sản phẩm là 900 tấn thì chi phí nguyên vật liệu sẽ tiết kiệm được là:
231.900 x 900 = 208.710.000 (đ)
Và do đó sản phẩm từ lăi ít sẽ chuyển sang lãi nhiều hơn.
Ngoài ra để giảm chi phí nguyên vật liệu, Công ty có thể sử dụng nguyên vật liệu thay thế với giá rẻ hơn mà chất lượng sản phẩm vẫn đảm bảo.
Ví dụ như: Thay việc nhập sơn dầu từ Pháp với giá rất cao (200.000đ/kg) bằng việc dùng dầu trong nước với giá rẻ hơn nhiều (125.000đ/kg).
b. Giảm chi phí nhân công trong chi phí sản xuất sản phẩm.
Để giảm chi phí nhân công, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau:
- Đối với lao động gián tiếp:
Hiện nay lao động gián tiếp trong Công ty còn chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 18 - 19%). Bộ phận quản lý còn quá cồng kềnh, hoạt động chưa hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp :
+ Cho nghỉ chế độ đối với những người đã đủ tuổi.
+ Kết hợp với thành tích công tác, thực hiện chế độ thi tuyển định kỳ để đề bạt, xa thải hoặc chuyển xuống bộ phận sản xuất.
+ Thường xuyên có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trẻ.
- Đối với lao động trực tiếp sản xuất :
+ Thực hiện định mức lao động đối với những công việc có tính chất khoán việc, một số các công việc khác như đóng gói thì nên khoán theo sản phẩm.
+ Nâng cao điều kiện làm việc như sửa sang nhà xưởng sạch sẽ thoáng mát, đổi mới công nghệ, thay đổi công cụ làm việc tiện lợi... từ đó sẽ làm tăng năng suất lao động nên Công ty có thể giảm định mức lao động.
+ Thực thi nghiêm ngặt nội quy lao động, tránh tình trạng công nhân đi muộn về sớm. Thực tế điều này Công ty chưa thực hiện được.
+ Các bộ phận phân xưởng phải lên kế hoạch lịch trình sản xuất cho các tổ đội, tránh tình trạng các bước làm việc trên dây truyền phải chờ đợi do không cân đối nhịp nhàng.
+ Giao trách nhiệm cho các phân xưởng tổ đội thực hiện việc chấm công chính xác rõ ràng.
+ Ngoài ra, khi tuyển dụng, Công ty phải đưa ra trước về chế độ sinh đẻ (hiện Công ty không quy định điều này), đó là ít nhất sau 3 năm công tác tại Công ty mới được sinh đẻ... đặc biệt cần phải khám sức khoẻ, kiểm tra năng lực tay nghề khi sơ tuyển và nêu một số các điều kiện, nội quy, quy chế để mọi người nghiêm chỉnh chấp hành.
c. Giảm chi phí cố định, chi phí điện nước.
* Các biện pháp giảm chi phí cố định
Chi phí cố định bao gồm chi phí sử dụng máy móc thiết bị (KHTSCĐ) và chi phí quản lý... Để giảm các chi phí này Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đối với chi phí cố định là khấu hao TSCĐ. Công ty có thể giảm chi phí này trong đơn vị sản phẩm bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tìm biện pháp tiêu thụ với phương châm sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Mặt khác, với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, ngoài hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình ngày càng lớn. Do vậy, Công ty nên thực hiện khấu hao nhanh bằng cách tận dụng hết công suất làm việc và tăng ca sản xuất trong ngày.
Đối với những máy móc thiết bị không sử dụng hoặc không còn tiếp tục sản xuất được, Công ty nên tổ chức thanh lý để thu hồi giá trị còn lại, đầu tư vốn vào các thiết bị sản xuất có lợi khác.
Trong sản xuất, mọi công nhân phải có trách nhiệm về dây chuyền sản xuất của mình, phải thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng máy móc thiết bị để tránh xẩy ra sửa chữa lớn làm tăng chi phí và ngừng trệ sản xuất.
Đối với chi phí cố định là chi phí gián tiếp, Công ty có thể giảm tỷ lệ chi phí này trong giá thành sản phẩm bằng cách giảm tỷ lệ lao động gián tiếp trong lực lượng lao động của Công ty. Điều đó có thể thực hiện được bằng cách :
+ Sát nhập hai tổ thành một tổ, như vậy Công ty hiện đang có 3 tổ sản xuất sau khi sát nhập chỉ còn 2 tổ. Trong 3 tổ trưởng, phòng tổ chức tiến hành chế độ thi tuyển hoặc bầu chọn để chọn lấy 2 tổ trưởng.
+ Với bộ máy quản lý hành chính, ngoài một số biện pháp đã nêu ở trên, Công ty có thể sa thải hoặc đưa xuống bộ phận sản xuất những cán bộ có năng lực kém thông qua bằng cấp và những vi phạm thực tế (ví dụ: vi pham nội quy kỷ luật, ý thức trách nhiệm trong công tác kém...)
*. Giảm chi phí nhiên liệu, điện nước
- Mặc dù chi phí về nhiên liệu điện nước chiếm một tỷ lệ nhỏ trong giá thành sản phẩm nhưng tiết kiệm chi phí này cũng sẽ làm lợi đáng kể.
- Chi phí cho điện sản xuất là khá lớn. Vì vậy để tiết kiệm điện, Công ty nên lắp các công tơ điện và giao định mức sử dụng điện trong sản xuất và điện phục vụ cho công cộng.
Chi phí nhiên liệu là than, xăng dầu, Công ty nên chọn mua than có chất lượng cao, nhiệt lượng lớn để tăng hiệu quả sử dụng. Bên cạnh đó cần trang bị các loại thiết bị sử dụng nhiên liệu đã lạc hậu, sử dụng tốn nhiên liệu, giữ nhiệt không cao.
- Nước dùng trong sản xuất tuy rẻ tiền nhưng Công ty cần phải tiết kiệm bằng cách cải tạo lại hệ thống dẫn nước tránh rò rỉ nước sạch ra ngoài, lắp đồng hồ đo nước cho các phân xưởng và giáo dục mọi người ý thức tiết kiệm nước sạch.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác tiêu thụ hàng hoá
3.2.5.1. Tổ chức tốt công tác tiêu thụ
Công ty cần chú ý quan tâm tới việc cung cấp đủ hàng cho đại lý, đáp ứng kịp thời, đúng số lượng và chủng loại nhằm khai thác tối đa thị trường, không nên để khoảng trống thị trường. Khi có các thông tin đột biến về sản xuất hay giá cả cần thông tin kịp thời cho các đại lý hoặc thông tin rộng khắp cho cả người tiêu dùng. Ngược lại, Công ty cũng cần có các thông tin về tình hình tiêu thụ của đại lý: sản phẩm nào tiêu thụ mạnh, sản phẩm nào tiêu thụ kém, tồn đọng bao nhiêu, ý kiến phản ánh của người tiêu dùng... để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Duy trì thông tin hai chiều này bằng các phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, fax, thư tín... và tổ chức cho nhân viên trực tiếp xuống thị trường kiểm tra.
Trong thời gian tới, Công ty cần tiếp tục mở rộng đại lý và các địa điểm bán hàng - cửa hàng giới thiệu sản phẩm, nhất là thị trường thành thị có dân số đông, nhu cầu sản phẩm cao. Công ty nên có biện pháp mở thêm các điểm bán lẻ tại Hà Nội hoặc có chính sách khuyến khích các cửa hàng (hộ kinh doanh ) đến ký hợp đồng trực tiếp với Công ty . Để thực sự khuyến khích các cửa hàng bán lẻ tiêu thụ sản phẩm của mình công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Chiết khấu 10% mức lãi trong sản phẩm (không theo khối lượng) đối với khách hàng mới (có địa điểm kinh doanh) trong thời gian 6 tháng.
Biện pháp này có hai ưu thế:
+ Thứ nhất, một cách gần đúng, Công ty có thêm 90% mức lãi từ những sản phẩm tiêu thụ tăng lên từ khách hàng mới so với hiện tại, mục tiêu này đồng mục tiêu mở rộng thị phần.
+ Thứ hai, chiết khấu không theo khối lượng sản phẩm tạo tâm lý thoả mái cho người mới nhập cuộc kinh doanh hàng của Công ty nhưng về bản chất không khác so với chiết khấu theo khối lượng. Vì nếu chiết khấu theo khối lượng, buộc họ phải mua nhiều đủ để hưởng chiết khấu. Với họ điều này sẽ gây cảm giác mạo hiểm (do sợ tồn đọng lâu) và họ phải bán hết số hàng mua về thì mới mua đợt khác. Thành thử số lần mua của họ phải ít, thời gian om hàng lâu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Mặt khác, Công ty có thể cho đội ngũ tiếp thị đi liên hệ trực tiếp với các cơ sở kinh doanh để tạo ra mạng lưới các địa điểm tiêu thụ dày đặc theo phương châm gửi bán hưởng hoa hồng và chịu trách nhiệm cung ứng (đưa đến tận nơi), điều tiết, thu hồi sản phẩm ế đọng lâu (nếu có).
Với các thị trường miền núi, giáp biên giới phía Bắc, Công ty cần tiếp tục tìm kiếm đối tác để mở đại lý tăng thêm sản lượng tiêu thụ ở thị trường mới này. Mở đại lý ở một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc như Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai... bước đầu chiếm lĩnh thị trường này và dần dần xuất khẩu sang Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch. ở thị trường miền Nam xa xôi khó khăn cho khâu vận chuyển và quản lý, Công ty không nên mở nhiều đại lý mà nên đặt tổng đại lý ở mỗi tỉnh, các tổng đại lý này sẽ làm nhiệm vụ phân phối hàng cho các đại lý bán lẻ.
3.2.5.2. Tổ chức tốt các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ
Mặc dù sản phẩm của Công ty có chất lượng cao, giá bán hạ nhưng khả năng tiêu thụ còn hạn chế. Đây là một tồn tại lớn mà cán bộ lãnh đạo của Công ty đang hết sức quan tâm. Qua phân tích thực trạng ở phần hai, để giải quyết phần nào tồn tại trên, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sau:
a. Tích cực hoạt động quảng cáo.
Hoạt động quảng cáo, giao tiếp và khuếch trương của Công ty trong những năm qua chưa được coi trọng đúng mức. Vì vậy, một số loại sản phẩm của Công ty mặc dù có mặt trên thị trường nhưng không được mọi người biết đến, thậm chí đến cả tên Công ty ở một số nơi một số người cũng không biết. Bởi vậy trong thời gian tới, Công ty cần tăng cường các hoạt động quảng cáo bằng các hình thức sau:
- Thứ nhất, tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể quảng cáo trên truyền hình trung ương và địa phương. Lựa chọn một số tỉnh có khả năng tiêu thụ mạnh (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tây) để tổ chức quảng cáo trên đài truyền hình và đài phát thanh địa phương, sau đó nhân rộng ra địa phương khác. Nghiên cứu thiết kết nội dung chương trình quảng cáo không chỉ đơn thuần cung cấp các thông tin về sản phẩm của công ty mà trong nó nên xây dựng một biểu tượng hấp dẫn về công ty, có thể thêm vào đó một số kỹ thuật khuyến mại (quà tặng về biểu tượng của công ty, phiếu có thưởng...) - Thứ hai, Công ty nên áp dụng quảng cáo trên panô, áp phích: đây là hình thức rất có hiệu quả, nó không chỉ nhắc nhở về sự tồn tại sản phẩm trên thị trường mà còn gợi ý, hướng dẫn người tiêu dùng mua hàng ở đâu. Do kinh phí hạn chế Công ty không thể quảng cáo bằng panô, áp phích lớn trên ngã ba, ngã tư, trục đường giao thông thì có thể làm bằng cách:
+ Đặt panô áp phích tại các đại lý, điểm bán hàng của công ty để người tiêu dùng biết được ở đó có bán sản phẩm của công ty. Các panô, áp phích phải làm rõ ràng, dễ hiểu, dễ gây ấn tượng...
+ Đặt các panô, áp phích trên các phương tiện vận chuyển của Công ty, của đại lý. Hình thức quảng cáo di động này sẽ cung cấp thông tin trên mỗi chặng đường mà nó đi qua.
- Thứ ba, Công ty nên nghiên cứu quảng cáo bằng tờ rơi giới thiệu về các sản phẩm của công ty, có thể cho vào trong bao gói một số sản phẩm được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh. Chẳng hạn đặt trong sản phẩm đá xẻ 20x20, đây là sản phẩm được nhiều hộ gia đình ưa dùng. Khi họ có nhu cầu mua đá xẻ, họ đã có thông tin về sản phẩm của công ty và sẽ tin dùng như tin vào sản phẩm đã dùng.
Bên cạnh quảng cáo sản phẩm của mình, Công ty có thể tăng cường một số hoạt động yểm trợ bán hàng khác như: tham gia các hội chợ, tham gia các hoạt động quần chúng, mở rộng các hoạt động chiêu thị khác.
b. Tăng cường công tác khuyến mại.
Thực tế công ty đã áp dụng một số kỹ thuật khuyến mại trong tiêu thụ sản phẩm như: chiết khấu cho tiêu thụ nhiều, thưởng tiêu thụ sản phẩm mới như đợt khuyến mại sản phẩm thép nhân dịp 30 - 4 - 2005 vừa qua. Nhìn chung, chính sách khuyến mại của công ty đã thúc đẩy hoạt động tiêu thụ và cần tiếp tục phát huy. Để tăng sức hấp dẫn, công ty nên tăng tỷ lệ phần trăm khuyến mại cho đại lý, công ty cũng nên áp dụng các kỹ thuật khuyến mại đối với người tiêu dùng như sau:
- Đối với các loại sản phẩm mới nên thực hiện chính sách khuyến mại kích thích người mua dùng thử lần đầu bằng cách mời khách hàng dùng thử và có thể tặng sản phẩm cho họ.
- Đối với những sản phẩm khác công ty nên thực hiện chính sách khuyến mại kích thích khách hàng mua nhiều hơn, thường xuyên hơn bằng cách in phiếu số có thưởng bỏ vào gói sản phẩm, khách hàng nào may mắn sẽ được thưởng. Ngoài ra công ty có thể thực hiện tặng quà (áo, mũ... có in biểu tượng công ty) theo đợt với những khách hàng mua nhiều hoặc khách quen, điều này không chỉ mang tính chất khuyến mại mà còn có tác dụng quảng cáo.
Trước khi khuyến mại cần phải có các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, panô, áp phích để người tiêu dùng biết. Đặc biệt áp dụng khuyến mại đối với sản phẩm mới, thị trường mới. Thực hiện các chiến lược này sản phẩm của công ty có thể dễ dàng thâm nhập thị trường hơn. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên.
c. Tạo thuận lợi trong thanh toán và phục vụ khách hàng, mở rông quan hệ hợp tác kinh doanh với các tổ chức khác
Nhìn chung, với sản phẩm là vật liệu xây dựng thì chính sách thanh toán và phục vụ khách hàng chủ yếu được nhằm vào các khách hàng đại lý và người mua buôn.
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương đã áp dụng một số chính sách thanh toán ưu đãi đối với các đại lý như cho phép các đại lý trả chậm, nhưng chính sách thanh toán của công ty đối với các đại lý còn cứng nhắc so với một số đối thủ cạnh tranh.
Hiện tại công ty không cho các đại lý và người bán buôn hưởng chiết khấu bán hàng, đồng thời cũng không thưởng cho các đại lý trong trường hợp tiêu thụ được nhiều sản phẩm của công ty. Điều này không kích thích các đại lý tiêu thụ sản phẩm một cách mạnh mẽ. Vì vậy công ty nên cho hưởng chiết khấu bán hàng 2% doanh số tiêu thụ đối với những đại lý mua hàng từ 50 triệu đồng trở lên và thanh toán ngay.
Với chính sách phục vụ công ty cần quan tâm đến những vấn đề sau:
- Phục vụ vận chuyển hàng hoá đến tận các đại lý hoặc trợ giúp cho các đại lý một phần chi phí vận chuyển.
- Bố trí nơi ăn nghỉ và tiếp đón nồng nhiệt đối với những khách hàng ở xa lỡ buổi trú lại ở công ty.
- Làm biển quảng cáo với biểu tượng của mình, công ty trợ giúp cho các đại lý biển quảng cáo và có thể cho nhân viên đến lắp đặt, trang trí gian hàng cho các đại lý.
- Cung cấp bao gói và hỗ trợ kinh phí cho việc bao gói lại các sản phẩm hàng hoá bị rách vỡ bao gói trong quá trình vận chuyển...
Thực hiện các giải pháp trên sẽ làm tăng độ tin cậy của khách hàng vào công ty và do đó công ty sẽ giữ được khách hàng của mình, góp phần làm tăng sự ổn định mạng lưới tiêu thụ.
Khi thực hiện quan hệ hợp tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế khác, công ty có thể tăng nguồn vốn kinh doanh cho mình, có được những công nghệ sản xuất tiên tiến, trang thiết bị hiện đại, đây là những điều một doanh nghiệp rất cần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, ngoài ra nó còn tạo ra một cách làm việc mới tác phong công nghiệp, xóa bỏ cách làm vịêc cũ, tạo ra sự năng động sáng tạo trong lao động.
Công ty có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, những vấn đề mà đối tác đã gặp phải song công ty chưa gặp phải qua đó rút ra bài học và có những biện pháp đối phó.
Doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua đối tác kinh doanh, đây là điều có lợi cho các doanh nghiệp trong nước muốn vươn ra thị trường thế giới.
3.3. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước thì vai trò của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và trong việc tạo môi trường kinh doanh cho các cơ sở kinh tế nói riêng. Là một doanh nghiệp TNHH, công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương cũng như các công ty khác luôn phải chịu dàng buộc bởi “luật ” của cơ chế thị trường. Điều mong muốn của các doanh nghiệp muốn tự khẳng định năng lực của mình trên thương trường là “sân chơi” phải bằng phẳng. Có như vậy môi trường cạnh tranh mới đảm bảo tính lành mạnh, bình đẳng, các doanh nghiệp mới thực sự hài lòng với những thắng lợi đạt được và chấp nhận những gì thua mất.
Để làm được điều đó, không ai khác ngoài Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa đến việc điều chỉnh, nâng cao và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường.
Dưới đây là một số kiến nghị với Nhà nước
- Một là, Nhà nước sớm ban hành luật cạnh tranh và các luật khác có liên quan để từ đó tạo ra một cơ chế thị trường lành mạnh, bình đẳng. Trong đó một vấn đề nổi cộm hiện nay cần phải ngăn chặn và xử lý nghiêm minh là tệ làm hàng giả, hàng trốn thuế, hàng nhập lậu. Để thực hiện được điều này, Nhà nước phải tăng cường lực lượng kiểm soát thị trường, kiểm soát cửa khẩu, thực hiện thưởng thích đáng đối với những ai phát hiện trình báo các tệ nạn trên, xử phạt thật nặng đối với những kẻ làm ăn phi pháp...
- Hai là, Nhà nước cần phải tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật quy đinh chặt chẽ nhập mặt hàng .
- Ba là, thành lập tổ chức tư vấn công nghệ thông tin để giúp các doanh nghiệp khỏi bị thất thố trong việc đầu tư đổi mới bằng công nghệ nhập ngoại.
- Bốn là, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp, Nhà nước cần phải khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đièu kiện phát triển. Có như vậy năng lực, trách nhiệm của các thành phần trong công ty mới thực sự được phát huy, hiệu quả kinh doanh tất yếu sẽ được nâng cao. Nhà nước cần phải có biện pháp định giá, trợ giá hợp lý.
Với công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương, thì tất yếu khả năng cạnh tranh sẽ được nâng lên nhiều, vấn đề thắng thua chỉ phụ thuộc vào cơ chế và sự biến động của thị trường.
- Năm là, xây dựng hệ thống thị trường tài chính, trong đó hệ thống các ngân hàng thương mại, các trụ sở giao dịch chứng khoán được coi là nơi đầu tư và huy động vốn một cách thuận tiện nhất cho các doanh nghiệp nói riêng cũng như các chủ thể của nền kinh tế nói chung. Về lĩnh vực này, Nhà nước cần phải kiểm soát chặt chẽ mức lãi suất vay, gửi tránh hiện tượng độc quyền tự ý hoặc gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động và sử dụng vốn.
Kết luận
Cuộc cạnh tranh thị trường nào cũng được diễn ra với một chiến lược cạnh tranh nhất định. Chiến lược cạnh tranh thị trường là toàn bộ hệ thống các quan điểm, mục đích, mục tiêu, chính sách, thị trường nhằm đảm bảo tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá trong thời gian lâu dài và đem lại lợi nhuận theo dự kiến cho doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược cạnh tranh, một trong những vấn đề cơ bản, xuyên suốt trong mọi thời kỳ hoạt động của các doanh nghiệp là việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Một doanh nghiệp cho dù đã giành thắng lợi trong cạnh tranh hiện tại thì sau đó vẫn có thể bị thất bại nếu như doanh nghiệp đó không biết tìm cách nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình. Quán triệt quan điểm đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp nhằm liên kết các nguồn lực của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Với công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương tuy bước đầu đã đạt được những kết quả đáng mừng, nhưng vì sự tồn tại và phát triển của công ty trong tương lai nên việc tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết. Đề tài " Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương trên thị trường " là sự kết hợp giữa các vấn đề lý luận và sự phân tích đánh giá tình hình hoạt động sản xuất của công ty, trên cơ sở đó em đưa ra một số giải pháp mang tính chiến lược. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do năng lực và thời gian có hạn nên đề tài có thể còn một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để, em rất mong được sự đóng góp, hoàn thiện bổ sung của cô giáo hướng dẫn và Ban Giám đốc cũng như các cán bộ phòng ban chức năng để đề tài của em có chất lượng cao hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo trong trường, các thầy cô trong khoa Quản trị doanh nghiệp, cô giáo Nguyễn Thị Bích Loan, Ban giám đốc, phòng Tổ chức công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Garry D.S mith, Danny R. Arnold, Boddy R. Bizzell (2005 ),“ Chiến lược và sách lược kinh doanh”; NXB Thống kê .
2. Jean Gui (2000) ,"Cạnh tranh bằng giảm tối đa phí tổn thương mại"
; NXB TPHCM .
3. Micheal E Porter(1999) ,“Chiến lược cạnh tranh” ; NXB khoa học kỹ thuật .
4. Charles J.Woelfet (2000), “ Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp”; NXB Khoa học kỹ thuật Hà nội.
5. Th.s Vũ Thuỳ Dương ( 2003 ),“ Quản trị dự án”; Nhà xuất bản Thống kê.
6. GS.TS. Phạm Vũ Luận (2004), “ Quản trị doanh nghiệp thương mại” ; Nhà xuất bản Thống kê.
7. PGS.TS. Phạm Công Đoàn(2004), “ Kinh tế doanh nghiệp thương mại” ; Nhà xuất bản Thống kê.
8. Lê Thụ (2002), “Định giá và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp”
; NXB Thống kê .
Tài liệu về:
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty năm 2003, 2004, 2005.
- Phương hướng và kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty 2006 -2010.
10. -Tạp chí công nghiệp số 17, 18, 19- 2002 - Tạp chí kinh tế và dự báo số 1-2005
11. Website: http: www.Vietnam.net
12. Website: http: www.Thị trường.com
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------- a b ----------
Giấy xác nhận
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương xác nhận:
Sinh viên : Hà Ngọc Đoàn
Lớp : K38 – A1 Khoa: Quản trị Doanh nghiệp
Trường : Đại học Thương Mại
Về việc : Thực tập tại Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương
Thời gian : Từ ngày 03/04/2006 đến ngày 26/06/2006
Nhận xét của Công ty:
Trong thời gian thực tập tại Công ty, sinh viên Hà Ngọc Đoàn luôn cố gắng học hỏi, chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh để nắm bắt tình hình thực tế của Công ty.
Chấp hành tốt nội quy làm việc của Công ty, tôn trọng các quy định chung của Công ty đối với sinh viên thực tập.
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương đánh giá rất cao nội dung bài luận văn đã phản ánh đúng tình hình thực tế ở Công ty và đưa ra những giải pháp rất thiết thực cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29462.doc