LờI NóI ĐầU
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà nước đã chủ chương phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong lĩnh vực thương mại tất nhiên thương mại Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo chi phối hoạt động các thương mại phi Nhà nước. Do đó việc phát triển thương mại Nhà nước cần có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với thương mại tư nhân, tiểu thương . Không thể có một khu vực thương mại tư nhân lớn mạnh nếu như sự phát triể
46 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của nó biệt lập với sự phát triển của khu vực thương mại Nhà nước. Một khu vực thương mại đủ mạnh và hoạt động có hiệu quả là tiền đề tiên quyết cho sự phát triển của khu vực thương mại tư nhân. Tuy nhiên cho đến nay hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà Nước vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cần phải tiếp tục giải quyết, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và đặc biệt là hội nghị Trung Ương( khoá VIII) về “ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH-HĐH, phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000 và tạo đà cho những năm tiếp theo”, đã khẳng định sự cần thiết phải củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước.
Với cách đặt vấn đề như vậy, tiếp tục củng cố và phát triển khu vực thương mại Nhà Nước đã trở thành khâu then chốt để tạo ra được thực lực khả năng tác động đến chiều hướng phát triển của các thành phần thương mại khác. Điều đó có nghĩa là phải củng cố hệ thống các doanh nghiệp thương mại Nhà nước làm công cụ của Nhà nước trong việc bình ổn và định hướng thị trường. Để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải tự khẳng định được vị trí của mình trên thị trường và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước chính là vấn đề mà em muốn đề cập đến.
Với vai trò quan trọng của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, em chọn đề tài :“Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở Việt Nam hiện nay (thực trạng và giải pháp).”
Bài viết này được chia làm ba chương :
Chương I: Trình bày những vấn đề cơ bản về sự cần thiết của nâng cao cạnh tranh trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước và những nhân
tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Chương II: Trình bày những nét cơ bản về thực trạng hoạt động, đánh giá phân tích khả năng cạnh tranh và đề ra những tồn tại mà hệ thống các doanh nghiệp thương mại Nhà nước cần phải khắc phục.
Chương III: Đề ra những giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Nhân đây em cũng xin cảm ơn sự hướng dẫn của PGS.TS Đồng Xuân Ninh, xin cảm ơn những ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ để em có thể hoàn thành tốt bài viết này.
Do thời gian và trình độ có hạn bài viết này khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đánh giá, phê bình, góp ý của thầy cô và các bạn về bài viết này.
Xin chân thành cảm ơn !
Trần Thu Hương.
mục lục
chương 1: Sự cần thiết của nâng cao khả năng cạnh tranh trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Một số vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp thương mại Nhà nước (DNTMNN) và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
DNTMNN.
Khái niệm về DNTMNN.
Các loại hình DNTMNN.
Sự cần thiết phát triển các DNTMNN.
Cơ sở phát triển của các DNTMNN.
DNTMNN đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta.
DNTMNN xét ở góc độ vĩ mô.
Cạnh tranh của các DNTMNN.
Cạnh tranh.
Khái niệm.
Sự cần thiết của cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh của DNTMNN.
Khả năng cạnh tranh.
Những tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của DNTMNN.
Những nhân tố tác động đến khả năng cạnhtranhcủa DNTMNN
2.3.1-Vốn.
2.3.2-Trình độ quản lí con người.
2.3.3-Cơ sở vật chất kĩ thuật.
2.3.4-Môi trường kinh doanh.
Những đánh giá chung về khả năng cạnh tranh của DNTMNN.
Chương II: hệ thống các doanh nghiệp thương mại Nhà nước và khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
I.Một số nét cơ bản về tình hình hoạt động của các DNTMNN hiện nay.
Trước năm 1986.
Từ năm 1986 đến năm 1996.
Từ năm 1996 đến nay
II. Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của các DNTMNN hiện nay.
Vấn về đề vốn và hiệu quả sử dụng vốn.
Vấn đề về tổ chức và quản lý con người.
Về mặt hoạt động.
III.Phân tích khả năng cạnh tranh của các DNTMNN.
Đánh giá tổng quát.
CHƯƠNG III. những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của DNTMNN.
I.Kinh nghiệm của một số nước.
II. Những giải pháp vi mô.
Giải pháp về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Giải pháp về tổ chức quản lý và con người.
Giải pháp về đổi mới cơ cấu của DNTMNN.
Giải pháp về đổi mới hoạt động và phương thức kinh doanh.
III. Những giải pháp vĩ mô.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Chương I.
Sự cần thiết của nâng cao khả năng cạnh tranh trong các DNTMNN.
I. Một số vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp thương mại Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
1.Doanh nghiệp thương mại Nhà nước
Khái niệm về doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Để đi đến một khái niệm thế nào là doanh nghiệp thương mại Nhà nước chúng ta cần hiểu thêm một số khái niệm liên quan tới nó.
Doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước có thể hiểu là tên gọi chung cho những tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước như nhà máy , xí nghiệp , công ty… Mà trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung truớc đây gọi là các đơn vị kinh tế quốc doanh. Khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước cũng có nhiều ý kiến khác nhau do nghiên cứu vấn đề trên các khía cạnh khác nhau.
Song tựu chung lại có thể thấy căn cứ chính để phân biệt doanh nghiệp Nhà nước là tỷ lệ vốn đóng góp. Cơ sở để nhận định một doanh nghiệp là doanh nghiệp Nhà nước hay không căn cứ vào tỷ lệ vốn đóng góp. Có nhiều quốc gia đòi hỏi để là doanh nghiệp Nhà nước phải có 100% vốn do Nhà nước cấp ; nhiều nước khác chỉ yêu cầu tỷ trọng vốn của Nhà nước chiếm đa phần.
Còn theo Luật doanh nghiệp Nhà nước ban hành ngày 20/04/1995, thì doanh nghiệp Nhà nước không nhất thiết phải có 100% vốn do Nhà nước cấp mà tuỳ theo nghành, lĩnh vực và điều kiện có khi chỉ cần tỷ trọng vốn của Nhà nước chiếm đa số. Với cách tiếp cận này thì doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp mà ở đó đa phần vốn pháp định thuộc Nhà nước hoặc có nguồn gốc từ Nhà nước ra .
Cũng ở Luật doanh nghiệp Nhà nước tại điều 1 có ghi: “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. Hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện hai mục tiêu kinh tế–xã hội do nhà nước giao…” với khái niệm này nó tương đối bao quát về chức năng, tổ chức và cả địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.2.Khái niệm về thương mại.
Cùng với sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển tất yếu dẫn đến nhu cầu về trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất chuyên môn hoá với nhau. Như vậy chuyên môn hoá sản xuất và tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, là nguồn gốc của thương mại.
Thương mại là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ thông qua mua bán bằng tiền trên thị trường, ở đâu có mua bán ở đó có thương mại.
Thương mại có thể là một hành vi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhau giữa bên bán và bên mua.
Thương mại có thể là một hoạt động. Hoạt động thương mại bao gồm một, một số hoặc toàn thể các hành vi thương mại của một cá nhân, một tổ chức hoặc một xã hội...
Chuyên môn hoá trong sản xuất phát triển, khối lượng sản phẩm đem trao đổi càng tăng sinh ra nhu cầu chuyên môn hoá việc lưu thông hàng hoá. một số người hoặc tổ chức tách ra khỏi lĩnh vực sản xuất, chuyển sang hoạt động chuyên ứng tiền ra mua hàng hoá để bán lại nhằm mục đích thu lợi nhuận từ việc mua bán này tức là làm nghề kinh doanh hàng hoá hay còn gọi là hoạt động thương mại. Nghành thương mại ra đời là nấc thang phát triển kế tiếp cao hơn của sự lưu thông hàng hoá, là kết quả trực tiếp của sự phát triển lưu thông hàng hoá, đó chính là một nghành kinh tế quốc dân thuộc khu vực sản xuất vật chất nhưng không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mà có chức năng phục vụ lưu thông qua việc trao đổi sản phẩm dưới hình thức mua bán.
Như vậy hoạt động thương mại là lĩnh vực hoạt động kinh tế chuyên thực hiện giá trị của hàng hoá một số người hoặc tổ chức nhất định tiến hành theo sự phân công chuyên môn hoá lao động xã hội, với tư cách là phạm trù lịch sử, thương nghiệp xuất hiện trong nền sản xuất hàng hoá trên cơ sở phân công lao động xã hội. Trong quá trình tái sản xuất mở rộng, hoạt động thương mại là khâu nối liền sản xuất và tiêu dùng. Thông qua hoạt động này người sản xuất bán sản phẩm và mua tư liệu sản xuất để tiếp tục quá trình tái sản xuất.
Về mặt phạm trù kinh tế-chính trị, hoạt động thương mại biểu hiện quan hệ trao đổi sản phẩm lao động dưới hình thức hàng hoá thông qua trung gian tiền tệ, nhưng đã trở thành độc lập với các mối quan hệ trong sản xuất. Nó sinh ra trong các xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hoá, bản chất của nó là hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong quan hệ sản xuất chứa đựng nó quy định và được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là cơ sở tồn tại mục đích và phương thức hoạt động, thương nghiệp có thể chia làm nội thương và ngoại thương. Theo tính chất nghiệp vụ kinh doanh có thể chia làm thương nghiệp bán buôn và thương nghiệp bán lẻ. Còn theo hình thức sở hữu có thể chia thành doanh nghiệp thương mại Nhà nước, doanh nghiệp thương mại tư nhân, doanh nghiệp thương mại hợp tác... từ cơ sở tồn tại và hình thức sở hữu, mỗi loại hình doanh nghiệp thương mại lại có mục đích và phương thức hoạt động khác nhau và mỗi loại hình doanh nghiệp thương mại đều mang bản chất của quan hệ sản xuất sinh ra nó và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất trong đó có quá trình hoạt động kinh doanh của hàng hoá.
1.1.3 Doanh nghiệp thương mại Nhà nước
Từ những hiểu biết trên ta có thể đi đến một khái niệm về doanh nghiệp thương mại Nhà nước là bất cứ doanh nghiệp nào được thành lập ra với mục đích chủ yếu tham gia vào hoạt động trao đổi , lưu thông hàng hoá và dịch vụ hoặc các hoạt động đó đem lại phần lợi nhuận chiếm tỷ trọng đa số cho doanh nghiệp thì gọi là doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Nói một cách khác doanh nghiệp thương mại Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại.
Các loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước .
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước được thành lập nhằm đảm bảo lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế, thu lợi nhuận và thực hiện mục tiêu của Nhà nước.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động người ta chia doanh nghiệp thương mại Nhà nước làm hai loại:
+ Các doanh nghiệp kinh doanh.
+ các doanh nghiệp hoạt động công ích.
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh: mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận thương mại. Hoạt động trên tất cả các nghành hàng ( kể cả nghành hàng phục vụ sản xuất và hàng hoá phục vụ tiêu dùng, trên tất cả các địa phương thành thị nông thôn và miền núi). Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn ban đầu, tự chủ trong kinh doanh, bảo tồn và phát triển vốn. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp hoạt động công ích mục tiêu chủ yếu là phục vụ nhu cầu phát triển chung của xã hội. Doanh nghiệp thường hoạt động ở các nghành hàng đáp ứng nhu cầu quốc phòng an ninh bảo vệ môi truường, văn hoá y tế giáo dục...Đây là những mặt hàng đảm bảo lợi ích công cộng. Doanh nghiệp thương mại Nhà nước giao vốn và chi phối hoạt động, chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nước.
_ Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá: có các loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước kinh doanh các mặt hàng công nghiệp và doanh nghiệp thương mại Nhà nước kinh doanh nông sản. Hàng công nghiệp bao gồm tất cả các mặt hàng do nghành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp sản xuất ra, đây là các sản phẩm vật chất có tính chất cơ lý, hoá học điện tử...
Hàng nông sản bao gồm các sản phẩm do các nghành nông lâm ngư nghiệp sản xuất ra. Các sản phẩm của nghành này chưa qua chế biến.
_ Căn cứ vào chủng loại hàng hoá mà doang nghiệp kinh doanh có các loại doanh nghiệp thương mại kinh doanh tư liệu sản xuất và doanh nghiệp thương mại kinh doanh tư liệu tiêu dùng.
Các doanh nghiệp kinh doanh tư liệu sản xuất bao gồm các mặt hàng máy móc, thiết bị phụ tùng, các loại nguyên vật liệu như kim khí xăng dầu, than, xi măng, bông tơ sợi... Đối tượng sử dụng các tư liệu sản xuất là các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm vật chất.
Các doanh nghiệp kinh doanh tư liệu tiêu dùng gồm kinh doanh lương thực thực phẩm, quần áo may sẵn, xe đạp, xe máy, thuốc chữa bệnh... Đối tượng sử dụng những mặt hàng này là các cá nhân nhằm tái sản xuất sức lao động và chúng bị biến đổi trong quá trình tiêu dùng của mỗi người.
_ Căn cứ vào khối lượng mua bán, có các loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước hoạt động bán buôn và doanh nghiệp thương mại Nhà nước hoạt động bán lẻ.
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước bán buôn thường thực hiện mua bán khối lượng hàng hoá lớn với các doanh nghiệp hoặc thương nhân mua để tiếp tục chuyển bán. Các doanh nghiệp thương mại này thường mua sản phẩm theo hợp đồng và thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng.
Doanh nghiệp thương mại bán lẻ là các doanh nghiệp bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng.
_ Căn cứ vào lĩnh vực lưu thông hàng hoá có các doanh nghiệp thương mại Nhà nước hoạt động kinh doanh hàng hoá trong nước và doanh nghiệp thương mại Nhà nước kinh doanh hàng hoá với nước ngoài.
Ngoài các cách phân loại trên loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn được phân chia theo cấp hành chính ( doanh nghiệp thương mại Nhà nước trung ương, doanh nghiệp thương mại Nhà nước địa phương: tỉnh huyện...) hoặc theo khu vực địa lý như khu vực thương mại tỉnh, thành phố.
Song dù phân chia thế nào, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước về bản chất là công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết phân phối lưu thông nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế xã hội
Sự cần thiết phát triển các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Cơ sở phát triển của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Lý do cho sự phát triển của doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói chung còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số người cho rằng doanh nghiệp thương mại Nhà nước hoạt động kém hiệu quả so với tư nhân cho nên phải tư nhân hoá… Từ ý kiến này nhận xét đánh giá có thể thấy quả thực trong những năm gần đây số doanh nghiệp thương mại Nhà nước làm ăn có hiệu quả không nhiều. Tuy nhiên việc phát triển doanh nghiệp Nhà nước không còn là vấn đề mới mẻ, mà trái lại nó xuất hiện rất lâu và là hình thức phổ biến trên thế giới. Sự phát triển của doanh nghiệp thương mại Nhà nước không phải là ngẫu nhiên, mà nó là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội hoá sản xuất, của hoàn cảnh lịch sử.
Vì doanh nghiệp Nhà nước đóng một vai trò quan trọng nên chính các nhà kinh tế học phương tây cũng đã thừa nhận và quan niệm rằng khu vực kinh tế Nhà nước là một tác nhân kinh tế quan trọng, vừa tạo cơ sở trực tiếp cho Nhà nước điều hành nền kinh tế vừa đóng góp một sức mạnh cho nền kinh tế quốc gia.
Một lý lẽ phổ biến giải thích cho sự phát triển này là các doanh nghiệp Nhà nước về cơ bản là sản phẩm của chiến lược phát triển mà các chính phủ theo đuổi. Các chính phủ không thể đầu tư vì tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào lực lượng thị trường và nó còn quá yếu ớt để tác động lên sự phát triển so với kế hoạch hoá của chính phủ.
Từ những nhận định trên có thể đưa ra một số lý do chủ yếu cho sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng ở Việt nam:
Thứ nhất: Nhà nước nào cũng có những chính sách kinh tế của mình để phục vụ cho việc đảm bảo an ninh chính trị trật tự xã hội và đời sống dân cư, vì DNNN trong đó kể cả doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một trong những công cụ quản lý của Nhà nước.
Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một lực lượng thương mại, có quyền tồn tại như mọi thành phần kinh tế khác, nhưng doanh nghiệp thương mại Nhà nước lại có đặc điểm là những doanh nghiệp mà toàn bộ hoặc phần lớn nguồn vốn và tài sản ban đầu thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Vì thế, trong việc quản lý Nhà nước về các hoạt động thương mại trên thị trường, quan hệ ràng buộc của doanh nghiệp thương mại Nhà nước với Nhà nước có những đặc điểm khác cơ bản so với các doanh nghiệp thuộc thành phần khác. Nói cách khác, doanh nghiệp thương mại Nhà nước thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước không chỉ bình thường như các doanh nghiệp thương mại tư nhân, trái lại với tư cách sở hữu, Nhà nước có quyền hướng hoạt động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước phục vụ cho những mục tiêu quản lý của mình.
Thứ hai: Để tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải nắm bắt quản lý và điều hành được cân đối tổng thể, những cân đối mà muốn thực hiện nó, Nhà nước phải chủ động có trong tay một số lượng tối thiểu cần thiết những mặt hàng mang tính chiến lược, liên quan đến an ninh quốc phòng và quốc tế dân sinh của mọi tầng lớp nhân dân như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc chữa bệnh , thóc gạo...Về mặt lý thuyết, việc kinh doanh những mặt hàng trên có thể cho mọi thành phần kinh tế tham gia kể cả doanh nghiệp thương mại tư nhân, nhưng trong thực tế chưa thấy thành phần nào làm tốt hơn các doanh nghiệp thương mại Nhà nước , sở dĩ có tình trạng như vậy là do cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng về vốn và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh những mặt hàng này là thế mạnh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước .
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, khi nhiều thành phần kinh tế bung ra sản xuất, kinh doanh trên thương trường. Tại các địa bàn nông thôn, miền núi vùng sâu vùng xa địa hình hiểm trở, giao thông vận tải khó khăn, điều kiện kinh doanh không thuận lợi, lợi nhuận thấp, thậm chí không đủ bù đắp chi phí vận chuyển và bảo quản nên nhiều thị trường còn bị bỏ trống, nhiều nhu cầu thiết yếu của đồng bào dân tộc đã không được đáp ứng. Mặt khác nông sản hàng hoá ở những vùng đó, ngoài việc tự túc phục vụ nhu cầu vẫn còn dư thừa, ứ đọng mà chưa có lực lượng thương nghiệp giải quyết khâu lưu thông gây khó khăn cho người nông dân cả trong đời sống lẫn trong sản xuất. Trong tình hình đó, vì mục tiêu lợi nhuận Nhà nước không thể đòi hỏi các doanh nghiệp tư nhân, tư thương hoặc bất cứ một doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phải chịu lỗ kinh doanh theo hướng bất lợi cho họ. Khi đó rõ ràng các doanh nghiệp thương mại Nhà nước dưới sự chỉ đạo theo kế hoạch của Nhà nước, để ổn đinh và điều tiết giá cả trên thị trường và thực hiện các chính sách xã hội. Ngoài ra do sản xuất và tiêu dùng mang tính thời vụ rất dễ dẫn đến hiện tượng mất cân đối cung cầu gây ra những cơn sốt đòi hỏi doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải có lực lượng dự trữ đủ để chủ động điều tiết và ổn định thị trường lúc cần thiết.
Với những nội dung trên đây cho thấy với tư cách là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thương mại Nhà nước cũng có thể hoạt động mang tính chất kinh doanh thuần tuý và cũng có thể hoạt động nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế-xã hội của Nhà nước trong lĩnh vực phục vụ công cộng. Vì vậy sự phát triển doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở các nước nói chung và đặc biệt ở nước ta là hết sức cần thiết và là vấn đề mang tính tất yếu. Qua thực tế cho thấy, chưa lúc nào vắng bóng các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại, nhưng so với lĩnh vực khác, mức độ ảnh hưởng của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực này dường như có phần hạn chế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay , với những đặc thù là một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, vì vậy sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước trong đó có doanh nghiệp thương mại Nhà nước là rất cần thiết cho việc mở rộng và tạo lập thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, thực hiện các mục tiêu chính trị kinh tế-xã hội theo đường lối của Đảng và Nhà nước.
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta.
Trong sự nghiệp CNH-HĐH hiện nay vai trò chủ đạo của doanh nghiệp thương mại Nhà nước thể hện:
Thứ nhất: doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng chủ yếu cung ứng vật tư hàng hoá thiết yếu cho CNH-HĐH.
Để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, một trong những yêu cầu bức thiếtlà phải chọn lựa đúng dự án đầu tư và đầu tư có hiệu quả. Điều này có liên quan trực tiếp đến hoạt động cung ứng vật tư,hàng hoá cho việc thực hiện các dự án. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mặc dù các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong kinh doanh, bình đẳng trong cạnh tranh, nhưng các doanh nghiệp thương mại Nhà nước lại thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, có lực lượng vật chất và phương thức kinh doanh hơn hẳn các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần kinh tế khác, là công cụ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế xã hội, nên nó trở thành lực lượng chủ yếu trong cung ứng vật tư, hàng hoá thiết yếu cho nền kinh tế nói chung và cho quá trình CNH-HĐH. Những mặt đó là xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu,xi măng, máy móc, thiết bị phụ tùng... những mặt hàng này thường đi vào đầu tư bằng con đường thương mại kinh doanh thu lợi nhuận, song trong một số trường hợp doanh nghiệp thương mại phải chịu lỗ để toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển. Chỉ các doanh nghiệp thương mại Nhà nước mới đảm nhiệm được nhiệm vụ này.
Thứ hai: doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng góp phần đắc lực vào việc bình ổn giá cả,khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. CNH-HĐH được tiến hành trong giai đoạn đầu của thời kỳ đi lên CNXH, đây là giai đoạn nền kinh tế nước ta chuyển sang giai đoạn nền kinh tế thị trường vì vậy không thể tránh khỏi mâu thuẫn giữa cung và cầu gây nên sự ách tắc trên thị trường hàng hoá. Hơn nữa, cạnh tranh về hàng hoá trong kinh tế thị trường không loại trừ những tiêu cực thương mại như đầu cơ, nâng giá hàng hoá để kiếm lời... Với tư cách công cụ để Nhà nước điều tiết thị trường, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước có nhiệm vụ trực tiếp tham gia vào việc bình ổn thị trường, ổn định giá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư, để các dự án đầu tư không còn bị sáo trộn bởi tác động cung cầu và giá cả.
Thứ ba: các doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ đại biểu cho phương thức kinh doanh tiến bộ, là những tấm gương sáng về quản lý kinh doanh.
Hoạt động trong môi trường của nền kinh tế nhiều thành phần, việc triển khai ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại của doanh nghiệp thương mại Nhà nước không chỉ nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh doanh của chính mình, mà còn góp phần phổ biến, trang bị cho các doanh nghiệp thương mại của các thành phần kinh tế khác. Vai trò này bắt nguồn từ cơ sở vật chất – kỹ thuật, trình độ công nghệ, trình độ tổ chức quản lý kinh doanh và từ bản chất kinh tế của thành phần kinh tế Nhà nước. Hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận trực tiếp mà còn vì mục tiêu xã hội, nên các doanh nghiệp thương mại Nhà nước không chỉ tham gia cạnh tranh trên thị trường như các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần kinh tế khác mà còn định hướng cho sự hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường và là đại biểu cho phương thức kinh doanh tiến bộ. Trong quá trình hiện đại hoá hoạt động thương mại, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng đi đầu.
Thứ tư: Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước là lực lượng chủ lực trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Mô hình CNH-HĐH ở nước ta hiện nay là hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời từng bước thay thế nhập khẩu. Định hướng phát triển theo mô hình này chính là con đường CNH-HĐH rút ngắn là đặc điểm mới của CNH-HĐH trong thời đại ngày nay. Để thực hiện mô hình này, phải đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu hàng hoá, nhất là trong hoạt động xuất khẩu để tiếp nhận chuyển giao công nghệ được đặt ra như một câu hỏi bức xúc. Với tư cách là một lực lượng đại biểu cho phương thức kinh doanh tiến bộ lại là công cụ kinh tế Nhà nước được Nhà nước ưu đãi về vốn, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trở thành lực lượng chủ lực đảm đương nhiêm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn là công cụ để thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa. Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp thương mại Nhà nước ngày càng được đặc biệt coi trọng. Chỉ như vậy, sự nghiệp CNH-HĐH mới đạt được kết quả như mong muốn.
Thứ năm: Góp phần quan trọng vào việc cung cấp tài chính cho ngân sách Nhà nước.
Trong những năm qua các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Mức nộp ngân sách giai đoạn 1991 _ 1997 liên tục tăng cao hơn mức độ ngân sách bình quân của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ sáu: Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước cùng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước là chỗ dựa và tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới. Đồng thời doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước chi phối và hướng dẫn nền kinh tế, góp phần quan trọng vào việc thực hiện một số chính sách xã hội.
Đối với nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ là phổ biến, kinh tế hàng hoá kém phát triển, muốn đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, chúng ta lại càng phải coi trọng vai trò của kinh tế Nhà nước. Nhà nước nắm những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, trong đó thương nghiệp là một “mắt xích” mà theo Lênin nói, nếu ai nắm được mắt xích này thì chúng ta sẽ nắm được tất cả.
3.Doanh nghiệp thương mại Nhà nước xét ở góc độ vĩ mô.
Đứng trên quan điểm vĩ mô, doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một công cụ của Nhà nước, được thành lập để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước đề ra. Doanh nghiệp thương mại Nhà nước có vai trò nòng cốt, mở đường hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế; là lực lượng chủ đạo trong cung ứng vật tư, hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống, góp phần điều tiết quan hệ cung cầu, bình ổn giá cả; là công cụ vật chất để Nhà nước định hướng phát triển thương mại khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và thực hiện một số chính sách xã hội.
II.Cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước
1. Cạnh tranh.
1.1 Khái niệm.
Khi mà nền sản xuất còn nhỏ sản phẩm làm ra chưa được nhiều và nhìn chung sản xuất còn chưa đáp ứng nổi tiêu dùng, việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá còn dễ dàng . Nhưng khi sản xuất phát triển cao và đặc biệt có sự hình
thành của chuyên môn hoá các nghành sản xuất, sản phẩm làm ra dồi dào không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng mà còn trở nên dư thừa. Lúc này khó khăn mà các nhà sản xuất phải đối mặt là phải làm sao tiêu thụ hết sản phẩm do mình sản xuất ra, và tất yếu xuất hiện sự ganh đua giữa các nhà sản xuất. Để chiến thắng đối thủ của mình trong cuộc ganh đua này, các nhà sản xuất đã tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, tận dụng mọi năng lực và ưu thế, giảm giá thành sản phẩm nâng cao chất lượng nhằm tạo cho sản phẩm của mình có ưu thế hơn so với các đối thủ khác đảm bảo cho sản phẩm của mình có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Đó chính là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất
Cạnh tranh trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh mẽ. Theo Mác “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm để thu lợi nhuận siêu ngạch .”
Như vậy ta có thể hiểu cạnh tranh là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa các chủ thể với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi về phía mình
Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại là một điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh phát triển. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường là một nhân tố không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hoá phát triển, hàng hoá được sản xuất ra nhiều thì cạnh tranh cũng càng gay gắt. Kết quả là cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn yếu kém, kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
1.2 Sự cần thiết của cạnh tranh.
ở tầm vĩ mô cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực vậy các doanh nghiệp tham gia vào thị trường đều phải đối mặt với cạnh tranh, muốn tồn tại và phát triển họ phải chiến thắng trong cạnh tranh có nghĩa là phải nâng cao chất lượng giảm giá thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Điều này buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải nghiên cứu đầu tư vốn sao cho có hiệu quả, nhờ đó sẽ nâng cao được năng lực hoạt động cho nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế đi lên và nhờ đó chất lượng cuộc sống của xã hội sẽ ngày càng được nâng cao, xã hội ngày càng phát triển.
Đối với doanh nghiệp, cạnh tranh buộc họ phải giảm giá thành sản phẩm bằng cách giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.
Cạnh tranh là cuộc thi lựa chọn những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Cạnh tranh đem đến cho người tiêu dùng quyền lựa chọn những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý.
Như vậy có thể nói cạnh tranh tạo nên sự vươn lên mạnh mẽ của các doanh nghiệp tạo đà cho nền kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, cạnh tranh đòi hỏi con người ta phải năng động sáng tạo. Tuy nhiên cạnh tranh cũng làm xuất hiện nhiều hiện tượng không lành mạnh trong kinh doanh như làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế gây nên một sự cạnh tranh không lành mạnh trênthị trường. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường nói chung và cạnh tranh nói riêng mà các chính phủ phải quan tâm giải quyết khắc phục.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước .
2.1 Khả năng cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh có thể hiểu là tổng hợp mọi nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động để doanh nghiệp có thể duy trì được vị thế của mình trên thị trường.
Khả năng cạnh tranh chính là thực lực của một tổ chức như : Vốn, công nghệ, tổ chức quản lý, nhân lực. Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh sẽ tạo ra một ưu thế nhất định cho doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.
2.2 Những tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước
_ Thị phần: là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được hay nói cách khác là phần thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ rộng rãi mà hầu như không gặp khó khăn nào.
Thị phần tương đối, là tỷ trọng phần doanh thu của doanh thu của doanh nghiệp so với phần doanh thu của đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường.
Thị phần tu._.yệt đối là tỷ trọng phần doanh thu của doanh nghiệp so với toàn nghành.
_ Chất lượng, uy tín và khả năng thích ứng: Thể hiện vị trí mà toàn doanh nghiệp đã đạt được trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những sự thoả mãn mà khách hàng nhận được sau khi sử dụng sản phẩm.
Uy tín của doanh nghiệp là hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng. Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, thái độ với khách hàng, giá cả là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự “cảm nhận” , “tin cậy” hiểu biết đầy đủ về doanh nghiệp có thể giúp đỡ trong việc ra quyết định có tính ưu tiên mua hàng của khách hàng. Điều này cho phép doanh nghiệp dễ bán được sản phẩm của mình hơn.
_ Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu: Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp thường liên quan đến khả năng bán các dòng sản phẩm khác nhau của doanh nghiệp. Mức độ nổi tiếng của hàng hoá liên quan đến một sản phẩm với một sản phẩm với nhãn hiệu cụ thể của mình.
_ Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý của doanh nghiệp: Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm, từ đó nó có tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
_ Trình độ tổ chức, quản lý: Sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản lý tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp trong kinh doanh.
_ Vị trí địa lý, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp: Vị trí địa lý có thể xem xét ở khía cạnh rộng khi phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, có thể đưa vào sức mạnh vô hình của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng, văn phòng... phản ánh tiềm lực vật chất và liên quan đến quy mô khả năng, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
_ Một số chỉ tiêu tài chính: Doanh thu bán hàng, tỷ suất lợi nhuận...
Những nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Cũng giống như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải chịu tác động của môi trường bên trong, ngoài doanh nghiệp , tác động đến khả năng cạnh tranh, tuy nhiên sự tác động này ở mức độ khác so với doanh nghiệp thương mại khác do đặc điểm doanh nghiệp thương mại Nhà nước là những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, ngoài việc hoạt động để tạo ra lợi nhuận còn hoạt động theo sự điều khiển của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Nhìn chung các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đều có nhiều lợi thế hơn so với các doanh nghiệp thương mại khác do có sự bảo trợ của Nhà nước.
2.3.1- Vốn.
Trong các doanh nghiệp thương mại,vốn kinh doanh có vai trò quan trọng quyết định việc ra đời hoạt động, phát triển và giải thể doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại thể hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản doanh nghiệp dùng trong kinh doanh bao gồm:
Tài sản hiện vật như: nhà của, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, hàng hoá...
Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý...
Bằng bản quyền sở hữu công nghiệp.
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Ưu thế về vốn kinh doanh đã tạo một lợi thế lớn cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong hoạt đọng kinh doanh của mình.
2.3.2- Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Máy móc, trang thiết bị kĩ thuật có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nó thể hiện ở năng lực sản xuất quyết định chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, ngoài ra còn phải kể đến hệ thống cơ sở hạ tầng như nhà xưởng kho tàng của doanh nghiệp.
2.3.3- Trình độ quản lý và con người.
Trong ba yếu tố con người vốn liếng và tài sản thì con người là yếu tố quan trọng nhất. Trong các hoạt động kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào, lao động của con người là bộ phận cấu thành nên sản phẩm, đồng thời cũng quyết định chi phí lao động vật hoá trong sản phẩm.
Đối với người lao động trình độ có thể hiểu là trình độ tay nghề, trình độ nghiệp vụ có thể hoàn thành tốt công việc của mình.
Đối với cấp lãnh đạo trình độ được hiểu là kĩ năng tổ chức quản lí thể hiện trong việc tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.4- Môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh là môi trường chứa đựng những yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được.
Môi trường kinh doanh tác động liên tục đến hoạt động của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo cơ hội, vừa hạn chế khả năng thực hiện muc tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Để nghiên cứu được tác động của môi trường kinh doanh với doanh nghiệp ta có thể phân tích các môi trường thành phần của nó.
2.3.4.1 Môi trường văn hoá xã hội:
Baogồm phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng tôn giáo ảnh hưởng đến nhu cầu thị tường, do đó tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
2.3.4.2 Môi trường chính trị pháp luật:
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình thành các cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kì doanh nghiệp nào. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát triển cuả doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Những yếu tố cơ bản thuộc môi trường chính trị-pháp luật thường được lưu ý là:
+ Quan điểm mục tiêu định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của đảng cầm quyền.
+ Chương trình, kế hoạch thực hiện triển khai thực hiện các quan điểm mục tiêu của chính phủ và khả năng điều hành của Chính phủ.
+ Mức độ ổn định chính trị-xã hội.
+ Thái độ và phản ứng của các tổ chức xã hội, của nhà phê bình xã hội.
+ Thái độ và phản ứng của dân chúng( người tiêu thụ).
+ Hệ thống luật pháp với mức độ hoàn thiện của nó và hiệu lực thực hiện pháp luật trong đời sống kinh tế-xã hội...
Môi trường kinh tế và công nghệ
ảnh hưởng của môi trường kinh tế và công nghệ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó cũng tạo cơ hội cho từng doanh nghiệp.
Những yếu tố quan trọng của môi trường này tác động đén khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
+ Tiềm năng của nền kinh tế: phản ánh các nguồn lực có thể được huy động và chất lượng của nó: tài nguyên con người, vị trí địa lý, dự trữ quốc gia...
+Các thay đổi về cấu trúc, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thu hẹp quy mô từng doanh nghiệp.
+ Hoạt động ngoại thương xu hướng mở đóng của nền kinh tế: Tác động mạnh mẽ đến các cơ hội phát triển của doanh nghiệp thương mại Nhà nước, các điều kiện cạnh tranh, khả năng sử dụng ưu thế quốc gia lợi thế về công nghệ, vốn...
+ Tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia: Độ ổn định của đồng nội tệ, xu hướng tăng giảm giá của đồng nội tệ có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả sản phẩm. Việc lựa chọn ngoại tệ trong giao dịch thương mại... ảnh hưởng lớn đến khả năng thành công của một chiến lược và từng thương vụ cụ thể.
+ Hệ thống thuế, mức độ hoàn thiện và thực thi: Liên quan đến sự công bằng trong cạnh tranh.
+ Trình độ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ của nghành, nền kinh tế: ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đổi mới công nghệ trang thiết bị; khả năng sản xuất sản phẩm, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, lựa chọn cung cấp, công nghệ thiết bị máy móc...
+ Khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế, nghành nghề kinh tế: phản ánh tiềm năng phát triển đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý... liên quan đến đổi mới sản phẩm, chu kì sống của sản phẩm, khả năng cạnh tranh có tính tiên phong.
2.3.4.4 Môi trường cạnh tranh:
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn, hiệu quả hơn người đó sẽ thắng. Duy trì cạnh tranh đúng luật bình đẳng là nhiệm vụ của Chính phủ. Trong điều kiện đó vừa mở ra các cơ hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình vừa yêu cầu các doanh nghiệp phải vượt lên phía trước “vượt qua đối thủ cạnh tranh” tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Các nhân tố của môi trường cạnh tranh bao gồm:
_ Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường: Các quan điểm khuyến khích hay hạn chế cạnh tranh, vai trò và khả năng của Chính phủ trong việc điều khiển cạnh tranh, các quy định về cạnh tranh và ảnh hưởng của nó trong thực tiễn kinh doanh... có liên quan đến quá trình đánh giá lựa chọn cơ hội kinh doanh và lựa chọn giải pháp cạnh tranh.
_ Số lượng đối thủ: là cơ sở để xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh trên thị trường thông qua đánh giá trạng thái cạnh tranh của thị trường mà doanh nghiệp sẽ tham gia.
+ Trạng thái thị trường cạnh tranh thuần tuý: Rất nhiều đối thủ với quy mô nhỏ và có sản phẩm đồng nhất. Doanh nghiệp định giá theo thị trường và không có khả năng tự đặt giá.
+ Trạng thái thị trường cạnh tranh hỗn tạp: có một số đối thủ có quy mô lớn so với quy mô của thị trường đưa ra bán sản phẩm đồng nhất cơ bản, giá được xác định theo thị trường, đôi khi có thể có khả năng điều chỉnh giá của doanh nghiệp.
+ Trạng thái thị trường cạnh tranh độc quyền: Có một số ít đối thủ có quy mô lớn (nhỏ) đưa ra bán các sản phẩm khác nhau (không đồng nhất ) dưới con mắt của khách hàng. Doanh nghiệp có khả năng điều chỉnh giá nhưng không hoàn toàn tuỳ ý mình bởi tuy cố gắng kiểm soát được một thị trường nhỏ song có khả năng thay thế.
+ Trạng thái thị trường độc quyền: chỉ có một doanh nghiệp đưa sản phẩm ra bán trên thị trường. Không có đối thủ cạnh tranh. Hoàn toàn có quyền định giá. Trạng thái của thị trường gợi ý về lựa chọn chiến lược cạnh tranh khi xem xét vị thế của doanh nghiệp.
_ Ưu nhược điểm của đối thủ: liên quan đến sức mạnh cụ thể của từng đối thủ trên thị trường: quy mô, thị phần kiểm soát, tiềm lực tài chính, kĩ thuật công nghệ,tổ chức, quản lý, lợi thế uy tín hình ảnh của doanh nghiệp, mức độ quen thuộc của nhãn hiệu hàng hoá... Qua đó, xác định vị thế của đối thủ và doanh nghiệp trên thị trường.
2.3.4.5 Môi trường địa lý sinh thái:
Cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng sự thuận lợi trong vận chuyển và chi phí vận chuyển, khả năng cạnh tranh nhờ lợi thế về mức chi phí vận chuyển thấp: Khoảng cách không gian với nguồn cung cấp hàng hoá, lao động, nguyên vật liệu cho doanh nghiệp. Liên quan đến chi phí đầu vào và giá thành.
Địa điểm thuận lợi cho việc giao dịch mua bán của khách hàng: nơi tập chung dân cư, trung tâm mua bán, trung tâm sản xuất công nghệ, nông nghiệp... Cũng tạo nên một ưu thế cạnh tranh nhất định cho doanh nghiệp.
Những đánh giá chung về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước :
Đứng trên góc độ phân tích đánh giá xét về tổng thể có thể thấy doanh nghiệp thương mại Nhà nước có nhiều thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động so với các doanh nghiệp thương mại khác điều này thể hiện ở những ưu thế hơn hẳn so với doanh nghiệp thương mại khác:
Một là, doanh nghiệp thương mại Nhà nước được hình thành từ trước và thường có quy mô lớn, đã ăn sâu bám rễ bao quát được một thị trường rộng lớn, và đã chiếm được lòng tin của đại bộ phận nhân dân.
Hai là, Doanh nghiệp thương mại Nhà nước nắm giữ điều phối những hàng hoá then chốt.
Ba là, Doanh nghiệp thương mại Nhà nước nắm trong tay một lượng vốn lớn.
Bốn là, doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã hình thành được một mạng lưới tiêu thụ rộng khắp toàn quốc.
Năm là, doanh nghiệp thương mại Nhà nước có cơ sở vật chất tốt.
Sáu là, đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước có nhiều kinh nghiệm.
CHƯƠNG II
hệ thống các doanh nghiệp thương mại Nhà nước và khả nămg cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
một số nét cơ bản về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước hiện nay.
Trước năm 1986:
Sau cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong khi nền kinh tế còn lạc hậu, kinh tế tư nhân còn yếu ớt, để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế quốc doanh.
Một cách khách quan mà nói mô hình hoá tập chung bao cấp ở miền Bắc vào những năm 60, 70 đã góp phần làm cho khu vực kinh tế quốc doanh trong đó có thương nghiệp quóc doanh có những bước phát triển với quy mô lớn, tạo ra những tiền đề nhất định trong công cuộc xây dựng miền Bắc XHCN_ làm hậu phương vững chắc cho miền Nam góp phần giải phóng đất nước,thống nhất nước nhà.
Một phần lớn ngân sách Nhà nước đầu tư cho khu vực kinh tế này. Thương nghiệp quốc doanh ra đời và phát triển trong bối cảnh đó. Trong thời kỳ 1961 _ 1964, Nhà nước đầu tư 62,1% tổng chi ngân sách cho kinh tế quốc doanh. Thời kỳ 1965 – 1968, phần vốn này tăng lên 90% so với thời kỳ 61 – 64. Riêng thương mại quốc doanh chiếm tới 1/4trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực kinh tế Nhà nước. Nhờ thế thương nghiệp quốc doanh phát triển rất nhanh, quy mô rộng lớn bao trùm hầu hết các nghành các cấp từ những nghành quan trọng như lương thực, xăng dầu sắt thép, xi măng, cho đến những cửa hàng giải khát, ngay cả quán ăn cũng của thương nghiệp quốc doanh. Thương nghiệp quốc doanh được coi là loại hình riêng của CNXH, là chuẩn mực để đánh giá tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Vai trò của thương nghiệp quốc doanh cũng như vai trò kinh tế quốc doanh nói chung được xác định cùng với kinh tế tập thể thống trị đời sống kinh tế xã hội, đảm bảo phân phối hàng hoá trên toàn quốc.
Là một nghành kinh tế, thương nghiệp quốc doanh tổ chức theo kiểu lưu thông độc lập với sản xuát, mua bán theo kế hoạch đã định sẵn. Nghành thương nghiệp hình thành theo hệ thống dọc các tổng công ty và công ty nghành hàng cấp một ( trung ương ), cấp hai ( tỉnh ), cấp ba ( huyện ) toả rộng khắp các địa bàn trong nước. Vào thời điểm cao nhất, thương nghiệp quốc doanh có 4118 đơn vị, 48760 điểm bán hàng bao gồm các điểm bán hàng của HTX mua bán và 442200 lao động. Toàn bộ mọi hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập chung bao cấp, thực hiện mua gì, bán gì, số lượng bao nhiêu, dự trữ thế nào, giá cả ra sao... đều theo chỉ tiêu phân bố đến từng địa chỉ cụ thể theo kế hoạch của Nhà nước.
Từ năm 1986 đến 1996:
Từ năm 1986 (kể từ khi đại hội VI của Đảng ), với công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước mà hình thức chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, khu vực thương mại Nhà nước cũng bước sang một giai đoạn phát triển mới. Từ chỗ thương nghiệp Nhà nước với hệ thống xí nghiệp, hợp tác xã mua bán đã vươn ra nắm giữ hầu như toàn bộ thị trường cả nước. Nay thương mại Nhà nước giảm hẳn về quy mô, số lượng, chỉ chủ yếu nắm giữ một số lĩnh vực quan trọng, chủ yếu là bán buôn. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước bước vào giai đoạn cơ cấu, tổ chức giảm bớt về số lượng doanh nghiệp. Nếu cuối năm 1989 có 3864 doanh nghiệp (chiếm 33% trong tổng 12.080 doanh nghiệp Nhà nước ) với 17.757 điểm bán hàng thì đến giữa năm 1991 còn gần 1000 đơn vị kinh doanh bao gồm 90 công ty và Tổng công ty trung ương; 315 công ty và liên hiệp công ty cấp tỉnh, thành phố và 576 công ty cấp huyện.
Sau khi hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp lại các doanh nghiệp thương mại Nhà nước theo nghị định 388/TTg thì số doanh nghiệp thương mại Nhà nước tính đến cuối năm 1994 còn 1650 doanh nghiệp.
Việc tổ chức lại các doanh nghiệp thương mại Nhà nước góp phần tăng cường trật tự trong kinh doanh trên thị trường xã hội, loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, tập chung vốn cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hoạt động, mở rộng phạm vi kinh doanh. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên thị trường xã hội cũng vì thế tăng lên nhanh chóng. Nếu lấy chỉ số đạt được năm 90 là 100% thì năm 1991 đạt 176%, năm 1993 tăng lên 386% và năm 1995 đã vượt lên hơn con số 500%. Từ đó tới nay mức lưu chuyển hàng hoá trên thị trường xã hội đều tăng từ một đến vài chục phần trăm mỗi năm.
Trong khâu bán lẻ tỷ trọng của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước có xu hướng giảm xuống. Nếu như tỷ trọng của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trên tổng mức bán lẻ trên thị trường xã hội là 30,4% năm 1990 thì năm 1991 là 26,9%, năm 1992 là 24,2 %, năm 1993 là 21%, năm 1994 là 23,6% và năm 1995 còn khoảng 21%. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế mới, những lúng túng ban đầu đã dần dần được khắc phục. Vài năm trở lại đây, thương mại Nhà nước đã được mở rộng quy mô bán lẻ. Đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân hoá học... thương mại Nhà nước chiếm tỷ trọng bán lẻ đáng kể. Chẳng hạn như với mặt hàng xăng dầu với khoảng 2000 cây xăng phủ khắp cả nước đã chi phối hầu như toàn bộ thị trường bán lẻ mặt hàng này, chấm dứt thời kỳ chai lọ đầy đường mà nhu cầu tiêu dùng vẫn không được đáp ứng đầy đủ.
Bảng 1.
Cơ cấu trong nghành thương mại. (% )
Năm
Tổng số
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
1985
100
40,7
12,9
46,6
1990
100
30,4
2,7
66,9
1991
100
26,9
2,0
71,1
1992
100
24,2
1,1
74,7
1993
100
21,8
0,9
77,3
1994
100
23,6
0,7
74,8
1995
100
22,6
0,9
74,5
1996
100
23,5
0,8
75,7
1997
100
9,97
1,8
88,23
Bảng 2.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội 1990-1997( giá hiện hành tỷ đồng ).
Năm
Tổng số
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
1990
19.031,2
5.788,7
519,2
12.723,3
1991
33.403,6
9.000,8
662,4
23.740,4
1992
51.214,5
12.370,6
563,7
38.280,0
1993
67.273,3
14.650,0
612,0
52.011,3
1994
93.490,0
21.556,9
753,0
69.950,0
1995
121.160,0
27.367,0
1.060,0
90.313,0
1996
145.874,0
31.123,0
1.358,0
108.903,0
1997
158.000,0
35.000,0
1.570,0
119.430,0
Theo nguồn Bộ thương mại.
Về lực lượng lao động khu vực thương mại Nhà nước cũng có biến động lớn theo chiều hướng giảm đi cùng với việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp. Nếu năm 1990 là 350.300 người thì năm 1991 là 321.200 người, năm 1993 là 26500 người, năm 1996 là 207.500 người năm 1997 là 209.100 người.
Như vậy so với giai đoạn trước hiện nay số lao động trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng kể, bộ máy quản lý và hệ thống tổ chức kinh doanh từ trung ương đến địa phương được sát nhập lại từ nhiều đầu mối bộ phận, giảm được nhiều nấc khâu trung gian không cần thiết.
Trên thị trường miền núi lực lượng thương mại Nhà nước với tren 150 công ty đã đảm bảo các mặt hàng thiết yếu. Hàng thuộc chính sách xã hội cho người dân đặc biệt cho những người ở vùng sâu vùng xa và biên giới hải đảo. Do việc gặp khó khăn trong lưu thông hàng hoá, ít lợi nhuận nên tư thương ít quan tâm tham gia kinh doanh trên thị trường này. Từ năm 1994, thực hiện chỉ thị số 525/TTg của thủ tướng chính phủ, thương mại Nhà nước đã bán bốn mặt hàng có trợ cước vận chuyển là muối iốt, dầu hoả, giấy viết, vải mặc phục vụ các đồng bào dân tộc...
Có thể nói trên địa bàn miền núi, thương mại Nhà nước là lực lượng chủ yếu cung cấp hàng công nghệ phẩm, hàng thuộc chính sách xã hội và thu mua nông lâm thổ sản cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước cũng là lực lượng chủ lực trong việc đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Qua điều tra ở thủ đô Hà nội cho thấy: bình quân một lao động trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước nộp ngân sách cao hơn một lao động trong các thành phần thương maị khác từ hai đến ba lần.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thương mại Nhà nước trên thị trường nội địa còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa có cơ sở vững chắc để khẳng định vai trò chủ đạo của thương mại Nhà nước trên thị trường.
Một là: Thương mại Nhà nước nói chung, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng tuy đông mà không mạnh cả về thực lực kinh tế, nghiệp vụ kinh doanh và vai trò trên thị trường. Dù đã được sắp xếp lại một bước nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn còn tổ chức cồng kềnh, kém hiệu quả. Các doanh nghiệp tập trung quá đông ở thành phố, có mặt hầu hết ở tất cả các nghành hàng, trùng lặp về tổ chức. Cạnh tranh lẫn nhau một cách quyết liệt. Chẳng hạn, chỉ tính riêng 193 doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại, có tới 33% số doanh nghiệp đóng trụ sở tại thủ đô Hà nội, 21% đóng tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, ở thủ đô Hà nội Bộ thương mại có 5 doanh nghiệp cùng kinh doanh hàng thiết bị và phụ tùng, ba doanh nghiệp kinh doanh thiết bị điện, hai doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Hoặc trên địa bàn thủ đô Hà nội đã có 30 công ty thương nghiệp dịch vụ ăn uống dịch vụ thành phố, 20 công ty thương nghiệp quận huyện, lại có 61 công ty với 70 điểm của các nghành thuộc tỉnh bạn, thành phố bạn đăng ký hoạt động ở các quận nội thành hình thành mạng lưới với hơn 2500 điểm bán hàng, giao dịch kinh doanh, ở các thành phố khác tình trạng cũng tương tự như vậy.
Trong khi đó thương mại Nhà nước lại bỏ trống một địa bàn trọng điểm là thị trường nông thôn chiếm 80% dân số cả nước, chiếm 65-70% sức mua của thị trường xã hội. Sự tan rã của công ty cấp tỉnh và hầu hết các công ty cấp huyện trong những năm đầu thập kỷ 90 đã kéo theo sự sụp đổ của hầu hết các hợp tác xã mua bán trên địa bàn nông thôn. Thay vào đó là sự hoạt động nhộn nhịp của thuơng nghiệp ngoài quốc doanh với nhiều hình thức kinh doanh rất đa dạng.
Hai là: Tình trạng quá đông của doanh nghiệp thương mại Nhà nước cùng tồn tại tất yếu dẫn đến hậu quả vốn đầu tư của Nhà nước cho các doanh nghiệp này cũng hết sức phân tán. Tính trung bình cả nước, các doanh nghiệp chỉ có khoảng 6 tỷ đồng vốn. Nếu tính riêng các doanh nghiệp trực thuộc trung ương thì có cao hơn nhưng số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiến 48%, số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 69%, số doanh nghiệp trên 30 tỷ đồng chiếm 7,65%. Có thể nói thương mại Nhà nước chỉ đông về số lượng nhưng lại nhỏ bé về quy mô.
Ba là: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nhìn chung còn thấp, điều này thể hiện trong tỷ lệ phần trăm lợi nhuận trên tổng số vốn của doanh nghiệp .
Qua điều tra 191 doanh nghiệp thương mại Nhà nước do Trung ương quản lý ( các doanh nghiệp này đi đầu trong việc đăng kí kinh doanh theo quyết định 388/HĐBT) thì có tới 33 doanh nghiệp ( chiếm 17,27% ) có tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn hoặc bằng không ( thực chất là thua lỗ ); 65 doanh nghiệp ( chiếm 30,04% ) có lợi nhuận trên tổng số vốn là 2%; 39 doanh nghiệp ( chiếm 10,99% ) có tỷ lệ lợi nhuận từ 3-8%; 33 doanh nghiệp ( chiếm 17,27% ) có tỷ lệ lợi nhuân 12% trở lên.
Qua số liệu cho thấy tới 50% số doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc có hiệu quả kinh doanh thấp.
Bốn là: Một tình trạng khá phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước chỉ mang cái vỏ kinh tế Nhà nước còn trong “ruột” của nó là kinh tế tư nhân, đặc biệt trong khâu bán lẻ trên địa bàn các tỉnh các huyện. Trên thực tế, các cá nhân tập thể nhỏ được sử dụng tư cách pháp nhân cửa hàng cửa hiệu, vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước, còn mua bán gì, ở đâu, lúc nào... là do họ tự quyết định, tuỳ thuộc thực trạng thị trường và định kỳ phải nộp cho doanh nghiệp một khoản nào đó.
3. Từ 1996 đến nay:
Sau 10 năm đổi mới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã trải qua nhiều biến đổi. Số các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại trực tiếp quản lý tính đến tháng 10/1992 là 2520 doanh nghiệp. Sau khi sắp xếp lại đến giữa năm 1995 còn 1849 doanh nghiệp, cuối năm 1996 còn 1280 doanh nghiệp. Sắp tới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước sẽ tiếp tục giảm do giải thể và cổ phần hoá một số doanh nghiệp. Tuy vậy các doanh nghiệp còn lại chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính đến năm 1996 trong số 82 doanh nghiệp thương mại thì có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng là 67%, chỉ có 3 đơn vị quy mô vốn trên 50 tỷ đồng: Tổng công ty xăng dầu 1444 tỷ đồng; công ty thương mại và đầu tư 234 tỷ đồng; tổng công ty máy và phụ tùng 128 tỷ đồng. Trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước tình trạng thiếu vốn là phổ biến. Hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp thương mại Nhà nước vừa yếu lại vừa lỏng lẻo, chất lượng hiệu quả kinh doanh thấp kém trên thị trường.
Sau một thời gian lúng túng trước cơ chế mới trong một vài năm gần đây các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã phần nào lấy lại được ưu thế và hoạt động có hiệu quả hợp lý hơn đặc biệt là những doanh nghiệp có vốn lớn, điều này thể hiện ở chỗ:
+ Giảm dần tỷ trọng bán lẻ hàng hoá, thay vào đó tập trung vào khâu bán buôn. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã thâu tóm những nguồn cung ứng những hàng hoá quan trọng.
+ Đã thể hiện rõ vai trò của mình trong việc cung ứng hàng hoá bình ổn định thị trường, chống được tình trạng đầu cơ hàng hoá.
những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước hiện nay.
Vấn đề về vốn và hiệu quả sử dụng vốn:
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghiã sống còn đối với sự thành bại của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp yêu cầu một lượng vốn ngày càng tăng lên không ngừng.
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một loại hình doanh nghiệp nằm trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam cũng đang trong tình trạng “đói” vốn. Thời gian qua, do thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã làm ăn kém hiệu quả, chưa làm tốt nhiệm vụ là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực thương mại, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế xã hội.
Cũng giống như các loại hình doanh nghiệp khác, vốn trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ này là phục vụ kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường tuỳ theo từng doanh nghiệp mà quy mô và cơ cấu vốn kinh doanh khác nhau, vốn trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước thường gồm ba phần: vốn cố định, vốn lưu động và đầu tư tài chính.
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại, tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại Nhà nước là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài, có chức năng là phương tiện kinh doanh chứ không phải để bán.
Phân chia theo hình thái vật chất tài sản cố định có hai loại tài sản hữu hình và tài sản vô hình:
_ Tài sản hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể như kho tàng bến bãi của hàng phương tiện chuyên chở, thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp...
_ Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chật cụ thể như vị trí kinh doanh của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp...
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề bảo tồn và phát triển vốn cố định luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Sau mỗi kỳ hoạt động doanh nghiệp phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua các chỉ tiêu phân tích tài chính. Trên cơ sở đó rút ra những bài học về quản lý và bảo tồn vốn cố định.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một bộ phận của vốn đầu tư được ứng ra để mua hàng hoá, tài sản lưu thông để phục vụ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp gồm vốn bằng tiền, hàng hoá chưa tiêu thụ và cãc khoản phải thu. Tuỳ theo từng doanh nghiệp mà quy mô cơ cấu tốc độ tăng vốn lưu động có sự khác nhau.
Sự vận động của vốn lưu động là một vòng tuần hoàn khép kín gồm hai giai đoạn.
_ Giai đoạn đầu vốn lưu động được ứng ra để mua hàng hoá, vốn được chuyển từ trạng thái tiền sang trạng thái hiện vật.
_ Giai đoạn kết thúc, hàng hoá được lưu thông trên thị trường và thực hiện giá trị, hàng hoá được bán và thu tiền về.
Với đặc thù của loại hình doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là cực kỳ quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh và trên thực tế việc sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả là vấn đề hết sức phức tạp.
Vốn đầu tư tài chính trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước là phần vốn được đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. Với hình thức này doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường khả năng sinh lợi từ đồng vốn hiện có, vừa đảm bảo an toàn vốn kinh doanh nếu doanh nghiệp gặp rủi ro. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính, phổ biến là mua cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác, hoặc hùn vốn liên doanh.
Thời kỳ trước năm 1986.
Trong cơ chế quản lý cũ, vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước chỉ bao gồm có hai phần: vốn cố định và vốn lưu động.
Hai loại vốn này đều do Nhà nước cấp. Xuất phát từ việc thực hiện nguyên tắc cấp phát giao nộp ngân sách, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước không phải tự mình khai thác, huy động nguồn vốn đảm bảo vốn kinh doanh. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn Nhà nước tiếp tục cấp phát để doanh nghiệp có đủ vốn hoạt động.
Nhìn nhận một cách khách quan, tính chất độc quyền trong thương mại Nhà nước là phù hợp với cơ chế thời chiến, tuy nhiên cơ chế này đã trở thành ung nhọt, một dị hình kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do thực hiện quá lâu nền kinh tế khép kín, mua bán không đúng giá trị hàng hoá, trong hạch toán kinh tế tính không đúng, đủ chi phí đầu vào; thực hiện cơ chế mua theo lệnh bán theo chỉ tiêu đã nảy sinh hiện tượng mua bán lòng vòng, móc ngoặc cửa quyền... ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thời kỳ này thất thoát nghiêm trọng nhiều doanh nghiệp lãi giả lỗ thật, báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh.
Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt đổi mới chính sách trong cơ chế quản lý kinh tế nói chung, thị trường thương mại dịch vụ nói riêng. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước được quyền tự chủ trong kinh doanh theo từng nghành hàng mình lựa chọn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của N._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0090.doc