Nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO

LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ cũng như hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn, của các cán bộ, nhân viên cơ sở thực tập. Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Đức Bình đã tận tình hướng dẫn em trong chuyên đề này. Em xin cảm ơn các cán bộ, nhân viên của Viện Kinh tế chính trị thế giới đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành đề tài. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế nói riêng cũng như các thầy cô giáo của trường Đại học Kin

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế quốc dân nói chung đã cung cấp cho em cái nhìn tổng quát trên lĩnh vực kinh tế để em có thể hoàn thành đề tài. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài Chống bán phá giá là một biện pháp đã được WTO thừa nhận để kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nền kinh tế trên thế giới. Hiện nay Việt Nam đã và đang bị áp dụng thuế chống bán phá giá trên nhiều mặt hàng xuất khẩu đi các nước trên thế giới, khi rào cản thuế quan và phi thuế quan đang được giảm để tuân thủ với các quy định của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các vụ chống bán phá giá được sử dụng nhiều hơn nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp sản xuất trong nước. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO do vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam là một công cụ hữu ích trong tương lai và cần được phát huy vai trò giúp Việt Nam có thể kiểm soát lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa mà không trái với quy định của WTO Chính vì vậy nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam hiện nay là cần thiết và đây cũng chính là nội dung nghiên cứu của chuyên đề thực tập “Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO”. 2. Đối tượng nghiên cứu Chuyên đề tiến hành khảo sát và nghiên cứu những vấn đề tổng quan chống bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong thời gian qua. 3. Phạm vi nghiên cứu Chuyên đề sẽ nghiên cứu trong phạm vi thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam từ 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên để sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử là chủ yếu. Ngoài ra, chuyên đề còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá… 5. Mục đích nghiên cứu Chuyên đề được tiến hành nghiên cứu nhằm tổng hợp những vấn đề chung về bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá của Việt Nam. Qua đó, chuyên đề đưa ra giải pháp nhằm đưa công cụ này trở thành công cụ tích cực bảo hộ ngành sản xuất trong nước của Việt Nam. 6. Kết cấu chuyên đề Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng chữ cái viết tắt…chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những vấn đề tổng quan về bán phá giá và thuế chống bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới. Chương 2: Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá của Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Quan điểm về bán phá giá 1.1.1 Khái niệm Bán phá giá thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán khác phải hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá của một mặt hàng trên cùng một thị trường. Tuy nhiên khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế hàm ý so sánh về giá của một mặt hàng trên hai thị trường khác nhau: Thị trường nước nhập khẩu và trị trường nước xuất khẩu. Nhìn chung , tất cả các nước cho rằng bán phá giá xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu đựơc bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa . Mặc dù khái niệm bán phá giá đưa ra khá đơn giản tuy nhiên khi xác định giá bán của một mặt hàng cho thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu thì vô cùng phức tạp bởi vì khi đó phải xác định mặt hàng đó được bán với giá bán buôn hay bán lẻ, tỷ giá hối đoái , chi phí vận chuyển , thuế suất, thuế nhập…. 1.1.2 Cơ sở kinh tế của việc bán phá giá Trước khi tìm hiểu về tình hình điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới thay đổi mạnh mẽ như thế nào trong gần một thập kỷ qua cần nghiên cứu về cơ sở kinh tế  của việc bán phá giá. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định khi nào thì hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khi nào thì hành vi đó là bình thường về mặt kinh tế. Tìm hiểu cơ sở kinh tế của việc bán phá giá cũng sẽ giúp ích trong việc phân tích ai là người có lợi, ai là người bị thiệt khi chấp nhận hay không chấp nhận hành vi đó. 1.1.2.1. Bán phá giá xảy ra do phân biệt giá quốc tế Phân biệt giá quốc tế xảy ra khi thị trường bị phân biệt giá là thị trường của các nước khác nhau. Song giá xuất khẩu thường cao hơn giá của thị trường nội địa do nhà xuất khẩu phải chịu thêm nhiều chi phí xuất khẩu như vận chuyển, bảo hiểm…Do đó, khi nhà sản xuất theo đuổi hành vi phân biệt giá quốc tế, tức là giá bán trong nước khác giá xuất khẩu thì hành vi đó chỉ bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu sản phẩm thấp hơn giá bán của sản phẩm đó ở trong thị trường nội địa. Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế, bán phá giá cũng là một hiện tượng thông thường. Một công ty được hưởng lợi thế độc quyền trên thị trường nội địa do được bảo hộ bởi các rào cản thương mại tự nhiên và phi tự nhiên có thể bán sản phẩm trong nước với mức giá khá cao. Nếu chi phí xuất khẩu hàng hóa tương đối thấp, mức giá xuất khẩu do công ty đặt ra có thể sẽ thấp hơn nhiều so với giá bán ở thị trường trong nước. Trong trường hợp này, công ty sẽ dễ bị coi là bán phá giá. Bản chất hành vi bán phá giá kể trên không phải là do công ty đặt giá thấp ở thị trường xuất khẩu mà do công ty đã bán giá cao ở thị trường trong nước. Chính sức mạnh độc quyền ở thị trường trong nước đã làm giảm lợi ích của toàn xã hội. Nguyên tắc này vẫn đúng trong trường hợp công ty có sức mạnh độc quyền ở cả hai thị trường. Khi đó, công ty sẽ đặt giá thấp hơn ở thị trường có sức mạnh độc quyền yếu hơn. Do đó, nếu bán phá giá xảy ra dưới hình thức phân biệt giá thì biện pháp chống bán phá giá sẽ không mang lại lợi ích kinh tế gì vì ta cần chống lại sự định giá cao tại thị trường nội địa chứ không phải loại bỏ mức giá thấp ở thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp này có một số quan điểm ủng hộ việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Quan điểm thứ nhất cho rằng việc bán phá giá sẽ làm giảm giá hàng hóa tương tự tại thị trường nước nhập khẩu. Điều này làm giảm lợi nhuận và lương của các chủ công ty và người lao động sản xuất mặt hàng cạnh tranh với hàng nhập khẩu và đe dọa lợi ích tiềm năng trong tương lai của họ hoặc làm ảnh hưởng đến mức sống của những đối tượng này. Tuy nhiên, giá bán của hàng nhập khẩu thấp hơn giá bán của sản phẩm nội địa rõ ràng đã đem lại lợi ích cho toàn xã hội nhiều hơn so với những thiệt hại mà các nhà sản xuất sản phẩm cạnh tranh phải gánh chịu. Trước khi có hàng nhập khẩu bán vào thị trường trong nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu của mặt hàng đó ở thị trường trong nước cân bằng ở điểm E, với giá p1 và lượng tiêu thụ q1. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là p2, lượng tiêu thụ tăng lên q2, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn q’2, lượng hàng nhập khẩu là q2 - q’2.  Từ hình 1 có thể thấy rằng thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABFE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CFE. Trong trường hợp này, nếu muốn, chính phủ một nước có thể đánh thuế để phân phối lại thu nhập nhằm bù đắp thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, hay thậm chí sử dụng biện pháp tự vệ. Áp dụng thuế chống bán phá giá trong trường hợp này không phải là giải pháp tối ưu. Quan điểm thứ hai cho rằng áp dụng thuế chống bán phá giá là biện pháp nhằm gây sức ép làm tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu bằng cách xoá bỏ các rào cản thương mại - công cụ tạo thế độc quyền cho nhà xuất khẩu. Hàng rào thương mại ở đây được hiểu là thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, v.v... chứ không phải những rào cản tự nhiên như chi phí vận tải. Nếu xét nền kinh tế thế giới như một tổng thể thì việc dỡ bỏ các rào cản thương mại trên cũng mang một ý nghĩa tích cực. Tuy nhiên, đây liệu có phải là điều mà những nước nhập khẩu mong đợi không bởi vì biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp này chỉ góp phần tăng cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu. Quan điểm thứ ba cho rằng việc bán phá giá có thể gây lãng phí nguồn lực tại nước nhập khẩu do nước này cố gắng điều chỉnh để đạt được mức giá thấp hơn. Tuy nhiên, lập luận này chỉ đúng khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá trong thời gian ngắn. Nếu việc bán phá giá mang tính lâu dài thì những điều chỉnh về nguồn lực tại nước nhập khẩu là hoàn toàn hợp lý và không hề lãng phí.  Ngay cả khi việc bán phá giá có tính chất tạm thời, việc áp dụng thuế chống bán phá giá cũng không phải là giải pháp tối ưu trong một số trường hợp. Giả sử như một công ty đang đặt giá tương đối ổn định ở thị trường trong nước do thị trường này không chịu tác động nhiều của giá thế giới. Nhưng trên thị trường thế giới, công ty lại điều chỉnh giá sản phẩm theo giá thị trường. Do đó, khi giá thị trường thế giới xuống thấp, nhà xuất khẩu sẽ dễ dàng bị coi là bán phá giá. Nếu ta áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhằm tránh các chi phí điều chỉnh việc gia nhập và rút khỏi ngành của các nhà sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu thì chính sách này chỉ có thể gạt nhà xuất khẩu ra khỏi thị trường nước nhập khẩu chứ không hề làm tăng giá thế giới. Hơn nữa, để thực hiện mục tiêu làm giảm các chi phí điều chỉnh không cần thiết do thương mại gây ra, nước nhập khẩu hoàn toàn có thể sử dụng một số biện pháp đối phó tạm thời khác ví dụ như biện pháp tự vệ.   Tóm lại việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ để tránh các thiệt hại tạm thời do hàng nhập khẩu gây ra không phải là biện pháp tối ưu ngay cả khi hàng nhập khẩu bị coi là bán phá giá. 1.1.2.2. Bán phá giá xảy ra do giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất Những người ủng hộ quan điểm bán phá giá là sự phân biệt giá thường lập luận rằng bán phá giá do giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất cũng là một hình thức phân biệt giá. Họ cho rằng các công ty không thể duy trì việc bán hàng dưới chi phí nếu không bù lỗ cho phần hàng này bằng những phần hàng bán trên chi phí trong thị trường khác, tức là công ty đó đang thực hiện biện pháp phân biệt giá. Tuy nhiên, lập luận trên chưa giải thích được tại sao giá xuất khẩu dưới chi phí sản xuất lại bị coi là bán phá giá. Để tìm hiểu thêm về ý nghĩa kinh tế của hành vi này, ta sẽ xem xét khái niệm “chi phí” bằng cách phân biệt “chi phí trung bình” và “chi phí biên”. Chi phí trung bình là chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm đầu ra. Chi phí biên là chi phí tăng lên do sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm đầu ra.  Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí biên là yếu tố quyết định trong việc định giá của một công ty trong ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập thị trường. Điều này giải thích tại sao một công ty vẫn chấp nhận bán hàng với mức giá thấp hơn chi phí trung bình dù biết rằng đang bị lỗ. Thật vậy, có trường hợp nếu công ty không tiếp tục sản xuất thì  công ty có thể sẽ bị lỗ nhiều hơn do vẫn chịu chi phí cố định.  Trước hết chúng ta hãy xem xét kỹ hơn tình huống giá xuất khẩu thấp hơn chi phí trung bình. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí biên. 1.2.2.3. Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí trung bình MC:    Đường chi phí biên              AVC:   Đường chi phí biến đổi trung bình MR:     Đường thu nhập biên           ATC:   Đường chi phí trung bình Trong thời kỳ ngắn hạn, công ty tối đa hoá lợi nhuận của mình bằng cách lựa chọn đầu ra q* mà tại đó chi phí biên của công ty bằng với giá cả P của sản phẩm và bằng thu nhập biên MR. Lợi nhuận của công ty chính là hình chữ nhật ABCD. Mức sản lượng q1 thấp hơn q* hay mức sản lượng q2 cao hơn q* đều dẫn tới việc hạ thấp lợi nhuận. Vùng xám cho thấy mức giảm lợi nhuận tương ứng với việc lựa chọn sản lượng q1 và q2. Các đường MR và MC cũng cắt nhau tại E, tương ứng với mức sản lượng q0. Tuy nhiên ở mức sản lượng q0 lợi nhuận chưa được tối đa hoá. Tăng sản lượng vượt quá q0 sẽ tăng được lợi nhuận vì chi phí biên vẫn thấp hơn thu nhập biên. Do đó điều kiện để tối đa hoá lợi nhuận của một công ty là thu nhập biên bằng chi phí biên ở điểm mà ở đó chi phí biên đang đi lên chứ không đi xuống.   Trong ngắn hạn, khi thị trường suy thoái bất cứ công ty nào dù là cạnh tranh hoàn hảo hay không hoàn hảo cũng có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn chi phí trung bình chỉ cần mức giá này cao hơn giao điểm của chi phí biên và chi phí biến đổi trung bình. Hành vi này của nhà sản xuất chính là để bù đắp chi phí cố định. Nhà sản xuất có thể hy vọng rằng sau một thời gian suy giảm tạm thời, thị trường sẽ hồi phục và công ty có thể tăng giá; hoặc chỉ đơn giản là nhà sản xuất đang cố gắng bán hàng nhằm giảm thiểu thua lỗ trước khi rút khỏi thị trường.  Khi cả nhà sản xuất trong nước và nhà xuất khẩu đều bán phá giá dưới chi phí trung bình do suy thoái của thị trường thì việc đánh thuế chống bán phá giá đối với nhà xuất khẩu là không hợp lý. Trong trường hợp này, biện pháp chống bán phá giá chỉ mang tính bảo hộ đơn thuần nhằm làm giảm tác động bất lợi đối với công ty trong nước khi thị trường suy thoái. Sự khác biệt về cơ cấu chi phí của các công ty trên thế giới có thể do nhiều nguyên nhân. Ví dụ như việc các công ty của Mỹ thường đầu tư lớn vào máy móc, thiết bị khiến cho tỷ lệ chi phí cố định của các công ty này trong tổng chi phí thường cao hơn các nhà cạnh tranh khác ở nước ngoài. Do đó, các công ty này sẽ dễ bị coi là bán phá giá trong thời gian cầu của thế giới giảm. Hay như ở Nhật Bản, do tiền lương công nhân thường được coi là chi phí cố định vì các công ty Nhật hiếm khi sa thải công nhân nên các công ty này có thể sẽ tiếp tục sản xuất và xuất khẩu sang Mỹ ở mức giá mà công ty Mỹ cho là quá thấp để duy trì hoạt động. Nếu việc bán phá giá là do sự khác biệt về cơ cấu chi phí gây ra thì nước nhập khẩu có thể điều chỉnh bằng các chính sách như đánh thuế sa thải công nhân hay trợ cấp duy trì việc làm để làm thay đổi về cơ cấu chi phí của công ty trong nước. Các chính sách này sẽ điều tiết hành vi của nhà sản xuất trong nước và góp phần làm giảm gánh nặng thuế khoá cho người tiêu dùng do không phải chịu thuế chống bán phá giá.   Tóm lại, đối với hành vi bán phá giá dưới chi phí trung bình, việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể không phải là phương án tối ưu nhất. 1.1.2.4. Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí biên Như trên đã phân tích, một công ty có thể bán hàng với giá thấp hơn chi phí trung bình chỉ cần mức giá này cao hơn chi phí biên. Tuy nhiên trên thực tế vẫn có những công ty bán hàng dưới chi phí biên. Nguyên nhân của hành vi này có thể do các công ty đánh giá sai chi phí biên, hoặc chấp nhận hy sinh lợi nhuận để đạt được một số mục tiêu khác như tối đa hoá doanh thu, độc chiếm thị trường, tăng thị phần hay tiếp thị hàng hóa. Một là, tính cứng nhắc và bất ổn trong ngắn hạn Khi bắt đầu xuất khẩu vào một thị trường, công ty thường phải đưa ra quyết định sản xuất trước khi xác định được chính xác mức giá trên thị trường bằng cách quyết định sản lượng sản xuất theo mức giá dự tính. Mức giá dự tính của công ty là số bình quân gia quyền của tất cả các phương án giá cả có thể có với xác suất của mỗi phương án được sử dụng như các trọng số. Nếu giá bán thực tế thấp hơn nhiều so với giá bán mong đợi ban đầu thì công ty sẽ phải bán hàng với mức giá thấp hơn chi phí biên định trước. Khi công ty phát hiện ra đã xác định sai giá thị trường và do đó, xác định sai chi phí biên, công ty khó có thể điều chỉnh sản lượng ngay lập tức. Mức sản lượng chỉ có thể điều chỉnh sau một thời gian dài, khi công ty có thể cải biến toàn bộ yếu tố đầu vào của nó, kể cả quy mô các nhà máy.  Do tính cứng nhắc trong ngắn hạn, một khi công ty đã ấn định sản lượng sản xuất, có nghĩa là không thay đổi được toàn bộ các chi phí cố định thì việc điều chỉnh chi phí biên ước tính ban đầu là hầu như không thể xảy ra. Ví dụ như với một hãng hàng không đang duy trì một chuyến bay thường lệ nhưng còn một số vé chưa bán được. Khi đó, chi phí biên tăng lên cho mỗi hành khách tiếp theo có thể rất thấp, chẳng hạn bằng chi phí một suất ăn trên máy bay. Chi phí biên trong trường hợp này gần như bằng không. Hay như một công ty sản xuất đồ gốm sứ xuất khẩu. Công ty đã đầu tư máy móc, lò nung cho việc sản xuất 5 vạn chiếc đĩa. Nếu trên thực tế, công ty mới chỉ có đơn đặt hàng yêu cầu giao ngay 4,5 vạn chiếc đĩa thì chi phí biên tăng thêm cho mỗi chiếc đĩa sản xuất tiếp theo là không đáng kể (chỉ tương ứng với một lượng nhỏ chi phí đất sét và lao động) vì với công suất lò nung đã định trước, công ty vẫn phải mất một lượng chi phí cố định đã đầu tư vào lò nung, chi phí cho nguyên liệu để đốt lò… Do đó, trong ngắn hạn, hãng hàng không hay công ty sản xuất đồ gốm sứ này có thể bán vé hoặc xuất khẩu số đĩa chưa bán được ở bất cứ mức giá nào cũng được coi là có lợi vì mức giá nào trong trường hợp này cũng lớn hơn chi phí biên. Tóm lại, áp dụng thuế chống bán phá giá trong trường hợp công ty xác định sai mức giá trên thị trường và chi phí biên là không hợp lý vì việc xác định sai mức giá này chỉ phản ánh hiện tượng kinh tế đơn thuần là chi phí biên trong ngắn hạn có thể cao hơn rất nhiều so với chi phí trung bình trong dài hạn. Hai là, tối đa hoá doanh thu Ở những công ty lớn, chủ công ty thường thuê ban giám đốc điều hành. Trong một thời gian nào đó, ban giám đốc có thể quan tâm đến mục tiêu tối đa hoá doanh thu để nhằm khuyếch trương hay được khen thưởng mà xa rời mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty. Nếu tình huống này xảy ra trong thị trường nội địa, chính phủ sẽ không can thiệp vì đây là vấn đề của bản thân công ty. Tuy rằng hành vi này có thể gây thiệt hại cho những người sản xuất sản phẩm cạnh tranh trên thị trường, nhưng xét về tổng thể toàn xã hội sẽ được lợi do người tiêu dùng sẽ được lợi nhiều hơn từ việc tối đa hoá doanh thu này. Trên thị trường quốc tế, hành vi này bị coi là bán phá giá và phải chịu thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, về phương diện kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu sống còn của công ty nên công ty sẽ rất khó duy trì được hành vi này trong dài hạn. Ban giám đốc cũ có thể bị thay thế. Vì vậy, với nước nhập khẩu, biện pháp ứng phó tốt nhất trong trường hợp này là tận dụng số hàng nhập khẩu rẻ này. Ba là, thôn tính để độc chiếm thị trường Một số công ty bán phá giá để cố gắng tối đa hoá doanh số nhằm thôn tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian dài chịu lỗ, công ty sẽ loại được các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường. Sau khi đạt được điều này, công ty sẽ tăng giá lên cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền. Có thể thấy rằng, trong trường hợp này công ty đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi nhuận dài hạn.             Hành vi độc quyền của công ty rõ ràng sẽ gây thiệt hại lớn cho nước nhập khẩu. Do đó, các nước nhập khẩu thường tỏ ra khá kiên quyết trong việc đối phó với hành vi bán phá giá nhằm chiếm lĩnh thị trường này.             Tuy nhiên, áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá kiểu này không phải là giải pháp tối ưu. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: (i) việc bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường là rất khó khăn vì ngoài việc đẩy các công ty cạnh tranh khác ra khỏi thị trường, công ty còn phải tìm cách ngăn cản sự quay trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi giá bị đẩy lên cao. (ii) trên phạm vi quốc tế, hiếm khi xảy ra hiện tượng một công ty có thể độc quyền trên toàn bộ thị trường. Việc kiểm soát giá trên thị trường sẽ do một số công ty lớn nắm giữ. Do đó, ngay cả khi nhà xuất khẩu thành công trong việc loại bỏ tất cả các công ty nội địa thì họ vẫn phải dàn xếp với các công ty quốc tế khác để thống nhất về việc định giá. (iii)nước nhập khẩu có thể triệt tiêu sức mạnh độc quyền của công ty bằng cách đánh thuế đối với lợi nhuận độc quyền sau khi công ty đã tăng giá chứ không cần phải đánh thuế chống bán phá giá ngay trong giai đoạn đầu. Nếu không làm như vậy, nước nhập khẩu sẽ phải chịu mất đi một lượng hàng nhập khẩu rẻ chỉ vì sợ bị thôn tính thị trường.  Bốn là, cạnh tranh để giành thị phần Một số công ty xuất khẩu hàng với mức giá thấp hơn chi phí biên nhằm mục tiêu chiếm được thị phần cao hơn trên thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, khác với trường hợp trên, công ty không có ý định thôn tính toàn bộ thị trường mà chỉ cố gắng tăng thị phần của mình.   Theo lý thuyết, trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, một công ty không thể bán được nhiều sản phẩm mà nó mong muốn tại mức giá thị trường. Doanh số bán ra của công ty phụ thuộc vào giá của sản phẩm. Trên thực tế, bên cạnh yếu tố giá còn có rất nhiều yếu tố chi phối doanh thu của một công ty. Một trong số đó là hoạt động tiếp thị gồm quảng cáo, thiết kế sản phẩm, bao gói, bán hàng. Khi bán hàng dưới mức chi phí biên để cố gắng giới thiệu sản phẩm của mình, công ty đã tin tưởng rằng thị phần tăng lên ở hiện tại sẽ làm giảm chi phí sản xuất hoặc tăng giá trong tương lai và do đó, chi phí bỏ ra ngày hôm nay để tiến hành hoạt động tiếp thị sẽ được hoàn lại bằng lợi nhuận trong tương lai. Đây là hành vi thường gặp của nhiều công ty bởi vì sản phẩm nhập khẩu mới không dễ gì được chấp nhận ngay mà phải được công nhận dần thông qua quá trình dùng thử. Do đó, nhà xuất khẩu phải hạ giá thấp hơn chi phí biên nhằm khuyến khích khách hàng dùng thử với tin tưởng rằng sau đó họ có thể tăng giá lên khi người tiêu dùng đã chấp nhận sản phẩm. Điều này rất hữu ích với người tiêu dùng vì họ sẽ có cơ hội dùng một loại sản phẩm tốt hơn. Kể cả khi công ty tăng giá sau này cho đúng với giá trị của sản phẩm thì điều này cũng là hiện tượng bình thường.  Trong trường hợp này, hàng nhập khẩu bị bán phá giá sẽ chiếm chỗ một số sản phẩm trong nước. Nhưng đây cũng chỉ là một quy luật kinh tế thông thường vì trong các thị trường cạnh tranh khốc liệt, sản phẩm và quá trình xử lý mới sẽ thay thế sản phẩm cũ. Thứ hai, thông qua quá trình tiếp thị này, công ty cũng có thể hiểu rõ hơn về sản phẩm của mình nhằm có những sửa đổi, cải tiến hợp lý. Điều này đặc biệt đúng trong các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao. Chi phí sẽ có xu hướng giảm xuống khi công ty có nhiều kinh nghiệm hơn vì bốn lý do: Một là, năng suất lao động sẽ tăng lên khi công nhân thạo việc hơn. Hai là, qua thời gian, người quản lý biết hoạch định kế hoạch thời gian hữu hiệu hơn cho quá trình sản xuất. Ba là, các kỹ sư đã có đủ kinh nghiệm để xử lý các thiết kế. Bốn là, những người cung ứng vật tư có thể học được cách chế biến hữu hiệu hơn những nguyên liệu mà công ty yêu cầu và do đó, chuyển một phần lợi ích cho công ty dưới hình thức giá vật tư rẻ hơn.   Bằng cách học hỏi thông qua thực tế, công ty sẽ thu được lợi nhuận do doanh số tăng thêm trong tương lai nên ở hiện tại nó sẵn lòng bán sản phẩm với giá thấp hơn chi phí biên. Trong ngắn hạn, người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ được lợi do mua được hàng ở mức giá thấp. Trong dài hạn, khả năng này vẫn có thể diễn ra vì giá sẽ tiếp tục thấp do chi phí sản xuất giảm bởi công ty có nhiều kinh nghiệm hơn. Thông qua quá trình “vừa học, vừa làm” này, rõ ràng người tiêu dùng đã được lợi do nỗ lực của nhà xuất khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây là phản ứng của nhà sản xuất trong nước đối với tình huống này. Các công ty trong nước cũng được hưởng lợi từ hành vi này của các nhà xuất khẩu thông qua việc học hỏi như các đối thủ của mình và do đó, giúp các công ty này cạnh tranh tốt hơn. Nếu không, họ sẽ bị các công ty nước ngoài bỏ xa. Trong trường hợp các công ty trong nước không thể hoàn thiện để thích ứng với quá trình điều chỉnh học hỏi này, sự rút lui của các công ty đó sẽ mang lại lợi ích cho cả nước nhập khẩu và nền kinh tế thế giới nói chung.           Tóm lại, trong nhiều trường hợp các công ty nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải mọi trường hợp đều có thể gán cho cái mác “bán phá giá” để áp dụng biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp, làm như vậy sẽ tạo ra sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội. 1.1.3. Quy định của WTO về bán phá giá Quy tắc chống bán phá giá mà hiện nay WTO dựa vào được quy định trong điều 6 của Hiệp định GATT (Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại) ban hành vào tháng 4/1979. Hiệp định xác định những ảnh hưởng tiêu cực của bán phá giá đối với thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá chỉ có thể sử dụng để đối phó với những loại hình bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành công nghiệp nào đó, hoặc gây trở ngại nghiêm trọng cho việc xây dựng một ngành công nghiệp. Nội dung chủ yếu của hiệp định như sau: Thiết lập nguyên tắc cơ bản về việc thu thuế chống bán phá giá. Chỉ có thể áp dụng biện pháp đánh thuế chống bán phá giá sau khi tiến hành điều tra theo quy định của điều 6 của Hiệp định GATT. Bản quy tắc còn làm rõ thế nào là bán phá giá. Việc bán phá giá có gây thiệt hại nghiêm trọng cho các bên ký kết khác hay không và thiệt hại ở mức độ nào. Định nghĩa bán phá giá là: giá xuất khẩu của một mặt hàng thấp hơn giá của mặt hàng cùng loại mà các nước xuất khẩu cung ứng cho người tiêu dùng của nước mình, tức thâm nhập vào thị trường một nước khác với giá thấp hơn giá thông thường. Nếu một công ty xuất khẩu sản phẩm với giá thấp hơn giá cả bình thường trong nước, thì sản phẩm đó đã là "bán phá giá". Ở đây có khái niệm giá thông thường. WTO đưa ra 3 cách xác định giá thông thường: một là giá tiêu thụ thông thường trong nước của nước xuất khẩu hàng hoá; hai là giá xuất khẩu của nước xuất khẩu sang nước thứ ba; ba là giá của các chi phí cấu thành. Thông thường, WTO xác định giá thông thường theo cách thứ nhất, trong trường hợp không áp dụng được thì mới áp dụng cách xác định thứ 2, thứ 3. Quy tắc đã định nghĩa chi tiết về "công nghiệp trong nước": đó là tổng thể hoặc đa số các nhà sản xuất trong một nước có các sản phẩm cùng loại. Cam kết về giá cả là những đảm bảo tự nguyện của nhà xuất khẩu thay đổi giá xuất khẩu hoặc giá bán phá giá để loại bỏ những ảnh hưởng gây thiệt hại cho nước nhập khẩu. Nhưng sự đảm bảo này phải dựa trên những điều tra của nước nhập khẩu, hơn nữa không được bắt buộc nước xuất khẩu đưa ra đảm bảo, nhưng công tác điều tra vẫn có thể tiến hành. Kim ngạch của thuế chống bán phá giá không được vượt quá mức chênh lệch do bán phá giá. Việc thu thuế chống bán phá giá hoặc các biện pháp chống bán phá giá tạm thời khác chỉ áp dụng đối với hàng hoá đã được vận chuyển vào lãnh thổ nước nhập khẩu. Khi thu thuế phải được tiến hành bình đẳng không phân biệt đối xử, phải thu thuế từng kiện hàng nhập khẩu qua điều tra thấy gây thiệt hại do bán phá giá. Những hành động chống bán phá giá đại diện cho nước thứ ba phải được nước thứ ba đưa ra lời mời hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan. Theo WTO, để xác định giá sản phẩm có bán phá giá hay không, cần tuân thủ những quy tắc sau đây: Thứ nhất: Lấy cơ sở giá bán hàng hoá cùng loại tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu. Khi không thể sử dụng giá này, phải sử dụng giá mà nước này xuất khẩu sang nước thứ ba làm chuẩn, hoặc xác định bằng cách cộng giá thành sản xuất với các chi phí hợp lý và lợi nhuận. Hai là: Hàng chuyển khẩu thường được so với giá tương ứng của nước xuất khẩu. Ba là: Nếu không có giá xuất khẩu hoặc giá này bị cho là không đáng tin, thì có thể lấy giá bán hàng nhập khẩu để xác định giá xuất khẩu. Bốn là: Giá xuất khẩu và giá bán nội địa của nước xuất khẩu phải được so sánh ở cùng một trình độ thương mại. Trên thực tế, nhằm bảo hộ công nghiệp nội địa, có rất nhiều chính phủ đều áp dụng các hành động nhằm vào bán phá giá. Cho đến nay, WTO chưa đưa ra việc giải quyết vấn đề bán phá giá thông qua đàm phán mà vẫn căn cứ theo điều 6 của GATT cho phép các nước hành động chống bán phá giá. Nhưng chỉ khi việc bán phá giá làm tổn hại đến công nghiệp của nước nhập khẩu thì các biện pháp chống bán phá giá mới được áp dụng. Ngày nay, các nước nhập khẩu chống bán phá giá bằng cách thu thuế nhập khẩu ngoại ngạch đối với sản phẩm cá biệt của nước xuất khẩu cá biệt, khiến giá hàng nhập "xấp xỉ giá thông thường", hoặc loại bỏ sự tổn hại của công nghiệp nội địa nước nhập khẩu. WTO đã sửa đổi một số điều trong Hiệp định Chống bán phá giá, trong đó quy định các nước nhập khẩu phải kết thúc các biện pháp chống bán phá giá và thời gian thực thi sau 5 năm. Khi nước nhập khẩu xác định được biên độ của bán phá giá đặc biệt nhỏ (nhỏ hơn 2% giá cả xuất khẩu của sản phẩm này) thì việc điều tra bán phá giá phải kết thúc. Hiệp định cũng quy định các thành viên WTO phải thông báo kịp thời và chi tiết với Uỷ ban các biện pháp chống bán phá giá về những hành động chống bán phá giá tạm thời và cuối cùng, khi nảy sinh tranh chấp, khuyến khích các thành viên thương lượng với nhau. Các thành viên cũng có thể sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. 1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 1.2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới             Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO và một số các hiệp định liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Ủy ban về chống bán phá giá (Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Các nước chưa là thành viên WTO cũng được khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá.             Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về._. chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí, v.v… Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình.    Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển.  Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây: Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá (Nguồn: Báo cáo của Ban Thư ký WTO và Ủy ban chống bán phá giá WT ) Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển.    1.2.1.1  Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển             Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá.             Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.             Trong số các nước phát triển, Hoa kỳ và EU luôn đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Hoa kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương Hoa kỳ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.             Hàn quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống phá giá và 70 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Nhật Bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.      1.2.1.2 . Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát triển đã tiến hành 946 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng thuế chống bán phá giá.             Cũng trong thời gian đó, hàng hóa xuất khẩu của 60 nước đang phát triển là đối tượng của 1100 cuộc điều tra chống bán phá giá và 736 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.              Ấn độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, đã tiến hành 248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, Ấn độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng nhiều lần áp dụng thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Trung quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá giá lần nào nhưng bị áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể được coi là quốc gia "đi đầu" trong việc bán phá giá hàng hóa sang các nước khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là kinh tế thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù trên thực tế có thể không phải như vậy. 1.2.2  Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa  kỳ  Chính sách chống phá giá của Hoa kỳ được thể hiện thông qua Luật chống bán phá giá năm 1921. Kho bạc Nhà nước Hoa kỳ lúc đó được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá và ấn định mức thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ Thương mại Hoa kỳ đảm nhận sau khi Nghị viện Hoa kỳ thông qua một đạo luật mới về thực thi hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan đến việc điều tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979. Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào năm 1995, các quy định của Hoa kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Hoa kỳ đã ban hành Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá. Các cuộc điều tra phá giá hàng năm của Hoa kỳ ngày càng giảm từ khi Hiệp định chống bán phá giá của WTO có hiệu lực vào năm 1995, từ cao nhất là 84 cuộc điều tra trong năm 1992 còn 14 (1995), 21(1996) và 15(1997). Theo con số thống kê chính thức từ Bộ Thương mại Hoa kỳ, đã có 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998. Trong năm 1998, sức ép của ngành công nghiệp trong nước và cạnh tranh nước ngoài, đặc biệt là về sắt thép đã làm số cuộc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá tăng lên thành 36 cuộc, gấp đôi so với hai năm trước gộp lại. Việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ thường tập trung vào mặt hàng chính là sắt thép. Trong số 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998 có đến 39 cuộc (chiếm 54%) về sản phầm sắt thép nhưng chỉ chú trọng vào một số mặt hàng sắt thép quan trọng, mang tính chiến lược cao như thép carbon cán nóng và cán mỏng. Từ năm 1999, Hoa kỳ đang áp dụng mức thuế chống phá giá khoảng 25% đến 67,5% đối với sản phẩm sắt thép cán nóng nhập khẩu từ Nhật bản, và đối với Brazil là 50,7% đến 71%. Đối với Liên bang Nga, Hoa kỳ thực hiện theo Chương trình hành động áp dụng cho ngành sắt thép, thoả thuận theo các yêu cầu liên quan đến nhập khẩu sản phẩm sắt thép và hạn chế chỉ nhập khẩu 16 mặt hàng sắt thép với số lượng nhất định.  Tổng kết trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, Hoa kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ là đối tượng chịu 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Như vậy từ năm 1999 cho đến 2001, việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ đã tăng lên khá nhanh. 1.2.3.   Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của EU 1.2.3.1 Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu Âu Thị trường EU bao gồm thị trường 15 nước thành viên. Từ năm 1996 -- 2000 EU đã tiến hành điều tra phá giá và trợ cấp trong các ngành sản xuất sau: Sản phẩm 1996 1997 1998 1999 2000 Hóa chất 8 28 17 Hàng dệt 10 8 9 11 Gỗ và giấy 7 Điện tử 14 12 2 Cơ khí 1 5 1 Sắt thép 9 4 19 25 7 Kim loại khác 1 1 2 Sản phẩm khác 5 2 1 5 2 Tổng số 25 45 29 86 31 Số vụ điều tra phá giá 24 42 21 66 31  điều tra trợ cấp 1 3 8 20 0 Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá ở EU: i)  Hàng nhập khẩu bị bán với giá thấp hơn giá trị thông thường (phá giá); ii) Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của EU bị thiệt hại về vật chất do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra; iii) Việc đánh thuế chống bán phá giá là cần thiết cho lợi ích của EU. Không giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, điều kiện thứ ba tính đến cả lợi ích của người tiêu dùng và của ngành sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào. Tóm lại quyết định đánh thuế chống bán phá giá của EU được dựa trên toàn bộ lợi ích của cả cộng đồng.  * Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra Thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của EU được qui định ở Qui chế 384/96 ngày 22/12/1995 của Hội đồng Bộ trưởng EU, sau đây gọi là tắt là “Qui chế chống bán phá giá”. - Các cơ quan chức năng bao gồm: + Ủy ban Ủy ban châu Âu đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thi hành luật chống bán phá giá của EU, là cơ quan có trách nhiệm nhận đơn đề nghị điều tra phá giá, quyết định mở cuộc điều tra, tiến hành điều tra, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời, quyết định chấp nhận cam kết giá bởi các nhà xuất khẩu nước ngoài và kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng việc áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức. Ủy ban còn có quyền kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn sửa đổi Qui chế chống bán phá giá và ban hành các luật mới về thương mại. Trong nội bộ Ủy ban, việc thực thi luật chống bán phá giá được giao cho Tổng Vụ Thương mại, bộ phận này gồm khoảng 100 nhân viên chuyên tham gia các vụ điều tra phá giá và các biện pháp đền bù thương mại khác + Hội đồng Bộ trưởng  Hội đồng Bộ trưởng có thẩm quyền phê chuẩn việc áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức khi có kiến nghị từ Ủy ban. Hội đồng Bộ trưởng có quyền phê chuẩn việc ban hành hay sửa đổi các luật liên quan đến thương mại do Ủy ban trình lên. + Các nước thành viên Các nước thành viên tham gia quá trình thi hành luật chống phá giá thông qua Hội đồng Tư vấn (hay còn gọi là “Hội đồng chống bán phá giá”) bao gồm đại diện của từng nước thành viên và do một quan chức của Ủy ban làm chủ tịch. Ủy ban tham vấn Hội đồng Tư vấn trong mọi tiến trình thi hành luật. Quyết định của Ủy ban sẽ không có hiệu lực khi có một nước thành viên phản đối. Các nước thành viên sẽ chịu trách nhiệm thu thuế chống bán phá giá thông qua cơ quan hải quan nước mình. + Tòa án Tòa án có quyền giám định tính hợp pháp của quyết định áp dụng biện pháp chống phá giá do Ủy ban hoặc Hội đồng đưa ra trên phương diện là kiểm tra xem quá trình ra quyết định của các cơ quan chức năng có đúng thủ tục không chứ không kiểm tra kết quả tính toán biên độ phá giá. Trên thực tế Tòa án của EU đã xử lý một vụ kiện về chống bán phá giá từ năm 1998 nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì vậy có thể thấy khâu giám định của tòa trong cơ chế chống bán phá giá của EU rất hạn chế. - Thủ tục điều tra + Nộp đơn đề nghị điều tra phá giá Thường đơn đề nghị điều tra phá giá được ngành sản xuất của EU nộp cho Ủy ban, rất ít khi Ủy ban tự quyết định điều tra phá giá. Ngành sản xuất của EU thường trao đổi không chính thức với nhân viên của Ủy ban xem có đủ bằng chứng để tiến hành một cuộc điều tra không. Người nộp đơn thường đưa dự thảo đơn cho Ủy ban trước để tham khảo ý kiến. Ngành sản xuất của EU Trên thực tế thường là hiệp hội đại diện cho ngành sản xuất của EU nộp đơn xin điều tra. Các công ty cũng có thể nộp đơn riêng nếu họ có sản lượng đủ lớn trong toàn ngành sản xuất của EU. Như qui định trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO, EU qui định khái niệm đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU khi sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn và chiếm không dưới 25% tổng sản lượng của toàn bộ các nhà sản xuất ở EU. Để xác định xem đơn có được coi là đại diện cho ngành sản xuất của EU không thì thông thường Ủy ban gửi bảng câu hỏi cho tất cả các nhà sản xuất để hỏi thông tin về sản lượng và ý kiến của họ về việc đồng ý hay phản đối đơn. Quá trình xét đơn Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau: (1) Khối lượng và giá trị sản phẩm liên quan được sản xuất trong EU, khi đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU thì đơn phải nêu tên tất cả cá nhà sản xuất của EU và giá trị, sản lượng của từng nhà sản xuất (2) Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, tên nước xuất xứ, tên các nhà xuất khẩu ở nước đó và tên các nhà nhập khẩu; (3) Bằng chứng về việc bán phá giá; (4) Thông tin về thiệt hại do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất của EU. Sau khi nhận được đơn, Ủy ban có trách nhiệm kiểm tra xem có đầy đủ bằng chứng về phá giá và thiệt hại để tiến hành điều tra không nhưng thường là Ủy ban tiến hành điều tra trước, sau đó nếu thấy không có dấu hiệu phá giá hoặc thiệt hại thì sẽ chấm dứt vụ việc. Trong vòng 45 ngày kể từ khi chính thức nhận được đơn, Ủy ban phải ra quyết định về việc có tiến hành điều tra hay không, đồng thời phải thông báo quyết định điều tra trên Công báo. Thường một cuộc điều tra được tiến hành trong vòng 1 năm và tối đa là 15 tháng Bảng câu hỏi Ngay sau khi ra thông báo về việc tiến hành điều tra, Ủy ban sẽ gửi bảng câu hỏi cho tất cả các bên quan tâm, gồm người nộp đơn, các nhà nhập khẩu, xuất khẩu và đại diện của họ, tổ chức người tiêu dùng. Các nhà xuất khẩu phải trả lời trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được bảng câu hỏi, đồng thời phải thông báo cho Ủy ban đánh giá của họ về thiệt hại đối với ngành sản xuất của EU. Nếu bảng câu hỏi không được trả lời đầy đủ và chính xác thì Ủy ban sẽ ra quyết định dựa vào các số liệu họ có sẵn (facts available), thường là số liệu do người nộp đơn đưa ra. - Tiếp cận thông tin Tất cả các bên quan tâm đều có thể kiểm tra các thông tin không bí mật do một bên nộp cho Ủy ban. - Kiểm tra tại chỗ Sau khi nhận được trả lời bảng câu hỏi, Ủy ban sẽ cử cán bộ đi kiểm tra tại trụ sở nhà nhập khẩu và các nhà sản xuất ở EU, sau đó kiểm tra tại trụ sở các nhà xuất khẩu ở nước xuất khẩu để xác định xem số liệu cung cấp có tương ứng với thủ tục kế toán thông thường không. Việc kiểm tra tại chỗ nhằm đảm bảo các thông tin trả lời trong bảng câu hỏi là chính xác. - Giới hạn điều tra Trong trường hợp số nhà sản xuất, xuất khẩu quá lớn hoặc loại sản phẩm quá đa dạng đến nỗi không thể hoàn thành điều tra trong thời hạn qui định thì Ủy ban sẽ giới hạn điều tra ở một nhóm các nhà sản xuất/xuất khẩu (các công ty đại diện) theo phương pháp lấy mẫu thống kê. Ủy ban sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng công ty đại diện và áp dụng biên độ phá giá bình quân gia quyền của các công ty đại diện cho tất cả các nhà xuất khẩu không phải công ty đại diện. Các nhà xuất khẩu có thể trình bày quan điểm của mình về mọi khía cạnh của cuộc điều tra nhưng điều quan trọng là phải đúng lúc vì nếu sớm quá thì không có tác dụng, muộn quá thì Ủy ban đã ra quyết định rồi. - Vận động Hội đồng Tư vấn không có thẩm quyền ra quyết định nhưng có thể thông báo cho Ủy ban về việc thành viên nào phản đối hoặc ủng hộ áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Thông qua Hội đồng Tư vấn, các nước thành viên EU có thể bày tỏ áp lực chính trị lên Ủy ban. - Quyết định sơ bộ      Quyết định sơ bộ của cuộc điều tra được tóm tắt thành một văn bản để gửi cho các nước thành viên và được trao đổi ở Hội đồng Tư vấn. Nếu Ủy ban xác định là có bán phá giá và thiệt hại cho ngành sản xuất của EU thì thuế tạm thời sẽ được áp dụng. Nếu Ủy ban xác định là không có phá giá hoặc thiệt hại thì sẽ chấm dứt điều tra. * Xác định phá giá và thiệt hại - Xác định giá trị thông thường Ủy ban sẽ xác định giá trị thông thường (GTTT) bằng cách tính bình quân gia quyền giá thị trường nội địa trong suốt thời gian điều tra, thường ít nhất là 6 tháng, tối đa 12 tháng ngay trước khi bắt đầu tiến hành điều tra. Ủy ban sẽ tính GTTT riêng cho từng nhà xuất khẩu nếu họ có bán hàng ở thị trường trong nước. Nếu nhà xuất khẩu không sản xuất hoặc không bán hàng trong nước thì Ủy ban sẽ lấy giá bán trong nước của các nhà xuất khẩu khác.  Trường hợp số lượng nhà xuất khẩu quá lớn thì Ủy ban sẽ thỏa thuận với các nhà xuất khẩu để giới hạn chỉ điều tra một nhóm các nhà xuất khẩu. Trường hợp nhà xuất khẩu bán hàng cho công ty liên kết  ở thị trường trong nước thì Ủy ban sẽ tính GTTT trên cơ sở giá mà công ty liên kết bán hàng cho khách hàng trên thị trường nội địa. - Xác định giá xuất khẩu EU qui định giá xuất khẩu (GXK) là giá bán thực tế của sản phẩm khi xuất khẩu vào EU. Cơ quan điều tra thường trừ bớt các chi phí để lấy GXK là mức giá xuất xưởng ở nước xuất khẩu. Khi nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm cho một công ty thương mại hoặc công ty môi giới không có mối liên kết với nhau thì GXK sẽ là giá mà công ty thương mại hoặc công ty môi giới trả cho nhà sản xuất. Giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng GXK có thể tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại cho người mua độc lập đầu tiên sau khi đã điều chỉnh các chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lại trong những trường hợp sau: - Không có giá xuất khẩu; hoặc - Có một mối liên kết hoặc thỏa thuận đền bù giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba; hoặc - Giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì một lý do nào đó. Qui chế chống bán phá giá cũng qui định việc lấy giá xuất khẩu và giá trị thông thường ở cùng thời điểm để so sánh và cần điều chỉnh ở một mức độ nhất định khi so sánh hai loại giá này để đảm bảo kết quả so sánh phản ánh trung thực biên độ phá giá. - Biên độ phá giá Cơ quan điều tra của EU xác định biên độ phá giá (BĐPG) như sau: BĐPG = GTTT (bình quân gia quyền) - GXK (từng giao dịch) Trước đây EU cũng tính bình quân gia quyền GXK để so sánh nhưng đến năm 1987 đã chuyển sang tính GXK của từng giao dịch. - Xác định thiệt hại Giống như Hiệp định chống bán phá giá, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định 3 yếu tố sau để xác định "thiệt hại về vật chất": i)    thiệt hại về vật chất thực tế; ii)    nguy cơ gây thiệt hại về vật chất; iii)  gây trì trệ cho sự phát triển một ngành sản xuất của EU Tuy nhiên Qui chế của EU lại không qui định thế nào là "thiệt hại về vật chất" mà chỉ qui định một số yếu tố cần xem xét, như là khối lượng hàng nhập khẩu, giá và tác động tới ngành sản xuất của EU. Cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định thiệt hại. EU qui định chỉ được áp dụng thuế chống bán phá giá với một sản phẩm bị bán phá giá khi việc phân phối sản phẩm đó trong EU gây ra thiệt hại về vật chất cho ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự của EU. Khác với Hoa kỳ, việc xác định phá giá và xác định thiệt hại ở EU đều do cùng một cơ quan tiến hành. Cơ chế này có thuận lợi là nếu xác định được một trong hai yếu tố: phá giá hoặc thiệt hại không tồn tại thì cuộc điều tra sẽ được chấm dứt ngay và như thế đỡ lãng phí nguồn lực điều tra một cách không cần thiết. Một điểm đặc trưng của cơ chế đánh thuế chống bán phá giá của EU là nguyên tắc đánh thuế  thấp hơn biên độ phá giá, nghĩa là trong mọi trường hợp, thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ phá giá và thậm chí sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. EU thường áp dụng nguyên tắc này trong những trường hợp biên độ phá giá tính được quá cao trong điều tra phá giá hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường. - Sản phẩm tương tự Qui chế chống bán phá giá của EU qui định "sản phẩm tương tự" giống như qui định ở Hiệp định chống bán phá giá. - Ngành sản xuất trong nước Theo qui định của EU, ngành sản xuất của EU gồm toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc nhóm các nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng sản phẩm tương tự trong EU. Trên thực tế EU vẫn coi nhóm các nhà sản xuất có sản lượng dưới 50% tổng sản lượng sản phẩm tương tự là ngành sản xuất của EU. - Điều tra phá giá từ các nước có nền kinh tế phi thị trường Khoảng 50% các vụ điều tra phá giá do Ủy ban tiến hành có liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, EU không có qui định thế nào là nền kinh tế phi thị trường mà chỉ đưa ra một danh sách các nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường, bao gồm:  Albani, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Bắc Triều tiên, Kyrgyz, Moldova, Mông cổ, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan, Trung quốc và Việt nam. Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng trường hợp hàng hóa được nhập khẩu từ những nước áp dụng chính sách thương mại độc quyền và giá bán ở thị trường trong nước do nhà nước ấn định thì việc so sánh giá xuất khẩu và giá bán ở thị trường trong nước không phản ánh chân thực biên độ phá giá. Hiện nay Ủy ban đang đề xuất công nhận tình trạng là nền kinh tế thị trường đối với các doanh nghiệp của Trung quốc, Kazakhstan, Ucraina và Việt nam trong từng trường hợp cụ thể nếu các doanh nghiệp này chứng minh được hoạt động kinh doanh của họ tuân theo tiêu chí thị trường. Nếu như các nước thành viên EU đều đồng ý thì đề xuất này sẽ được thông qua vào tháng 9 tới. Để xác định giá trị thông thường cho hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường, Ủy ban sẽ chọn một nước đại diện có nền kinh tế thị trường được EU coi là nước có trình độ phát triển tương tự, thường là một nước thứ ba. Việc chọn nước đại diện là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định GTTT của hàng nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. Các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường có thể chứng minh với Ủy ban rằng họ hoạt động theo tiêu chí của nền kinh tế thị trường và nếu được Ủy ban chấp nhận thì họ sẽ được đối xử như các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, CHLB Nga vừa mới được EU công nhận là nền kinh tế thị trường. EU áp dụng biên độ phá giá trung bình với tất cả các nhà nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. * Cách tính thuế và truy thu thuế - Hình thức đánh thuế Nếu cuộc điều tra dẫn đến kết quả là có phá giá và thiệt hại và nếu xét thấy cần thiết thì EU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời nhưng không được áp dụng sớm hơn 60 ngày và quá 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra, trường hợp đặc biệt có thể áp dụng trong 9 tháng. EU đánh thuế chống bán phá giá theo 4 hình thức như sau: - Thuế phần trăm; - Thuế thay đổi trên cơ sở giá tối thiểu; - Kết hợp giữa thuế phần trăm và thuế thay đổi; - Thuế tuyệt đối. EU quyết định hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở tính chất của sản phẩm, thuế thay đổi theo giá tối thiểu thường được áp dụng với hàng tiêu dùng. EU thường đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế riêng cho mỗi nhà sản xuất/xuất khẩu nếu biên độ phá giá khác nhau. * Áp dụng thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm được sản xuất hoặc lắp ráp ở EU      Theo Qui chế chống bán phá giá sửa đổi năm 1987, EU có thể đánh thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm sản xuất hoặc lắp ráp trong EU với những điều kiện sau: -          Nhà sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm có mối liên hệ hoặc liên kết với bất kỳ nhà sản xuất nào xuất khẩu sản phẩm tương tự đang bị EU đánh thuế chống bán phá giá; -         Việc lắp ráp hoặc sản xuất được bắt đầu hoặc tăng trưởng đáng kể sau khi tiến hành điều tra phá giá; -           Giá trị linh kiện hoặc vật liệu sử dụng trong sản xuất hoặc lắp ráp có xuất xứ từ nước xuất khẩu sản phẩm đang bị đánh thuế chống bán phá giá chiếm ít nhất 60% tổng giá trị linh kiện và vật liệu. Trường hợp này thuế suất áp dụng sẽ bằng thuế suất áp dụng với nhà sản xuất ở nước xuất xứ sản phẩm liên quan, giá tính thuế sẽ là giá CIF của linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu. Các nhà máy sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm trong EU, nếu thấy sản phẩm của mình rơi vào các điều kiện trên thì phải thông báo với cơ quan hải quan nước mình trước khi xuất xưởng để bán trên thị trường EU. - Biên độ thiệt hại Cơ chế chống bán phá giá của EU thường hay đề cập đến yếu tố “biên độ thiệt hại”. Theo nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá thì cơ quan điều tra của EU sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. Vì vậy, cơ quan điều tra thường tính mức độ sụt giá của sản phẩm nội địa tương tự do tác động của hàng nhập khẩu hoặc mức giá nội địa phải tăng lên để đủ thu hồi chi phí cộng với một khoản lợi nhuận nhất định cho nhà sản xuất trong nước. Mức giá đó gọi là “biên độ thiệt hại”, nếu biên độ này nhỏ hơn biên độ phá giá thì EU sẽ đánh thuế chống bán phá giá đúng bằng biên độ thiệt hại. Ư - Truy thu thuế Quy chế chống bán phá giá của EU cho phép truy thu thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng nhập khẩu không quá 90 ngày trước khi đánh thuế tạm thời với những điều kiện như sau: Có một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã biết rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; Lượng hàng nhập khẩu rất lớn bị bán phá giá trong thời gian ngắn gây ra thiệt hại đến mức cần phải truy thu thuế chống bán phá giá thì mới ngăn ngừa được việc tiếp tục phá giá; hoặc  Việc cam kết giá bị vi phạm. Mặc dù trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra của EU đã xem xét đến khả năng truy thu thuế nhưng thực tế cho đến nay EU chưa truy thu thuế lần nào. Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định trong suốt thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu liên quan bất kể có bị bán phá giá hay không. Vì vậy có thể có mặt hàng sẽ bị đánh thuế vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền và Qui chế của EU cho phép hoàn thuế trong trường hợp như vậy. Đơn xin hoàn thuế phải được nộp cho cơ quan điều tra của EU thông qua nước thành viên nhập khẩu sản phẩm liên quan trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra ít trường hợp hoàn thuế vì thủ tục hoàn thuế tốn rất nhiều thời gian, có thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá. - Rà soát + Rà soát thông thường Các bên liên quan (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có thể đề nghị cơ quan điều tra của EU tiến hành rà soát sớm nhất là 1 năm sau khi kết thúc cuộc điều tra ban đầu. Một nước thành viên EU hoặc cơ quan điều tra của EU cũng có thể kiến nghị tiến hành rà soát, nhưng trường hợp này hiếm khi xảy ra. Khi có yêu cầu rà soát, cơ quan điều tra của EU sẽ kiểm tra xem có đủ bằng chứng, bao gồm các yếu tố:  việc bán phá giá tăng hay giảm, vi phạm  cam kết giá, thiệt hại gia tăng, v.v..., về việc bối cảnh thay đổi không. Tùy thuộc bối cảnh cụ thể của từng trường hợp, việc rà soát có thể dẫn đến một cuộc điều tra mới với qui mô như cuộc điều tra ban đầu. Mặc dù có qui định về việc rà soát, nhưng trên thực tế các nhà xuất khẩu trong cơ chế chống bán phá giá của EU vẫn bị phụ thuộc nhiều vào kết quả của cuộc điều tra đầu tiên, vì cuộc điều tra này quyết định mức thuế mà các nhà xuất khẩu phải chịu chừng nào biện pháp chống bán phá giá chưa được hủy bỏ hoặc sửa đổi. Khi biên độ phá giá giảm hoặc triệt tiêu thì họ có thể đề nghị rà soát. Nhưng rà soát có thể tốn nhiều thời gian như cuộc điều tra đầu tiên và sau khi rà soát, nếu biện pháp chống bán phá giá được sửa đổi thì cũng sẽ chỉ áp dụng với hàng nhập khẩu trong tương lai chứ không áp dụng với hàng đã nhập khẩu. + Rà soát cuối kỳ      Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng thuế chống bán phá giá và cam kết giá chỉ được áp dụng trong vòng 5 năm kể từ ngày các biện pháp này có hiệu lực hoặc kể từ lần sửa đổi gần nhất. Trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc giai đoạn 5 năm, cơ quan điều tra của EU sẽ thông báo cho các nhà sản xuất có liên quan của EU về việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi trao đổi với Ủy ban chống bán phá giá của WTO. Nếu các bên liên quan kiến nghị rằng việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá có thể lại gây hoặc có nguy cơ gây thiệt hại thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành rà soát, nếu không thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tự động chấm dứt. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 2.1 Các quy định hiện tại của Việt Nam liên quan đến chống bán phá giá và tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 2.1.1 Các quy định hiện tại của Việt Nam liên quan đến chống bán phá giá Việt nam hiện nay đã trở thành thành viên chính thức của WTO và đang dần tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, Việt Nam cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống bán phá giá, tự vệ, hạn ngạch thuế quan. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành một số quy định liên quan đến chống bán phá giá trong nước. Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam. Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. Việt Nam cũng đã có Pháp lệnh chống bán phá giá có hiệu lực từ tháng 10/2004. Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam gồm 6 chương, 29 điều, qui định cụ thể hình thức của các biện pháp chống bán phá giá; các thủ tục, nội dung và tổ chức cơ quan điều tra để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Theo pháp lệnh này, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi có đủ hai điều kiện là hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ phá giá phải được xác định cụ thể, việc bán phá giá trên là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Pháp lệnh qui định biện pháp chống bán phá giá có hiệu lực thi hành từ 1/10 và sẽ được áp dụng trong vòng 5 năm. 2.1.2 Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước Áp dụng biện pháp chống bán phá giá mà phổ biến là thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ có thể được thực hiện bằng việc xác định biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK). Xét về mặt tăng biên độ phá giá, thep pháp lệnh "biên độ bán phá giá không đáng kể là biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam". Như vậy, nếu biên độ này vượt quá 2% sẽ bị xem là bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Theo quy định tại Pháp lệnh, hành vi bán phá giá bị xem là gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước của quốc gia nhập khẩu nếu: - Số l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5275.doc
Tài liệu liên quan