Nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch ngân hàng NHCSXH huyện Thanh Trì

MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ viết tắt………………………………………………………5 Danh mục bảng, biểu, sơ đồ…………………………………………………….6 Lời mở đầu………………………………………………………………………7 Chương 1: Cơ sở khoa học về tín dụng xoá đói giảm nghèo trong nông nghiệp, nông thôn………………………………………………………………10 Những vấn đề cơ bản về nghèo đói……………………………………...10 Các khái niệm về đói nghèo…………………………………………..10 Thế nào là đói nghèo…………………………………………...10 Khái niệm đói…………………………………………………..11 Khái niệm nghèo……………………………………………….12 Mối quan hệ

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch ngân hàng NHCSXH huyện Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa đói và nghèo………………………………...12 Tiêu chí xác định đói nghèo…………………………………………..13 Nguyên nhân đói nghèo……………………………………………….16 Nguyên nhân khách quan………………………………………16 Nguyên nhân chủ quan…………………………………………17 Những khái niệm cơ bản liên quan đến tín dụng NHCS………………...19 Định nghĩa ngân hàng chính sách xã hội……………………………...19 Hoạt động tín dụng của NHCS………………………………………..21 Khái niệm tín dụng chính sách xã hội….………………………21 Đặc điểm của tín dụng xoá đói giảm nghèo……………………22 Phân loại tín dụng chính sách xã hội.…………………………..23 Vai trò của tín dụng chính sách đối với xoá đói giảm nghèo…..24 Các nguồn vốn của NHCSXH………………………………….26 Lãi suất tại NHCSXH…………………………………………..29 Rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHCSXH…………………31 Hoạt động kiểm tra, kiểm soát vốn vay của NHCSXH………...33 Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH…………………..34 Các nguyên tắc cơ bản trong cho vay đối với hộ nghèo………..34 Chính sách cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH…………...35 Hiệu quả trong hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo………………...38 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động tín dụng XĐGN……………38 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng XĐGN………………………………………………………………...39 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội của hoạt động tín dụng XĐGN………………………………………………………………...41 Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì………………………………………..44 Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Thanh Trì………….44 Đặc điểm tự nhiên…………………………………………………….44 Vị trí địa lý……………………………………………………..44 Địa hình………………………………………………………...45 Khí hậu - thuỷ văn……………………………………………...45 Nguồn lực đất đai………………………………………………46 Điều kiện kinh tế - xã hội……………………………………………..47 Dân số, lao động………………………………………………..47 Tình hình nghèo đói……………………………………………48 Cơ sở hạ tầng…………………………………………………...49 Điều kiện thị trường……………………………………………49 Vài nét khái quát về phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì……...50 Vài nét khái quát về phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì…...50 Quy trình cho vay hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Thanh Trì…...52 Hoạt động tín dụng XĐGN tại Phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì trong những năm qua………………………………………………...53 Hoạt động huy động vốn……………………………………………...53 Tình hình cho vay vốn đối với hộ nghèo……………………………...56 Tình hình dư nợ theo địa bàn xã………………………………..56 Tình hình dư nợ phân theo hội đoàn thể……………………….61 Tình hình dư nợ theo thời hạn cho vay các hộ nghèo tại NHCSXH………………………………………………………63 Tình hình dư nợ hộ nghèo phân theo ngành kinh tế……………64 Tình hình thu hồi nợ của ngân hàng……………………………65 Tình hình nợ quá hạn và nguyên nhân…………………………68 Một số ý kiến của người vay…………………………………..70 Tình hình sử dụng vốn của các hộ nghèo vay vốn………………………71 Đánh giá kết quả đạt được, tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động tín dụng XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì……………………………72 Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN của NHCSXH huyện Thanh Trì……………………………………………………………...72 Hiệu quả kinh tế………………………………………………..73 Hiệu quả xã hội………………………………………………...75 Kết quả đạt được trong việc huy động và cho vay XĐGN…………...78 Những mặt còn tồn tại trong hoạt động xoá đói giảm nghèo…………79 Một số hộ điển hình thoát nghèo nhờ vốn vay của NHCSXH………..83 Chương 3: Phuơng hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì…………………86 Phương hướng xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì và phương hướng mở rộng hoạt động tín dụng XĐGN của NHCSXH huyện Thanh Trì………………………………………………………………………..86 Phương hướng xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì……………86 Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN của NHCSXH huyện Thanh Trì……………………………...87 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại NHCSXH huyện Thanh Trì trong những năm tới…………….88 Đối với hoạt động huy động vốn……………………………………...88 Đa dạng hoá các nguồn vốn của ngân hàng……………………88 Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn……………………...90 Thực hiện các chương trình thu hút khách hàng……………….91 Mở rộng mạng lưới tín dụng…………………………………...91 Hoàn thiện cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, thủ tục…………….92 Đối với hoạt động tín dụng XĐGN…………………………………...92 Từng bước xoá bỏ chính sách cho vay theo lãi suất ưu đãi……92 Một số biện pháp đẩy mạnh công tác thu hồi nợ, đảm bảo cho việc hoàn trả vốn vay đầy đủ và đúng hạn……………………..94 Phối hợp với các cơ quan chuyên môn thực hiện hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho hộ vay vốn………………………………….97 Điều chỉnh lại cơ cấu các lại vốn………………………………98 Cải tiến thủ tục cho vay……………………………….………..98 Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và tâm huyết với sự nghiệp XĐGN………………………………………………………….98 Đối với các hộ nghèo vay vốn………………………………..100 Kiến nghị……………………………………………………………….101 Nâng cao năng lực tài chính cho NHCSXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo………………………………….101 Nhà nước quan tâm đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng đi đôi với XĐGN…………………………………………………….103 Nhà nước chú trọng nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nghèo………………………………………………….104 Một số kiến nghị đối với các cấp có thẩm quyền tại huyện Thanh Trì……………………………………………………………………105 Kiến nghị đối với NHCSXH huyện Thanh Trì……………………...106 Kết luận………………………………………………………………………..107 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………....109 Phụ lục………………………………………………………………………...111 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHCSXH: Ngân hàng chính sách xã hội. NHNN: Ngân hàng nhà nước. NHTM: Ngân hàng thương mại. PGD: Phòng giao dịch. UBND: Uỷ ban nhân dân. XĐGN: Xoá đói giảm nghèo. NSNN: Ngân sách nhà nước. CMND: Chứng minh nhân dân. HĐND: Hội đồng nhân dân. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ. Trang Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của đói nghèo…………………………………………..19 Bảng 1: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại NHCSXH…………………………….……30 Bảng 2: Các loại lãi suất cho vay tại NHCSXH…………………………………...31 Bảng 3: Tình hình huy động vốn của NHCSXH huyện Thanh Trì phân theo loại tiền gửi………………………………………………………………………….….54 Bảng 4: Tình hình thực hiện kế hoạch nguồn vốn của NHCSXH huyện Thanh Trì……………………………………………………………………………….….55 Bảng 5: Dư nợ hộ nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì theo địa bàn xã….……57 Bảng 6: Dư nợ bình quân một hộ theo địa bàn xã…………………………………59 Bảng 7:Dư nợ hộ nghèo NHCSXH huyện Thanh Trì phân theo hội đoàn thể……61 Bảng 8: Dư nợ hộ nghèo theo thời hạn cho vay tại NHCSXH huyện Thanh Trì…63 Bảng 9: Dư nợ hộ nghèo tại NHCSXH huyện Thanh Trì phân theo ngành kinh tế……………………………………………………………………………………64 Bảng 10: Tình hình cho vay và thu nợ hộ nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì..66 Bảng 11: Phân tích tình hình nợ quá hạn theo nguyên nhân tại NHCSXH huyện Thanh Trì theo chương trình cho vay hộ nghèo tính đến 31/12/2006……………..68 Bảng 12: Hiệu suất sinh lời của vốn XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì……..74 Bảng 13: Phân tích nợ quá hạn chương trình cho vay XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì…………………………………………………………………………..75 Bảng 14: Tỷ lệ hộ nghèo vay vốn qua các năm của huyện Thanh Trì……………..76 Bảng 15: Mức cho vay bình quân mỗi hộ nghèo tại NHCSXH huyện Thanh Trì…77 Bảng 16: Tỷ lệ hộ vay vốn thoát nghèo huyện Thanh Trì…………………………78 Bảng 17: Chỉ tiêu giảm nghèo huyện Thanh Trì giai đoạn 2006 – 2010…………..86 LỜI MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Nghèo đói là tình trạng chung của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt nam. Vì vậy xoá đói giảm nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và của nhiều thời đại. Đặc biệt Việt nam là một nước đang phát triển, với tỷ lệ đói nghèo còn cao và đang thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thì nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo đã trở thành một trong những nhiệm vụ cấp thiết. Thanh Trì- một huyện ngoại thành ở Hà Nội với tỷ lệ nghèo đói là 6,58% cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó của cả nước. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên hiện tượng đói nghèo trên cả nước nói chung và huyện Thanh Trì nói riêng là thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Để giải quyết nguyên nhân này thì Nhà nước đã có nhiều giải pháp trong đó có việc thành lập Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. Sự ra đời của NHCSXH có ý nghĩa to lớn, đã thiết lập được một kênh tín dụng chính thức hỗ trợ cho người nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước giúp hộ nghèo làm quen với nền sản xuất hàng hoá, để hộ nghèo có một địa chỉ tin cậy khi cần vốn. NHCSXH huyện Thanh Trì được thành lập vào ngày 4 tháng 7 năm 2003. Sau 4 năm hoạt động NHCSXH huyện Thanh Trì đã hoàn thành tốt kế hoạch cho vay hộ nghèo, nhờ vốn vay từ NHCS huyện Thanh Trì nhiều hộ nghèo đã thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm, giúp nền kinh tế huyện Thanh Trì từng bước phát triển. Tuy nhiên thực trạng cho thấy có nhiều hộ sử dụng vốn vay chưa hiệu quả, và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, với chuẩn đói nghèo mới, tỷ lệ đói nghèo tăng lên, thì nhu cầu vốn vay của người nghèo ngày càng tăng về cả số hộ cần vay và số tiền cần vay của mỗi hộ. Nhu cầu vay thì lớn trong khi đó nguồn vốn của Ngân hàng thì lại thiếu. Chính từ vấn đề khó khăn này nên em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì” làm chuyên đề thực tập cho mình. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA CHUYÊN ĐỀ: Hệ thống hoá các vấn đề lý thuyết về đói nghèo và hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo và các chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo. Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại NHCSXH huyện Thanh Trì, thông qua đó sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá kết quả và hiệu quả, những mặt đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo. Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại NHCSXH huyện Thanh Trì. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì. Nghiên cứu hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì từ năm 2004 đến nay, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN tại PGD NHCSXH huyện Thanh Trì cho những năm tiếp theo. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Người viết đã sử dụng các phương pháp sau: - Duy vật biện chứng: Từ thực trạng hoạt động tín dụng XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì, người viết đã rút ra những kết quả đạt được, mặt tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân của chúng để từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị để tiếp tục phát huy những mặt tốt, khắc phục những mặt còn tồn tại, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì cho thời gian tới. - Duy vật lịch sử: người viết tìm hiểu sự biến động của hoạt động động tín dụng XĐGN qua các năm trước đó (từ năm 2004 đến năm 2006), rút ra nhận xét đánh giá sự tăng lên trong hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì và xu thế của hoạt động tín dụng XĐGN trong những năm tiếp theo, trên cơ sở đó người viết đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN phù hợp với yêu cầu đặt ra trong những năm tiếp theo. - Phương pháp phân tích và so sánh: về cơ bản phương pháp này là sự kết hợp của hai phương pháp trên, theo đó dựa vào số liệu đã thu thập được về hoạt động tín dụng XĐGN của NHCSXH huyện Thanh Trì, người viết đã so sánh số liệu giữa các năm với nhau, so sánh giữa chỉ tieu này với chỉ tiêu khác, từ đó thấy được sự chuyển biến của kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN tại NHCSXH huyện Thanh Trì. Đồng thời người viết cũng phân tích nguyên nhân của những biến động đó, phân tích những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó để đưa ra các giải pháp thích hợp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XĐGN của NHCSXH Thanh Trì. - Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập các số liệu có liên quan đến hoạt động tín dụng XĐGN qua các năm tại NHCSXH huyện Thanh Trì; thu thập các số liệu liên quan đến tình hình đói nghèo của huyện Thanh Trì tại UBND huyện để phục vụ cho việc đánh giá thực trạng. - Phương pháp thống kê: thống kê, sắp xếp các số liệu đã thu thập được cho logic đúng trình tự thời gian, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả qua các năm dựa vào số liệu thu thập được để phục vụ cho việc phân tích thực trạng. 5. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học về tín dụng xoá đói giảm nghèo trong nông nghiệp, nông thôn. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách huyện Thanh Trì CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ TÍN DỤNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÓI NGHÈO: Các khái niệm về đói nghèo: Thế nào là đói nghèo: Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu và tồn tại ở nhiều thời đại. Mỗi quốc gia, mỗi thời đại lại có những cách lý giải về quan niệm, nguyên nhân, cách giải quyết khác nhau đối với đói nghèo. Mỗi vùng, quốc gia, mỗi thời kì lại có những tiêu chí xác định đói nghèo khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh.Vì vậy có thể nói đói nghèo mang tính thời gian và không gian. Hiện nay có nhiều quan niệm về đói nghèo nhưng về cơ bản là giống nhau. Mỗi quốc gia có thể đưa ra cho mình một quan niệm riêng, đói nghèo có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội…Có thể hiểu theo nghĩa gói gọn trong vấn đề thu nhập, chi tiêu, dinh dưỡng, giáo dục…hoặc theo nghĩa rộng hơn là sự phát triển toàn diện của con người. Các nước ở vùng châu Á – Thái Bình Dương sử dụng khái niệm đói nghèo do tổ chức ESCAP đưa ra vào tháng 9- 1993 : “ Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Đây chỉ là một định nghĩa do một tổ chức khu vực châu Á – Thái Bình Dương đưa ra nhưng có thể xem đây là một định nghĩa chung nhất về đói nghèo, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét cơ bản, phổ biến về đói nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn để ngỏ về mặt lượng, bởi nó chưa tính đến những khác biệt và độ chênh lệch giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể quy định trình độ phát triển ở mỗi nơi. Điều đó có nghĩa là định nghĩa này đã chú trọng tới tính thời gian và không gian của nghèo đói. Định nghĩa này có thể áp dụng cho nhiều vùng, nhiều quốc gia, nhiều thời đại, từ đó mỗi vùng, mỗi quốc gia có thể tự đưa ra tiêu chí xác định đói nghèo phù hợp với mình trong từng hoàn cảnh cụ thể. Quan niệm hạt nhân có trong định nghĩa này là nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy con người không được hưởng và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, mặc, ở. Còn theo Ngân hàng phát triển Châu Á thì: “ Nghèo là tình trạng thiếu những tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng. Mọi người cần được tiếp cận với giáo dục cở sở và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản”. Có thể nói các quan niệm này không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí để xác định đều dựa trên mức chi tiêu để thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác biệt ở đây là mức độ thoả mãn các nhu cầu này là khác nhau giữa các khu vực. Tóm lại, nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp bằng hoặc thấp hơn mức tối thiểu để duy trì một cuộc sống ở một khu vực, tại một thời điểm nhất định. Khái niệm đói: Đói là tình trạng thu nhập không đủ chi dùng cho nhu cầu ăn. Sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn. Đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Đây là trường hợp đói gay gắt kinh niên, là tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Còn nếu con người trong những hoàn cảnh đột xuất, bất ngờ do thiên tai bão lũ, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng cực, không có lương thực, thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết thì đó là trường hợp đói gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn cấp. Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Biểu hiện của đói là: thất thường về lượng, đứt bữa, đứt bữa kéo dài. Về mặt năng lượng nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn mức 1500calo/ngày thì đó là thiếu đói, dưới mức đó là đói gay gắt. Khái niệm nghèo: Về mặt kinh tế nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và hộ nghèo cũng vẫn chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất là ở bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá – tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn với hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, các hộ nông dân nghèo không có khả năng để hưởng thụ văn hoá, y tế, không đủ hoặc không thể mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở… Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành chi hầu như toàn bộ cho ăn, thậm chí còn không đủ chi cho ăn, phần tích luỹ hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu khác như ăn, mặc, văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, không đáng kể. Có hai dạng nghèo là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối: Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Người ta cũng định nghĩa về người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo và quốc gia nghèo như sau: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới ngưỡng nghèo. Người nghèo là những người nằm trong hộ nghèo, tuy nhiên cách nhìn nhận rộng hơn của cộng đồng quốc tế là những người thiếu một cách trầm trọng cơ hội lựa chọn và khả năng tham gia vào cuộc sống kinh tế xã hội của đất nước. Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao và thiếu các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Một quốc gia được coi là nghèo khi thu nhập thực tế bình quân đầu người còn thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế. Mối quan hệ giữa đói và nghèo: Đói và nghèo vừa có mối quan hệ mật thiết với nhau, lại vừa có sự khác biệt về mức độ và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng đói thì đương nhiên là nghèo. Theo tư duy của người Việt Nam, chúng ta thường nhận diện đói ở hai dạng đói kinh niên và đói gay gắt. Đây thuần tuý vẫn là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế - vật chất. Nó khác với đói thông tin, đói thụ hưởng văn hóa thuộc phạm trù đời sống văn hóa tinh thần. Quan niệm về nghèo thì có thể có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối, tất nhiên dù ở dạng nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo và nghèo khổ kéo dài, nếu không ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì chỉ cần xảy ra những biến cố đột xuất của hoàn cảnh là con người ta dễ dàng rơi vào cảnh đói. Chúng ta có thể xoá được đói là do nhu cầu ăn của con người có giới hạn nên có thể phấn đấu xoá đói. Nhưng chúng ta chỉ có thể giảm nghèo là vì trong từng giai đoạn mức thu nhập và chi dùng tối thiểu là khác nhau và ngày càng cao vì vậy bao giờ cũng có một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo. Tiêu chí xác định đói nghèo: Tiêu chí xác định hộ nghèo, người nghèo: Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới ngưỡng nghèo. Như vậy tiêu chí chủ yếu để nhận diện hộ nghèo là thu nhập bình quân đầu người. Thu nhập bình quân đầu người này lại phải dựa vào ngưỡng nghèo hay chuẩn nghèo được từng nước, từng vùng ban hành vào từng giai đoạn cụ thể. Khái niệm nghèo khổ có thể thống nhất song không thể có một chuẩn nghèo chung cho tất cả các quốc gia. Ngay trong một quốc gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, thậm chí tiểu vùng. Vì mỗi vùng, mỗi quốc gia có sự phát triển không giống nhau nên mức thu nhập tối thiểu bình quân khác nhau. Chuẩn nghèo này có tính động chứ không bất biến, nó biến đổi theo thời gian, tương ứng với biến đổi về sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì lẽ đó, trên cơ sở thống nhất quan niệm chung về mặt định tính, chúng ta cần xác định chuẩn nghèo cho mỗi quốc gia. Dựa trên khảo sát thực tế các vùng, các địa phương, từ tất cả những độ chênh lệch khác nhau có thể đưa ra một chỉ số trung bình là số đo chung, phổ biến cho cả nước, trước hết cho nông thôn. Đồng thời xác định chuẩn nghèo riêng cho từng vùng cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của vùng. Hiện nay chuẩn nghèo được áp dụng tại Việt Nam là chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010 do Bộ Lao động – Thương binh và xã hội ban hành theo NQ 06 – CP ngày 05/07/2005. Theo đó thì: Tại khu vực thành thị chuẩn nghèo là 260000đ/người/tháng. Tức là thu nhập bình quân dưới 260000đ/người/tháng là nghèo. Tại khu vực nông thôn chuẩn nghèo là 200000đ/người/tháng. Tức là thu nhập bình quân dưới 200000đ/người/tháng là nghèo. Ngày 28/09/2005, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành QĐ 6673 – UB về chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 – 2010 của thành phố Hà Nội, theo đó thì: Tại khu vực thành thị chuẩn nghèo là 350000đ/người/tháng. Tức là thu nhập bình quân dưới 350000đ/người/tháng là nghèo. Tại khu vực nông thôn chuẩn nghèo là 270000đ/ người/tháng. Tức là thu nhập bình quân dưới 270000đ/người/tháng là nghèo. Tại thành thị thu nhập bình quân từ 350000 đến 500000đ/người/tháng là cận nghèo. Tại nông thôn thu nhập bình quân từ 270000 đến 400000đ/người/tháng là cận nghèo. Ngoài tiêu chí mức thu nhập bình quân thì còn có thể nhận diện người nghèo, hộ nghèo thông qua nhiều biểu hiện khác. Trong thực tế cuộc sống, trong hoạt động của cộng đồng, người nghèo có những biểu hiện rất dễ nhận thấy. Họ thiếu cơ hội và khả năng lựa chọn cơ hội, ẩn mình trong giao tiếp, ngại tiếp xúc ở chỗ đông người, tự ti trong quan hệ. Ta có thể nhận diện đối tượng nghèo đói qua một số đặc điểm thiếu lương thực, thực phẩm, hay đứt bữa, dinh dưỡng không đủ, lượng thức ăn không đủ; nhà ở tạm, nhà siêu vẹo, dột nát không đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, bản thân gia đình không có khả năng tự làm mới hoặc sửa chữa; con cái đến độ tuổi đi học không được đến trường, trình độ dân trí thấp, ít được hưởng các dịch vụ y tế, không có tư liệu sản xuất hoặc có nhưng làm không đủ ăn do thiếu kiến thức sản xuất, thiếu vốn. Tiêu chí xác định xã nghèo: Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao và thiếu các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản suất và đời sống. Như vậy tiêu chí xác định xã nghèo là tỷ lệ hộ nghèo trong xã, cơ sở hạ tầng của xã. Theo đối tượng tác động của chương trình xoá đói giảm nghèo thì có hai dạng xã nghèo: Xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135, là xã đáp ứng các tiêu chí sau: Vị trí địa lý của xã ở xa trung tâm kinh tế xã hội, xa đường quốc lộ, giao thông đi lại khó khăn; môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp còn nhiều tập tục lạc hậu; trình độ sản xuất còn lạc hậu chủ yếu mang tính tự cấp, tự túc công cụ thô sơ; đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, mức sống thấp; hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các chương trình thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch, chợ xã. Xã nghèo ngoài chương trình 135, là xã đáp ứng 2 tiêu chí: tỷ lệ hộ nghèo trên 25%, chưa đủ 3 trên 6 công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu. Tiêu chí để đánh giá mức độ giàu nghèo của một quốc gia: Thu nhập thực tế bình quân đầu người, cơ sở hạ tầng, nguồn lực, môi trường, vị trí…. Chỉ tiêu thu nhập thực tế bình quân nhiều khi chưa phản ánh chính xác mức độ giàu nghèo và sự phát triển ở một nước, mà vấn đề ở đây là mức thừa hưởng thực tế của người lao động và trình độ công bằng xã hội mà nước đó đạt được. Vì vậy khi đánh giá giàu nghèo cần phải chú ý đến các khía cạnh khác. Tuy nhiên đây vẫn là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Nguyên nhân nghèo đói: Nguyên nhân khách quan: Sự tác động của điều kiện tự nhiên: ở nông thôn, nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu, đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chính vì vậy sự diễn biến bất thường của điều kiện tự nhiên sẽ ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp, có thể dẫn tới mất mùa, làm người nông dân không có thu nhập, dẫn tời tình trạng nghèo đói. Đối với những nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi, sự thất thường của khí hậu thời tiết vẫn có thể xảy ra. Vì vậy, nguyên nhân từ sự tác động của điều kiện tự nhiên đối với nông nghiệp là phổ biến và chưa thể hạn chế ngay được. Đặc biệt đối với nước ta là một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu thì càng cần phải quan tâm tới sự diễn biến của khí hậu thời tiết, cần phải có những biện pháp dự báo, hạn chế sự tác động của tình hình thời tiết. Nguyên nhân về chiến tranh: Trên Thế giới đã xảy ra hai cuộc chiến tranh lớn là chiến tranh Thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, ngoài ra thì còn có rất nhiều cuộc chiến tranh khu vực giữa các quốc gia. Các cuộc chiến tranh này đã ảnh hưởng xấu tới rất nhiều quốc gia. Những nước là điểm nóng của khu vực như nước ta, hậu quả của chiến tranh hết sức nặng nề: hầu hết cơ sở hạ tầng bị phá huỷ, sức lao động thiếu, làm nhiều người bị chết hoặc mạng thương tật suốt đời, thậm chí còn ảnh hưởng tới các thế hệ sau, nền kinh tế suy kiệt, môi trường bị huỷ hoại… Đây là nguyên nhân gây nên nghèo đói, đồng thời là các vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Hiện nay khi tình hình chính trị còn chưa ổn định thì chiến tranh còn là mối đe doạ lớn ảnh hưởng tới nền kinh tế của nhiều quốc gia. Nguyên nhân về xã hội: Nông thôn là vùng lạc hậu hơn so với thành thị trong nhiều mặt như cơ sở hạ tầng (điện, đường giao thông, bệnh viện, trạm y tế, trường học…), cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ dân trí thấp, thông tin liên lạc thiếu, điều này đã cản trở việc tiếp cận và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật từ đó cản trở sự phát triển kinh tế. Đặc biệt ở nông thôn vẫn còn tồn tại những hủ tục tập quán lạc hậu gây tốn kém, lãng phí, và cản trở việc tiếp thu những cái văn minh tiến bộ. Các hủ tục lạc hậu này chiếm một phần chi tiêu lớn trong tổng chi tiêu của gia đình, làm cho phần chi tiêu dành cho ăn uống và học hành, y tế giảm xuống, thậm chí có những gia đình thu nhập thấp đã phải đi vay mượn để chi tiêu cho những hủ tục ấy, điều này đã làm cho các hộ nghèo càng trở nên nghèo hơn. Từ nguyên nhân này cần phải có những biện pháp đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ cho các vùng, nâng cao trình độ dân trí, tìm cách xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống và sản xuất. Do thể chế, chính sách và cơ chế lạc hậu: các chính sách mà không đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn, không có sự quan tâm khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc áp dụng chính sách cứng nhắc đều ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân, khiến người dân khó phát triển sản xuất, sản xuất trì trệ, thu nhập thấp, dẫn đến đói nghèo. Cần phải xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, khuyến khích người dân phát triển sản xuất. Nguyên nhân chủ quan: Bản thân không tự nâng cao trình độ dân trí, không áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật… không có kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh. Đây là nguyên nhân chủ yếu và thường gặp trong nông nghiệp, nông thôn. Do thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nên họ không giám đầu tư sản xuất, sợ rủi ro, do vậy cứ mãi đắm chìm trong cảnh nghèo khó. Với những đối tượng này cần phải mở những lớp huấn luyện, dạy cách sản xuất kinh doanh, hướng dẫn kỹ thuật, khuyến khích họ nâng cao trình độ dân trí. Không năng động giải quyết việc làm, lười lao động, một số rượu chè, cờ bạc… Gặp những bất thường trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, hoả hoạn, tai nạn… cần chi tiêu lớn, phải vay mượn. Sau khi khỏi hoặc khắc phục được tai nạn, họ cố gắng trả nợ nhưng sản xuất kinh doanh không đủ trả nợ nên đã trở thành các hộ nghèo đói. Các tai nạn có thể xảy ra bất chợt, không lường trước được, những tai nạn ấy thường phải chi phí rất lớn vào việc chữa chạy hoặc khắc phục hậu quả, đối với những gia đình kinh tế khó khăn thì việc chi trả này càng trở nên khó khăn hơn, thiếu thốn họ phải đi vay mượn, thậm chí phải vay với lãi suất cao, sau đó nền kinh tế của gia đình càng trở nên khó khăn hơn, khi mà lo cuộc sống hàng ngày đã không đủ nay còn phải lo trả nợ, không có dự trữ, không đủ ăn, nợ nần chồng chất, hộ lại càng nghèo đi. Với những đối tượng này cần phải có các biện pháp hỗ trợ, cho vay lãi suất ưu đãi để họ có điều kiện phát triển sản xuất vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo, cấp bảo hiểm y tế… Những hộ sinh đẻ nhiều, sức khỏe yếu, đông con… bố mẹ không đủ khả năng làm kinh tế. Đây cũng là nguyên nhân đặc thù của khu vực nông thôn. Nguyên nhân do thiếu hoặc không có vốn: đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến nhiều hộ gia đình rơi vào cảnh nghèo đói. trong nhiều cuộc điều tra về tình hình nghèo đói, khi được hỏi về nguyên nhân đói nghèo thì những hộ trả lời là do thiếu vốn chiếm phần lớn tới trên dưới 70%. Mặc dù có nhiều ý tưởng sản xuất kinh doanh nhưng khi thiếu vốn thì họ không thể làm gì, không sản xuất kinh doanh được, trình độ văn hoá thì thấp, họ chỉ có thể tiến hành sản xuất nhỏ lẻ hoặc đi làm thuê, thu nhập gia đình ít ỏi chỉ đủ trang trải các bữa ăn hàng ngày, việc học hành của con cái không lo được đầy đủ, đến khi gia đình gặp rủi ro như thiên tai, mất mùa, bệnh t._.ật… thì cuộc sống càng trở nên khó khăn hơn. Những người nghèo đói không có vốn để dành, họ thường phải vay nợ và những người đói gay gắt lại thường phải vay nợ chỉ để mua lương thực cứu đói. Ở một số nơi cho vay nặng lãi, người nghèo không trả được, nợ nần ngày càng chồng chất. Đã không ít trường hợp phải gán ruộng vườn (nếu có), bán sản phẩm chưa kịp thu hoạch, hoặc làm thuê trả nợ, hoặc bỏ quê ra thành phố, lần hồi để kiếm kế sinh nhai bằng đủ cách mọi nghề, và từ đó họ lại rơi vào các tệ nạn xã hội. Thiếu vốn là một mắt xích trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói: Sơ đồ 1: VÒNG LUẨN QUẨN CỦA ĐÓI NGHÈO. Thiếu vốn Năng suất lao động thấp Thiêú khả năng đầu tư Thu nhập thấp Tiết kiệm thấp (Nguồn: Giáo trình Kinh tế phát triển.) Nhìn sơ đồ ta thấy thiếu vốn chính là một trong những nguyên nhân gây nên nghèo đói. Tăng vốn một cách hiệu quả là một cách hữu hiệu để tăng khả năng đầu tư. Một trong những biện pháp tăng vốn một cách có hiệu quả nhất cho người nghèo là cho vay ưu đãi chứ không phải cấp phát không, điều đó giúp cho hộ nghèo ý thức được việc sử dụng đồng vốn đúng mục đích, sao cho có hiệu quả nhất, nhờ vốn vay được mà hộ nghèo có khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh, khả năng đầu tư của hộ nghèo được tăng lên. Chính từ ý thức sử dụng vốn có hiệu quả khoản tiền vốn sẽ được đầu tư một cách có hiệu quả, giúp sinh lời cao. Khi đầu tư tăng tức là nhiều tiến bộ kỹ thuật mới được áp dụng vào sản xuất, người dân tích cực nâng cao trình độ học vấn, nhờ đó năng suất lao động được tăng lên. Năng suất lao động tăng lên kéo theo sự tăng lên về thu nhập. Thu nhập tăng lên là điều kiện tiên quyết để vòng đói nghèo được xoá bỏ và cũng chính là mục tiêu chính của xoá đói giảm nghèo. 1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH: 1.2.1. Định nghĩa Ngân hàng chính sách xã hội: Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã có nhiều ngân hàng thương mại Nhà nước và tư nhân, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng được thành lập. Các ngân hàng này ngày càng thu hút được lượng tiết kiệm lớn từ dân cư và các tổ chức, tạo điều kiện cho các tổ chức, công ty vay vốn để phát triển, tài trợ cho các dự án phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời cho các hoạt động kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế đã phát triển nhanh. Mục tiêu của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là tối đa hoá lợi nhuận với độ rủi ro thấp, đảm bảo an toàn tín dụng. Tuy nhiên hiện nay lại có nhiều đối tượng không có khả năng đáp ứng các điều kiện vay vốn của các ngân hàng này, cũng như không có điều kiện để tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các Ngân hàng thương mại như: các ngành hàng mang tính lợi ích công cộng, những khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa do đặc điểm địa hình hiểm trở, chia cắt, điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, việc đầu tư vào những ngành này và khu vực này chi phí lớn, rủi ro cao; những người nghèo muốn vay vốn để phát triển sản xuất, các đối tượng chính sách…, việc cho các đối tượng này vay thường lợi nhuận thấp, rủi ro lớn, mà họ thường không có vật để thế chấp. Những điều này hoàn toàn không phù hợp với mục tiêu của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính. Do đó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các đối tượng chính sách, những người nghèo, Nhà nước đã thành lập ra Ngân hàng chính sách xã hội. Ngân hàng chính sách xã hội là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là cho vay theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước. Mục đích của việc thành lập Ngân hàng chính sách là để thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Sinh lời không phải là mục tiêu hàng đầu cần đạt tới của Ngân hàng chính sách. Là Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, Ngân hàng chính sách là công cụ để các cơ quan quản lý trực tiếp thực hiện các chính sách của mình. Các kế hoạch và chính sách của Nhà nước nhằm mục tiêu đạt được sự tăng trưởng bền vững cho đất nước như phát triển cao và ổn định, tạo nhiều công ăn việc làm, phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ môi trường sinh thái, xoá đói giảm nghèo… Ngân hàng chính sách là tổ chức tài chính thực hiện tài trợ có ưu tiên có hạn chế của Nhà nước nhằm thực hiện các công cuộc đầu tư đặc biệt, các hoạt động nhằm mục tiêu phi lợi nhuận càng nhiều thì tính hỗ trợ càng lớn. Để đảm bảo sự tồn tại bền vững của mình, Ngân hàng chính sách được sự hỗ trợ lớn từ phía Nhà nước như cung cấp vốn ưu đãi, cấp bù lãi suất, bảo lãnh cho các khoản đi vay và cho vay của ngân hàng, không phải trích dự trữ bắt buộc, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp…; đồng thời được đặt dưới sự kiểm soát của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Các hỗ trợ này rất quan trọng, cho phép ngân hàng đạt được các mục tiêu sinh lợi cùng với các mục tiêu kinh tế, xã hội khác, hỗ trợ càng lớn thì phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của ngân hàng càng rộng và ngược lại. 1.2.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng chính sách: 1.2.2.1. Khái niệm hoạt động tín dụng chính sách xã hội: Hoạt động tín dụng nói chung có thể được định nghĩa như sau: “ Một giao dịch giữa hai bên, trong đó có một bên ( trái chủ, hoặc người cho vay), chu cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia ( thụ trái hoặc đi vay). Thông thường những giao dịch như vậy còn bao gồm cả việc thanh toán lợi tức cho người cho vay.” Đối với Ngân hàng thương mại, tín dụng là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng thực hiện. Bản thân Ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là những loại khách hàng khác nhau của ngân hàng. Giá Ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay là lợi tức mà họ phải trả trong suốt thời gian tồn tại khoản ứng trước. Tín dụng có thể hiểu là sự cho vay dựa vào sự tin tưởng của người cho vay đối với người đi vay, kết thúc thời hạn cho vay người vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay, lãi được tính theo lãi suất do hai bên thoả thuận. Hầu hết các hoạt động tín dụng đều nhằm mục đích sinh lời dựa vào khoản lãi thu được, thường thì để đảm bảo mục đích ấy các ngân hàng thường lựa chọn đối tượng vay uy tín, có khả năng trả nợ, độ rủi ro thấp, với mức lãi suất cho vay được điều chỉnh theo thị trường. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tại Ngân hàng chính sách lại có điểm khác biệt, đó là hoạt động tín dụng chính sách xã hội. “Tín dụng chính sách xã hội là hoạt động của Ngân hàng không đáp ứng các tiêu chí kinh doanh thương mại, hoạt động cho vay không vì mục tiêu lợi nhuận cho ngân hàng. Các ngân hàng được chỉ định cho vay nhằm hỗ trợ các chính sách kinh tế, chính trị và xã hội của Chính phủ.” Như vậy hoạt động tín dụng của Ngân hàng chính sách không nhằm mục đích lợi nhuận, tức là mức lãi suất thường thấp hơn các ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay chủ yếu dựa vào sự uy tín, sự tin tưởng, đối tượng cho vay là các đối tượng chính sách được Nhà nước chỉ định. 1.2.2.2. Đặc điểm của tín dụng xoá đói giảm nghèo: Khác với hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại thường lấy mục tiêu là lợi nhuận, thì hoạt động tín dụng tại Ngân hàng chính sách chủ yếu cho vay các đối tượng chính sách do Chính phủ chỉ định nhằm hỗ trợ các đối tượng đó phát triển nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó của Nhà nước. Các đối tượng chính sách này thường là những đối tượng khó khăn hoặc là đối tượng mà Nhà nước cần khuyến khích phát triển mà các hộ nghèo là một trong những đối tượng đó, chính vì vậy chính sách cho vay đối với các đối tượng này thường hết sức ưu đãi, như lãi suất thấp hơn lãi suất của các Ngân hàng thương mại, không cần thế chấp. Lãi suất đối với các khoản tín dụng cho từng đối tượng chính sách do Chính phủ định ra theo từng thời kỳ. Người vay được tự quyền quyết định sử dụng vốn vay vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ mà pháp luật không cấm, phù hợp khả năng, điều kiện, trình độ sản xuất, kinh doanh của từng đối tượng vay nhằm tạo sự chủ động trong việc sử dụng vốn vào mục đích tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Thời hạn cho vay theo chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi và kỳ luân chuyển của từng đối tượng đầu tư. Người nghèo được vay vốn nhiều lần cho đến khi thoát khỏi đói nghèo theo chuẩn nghèo do Nhà nước công bố từng thời kỳ. Tín dụng chính sách nhằm giúp cho xã hội ổn định và phát triển cân đối, khắc phục khoảng cách quá xa của sự chênh lệch giàu nghèo. Khác với phương pháp cấp phát vốn vừa hạn chế hạn chế về nguồn lực, vừa đầu tư mang tính cấp phát ỷ lại, ở đây Nhà nước đã sử dụng phương thức cho vay có hoàn trả nhằm đảm bảo sử dụng nguồn lực Ngân sách có hiệu quả. Cùng với nguồn vốn của chính phủ và nguồn vốn tự huy động, Ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng nguồn vốn lớn hơn rất nhiều lần để đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng chính sách và được Chính phủ bù đắp một phần chi phí hoạt động ngân hàng. Mặt khác với phương thức cho vay có hoàn trả, nguồn vốn sẽ được quay vòng, tạo điều kiện mở rộng đối tượng đầu tư thụ hưởng, góp phần cho chính sách của Chính phủ được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định cần thiết. 1.2.2.3. Phân loại tín dụng chính sách xã hội: Phân loại theo đặc điểm và đối tượng đầu tư: Theo đặc điểm và đối tượng cho vay thì hiện nay tại Ngân hàng chính sách có 3 loại tín dụng chính sách: Một là: Cho vay nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo đặc biệt là cho vay hộ nông dân nghèo. Đây là một chương trình kinh tế xã hội rộng lớn, trở thành một trong những mục tiêu quan trọng của cả nước trong quá trình phát triển. Do nhiều nguyên nhân về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường, ở nước ta còn tồn tại một bộ phận dân cư chủ yếu ở khu vực nông thôn có thu nhập rất thấp, sống trong cảnh nghèo đói, không được học hành, chữa bệnh. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do họ thiếu vốn làm ăn. Vì vậy Chính Phủ đã có chính sách trợ giúp cho những người nghèo về vốn và điều kiện làm ăn để họ có thể tự đảm bảo được cuộc sống, góp phần ổn định chính trị xã hội. Vì vậy cho vay xoá đói giảm nghèo là một hoạt động tín dụng quan trọng của Ngân hàng chính sách. Hai là: cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội, giáo dục, y tế, tạo công ăn việc làm. Chính phủ hỗ trợ các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội thông qua cho vay với các điều kiện ưu đãi, giúp họ có cơ hội để học tập, học nghề và xuất khẩu lao động. Ba là: Cho vay các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công ích không đủ các điều kiện cho vay thương mại. Đây là các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ nhằm trợ giúp các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế công ích của Nhà nước buộc phải duy trì vì lợi ích Quốc gia. Phân loại theo thời hạn tín dụng: Hiện nay tại Ngân hàng chính sách quy định có các laọi thời hạn tín dụng sau: Tín dụng ngắn hạn là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng trung hạn là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng dài hạn là những khoản tín dụng trên 5 năm Thời hạn cho vay được quyết định theo chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi và kỳ luân chuyển của từng đối tượng đầu tư. Phân loại theo mục đích của khoản nợ: Hộ nghèo vay vốn Ngân hàng chính sách có thể sử dụng vào các mục đích: Sản xuất, kinh doanh dịch vụ: Mua sắm các loại vật tư, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc gia cầm…phục vụ cho các ngành trồng trọt chăn nuôi; mua sắm các công cụ lao động nhỏ như cày, bừa, cuốc, thuổng…; các chi phí thanh toán cung ứng lao động dịch vụ như thuê làm đất, bơm nước, dịch vụ thú y…; đầu tư làm các nghề thủ công trong gia đình như mua nguyên vật liệu sản xuất, công cụ lao động thủ công…; chi phí nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ hải sản như đào đắp ao hồ, mua sắm các ngư cụ…; góp vốn thực hiện dự án sản xuất kinh doanh do cộng đồng người lao động sáng lập và được chính quyền địa phương cho phép thực hiện. Sửa chữa nhà ở: Ngân hàng chính sách cho vay để hỗ trợ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhà ở đối với hộ nghèo khi nhà ở bị hư hại dột nát. Vốn vay chủ yếu sử dụng vào việc mua nguyên vật liệu xây dựng, chi trả tiền công lao động phải thuê ngoài. Lắp điện nước sinh hoạt: Ngân hàng chính sách cho vay chi phí lắp đặt đường dây dẫn điện từ mạng chung của thôn, xã tới người vay; cho vay góp vốn xây dựng thuỷ điện nhỏ, các dự án điện dùng sức gió, năng lượng mặt trời; máy phát điện cho một nhóm hộ gia đình ở mơi chưa có điện lưới quốc gia. Xây dựng công trình nước sạch: góp vốn xây dựng dự án cung ứng nước sạch đến từng hộ gia đình; những nơi chưa có dự án tổng thể phát triển nước sạch thì cho vay làm giếng khơi, giếng khoan, xây bể lọc, bể chứa nước…. Hỗ trợ cho con em đi học ở các cấp học phổ thông. 1.2.2.4. Vai trò của tín dụng chính sách đối với xoá đói giảm nghèo: Tín dụng chính sách đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, xã hội mà trước hết ta có thể thấy vai trò quan trọng của nó trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tín dụng chính sách trước hết tạo điều kiện cho những người nghèo tiếp cận được với vốn. Khi có vốn họ có thể đầu tư sản xuất kinh doanh, tìm hiểu và đầu tư các công nghệ, máy móc mới từ đó nâng cao trình độ sản xuất, tăng năng xuất lao động giúp cho thu nhập của gia đình tăng lên, thoát khỏi cảnh đói nghèo. Vốn vay còn tạo điều kiện cho hộ nghèo được đi học, tiếp thu được tri thức mới, nâng cao trình độ dân trí, từ đó họ sẽ có năng lực, điều kiện để tìm được những công việc có thu nhập cao, ổn định, hoặc giúp họ tìm ra được cách làm ăn có hiệu quả. Đối với các đối tượng chính sách xã hội như người nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; người có nhu cầu việc làm… thì tín dụng chính sách tạo hiệu quả hơn so với phương thức cấp phát vốn. Sở dĩ như vậy là vì: Thứ nhất, do việc chuyển tải vốn được thực hiện theo phương thức cho vay có hoàn trả nên nguồn vốn được người sử dụng vốn tính toán hiệu quả, vốn được sử dụng quay vòng nhiều lần, giúp nhiều người được hưởng lợi. Mặt khác, người vay vốn tìm cách sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh tạo ra thu nhập để cải thiện đời sống và trả được nợ. Thứ hai, vốn cho vay giúp người vay vốn khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại khi nhận vốn cấp phát; tự nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của mình, tạo tiền đề hoà nhập sản xuất hàng hoá thị trường. Đương nhiên điều này không có nghĩa là không cần tới phương thức cấp phát. Nhà nước vẫn cần phải có giải pháp đầu tư cấp phát các công trình cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận với nền sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên sử dụng phương pháp cho vay có hoàn trả tỏ ra ưu việt hơn so với phương thức cấp phát, cho không. Tín dụng chính sách có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các khu vực sản xuất, các doanh nghiệp cần sự hỗ trợ, phát triển trong lĩnh vực tài chính công. Tín dụng chính sách tạo tiền đề cho các vùng kinh tế kém phát triển do môi trường và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt có điều kiện tiếp cận với nền kinh tế thị trường. 1.2.2.5. Các nguồn vốn của Ngân hàng chính sách: Nguồn vốn phục vụ cho hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại Ngân hàng chính sách khá đa dạng: * Vốn từ Ngân sách Nhà nước: Vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập là 5000 tỷ đồng, và được cấp bổ sung từng năm khi quy mô hoạt động của NHCSXH mở rộng. Ngoài ra có thể tiếp nhận vốn từ Ngân sách Trung ương, Ngân sách địa phương để cho vay xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và thực hiện các chính sách xã hội khác. Vốn Ngân sách này được phân cho các chi nhánh và phòng giao dịch theo kế hoạch từng năm. * Các quỹ của Ngân hàng chính sách hình thành trong quá trình hoạt động như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. NHCSXH chỉ được trích lập quỹ khi có chênh lệch thu nhập lớn hơn chi phí hàng năm. * Vốn tài trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước với mục đích hỗ trợ NHCSXH trong hoạt động hoặc cho vay tới đối tượng khách hàng. * Vốn huy động dưới các hình thức: Huy động nguồn tiền gửi và tiết kiệm của dân cư: Nguồn vốn này NHCSXH tự tổ chức huy động trên thị trường, theo những nguyên tắc thương mại, có sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Lãi suất huy động theo nguyên tắc không vượt quá lãi suất huy động cùng loại của NHTM Nhà nước trên địa bàn. Vì huy động theo lãi suất thị trường trong khi đó cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các NHTM trên địa bàn, do vậy nguồn vốn này đòi hỏi có sự cấp bù từ NSNN đối với NHCSXH. Cũng vì lý do trên quy mô huy động nguồn vốn này căn cứ kế hoạch nguồn vốn hàng năm được Bộ Tài chính phê duyệt trên cơ sở kế hoạch cấp bù từ NSNN hàng năm cho NHCSXH. Hình thức huy động: NHCSXH huy động thông qua nhận tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, hoặc huy động tiết kiệm với kỳ hạn và hình thức khác nhau: từ không kỳ hạn đến kỳ hạn dài hơn, tiết kiệm thông thường hoặc tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp,…trên thực tế đang áp dụng các phương thức tiền gửi của các tổ chức và cá nhân, tiết kiệm không kỳ hạn, hoặc có kỳ hạn : 3, 6, 9, 12, 24 tháng; tiết kiệm theo phương thức trả lãi theo bậc thang, tiết kiệm gửi góp. Vì huy động theo cơ chế thị trường nên việc huy động nguồn vốn này được thực hiện thường xuyên, liên tục như các tổ chức tín dụng khác. Việc huy động vốn chỉ dừng lại khi đã hoàn thành chỉ tiêu huy động căn cứ vào quy mô cấp bù từ NSNN đã xác định cho năm đó. Điều dễ nhận thấy là với một lượng ngân sách cấp bù xác định cho năm kế hoạch, nếu NHCSXH huy động được càng nhiều vốn với lãi suất thấp thì số lượng vốn có thể huy động được sẽ lớn hơn trường hợp phần lớn nguồn vốn huy động là nguồn có lãi suất cao. Ngoài ra, NHCSXH sẵn sàng tiếp nhận những khoản tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để hỗ trợ nguồn vốn hoạt động của NHCSXH. Đây là khoản tiền gửi hoàn toàn tự nguyện về số tiền gửi, thời gian gửi, thời điểm gửi và rút. Huy động nguồn tiết kiệm của người nghèo vay vốn: Đối với đối tượng là người nghèo vay vốn, NHCSXH không cho vay từng cá nhân hộ nghèo riêng lẻ mà thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn, có nghĩa là hộ nghèo muốn vay vốn phải tham gia vào tổ tiết kiệm và vay vốn tại địa phương. Các thành viên trong tổ ngoài giúp đỡ nhau trong vay vốn, sử dụng vốn vay, trong sinh hoạt đời sống, còn có thể thực hành tiết kiệm bằng cách gửi tiền tiết kiệm thông qua tổ tới NHCSXH. Việc thực hành tiết kiệm là không bắt buộc, nhưng được NHCSXH khuyến khích. Tiền tiết kiệm gồm có tiết kiệm ban đầu và tiết kiệm định kỳ. Toàn bộ số tiền tiết kiệm trên sẽ được gửi vào NHCSXH và được NHCSXH trả lãi với lãi suất không kỳ hạn. Vay các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính trong nước: Cũng như các ngân hàng khác, việc NHCSXH vay các tổ chức tài chính, tín dụng khác trong nước được quy định trong điều lệ, việc vay vốn được thực hiện khi có nhu cầu, vay từng lần và phải đưa vào kế hoạch huy động vốn hàng năm của NHCSXH đã được Bộ Tài chính phê duyệt. Việc vay vốn trên cơ sở thoả thuận, lãi suất trả cho khoản vốn vay này cũng trên nguyên tắc thoả thuận nhưng theo quy định của Bộ Tài chính, lãi suất không được vượt quá lãi suất tối đa cùng kỳ hạn của các NHTM Nhà nước trên địa bàn. Trường hợp NHCSXH vay từ tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm xã hội thì lãi suất tiền vay do Bộ Tài chính quy định từng lần. Vay các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài: NHCSXH được thực hiện vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài. Việc vay vốn được Chính phủ bảo lãnh. Lãi suất vay vốn trong trường hợp này phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Trên thực tế, NHCSXH thường vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế các nguồn vốn ODA thông qua việc thực hiện vay lại từ Bộ Tài chính: Chính phủ Việt Nam vay từ các tổ chức này và sau đó cho NHCSXH vay lại theo các thoả thuận vay vốn. Trong đa số trường hợp, rủi ro ngoại hối sẽ do chính phủ chịu. Đối với các khoản vốn vay này do hội sở chính NHCSXH thực hiện hoặc uỷ quyền cho chi nhánh thực hiện sau khi được Hội sở chính chấp thuận. Tiếp nhận tiền gửi bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng nhà nước: Đây là khoản tiền gửi có tính bắt buộc đối với các NHTM Nhà nước, lãi suất theo thoả thuận, được quy định trong nghị định số 78/2002/NĐ-CP. * Vốn nhận uỷ thác từ Chính phủ, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước: Ngoài việc thực hiện huy động vốn, nhờ có những ưu thế riêng của NHCSXH và các ưu thế khác nên NHCSXH còn thực hiện tiếp nhận các nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dưới hình thức vốn nhận uỷ thác. Việc nhận vốn uỷ thác thường thực hiện thông qua ký kết văn bản thoả thuận trong đó nêu rõ: số tiền uỷ thác, địa bàn cho vay, đối tượng cho vay, lãi suất và điều kiện cho vay, mức phí uỷ thác, thời gian uỷ thác, xử lý rủi ro. Việc nhận vốn uỷ thác có thể là: mang tính bắt buộc khi NHCSXH thực hiện các chương trình cho vay chỉ định của Chính phủ; tự nguyện trên nguyên tắc thoả thuận và đối tượng cho vay uỷ thác cũng đồng thời là đối tượng cho vay hiện hành của NHCSXH; tự nguyện nhưng đối tượng cho vay cuối có thể không phải đối tượng NHCSXH đang phục vụ, trong trường hợp này, NHCSXH tận dụng mạng lưới của mình để cho vay uỷ thác, qua đó hưởng phí dịch vụ, việc nhận vốn uỷ thác do NHCSXH các cấp thực hiện. Về bản chất đây là nguồn vốn mà NHCSXH nhận uỷ thác cho vay, hưởng phí dịch vụ. Do vậy nó mạng tính tự nguyện giữa hai bên, tuỳ thuộc vào chính sách và đièu kiện cụ thể của mỗi địa phương. Tính chất của nguồn này như là nguồn vốn NHCSXH nhận uỷ thác theo các chương trình cho vay chỉ định của Chính phủ, từ nguồn vốn có nguồn gốc từ NSNN hoặc do Nhà nước cho vay theo chỉ định của Chính phủ. Lãi suất đầu vào hầu như không có hoặc không đáng kể, NHCSXH cho vay và hưởng mức phí theo tỷ lệ xác định trước tính trên số lãi thực thu. Do có đặc điểm này, việc tiếp nhận và quy mô nguồn vốn này hầu như không hoàn toàn tự NHCSXH có thể quyết định trước, mà phụ thuộc chủ trương, chính sách của Chính phủ về hỗ trợ các đối tượng trong từng giai đoạn cũng như của các bên đối tác có vốn uỷ thác. * Vốn khác: là các loại vốn được cho, tặng… 1.2.2.6. Lãi suất tại Ngân hàng chính sách: * Định nghĩa lãi suất: Lãi suất là giá cả của việc mua, bán quyền sử dụng vốn hay nói cách khác lãi suất là giá cả của tiền nhưng giá này chỉ có thể xuất hiện khi diễn ra các quan hệ tín dụng và do vậy người ta còn gọi là giá cả tín dụng. * Các loại lãi suất tại Ngân hàng chính sách: Lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư: lãi suất này theo lãi suất thị trường từng thời điểm nhưng không được vượt qua lãi suất huy động của các NHTM. Lãi suất này được quy định theo từng kỳ hạn tiền gửi. Hiện nay các mức lãi suất tiết kiệm được áp dụng tại NHCSXH như sau: Bảng 1: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm của NHCSXH Loại kỳ hạn Lãi suất(%) 1 tháng 0.6 2 tháng 0.62 3 tháng 0.65 6 tháng 0.68 9 tháng 0.71 12 tháng 0.72 24 tháng 0.76 Không kỳ hạn 0.25 (Nguồn: Ngân hàng chính sách xã hội.) Lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các hộ nghèo trong tổ tiết kiệm và vay vốn: áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn. Lãi suất tiền gửi của các NHTM tại NHCSXH: Lãi suất này được tính trên cơ sở bình quân lãi suất huy động vốn hàng năm của tổ chức tín dụng + phí huy động , lãi suất huy động bình quân của các NHTM Nhà nước và phí huy động bình quân chung của các NHTM này do NHNN tính toán định kỳ hàng năm. Lãi suất vay từ các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính trong nước: lãi suất này dựa trên nguyên tắc thoả thuận nhưng theo quy định của Bộ tài chính tức là lãi suất không được vượt quá lãi suất tối đa cùng kỳ hạn của các NHTM Nhà nước trên địa bàn. Lãi suất vay từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài: lãi suất này phải được Bộ tài chính chấp thuận bằng văn bản. Lãi suất cho vay: NHCSXH thực hiện cho vay các đối tượng chính sách theo quy định của Chính phủ, vì vậy lãi suất cho vay này là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất cho vay của các NHTM. Có nhiều mức lãi suất ưu đãi áp dụng cho từng đối tượng chính sách. Lãi suất này do Chính phủ định ra ở từng thời kỳ. Hiện nay lãi suất cho vay tại NHCSXH cho từng đối tượng chính sách như sau: Bảng 2: Các loại Lãi suất cho vay của NHCSXH Đối tượng cho vay Lãi suất trong hạn (%/tháng) Lãi quá hạn (%) Hộ nghèo ở vùng III và các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa 0.6 130 Hộ nghèo thuộc các khu vực khác 0.65 130 Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn 0.65 130 Các tổ chức sản xuất của thương binh người tàn tật(vay vốn giải quyết việc làm) 0.5 130 Các đối tượng khác vay vốn giải quyết việc làm 0.65 130 Cho vay xuất khẩu lao động 0.65 130 Cho vay doanh nghiệp làm nhà ở bán trả chậmcho các hộ dân 0.65 200 Cho vay NS&VSMTNT 0.65 130 Cho vay làm nhà vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long 0.25 130 (Nguồn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam) 1.2.2.7. Rủi ro trong hoạt động tín dụng chính sách tại Ngân hàng chính sách xã hội: * Khái niệm rủi ro tín dụng: Là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được hoặc lãi hoặc gốc hay cả hai. NHCSXH cũng giống như các NHTM hoàn toàn đều có thể gặp rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng tại NHCSXH có thể do nguyên nhân khách quan, cũng có thể là do nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng mang lại. Tuy nhiên không giống như các NHTM, NHCSXH cho vay từ NSNN, là Ngân hàng trực thuộc Nhà nước và Chính phủ quản lý, chính vì vậy khi gặp rủi ro tín dụng thì đối tượng chịu rủi ro ở đây lại là Nhà nước. Và cũng vì đối tượng vay tại NHCSXH là những đối tượng đặc biệt thuộc diện chính sách, có hoàn cảnh khó khăn, nên khi khách hàng gặp những nguyên nhân chủ quan hay khách quan không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng cũng có những quy định và biện pháp xử lý rủi ro cũng khác với các NHTM, NHCSXH sẽ xem xét nguyên nhân của việc không hoàn trả được nợ của khách để đưa ra quyết định như xoá nợ, ra hạn trả nợ, miễn lãi tiền vay, giảm lãi tiền vay… * Các biện pháp xử lý nợ bị rủi ro của NHCSXH: NHCSXH sẽ xem xét miễn, giảm lãi tiền vay khi khách hàng gặp các nguyên nhân khách quan làm thiệt hại trực tiếp đến vốn và tài sản của khách hàng như thiên tai, địch hoạ, chiến tranh, các dịch bệnh liên quan đến con người, gia súc, gia cầm, thuỷ hải sản, động vật nuôi khác và cây trồng; Nhà nước điều chỉnh chính sách làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng; do biến động chính trị, kinh tế - xã hội ở khu vực, quốc tế, và nước nhận lao động của Việt Nam làm ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài. NHCSXH sẽ xem xét xóa nợ đối với các khách hàng gặp các nguyên nhân khách quan làm thiệt hại trực tiếp đến vốn và tài sản của khách hàng như: khách hàng là cá nhân vay vốn bị mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau thường xuyên phải điều trị dài ngày, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không nơi nương tựa, chết, mất tích hoặc tuyên bố là chết, mất tích mà không còn tài sản để trả nợ hoặc không có người thừa kế hoặc người thừa kế thực sự không có khả năng trả nợ thay cho khách hàng. Số tiền xoá nợ cho khách hàng bằng số tiền khách hàng còn phải trả cho Ngân hàng sau khi đã áp dụng các biện pháp tận thu. Đối với các khách hàng vay vốn tại NHCSXH có tài sản đảm bảo theo quy định gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, NHCSXH được quyền chủ động xử lý tài sản đảm bảo theo thoả thuận với khách hàng và theo quy định của Pháp luật để thu hồi vốn. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm dùng để bù đắp chi phí xử lý tài sản bảo đảm, hoàn trả nợ gốc, nợ lãi cho ngân hàng, nếu thừa thì trả lại cho khách hàng, nếu thiếu thì phần thiếu được xử lý rủi ro theo quy định. Các khoản nợ bị rủi ro trong cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác của NHCSXH do nguyên nhân chủ quan của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Các khoản cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tại NHCSXH bằng nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư theo từng Hiệp định hoặc Hợp đồng ký kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khác mà được trích dự phòng rủi ro thì việc xử lý nợ bị rủi ro thực hiện theo Hiệp định hoặc Hợp đồng đã ký kết với tổ chức, cá nhân uỷ thác. * Nguồn vốn để xử lý nợ bị rủi ro: Nguồn vốn để xử lý nợ cho khách hàng vay vốn tại NHCSXH bị rủi ro do nguyên nhân khách quan xảy ra trên diện rộng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Nguồn vốn để xử lý nợ cho khách hàng vay vốn tại NHCSXH bị rủi ro do nguyên nhân khách quan thuộc diện đơn lẻ, cục bộ được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng của NHCSXH. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro tín dụng không đủ bù đắp, Chủ tịch hội đồng quản trị NHCSXH báo cáo liên Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và đầu tư trình Thủ tướng chính phủ xem xét, quyết định. * Nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng: Chất lượng tín dụng quan trọng hơn mở rộng tín dụng. Tất cả các khoản vay đều phải có hai phương án trả nợ tách biệt. Phẩm chất đòi hỏi đối với người vay là phải hoàn toàn trung thực. Không được cẩu thả trong việc lập hồ sơ tín dụng. Cần biết chắc khoản tiền mà Ngân hàng cho vay được người vay sử dụng vào mục đích gì. Kiểm tra chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của người vay. 1.2.2.8. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát vốn vay của NHCSXH: Việc kiểm tra, kiểm soát vốn vay của NHCSXH được thực hiện như sau: Kiểm tra trước khi cho vay: Đối với các chương trình tín dụng Ngân hàng cho vay uỷ thác qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ tiết kiệm và vay vốn; cán bộ Ngân hàng cơ sở khi nhận được hồ sơ vay vốn, tiến hành kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ, danh sách người vay sau khi được tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét và đề nghị được uỷ ban nhân dân xã phê duyệt theo mẫu số 03/CVHN, đơn xin vay, mục đích xin vay… theo quy định. Đối với các chương trình tín dụng Ngân hàng cho vay trực tiếp, cán bộ ngân hàng cơ sở cần thẩm định các điều kiện vay vốn, mục đích xin vay… theo quy định. Kiểm tra trong khi cho vay: Kiểm tra chữ ký nhận tiền vay, chứng minh thư nhân dân của người vay phải khớp đúng với người đứng tên vay hoặc người được uỷ quyền trên hồ sơ vay vốn. Kiểm tra sau khi cho vay: Sau khi đã cho vay Ngân hàng phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ vốn vay xem vốn cho vay có được sử dụng._.ây ra rủi ro mất vốn đối với ngân hàng nếu người dân bị mất mùa. Trên thực tế các chương trình tín dụng có khả năng thu hồi vốn cao cho thấy hoàn trả định kỳ là phương thức tích hợp hơn so với hoàn trả một lần. Số tiền mà hộ nghèo phải trả mỗi kỳ bao gồm cả gốc và lãi và là một khoản tiền cố định. Ngân hàng phải tính toán cẩn thận thời điểm hình thành thu nhập để khách hàng có nguồn trả nợ, tránh tình trạng nợ chồng chất. Nhờ đó, hộ có kế hoạch trả nợ cụ thể và dễ dàng trả nợ ngân hàng hơn là trả một khoản tiền lớn một lúc. Đồng thời đến thời hạn cuối cùng, số tiền hộ tiết kiệm sẽ lớn hơn vì nợ đã được trả gần hết trong kỳ. Về phía ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh hơn, đồng thời sẽ tận dụng và nâng cao trách nhiệm của các tổ tiết kiệm và vay vốn trong thu hồi nợ cho ngân hàng. NHCSXH nên có những hình thức khuyến khích đối với những hộ hoàn trả đúng thời hạn. Ngoài các biện pháp về nghiệp vụ, để thu hồi vốn vay và nâng cao trách nhiệm của hộ vay vốn, NHCSXH có thể áp dụng một vài biện pháp tác động vào uy tín của hộ trong cộng đồng. Nhìn chung, khách hàng sẽ hoàn trả món vay nếu họ cảm thấy uy tín của mình bị suy giảm trước những người thân quen. Ngân hàng có thể lợi dụng điều này thông qua việc nêu tên trên báo chí, đài phát thanh địa phương hay tại các cuộc họp của địa phương những hộ chưa trả tiền vay. NHCSXH cần xem xét xoá bỏ việc khoanh nợ và xoá nợ cho các hộ không đủ điều kiện trả đối với các món vay của ngân hàng. Có thể thay thế bằng hình thức đảo nợ hoặc giãn nợ cho các đối tượng này. Đảm bảo triệt để nguyên tắc “ có vay có trả”, tránh tình trạng các hộ nghèo cố tình hoặc hiểu nhầm là vốn vay của ngân hàng không cần hoàn trả. Đối với các hộ đến hạn nhưng không trả được nợ thì cán bộ ngân hàng phối hợp với tổ tiết kiệm và vay vốn tìm hiểu rõ nguyên nhân hộ không trả được nợ và có biện pháp cụ thể đối với những hộ này. Có thể cho hộ vay thêm để khắc phục khó khăn nhưng nợ cũ vẫn phải trả, kết hợp với tư vấn cho hộ cách làm ăn có hiệu quả hơn. Cùng với các tổ tiết kiệm và vay vốn, các hội đoàn thể tích cực kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay để vốn vay được sử dụng đúng mục đích, đem lại hiệu quả cho người sử dụng vốn. Ngân hàng cần thẩm định, xem xét kỹ càng danh sách hộ nghèo đề nghị vay vốn do các tổ gửi lên, để đảm bảo cho vay đúng đối tượng, chỉ cho vay đúng đối tượng là hộ nghèo và có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thật sự. Ngân hàng cần phối hợp các cơ quan chuyên môn, các cán bộ địa phương tổ chức các buổi hướng dẫn về kỹ thuật sản xuất từng ngành, giới thiệu các tiến bộ công nghệ mới cho các hộ nghèo, để các hộ biết cách làm ăn, áp dụng được công nghệ tiến bộ, từ đó đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, đời sống của các hộ được nâng cao, và các hộ có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. NHCSXH cũng có thể đưa ra biện pháp khuyến khích người vay trả nợ đúng thời hạn như cam kết sẽ cho hộ nghèo vay với số vốn lớn hơn trong lần vay tiếp theo nếu như hộ vay trả nợ đúng thời, như vậy sẽ khuyến khích các hộ trả nợ đúng thời hạn. 3.2.2.3. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn thực hiện hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho các hộ vay vốn: Việc hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh cho các hộ nghèo vay vốn là rất cần thiết. Điều này cho phép các hộ biết được kỹ thuật sản xuất sao cho có hiệu quả cao, không bị thua lỗ, hoàn lại được vốn đầu tư, từ đó giúp cho nguồn vốn của ngân hàng ít gặp rủi ro hơn, nguồn vốn không bị thất thoát. Việc hướng dẫn kỹ thuật, giúp hộ sản xuất kinh doanh thuận lợi vươn lên thoát nghèo cũng có nghĩa là vốn của ngân hàng đã phát huy được hiệu quả xã hội. Tuy nhiên hoạt động hướng dẫn này của NHCSXH huyện Thanh Trì hiện nay gần như không có, việc hướng dẫn này hoàn toàn do các cơ quan chuyên môn, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, UBND các huyện thực hiện, hoặc do các hộ tự học hỏi từ các nguồn khác nhau, hoặc chỉ học hỏi thông qua các buổi trao đổi kinh nghiệm trong tổ. Điều này làm cho ngân hàng không biết được hoạt động hướng dẫn đang diễn ra như thế nào, không thể bàn luận được với các cơ quan chuyên môn về việc nên hướng dẫn những kỹ thuật gì cho phù hợp với mục đích sản xuất kinh doanh của các hộ vay vốn từ ngân hàng, điều đó có thể dẫn đến có những kỹ thuật phục vụ cho các hộ vay vốn tại ngân hàng không được hướng dẫn cụ thể. Những hộ nghèo cũng thường là những hộ thiếu kinh nghiệm làm ăn nên việc hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ nghèo vay vốn là quan trọng hơn cả. Hiện nay Ngân hàng chưa có điều kiện để có những cán bộ hướng kỹ thuật, vì vậy Ngân hàng cần tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, với Sở nông nghiệp huyện, với các chương trình khuyến nông, khuyến lâm để hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ vay vốn theo đúng nhu cầu và mục đích sử dụng vốn của các hộ. Bên cạnh việc hướng dẫn kỹ thuật sản xuất kinh doanh cũng cần giới thiệu các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để người dân được biết và có thể áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Cần duy trì thường xuyên các buổi họp trao đổi kinh nghiệm trong các tổ tiết kiệm và vay vốn để các thành viên học hỏi lẫn nhau, rút ra những bài học kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. 3.2.2.4. Điều chỉnh lại cơ cấu các loại vốn: Hiện nay NHCSXH chủ yếu cho vay ngắn hạn, khối lượng vốn trung hạn là ít hơn. Điều này là có lợi cho ngân hàng bởi vì ngân hàng sẽ quay vòng được vốn nhanh hơn. Tuy nhiên trong thời gian tới NHCSXH huyện Thanh trì cần tăng khối lượng vốn cho vay trung hạn lên nhiều hơn, để tạo điều kiện cho các hộ nghèo có thể đầu tư vào những ngành, cây trồng,vật nuôi có giá trị kinh tế cao nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài. Và việc tăng khối lượng vốn trung hạn sẽ phù hợp với các loại cây trồng vật nuôi có chu kỳ sinh trưởng dài. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho các hộ nhanh chóng thoát nghèo và có thể vươn lên làm giàu. 3.2.2.5. Cải tiến thủ tục cho vay: NHCSXH cần cải tiến thủ tục cho vay sao cho nhanh gọn, đơn giản, dễ hiểu. Hầu hết những hộ nghèo có trình độ dân trí thấp do vậy các thủ tục vay, các loại giấy tờ phải thật đơn giản, dễ hiểu để họ không bị vướng mắc, làm đi làm lại nhiều lần mới vay được vốn, điều này cũng giúp cho quá trình giao dịch được nhanh gọn. Quy trình vay vốn cần phải được tiến hành trong thời gian ngắn, có như vậy mới không làm lỡ mùa vụ sản xuất hay thời cơ kinh doanh của các hộ. 3.2.2.6. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và tâm huyết với sự nghiệp xoá đói giảm nghèo: Trong thời gian tới NHCSXH huyện Thanh Trì cần nâng cao cả về số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải có kế hạch đào tạo các cán bộ để đảm bảo sự đồng đều về trình độ chuyên môn. Cán bộ tín dụng cũng như cán bộ quản lý cần được đào tạo sơ lược về ngân hàng tài chính và đặc biệt phải nhận thức được rằng người nghèo cũng có thể tiết kiệm và vay vốn và hoàn trả đầy đủ. Các kết quả khảo sát và kinh nghiệm thực tế cần được trao đổi, phổ biến nhằm thay đổi thực trạng thiếu lòng tin khi tiến hành giao dịch với người nghèo. Để có thể thay đổi được nhận thức về người nghèo thì không chỉ cần trang bị cho cán bộ những kiến thức cơ bản mà bản thân họ phải có sự tâm huyết đối với công việc của mình. Trong công tác cho vay, cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ các bước cần thiết theo quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Việc cán bộ tín dụng thường xuyên đến thăm khách hàng sẽ giúp đảm bảo rằng khách hàng vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh hay không và mức độ hoàn trả món vay như thế nào. Qua đó có quyền không cho vay đối với những hộ nghèo không đủ điều kiện hoặc có nghi ngờ về việc lập danh sách địa phương gửi lên. Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện hơn nữa. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức của một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau như trồng trọt, chăn nuôi, và các hoạt động kinh tế thông thường khác. Kết quả công việc của cán bộ tín dụng được đánh giá bằng những tiếu thức như dư nợ, nợ quá hạn, khả năng thu hồi món vay, uy tín và số ngày làm việc; trong khi đó số khách hàng mà một cán bộ tín dụng quản lý lại không được coi là một tiêu thức, điều này có thể dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng thích các món vay lớn hơn là việc gai tăng số lượng các món vay nhỏ, điều này sẽ cản trở cho vay đối với hộ nghèo vốn chỉ vay các món nhỏ. Việc mở rộng mạng lưới cần phải gắn với việc tiêu chuẩn hoá tổ chức cũng như sắp xếp biên chế của ngân hàng. Ví dụ cần xác định các tiêu chí giới hạn về số lượng khoản cho vay, khối lượng giao dịch hàng ngày, số lượng sổ sách chứng từ mà mỗi cán bộ tín dụng, kế toán, và thủ quỹ phải xử lý, thực hiện nhằm tránh tình trạng quá tải như hiện nay. Để đưa vốn tới tận tay người nghèo, ngoài cán bộ của ngân hàng còn có mạng lưới các tổ tiết kiệm và vay vốn và sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội, góp phần quan trọng giúp đỡ ngân hàng lựa chọn đối tượng được vay vốn. NHCSXH cần có một chiến lược cụ thể về việc xây dựng, nâng cao năng lực cho đối tác địa phương trong việc thực hiện, quản lý vốn cho vay và huy động tiết kiệm. Đây là công tác vô cùng quan trọng góp phần quyết định đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. NHCSXH Thanh Trì một mặt tận dụng khả năng vận động quần chúng của các tổ chức này, mặt khác cần có chương trình đào tạo, tập huấn tại các xã, huyện về việc ghi chép sổ sách, tuyên truyền lợi ích của tiết kiệm, của việc thu hồi vốn vay đầy đủ và đúng hạn… Tác động cũng như hiệu quả của hệ thống tín dụng sẽ được cải thiện rõ rệt nếu như cán bộ của các tổ chức xã hội được đào tạo đầy đủ về các kiến thức cơ bản, các hoạt động kinh tế. Điều này có thể được thực hiện trên cơ sở phối hợp với cơ quan khuyến nông. NHCSXH Thanh Trì cần có các biện pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đối tượng này trong quá trình hỗ trợ ngân hàng đánh giá và lựa chọn hộ được vay vốn được chính xác và trong công tác thu hồi vốn cho vay tại các xã. Trên thực tế các đối tượng này vẫn được hưởng một phần lãi suất cho vay nên cũng phải có trách nhiệm san sẻ rủi ro mất vốn với ngân hàng. Đồng thời có chế độ thưởng, phụ cấp cho các đối tượng này nếu họ hoàn thành tốt công việc thu hồi vốn tại địa phương, chấp hành nghiêm chỉnh sổ sách kế toán… để khuyến khích họ làm việc tốt hơn. NHCSXH nên tập trung vào việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cộng tác viên là các tổ chức chính trị, xã hội vì về lâu dài đây mới là nguồn lực hỗ trợ chủ yếu cho hoạt động của ngân hàng. 3.2.2.7. Đối với các hộ nghèo vay vốn: Các hộ nghèo vay vốn muốn sử dụng vốn có hiệu quả, sinh lời, thoát được cảnh đói nghèo thì cần phải luôn chú trọng tới một số biện pháp sau: - Xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ cấu đầu tư vốn hợp lý và sử dụng vốn vay đúng mục đính. Việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh của hộ phải căn cứ vào những điều kiện sẵn có của hộ, căn cứ vào thị trường, vào khả năng vốn tự có của hộ và số vốn có thể vay được từ ngân hàng, việc xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho hộ đầu tư có hiệu quả, có xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh thì hộ mới có thể tính toán được nhu cầu về vốn một cách chính xác, từ đó tiến hành vay của ngân hàng với số vốn cần thiết. Việc xác định cơ cấu vốn đầu tư hợp lý cũng là một cơ sở để hộ xác định nhu cầu vay vốn, để đảm bảo cho việc đầu tư vốn cho từng khâu công việc, từng giai đoạn, từng yếu tố đầu vào được cân đối phù hợp, không thừa cũng không thiếu, đảm bảo mang lại hiệu quả cao. Sau khi đã nhận được vốn vay các hộ phải sử dụng vốn đúng mục đích sản xuất kinh doanh, hoặc nếu có chuyển đổi mục đích sử dụng vốn thì cũng phải tham khảo ý kiến của cán bộ ngân hàng, học hỏi kinh nghiệm của các hộ khác, và lĩnh vực chuyển đổi sang phải đem lại hiệu quả cao hơn mục đích trước đây, không chuyển đổi vốn vay sang mục đích tiêu dùng sinh hoạt. Có như vậy vốn vay mới phát huy hiệu quả, mới không bị thất thoát, các hộ mới thu được lợi nhuận, có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng và thoát khỏi đói nghèo. - Các hộ cần tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các hộ khác, học hỏi các phương thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tìm hiểu và áp dụng các công nghệ, biện pháp sản xuất tiên tiến, tích cực nâng cao trình độ học vấn. Có như vậy thì các hộ mới phát triển việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, không bị thua lỗ. - Các hộ nghèo vay vốn cần hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc vay vốn. Các hộ phải tuân thủ nguyên tắc có vay có trả. NHCSXH cho các hộ nghèo vay với các ưu đãi đặc biệt, nhưng không có nghĩa là các hộ không cần phải hoàn trả vốn cho ngân hàng. Các hộ cần đầu tư vốn hợp lý, có hiệu quả, thu hồi được vốn, có lãi để có thể trả nợ cho ngân hàng, có như vậy thì mới tạo được sự tin tưởng của ngân hàng, của tổ đối với mình đê có thể tiếp tục vay vốn trong lần sau. Việc không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng, không những chỉ ảnh hưởng đến uy tín của bản thân hộ, mà còn ảnh hưởng tới ngân hàng trong hoạt động cho vay, và ảnh hưởng tới các thành viên khác trong tổ tiết kiệm và vay vốn sẽ không được tiếp tục vay vốn của ngân hàng chừng nào thành viên trong tổ chưa trả nợ. 3.3. KIẾN NGHỊ: NHCSXH huyện Thanh Trì năm trong hệ thống NHCSXH và thuộc sự quản lý của Chính phủ, vì vậy để có bất cứ một sự thay đổi nào ở NHCSXH huyện Thanh Trì cần phải có sự tác động từ cấp trên, và được thực hiện đồng bộ trong cả hệ thống. Vì vậy dưới đây là môt số kiến nghị được đưa ra đối với Chính Phủ, các bộ ngành liên quan, UBND các cấp và hệ thống NHCSXH. 3.3.1. Tập trung sức nâng cao năng lực tài chính cho NHCSXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo. Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, NHNN cùng xem xét trình Thủ tướng Chính phủ biện pháp tăng vốn điều lệ cho ngân hàng, hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng mới chỉ đạt khoảng 30% mức vốn dự kiến. Trong thời gian tới, vốn cho vay của NHCSXH sẽ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn từ NHNN nên NHNN cần nghiên cứu và sớm có cơ chế cho vay vốn đối với NHCSXH với lượng vốn lớn, theo lãi suất và các điều kiện ưu đãi để giúp ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn vay cho hộ nghèo. Sau khi đã ổn định hoạt động, NHCSXH cần xác lập lại mối quan hệ giữa chính phủ với ngân hàng trong hỗ trợ các đối tượng chính sách. Cả ngân hàng và Chính phủ vẫn theo đuổi những mục tiêu nhất định, trong đó có những mục tiêu giống và không giống nhau. Để đảm bảo nguồn tài trợ từ Chính Phủ được kết hợp hiệu quả với nguồn vốn ngân hàng tự huy động, cần thông qua ký kết các hợp đồng giữa ngân hàng và chính phủ. Hợp đồng bao gồm cam kết cho vay của ngân hàng cho cáa đối tượng theo yêu cầu của Chính phủ. Chính phủ có thể cấp phát vốn, tham gia cho vay một phần, còn lại là ngân hàng cho vay. Hợp đồng cần xem xét rủi ro và cơ chế bù đắp. Lãi suất cho vay cụ thể được tính toán dựa trên kết cấu các loại vốn tham gia và chi phí của chúng. Chính phủ cho phép NHCSXH từng bước thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường đối với các hộ nghèo. Các món vay của Ngân hàng nhỏ, chi phí quản lý lớn, rủi ro món vay cao nên không thể duy trì lâu dài lãi suất cho vay ưu đãi. Hơn nữa, vấn đề đáng quan tâm nhất đối với hộ nghèo là điều kiện vay vốn và thời điểm được nhận vốn, mức vay, thời hạn và số lần được vay vốn chứ không phải là lãi suất món vay. Bộ Kế hoạch, đầu tư, Bộ tài chính cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận và tìm kiếm các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các NGO… Trong hoàn cảnh uy tín của NHCSXH vẫn chưa được các tổ chức quốc tế công nhận thì các cơ quan quản lý Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho ngân hàng vay hoặc tiếp nhận vốn của các tổ chức này. UBND huyện Thanh Trì trình HĐND dành một phần vốn ngân sách địa phương từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch hàng năm để tăng vốn cho NHCSXH Thanh Trì. Bổ sung vốn uỷ thác cho ngân hàng quản lý, cho vay theo các điều kiện chỉ định của huyện nhưng vẫn đảm bảo quy trình nghiệp vụ của ngân hàng và đảm bảo quay vòng vốn. UBND huyện, các hội đoàn thể trên địa bàn huyện Thanh Trì cần giúp đỡ NHCSXH trong việc huy động vốn, nhất là đối với các nguồn vốn rẻ, hoặc được cho, tặng… 3.3.2. Nhà nước quan tâm đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng đi đôi với xoá đói giảm nghèo: Khi xem xét khoảng cách giữa hai nhóm người giàu nhất và nghèo nhất trong dân số có thể thấy sự gia tăng liên tục về tình trạng bất bình đẳng. Hội nhập vào kinh tế thế giới cũng đi kèm với khoảng cách lớn hơn giữa thu nhập của lao động có tay nghề và không có tay nghề. Đồng thời có nhiều dấu hiệu cho thấy khoảng cách giữa các vùng cũng ngày càng lớn. Tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế sẽ ít hơn khi bất bình đẳng gia tăng, và Việt Nam sẽ thu được những kết quả chậm hơn về giảm nghèo trong những năm tới nếu không có biện pháp cụ thể, rõ ràng. Các dân tộc thiểu số nằm trong các nhóm có nguy cơ tụt hậu. Trong thời gian tới Nhà nước cần phải có các chính sách để ưu tiên cho hộ như cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường Nhà nước nắm giữ… Những người di cư từ nông thôn ra thành thị cũng là một nhóm có tiềm năng rủi ro. Hầu hết những người di cư từ nông thôn ra thành thị đều làm ăn tốt hơn, tuy nhiên co sở hạ tầng đô thị phát triển không đầy đủ và cơ chế quản lý hành chính hiện nay nhằm hạn chế sự chuyển dịch này có thể làm cho người di cư sống trong tình trạng nghèo đói. Vấn đề đặt ra đối với Chính phủ là hạn chế dòng di cư này thông qua các biện pháp tăng trưởng và đa dạng hoá ở nông thôn. Thu nhập phải được tăng lên từ chính việc tăng năng suất nông nghiệp khi mà lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực phi nông nghiệp ngày một nhiều hơn. Nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, trung tâm y tế, trường học, hệ thống thuỷ lợi và tưới tiêu, hệ thống đường giao thông để tiết kiệm chi phí và thời gian tiêu thụ nông sản… Điều kiện khó khăn của hệ thống giao thông nông thôn đã cản trở dân tại các làng xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các trung tâm hành chính nông thôn. Tạo điều kiện để các xã nhận được hỗ trợ của hệ thống nghiên cứu và khuyến nông, cung cấp các dịch vụ có tính trọng tâm và theo nhu cầu của nông dân. Các hoạt động mùa màng, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản sẽ phát triển tốt hơn nếu tiếp cận được với công nghệ mới, dự đoán được thị trường… Đồng thời thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại - một nhân tố quan trọng đang góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Các vấn đề về thông tin không cân xứng và khả năng cung ứng dẫn đến việc Nhà nước phải cung ứng các dịch vụ cho xã hội nói chung và người nghèo, xã nghèo nói riêng. Thực tế cho thấy việc cải thiện hệ thống đường xá và hệ thống điện ở nông thôn, hoặc trợ cấp một khoản phù hợp để đầu tư định hướng ở nông thôn nhằm tăng thu nhập cho các hộ nghèo thường tốn kém hơn là các dịch vụ tài chính khác, đặc biệt là những nơi có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vậy, ngân hàng không thể tự mình cung ứng các dịch vụ xã hội này mà cần có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước. Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm của hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo ở nông thôn cũng là vấn đề cần quan tâm. Không tiếp cận được với thị trường, không dự đoán được nhu cầu của thị trường, giá cả nông sản bấp bênh …là những yếu tố làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nghèo không ổn định. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm có liên quan trực tiếp đến bảo toàn vốn của ngân hàng và tạo động lực mở rộng tín dụng. 3.3.3. Nhà nước cần chú trọng nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nghèo: Đến khi nào tất cả các hộ nghèo đều nhận thức được tầm quan trọng của thoát nghèo đối với gia đình họ thì khi đó công cuộc xoá đói giảm nghèo mới thật sự có ý nghĩa và đạt được những kết quả to lớn. Hiện nay có rất nhiều hộ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc thoát nghèo từ đó dẫn đến vốn được vay được sử dụng để tiêu dùng chứ không nhằm mục đích tăng thu nhập. Các hộ có trình độ học vấn cao có ý thức thoát nghèo và nỗ lực thoát nghèo hơn nhiều các trình độ có học vấn thấp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, trình độ sản xuất kinh doanh đóng một vai trò quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất. Hộ nghèo có được vốn là quan trọng, nhưng xét trên góc độ hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo vốn được an toàn thì việc trang bị cho hộ nghèo kiến thức trong sử dụng vốn có tính chất quyết định. Việc đào tạo nâng cao trình độ dân trí cho hộ nghèo phải được thực hiện có quy mô quốc gia. Chính phủ cần xây dựng và có sự chỉ đạo đồng bộ các chương trình, mục tiêu về giáo dục đào tạo đã đề ra. Học vấn thấp là phổ biến trong cộng đồng hộ nghèo, song nhiều nhất vẫn tập trung vào trẻ em của các hộ nghèo này, do vậy các chương trình của Chính phủ phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận trẻ em nghèo. Để khuyến khích trẻ em đi học phải để các hộ nhận thức được đây chính là cách duy nhất để con em hộ thoát nghèo trong tương lai. Chính phủ có hỗ trợ nhất định để hộ nghèo có thể chấp nhận được các chi phí giáo dục. Muốn vậy chi hàng năm của NSNN cho giáo dục phải có kế hoạch cụ thể và thường xuyên kiểm tra, tránh tình trạng chi quá lớn cho giáo dục bậc cao, vốn bị thất thoát, lãng phí… Đồng thời tạo cơ hội tiếp thu kiến thức mới về kỹ thuật, công nghệ dự báo thị trường cho hộ nghèo thông qua các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, cơ quan cung ứng giống, vật tư, mấy móc, qua các tổ chức đoàn thể tại địa phương… Có chính sách hỗ trợ cho NHCSXH về kinh phí để đào tạo và tư vẫn cho hộ nghèo trong quá trình sử dụng vốn. 3.3.4. Một số kiến nghị đối với các cấp có thẩm quyền tại huyện Thanh Trì: - Các cấp có thẩm quyền cần tạo điều kiện giúp đỡ cho NHCSXH huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là những nguồn vốn rẻ, hoặc cho tặng - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh. - UBND huyện, xã, các tổ chức đoàn thể cần lập danh sách hộ nghèo một cách trung thực. - Các tổ chức đoàn thể, các phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để thục hiện tốt việc cho vay tới hộ nghèo thông qua tổ tiết và vay vốn. - Cùng với hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo, huyện Thanh trì cũng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khác để đảm bảo thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo. 3.3.5. Kiến nghị đối với ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì: - Chấp hành tốt quy trình thủ tục cho vay đối với hộ nghèo theo quy định của ngân hàng. Tiến hành các thủ tục cho vay nhanh chóng, để vốn vay sớm đến được với các hộ nghèo. - Cán bộ tín dụng phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, cũng như tìm hiểu về hoàn cảnh của các hộ nghèo. Luôn giữ thái độ nhiệt tình, hoà nhã, vui vẻ đối với khách hàng, luôn sẵn sàng giải đáp các thắc mắc của các khách hàng về việc vay vốn. - Tích cực tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động, đặc biệt là những nguồn vốn rẻ, các nguồn vốn được cho tặng. KẾT LUẬN Kể từ khi đi vào hoạt động, NHCSXH Thanh Trì đã thực hiện cho vay ưu đãi tới nhiều hộ nghèo trên địa bàn huyện, hoạt động cho vay hộ nghèo của ngân hàng ngày càng được mở rộng, hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng tăng lên, đòng góp vai trò qua trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì vẫn ở mức thấp, và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay của hộ nghèo trên địa bàn huyện Thanh Trì cũng ngày càng tăng lên, đòi hỏi ngân hàng phải tìm các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động cho vay hộ nghèo, nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì. Việc nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo cũng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo trên địa bàn xã. Với mục tiêu đó chuyên đề đã hệ thống hoá cơ sở lý luận về tín dụng xoá đói giảm nghèo trong đó bao gồm các vấn đề: những vấn đề cơ bản về đói nghèo đề cập đến khái niệm đói nghèo, nguyên nhân đói nghèo, tiêu chí xác định đói nghèo; những khái niệm cơ bản có liên quan đến tín dụng xoá đói giảm nghèo như khái niệm NHCSXH, hoạt động tín dụng của ngân hàng chính sách như khái niệm tín dụng chính sách, phân loại tín dụng chính sách, vai trò tín dụng chính sách, các nguồn vốn của NHCSXH, các vấn đề về lãi suất của NHCSXH, các vấn đề về rủi ro tín dụng của NHCSXH, chính sách cho vay hộ nghèo của NHCSXH; hiệu quả trong hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo có đề cập đến các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội. Những cơ sở lý luận về tín dụng xoá đói giảm nghèo cho phép người viết có những hiểu biết cơ bản về hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo để phục vụ cho việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì trong phần tiếp theo. Trong phần đánh giá thực trạng tác giả đã xem xét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Thanh Trì và khó khăn thuận lợi của các điều kiện đó tới hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH; xem xét vài nét về phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì cũng như quy trình cho vay vốn hộ nghèo tại đây. Tác giả cũng nghiên cứu hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo NHCSXH huyện Thanh Trì thông qua các chỉ tiêu dư nợ, thu hồi nợ, nợ quá hạn và nguyên nhân, đồng thời lấy ý kiến của một số người vay, xem xét tình hình sử dụng vốn vay của các hộ, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động của NHCSXH huyện Thanh Trì, rút ra những cái đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân của nó, nêu lên một số gương điển hình thoát nghèo nhờ vốn vay của ngân hàng. Từ việc đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHCSXH huyện Thanh trì, tác giả đã có cơ sở để đưa ra một số giải pháp, và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên do những hiểu biết có hạn về lĩnh vực ngân hàng tính chính nói chung và hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo nói riêng nên chuyên đề còn nhiều thiếu xót, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Hy vọng trong thời gian tới, đề tài tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, góp phần giúp NHCSXH huyện Thanh trì nâng cao được hiệu quả tín dụng xoá đói giảm nghèo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp. Nhà xuất bản thống kê, 2001 Cẩm nang chính sách và nghệp vụ tín dụng đối với hộ nghèo. NHCSXH năm 2004. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản thống kê, 1999. Hỏi đáp về hoạt động tín dụng. NHCSXH 2006. Điều lệ hoạt động của NHCSXH. Nguyễn thị Hằng (1996), Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng. Tiền tệ tín dụng và ngân hàng. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì. NHCSXH huyện Thanh Trì. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì giai đoạn 2001 – 2005. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì. Các nghị định của chính phủ về tín dụng đối với người nghèo. Nghị quyết 06 của Chính Phủ, ban hành ngày 05/07/2005 về việc công bố chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006 – 2010. Quyết định 6673 của UBND thành phố Hà Nội, ban hành ngày 28/09/2005, về việc ban hành chuẩn nghèo mới cho khu vực Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010. Kế hoạch thực hiện giảm nghèo huyện Thanh trì giai đoạn 2006 – 2010. UBND huyện Thanh Trì. Các văn bản liên quan đến cho vay hộ nghèo của NHCSXH. Các số liệu liên quan đến hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì các năm 2004, 2005, 2006. Kế hoạch tín dụng năm 2007 của NHCSXH huyện Thanh Trì. Tạp chí ngân hàng số 11 năm 2005. Tạp chí nông nghiệp và nông thôn 2005. Các trang web của NHCSXH, của Chính phủ, của UBND thành phố Hà nội. Các luận văn tốt nghiệp các khoá 42, 43, 44; các luận án thạc sĩ, tiến sĩ. PHỤ LỤC Phụ lục 1: BÁO CÁO TỔNG HỢP DANH SÁCH HỘ NGHÈO HUYỆN THANH TRÌ NĂM 2006 Đơn vị: hộ Xã, thị trấn Tổng số hộ dân Số hộ nghèo Tỷ lệ % Nguyên nhân nghèo Yêu cầu trợ giúp Thiếu kinh nghiệm làm ăn Thiếu lao động Thiếu đất sản xuất Thiếu vốn Có người ốm đau Có người mắc tệ nạn xã hội Khác Cho vay vốn Hướng dẫn cách làm ăn Nhu cầu học nghề Khác Hữu Hoà 1731 162 9,36 92 43 0 0 23 3 5 0 92 0 40 Liên ninh 2722 157 5,77 35 37 25 49 64 1 2 49 40 0 57 Ngũ Hiệp 2266 100 4,41 12 31 7 18 49 6 1 18 16 7 1 Vạn Phúc 1973 227 11,5 23 120 1 138 63 0 0 151 0 24 0 Thanh Liệt 1639 61 3,72 30 41 0 12 44 0 0 10 0 8 0 Đông Mỹ 1463 99 6,77 11 25 5 24 67 5 3 26 1 2 67 Duyên Hà 1021 129 12,63 26 44 0 39 33 3 9 39 23 8 58 Tân Triều 3383 181 5,35 96 10 3 130 40 13 29 130 3 28 52 Vĩnh Quỳnh 4532 234 5,36 28 70 2 22 127 11 13 44 10 31 117 Tam Hiệp 2303 166 7,21 54 36 19 1 35 8 0 22 54 0 35 Ngọc Hồi 1902 129 6,78 0 89 4 60 121 0 0 66 0 57 61 Tứ Hiệp 2239 49 2,19 3 21 0 17 22 2 0 36 15 10 14 TT Văn Điển 2737 74 2,70 12 11 0 2 28 1 15 9 12 2 49 Tả Thanh Oai 3043 344 11,30 45 63 72 63 91 0 14 63 44 0 124 Đại Áng 1763 163 9,25 50 43 6 47 3 28 28 55 91 53 19 Yên Mỹ 1150 76 6,61 20 9 0 6 55 1 10 6 1 1 63 Toàn huyện 35867 2360 6,58 537 693 144 628 847 82 129 724 402 231 757 ( Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì) Phụ lục 2: TỔNG HỢP HỘ CẬN NGHÈO HUYỆN THANH TRÌ NĂM 2006. Đơn vị: hộ Xã, thị trấn Hộ cận nghèo Số hộ đề nghị hỗ trợ Vay vốn phát triển SXKD Hướng dẫn cách làm ăn Đào tạo nghề, giải quyết việc làm Giảm học phí, khoản thu khác Yên Mỹ 98 3 4 7 45 Vạn Phúc 202 100 115 85 195 Duyên Hà 80 Liên Ninh 399 124 50 112 183 Ngũ Hiệp 199 112 67 84 100 Đông Mỹ 116 59 6 49 Tứ Hiệp 383 161 14 115 205 Vĩnh Quỳnh 506 68 9 51 25 Đại Áng 165 115 69 95 97 Ngọc Hồi 155 29 5 45 80 Hữu Hoà 136 114 11 4 Tả Thanh Oai 437 312 247 223 226 Thanh Liệt 101 13 19 11 78 Tân Triều 175 84 67 115 92 TT Văn Điển 128 Tam Hiệp 487 Cộng 3767 1294 677 953 1375 (Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì.) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32104.doc
Tài liệu liên quan