Lời Mở đầu
Để cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển thì các tế bào trong nền kinh tế đó nói chung là cũng phải ngày càng sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ngày càng tạo ra nhiều lợi nhuận và đóng góp cho xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy các tế bào ở đây là các thành phần kinh tế, thực sự họ là những chủ thể kinh tế hết sức năng động, tron
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng trung & dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những năm qua từ khi có đường lối đổi mới của Đảng họ đã góp phần rất nhiều vào sự thành công của nền kinh tế nước ta. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế luôn có nhu cầu vốn lớn, với thời hạn dài để có thể đầu tư mở rộng quy mô hay áp dụng các công nghệ kỹ thuật tiên tiến, mua sắm thiết bị nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường mà tự bản thân họ không thể tự lực được. Rõ ràng là trong điều kiện cơ chế thị trường họ sẽ đi vay và các ngân hàng thương mại sẽ đáp ứng cho họ bằng các khoản tín dụng trung và dài hạn và được nhận lãi cho vay. Điều này muốn nói tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ hết sức quan trọng cho các chủ thể kinh tế về nhu cầu vốn trung, dài hạn. Nếu thiếu hoạt động này của các ngân hàng thương mại thì các chủ thể kinh tế sẽ ngày càng mất đi khả năng cạnh tranh và dẫn đến phá sản vì những nguồn tài trợ dài hạn khác không thể đảm đương được vai trò như nguồn vốn từ khoản vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, hiện nay bên cạnh những mặt tích cực của những khoản tín dụng trung và dài hạn mà Ngân hàng thương mại cung cấp đối với các thành phần kinh tế thì cũng còn rất nhiều vấn đề tồn tại gây hậu quả xấu đến kinh tế xã hội nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng biểu hiện cụ thể là: vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi luôn cao hơn mức bình thường, nhiều lúc doanh nghiệp cần vốn mà ngân hàng lại ứ đọng vốn không cho vay được... Nếu khắc phục được thì sẽ là thành công lớn cho các ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các khoản tín dụng trung và dài hạn này đã luôn được nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại quan tâm, đề cao chính vì những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với nó và tìm ra cách giải quyết hiệu quả nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu về tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại để nâng cao hiệu quả của nó trong thực tiễn là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với nước ta. Nguồn tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng nhưng làm thế nào để ngày càng phát huy tính tích cực của nó, hạn chế, khắc phục những tồn tại đang gặp phải để nâng cao hiệu quả lại càng cần thiết hơn nữa.
Là sinh viên năm cuối, em được thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Em đã chọn nghiên cứu và viết luận văn về giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng này để nâng cao hiểu biết về lý luận cũng như thực tế về tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. Tuy vậy do giới hạn về thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế cũng như trình độ hiểu biết, luận văn này của em chỉ giới hạn xem xét một số vấn đề chính trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Nội dung luận văn bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Tín dụng và vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1996-2002.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, của thầy giáo PTS - Vũ Duy Hào đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Em cũng chân thành cảm ơn các bác, các chú, anh chị tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và phòng Dự án nói riêng đã tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn nghiên cứu này.
Chương I
Tín dụng và vai trò của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường
I-/ Tổng quan về ngân hàng thương mại (NHTM)
1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
* Lịch sử hình thành
Từ rất xa xưa trong lịch sử loài người, trên cơ sở phát triển sản xuất và trao đổi,và do sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng và khu vực làm xuất hiện các thương gia làm công việc đổi tiền, họ hành nghề ở những trung tâm của các hoạt động kinh tế, thương mại trên những chiếc ghế dài gọi là Bank (theo tiếng Anh) và chữ Banque (tiếng Pháp). Lịch sử ngân hàng bắt đầu từ đó,và những người làm nghiệp vụ ngân hàng buổi sơ khai đó là ” những con người thông minh nhất ” để thu lợi nhuận cho mình và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi các khách hàng có quan hệ với nhau trong việc mua bán hàng hoá, họ tham gia vào quan hệ này và thực hiện các công việc đổi tiền, sau đó họ tạo được lòng tin của khách hàng mà có thể nhận gửi tài sản của khách hàng và đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng họ thực hiện nghiệp vụ chi trả hộ. Là những con người thông minh, người làm ngân hàng phát hiện ra nhu cầu về tiền để chi trả thường nhỏ hơn số tài sản họ đang giữ rất nhiều, không để vô ích họ đem số tài sản không sử dụng đến để cho những ngưòi có nhu cầu vay. Việc cho vay mang lại hiệu quả lớn cho nên ban đầu các nhà ngân hàng còn thu lệ phí nhận gửi, về sau mở rộng cho vay, họ không những không thu lệ phí như trước đối với khách hàng gửi tiền mà còn thưởng cho khách hàng gửi tiền. Nhờ đó họ thu được nhiều lợi nhuận hơn nhờ cho vay. Những nghiệp vụ đổi tiền,nhận gửi,chi trả hộ,cho vay là những nghiệp vụ đầu tiên trong lịch sử hình thành ngân hàng.
* Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1\10\2001.
- Ngân hàng:Là những tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng (nhận tiền gửi của dân cư, dùng số tiền đó để cấp tín dụng,làm dịch vụ thanh toán ) và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động Ngân hàng gồm có các loại hình: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
- Ngân hàng thương mại (còn gọi là ngân hàng tiền gửi,hay ngân hàng tín dụng ) với nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngắn hạn và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu là chính. Tuy nhiên do thị trường tiền tệ ngày càng phát triển, dần các ngân hàng này đi vào kinh doanh tổng hợp,làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung,dài hạn và làm gần như tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
* Vị trí của các NHTM trong hệ thống tài chính:
- Hệ thống tài chính: Là tổng thể những bộ phận hợp thành một cơ cấu tài chính,trong đó những quan hệ tài chính hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng tác động phối hợp lẫn nhau trong toàn bộ vận động của nền tài chính.
- Cơ cấu của hệ thống tài chính:
NHTM thuộc bộ phận tài chính trung gian trong hệ thống tài chính, mà hệ thống tài chính là một hệ thống mà các thành phần tham gia có quan hệ hết sức chặt chẽ, nhạy bén,luôn luôn điều hoà cho nhau như vậy cho nên nghiên cứu NHTM đặt trong hệ thống tài chính vào những giai đoạn kinh tế nhất định là hết sức cần thiết. Ngoài ra, cần thấy rằng, trong tiến trình vận động chung của tài chính, các tổ chức tài chính trung gian đóng vai trò cầu nối hay trung chuyển, vừa thu hút các nguồn tài chính, vưà đẩy các nguồn vốn vào các kênh trong hệ thống nhưng ngoài vai trò trên các NHTM nói riêng và trung gian tài chính nói chung còn thực hiện hàng loạt các nghiệp vụ tài chính khác và những nghiệp vụ ngoại vi của tài chính.
2. Các chức năng của NHTM:
NHTM là “ Trái tim của nền kinh tế”, tầm quan trọng của các NHTM có thể được minh hoạ một cách chi tiết thông qua các chức năng cơ bản của nó:
- Tạo tiền: Làm tăng khối lượng tiền so với khối lượng tiền ban đầu trong lưu thông.
+ Cả hệ thống NHTM tạo ra tiền trong lưu thông.
+ Từng ngân hàng riêng lẻ đã tạo ra tiền.
Ví dụ: Giả sử trong lưu thông có một lượng tiền cơ sở 1000 và toàn bộ lượng tiền này được gửi vào ngân hàng.
Tài sản Nguồn vốn
Dự trữ 1000 Tiền gửi 1000
Theo thời gian và kinh nghiệm thấy người không bao giờ rút hết 1000 mà chỉ khoảng 500.
Tài sản Nguồn vốn
Dự trữ 500 Tiền gửi 1000
Dự trữ thừa 500
Đầu tư
Tài sản Nguồn vốn
Dự trữ 500 Tiền gửi 1000
Đầu tư 500
++ Đã tăng lượng tiền trong lưu thông thêm 500.
- Huy động tiết kiệm: NHTM thực hiện nghiệp vụ này đối với tất cả các khu vực của nền kinh tế và thu hút được phần lớn tiền gửi tiết kiệm. người gửi tiết kiệm được nhận một khoản tiền thưởng dưới danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi tiết kiệm ở các ngân hàng, với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao. Số tiền NHTM huy động được sẽ thực hiện cho vay đối với khách hàng có nhu cầu.
- Chức năng tín dụng: Chức năng quan trọng của NHTM là mở rộng tín dụng đối với khách hàng đáng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những người tổ chức các NHTM đã luôn tìm kiếm các cơ hội để thực hiện việc cho vay.Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
+Sự ra đời và bản chất của tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng ra đời từ rất lâu, từ thời kỳ tan rã của chế độ nguyên thuỷ khi sự phân công lao động xã hội và trao đổi hàng hoá đã hình thành và bước đầu phát triển. Hình thức đầu tiên ra đời là cho vay nặng lãi, nó tồn tại trong suốt một thời kỳ dài từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến. Sau đó đến tín dụng tư bản chủ nghĩa, gắn liền với việc các tổ chức ngân hàng ra đời và phát triển như ngày nay tín dụng trở thành một công cụ tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp của đất nước.
Bản chất tín dụng, đó là mối quan hệ xã hội tạo nên bởi sự nợ nần lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay. Trong đó người cho vay tạm thời chuyển quyền sử dụng một số tiền nào đó cho người đi vay trong một thời gian nhất định nhưng vẫn giữ nguyên sở hữu đối với số tiền đó. Người đi vay sau đó phải trả cho người cho vay số tiền gốc và một số tiền nhất định gọi là lãi suất. Điều này cho thấy tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả.
+ Khoản mục tín dụng trong bảng tổng kết tài sản của NHTM
Bảng cân đối tài sản của NHTM cũng tương tự như bảng cân đối tài sản của các loại hình khác, nó phản ánh toàn bộ hoạt động của ngân hàng vào một thời điểm nhất định nào đó nhưng do tính chất kinh doanh của ngân hàng nên nó có cấu trúc khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác
Bảng tổng kết tài sản của NHTM
Tài sản có ( Sử dụng vốn ) Tài sản nợ ( Nguồn vốn )
- Ngân quỹ - Vốn huy động
- Tín dụng - Các khoản tiền vay
- Đầu tư - Vốn tự có của ngân hàng
-Tài sản có khác
Tổng số Tổng số
Hoạt động sinh lợi chủ yếu của các NHTM là hoạt động tín dụng.Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu của cộng đồng. Trong thứ tự ưu tiên để phân loại các tài sản thì khoản mục tín dụng được ưu tiên sau dự trữ sơ cấp và việc cung ứng các tài sản có tính chất luân chuyển,dưới hình thức vốn sinh lợi ngân hàng.Một ngân hàng sau khi đã đáp ứng các nhu cầu về dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp, có quyền tự do cho khách hàng vay. Các khoản cho vay biểu hiện phần quan trọng nhất của tổng số tích sản ngân hàng, và tiền lãi từ số tiền cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lợi nhuận ngân hàng. Hầu hết các rủi ro liên quan đến các hoạt động ngân hàng thường nằm trong khoản mục tín dụng.
- Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán :Dịch vụ này tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các khoản thanh toán mà không phải mang đi mang lại một lượng lớn tiền mặt. Khách hàng có thể trả một khoản tiền ở bất kỳ một chi nhánh ngân hàng nào để ghi có cho một tài khoản ở chi nhánh ngân hàng khác bằng cách điền vào một tờ phiếu mẫu rất đơn giản, được gọi là phiếu chuyển tiền. Khách hàng cũng có thể yêu cầu ngân hàng của mình ghi nợ hoặc trích một khoản tiền từ tài khoản của mình để thanh toán các khoản chi thường xuyên hoặc các khoản thanh toán khác bằng lệnh uỷ nhiệm chi hoặc uỷ nhiệm thu
- Cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng
+ Tài trợ ngoại thương :NHTM tạo đIều kiện để tài trợ ngoại thương thông qua việc phát hành thư tín dụng, hay có thể tạo đIều kiện thuận lợi cho những người du lịch nước ngoài bằng cách cung cấp những tấm séc du lịch hoặc tín dụng thư.
+ Dịch vụ uỷ thác : NHTM có các văn phòng uỷ thác giúp khách hàng thực hiện di chúc, giúp các công ty quản lý tiền hưu trí,và phân chia lợi tức cũng như giúp họ phát hành trái phiếu và như là đại lý thanh toán và người ghi sổ theo dõi các trái phiếu đó cho các công ty.
+ Bảo quản an toàn vật có giá:
+ Két sắt bảo quản ký thác : Được lập ra để cho khách hàng thuê, khách hàng có quyền kiểm tra tài sản có giá của họ vào bất kỳ thời điểm nào. Ngân hàng chỉ đảm an toàn cho việc bảo quản.
+ Bảo quản an toàn các giấy tờ có giá :Tồn tại ở những ngân hàng có nhiệm vụ trông nom quản lý giáy tờ có giá và các chứng từ khác có liên quan, như là một đại lý đối với khách hàng.
+ Dịch vụ môi giới: Mặc dù quyền hạn trong dịch vụ tài chính của các ngân hàng được nâng lên nhưng không vượt quá giơí hạn các hoạt động bảo lãnh hoặc cung ứng các dịch vụ nghiên cứu kết hợp với các hoạt động môi giới.
II-/ Hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM:
1. Sự phân loại các hoạt động cho vay của NHTM:
Một ngân hàng có thể có nhiều loại cho vay đối với khách hàng. Các loại đó thông thường được phân chia theo những tiêu thức sau:
-Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
+Vay để kinh doanh : - Vay để sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
-Vay để hoạt động thương mại. ..
+ Vay để tiêu dùng : -Vay để tiêu dùng trực tiếp.
-Cho vay dưới hình thức bán chịu.
-Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay : 2 loại
+ Có thời hạn: thời hạn sử dụng vốn vay được xác định cụ thể, tuỳ theo quy định của từng nước mà chia ra cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Nhưng thông thường khoản tín dụng ngắn hạn thường có thời hạn dưới một năm, khoản tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm và khoản tín dụng dài hạn có thời hạn thường là trên 5 năm.
+ Không thời hạn :Các khoản vay không xác định thời hạn cụ thể (thời hạn trả không xác định trong hợp đồng). Việc thu nợ phải báo trước cho người vay một khoảng thời gian xác định.
- Căn cứ vào việc bảo đảm :
+ Cho vay có bảo đảm :Là các khoản cho vay mà ngân hàng có nắm giữ các tài sản cụ thể mà người vay nộp vào cho ngân hàng.
+ Cho vay không bảo đảm : Ngân hàng không nắm giữ các tài sản của người vay.
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
+ Khoản cho vay mà người vay trả một lần khi đáo hạn
+ Trả theo định kỳ trong suốt thời gian vay.
2. Lý do hình thành các khoản cho vay trung, dài hạn ( cho vay có kỳ hạn của NHTM ).
Trong phân loại cho vay của NHTM, căn cứ vào thời hạn của khoản cho vay chúng ta phân các loại cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Cả ba bộ phận này đều thống nhất trong khoản mục tín dụng, khoản mục mà ngân hàng quan tâm nhiều nhất về khả năng sinh lợi cũng như rủi ro phát sinh, đều thống nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của tín dụng và nằm trong bản chất của tín dụng. Tuy nhiên trong từng thời kỳ,từng giai đoạn nhất định của nền kinh tế mà bộ phận ngắn hạn hay trung, dài hạn là trung tâm để có thể tạo ra động lực to lớn nhất cho phát triển. Cả tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn đều có những ý nghĩa to lớn như chúng được phân chia ra từ hoạt động tín dụng nói chung. Nhưng một cách cụ thể mỗi loại xuất phát từ đặc trưng riêng của nó mà có những ý nghĩa nổi trội hơn đối với các khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mục đích của tín dụng ngắn hạn là để bổ sung phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguyên nhân có thể thiếu do sự chênh lệch về thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi, chứng từ vay nợ có thể là giấy nhận nợ, hay hoá đơn chứng từ về việc nhận hàng. Cũng có thể thiếu do tài trợ cho việc mở rộng kinh doanh mà khách hàng không xác định được thời hạn. Đó là lý do cơ bản để các khoản tín dụng ngắn hạn của ngân hàng đã hình thành, tồn tại và phát triển. Còn về phần tín dụng trung dài hạn nó đã ngày càng có ý nghĩa to lớn. Chúng ta xem xét lý do hình thành các khoản tín dụng trung dài hạn từ hai phía là ngân hàng và khách hàng.
- Xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể thấy ưa chuộng hình thức cho vay định kỳ hơn là các hình thức tài trợ khác vì một số lý do. Thông thường, một khoản cho vay định kỳ dễ thực hiện hơn là việc phát hành trái phiếu. Kỳ hạn của khoản cho vay định kỳ dễ điều chỉnh so với kỳ hạn nhu cầu về vốn của người vay. Cho vay định kỳ, ngược lại với cho vay ngắn hạn bổ sung, doanh nghiệp không phải hoàn trả toàn bộ khoản cho vay một lần, thay vào đó, các khoản trả nợ được thực hiện theo một thời biểu, dựa trên dự báo nguồn lưu kim của doanh nghiệp, trong thời gian khoản cho vay được thực hiện.
+ Các doanh nghiệp muốn phát triển, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đầu tư mới thiết bị, công nghệ để duy trì thế cạnh tranh và theo kịp nhu cầu về các sản phẩm của doanh nghiệp cũng như mức bán hàng gia tăng thường đòi hỏi thêm vốn hoạt động, họ không thể tự lực được những khoản vốn lớn như vậy trong khi họ đang trằn trọc vì dự án hiệu quả mình đang ôm ấp. Họ tìm đến hình thức cho vay định kỳ của NHTM vì khả năng đáp ứng nhu cầu vốn đó của họ và vì những thuận lợi khác của nó.
+ Ngoài ra việc hình thành các khoản cho vay định kỳ xuất phát từ phía nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ vì khả năng tiếp cận thị trường vốn của họ có giới hạn. Từ phía nhu câù của các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn có thể tìm thấy ở khoản cho vay có kỳ hạn các kỳ hạn thích hợp cho các nhu cầu của họ so với các kỳ hạn định sẵn đối với việc phát hành trái phiếu. Hơn nữa, với khoản cho vay định kỳ, một số kỳ hạn có thể được thương lượng lại sau này với người cho vay, nếu cần. Khoản cho vay định kỳ của ngân hàng dễ điều chỉnh hơn là việc phát hành trái khoán công cộng và mặt khác, chúng thường có thể được trả trước mà không bị phạt, trừ khi vốn dùng để trả trước có được từ việc vay với lãi suất thấp từ một NHTM khác. Với một khoản cho vay định kỳ, người vay tránh được các chi phí đăng ký, bảo hiểm, bán hàng -những chi phí thường xảy ra với việc phát hành công khai các chứng khoán.
- Xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn của NHTM ;
+ NHTM thực hiện cho vay trung, dài hạn để có được tối đa hoá lợi nhuận : Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào, mục tiêu hàng đầu của NHTM là tối đa hoá lợi nhuận. Hầu hết những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cho khách hàng của mình đều nhằm mục đích đem lại những khoản thu nhập cho ngân hàng dưới dạng tiền lãi, lệ phí, hoa hồng... Để tăng lợi nhuận của mình, NHTM sẽ tìm cách giảm bớt các khoản chi không cần thiết và mở rộng các hoạt động mang lại nguồn thu cho ngân hàng, nhất là những hoạt động đóng góp một tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập như cho vay, đầu tư cung cấp dịch vụ. ..Trong tổng thu nhập của NHTM, lãi thu từ cho vay chiếm một tỷ lệ lớn, thường là trên 60 % trong tổng số. Vì vậy nó có vai trò rất quan trọng, có thể nói rằng nó quyết định sự tồn tại hay phát triển của một NHTM. Mở rộng cho vay sẽ đóng góp nguồn thu đáng kể trong mục tiêu tăng lợi nhuận ngân hàng vì lãi suất cho vay trung và dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn và khoản tiền cho vay lớn hơn.
+ Tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường :
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh có thể xảy ra giữa các quốc gia, khu vực, giữa các nghành sản xuất kinh doanh, giữa các mặt hàng và giữa các đơn vị kinh tế. Để có thể tồn tại được trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế phải không ngừng phát huy những điểm mạnh, hạn chế dần những điểm yếu của mình bằng cách không ngừng nỗ lực, tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới, sản phẩm ngày càng hoàn thiện đưa ra thị trường. NHTM cũng vậy, là một tổ chức trung gian tài chính, với những đặc điểm vốn có của mình và bề dày hoạt động trong lịch sử đã có rất nhiều thuận lợi để thực hiện các món cho vay trung, dài hạn để thu lợi nhuận và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Vì như chúng ta đã biết doanh nghiệp có thể tìm cách khác để tài trợ cho nhu cầu vốn trung, dài hạn của mình.
+ Mở rộng hoạt động cho vay tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại :
Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển kinh tế các nước luôn gắn liền với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước kia đã nhường bước cho nền kinh tế mới phát triển. Hoà trong xu thế đó, các NHTM cũng đã “vươn mình” ra để mở rộng quan hệ đối ngoại đối với các nước bè bạn, cùng nhau phát triển để đóng góp vào sự phát triển kinh tế nước mình cũng như tạo ra lợi nhuận cho mình. Trong đó, tín dụng trung dài hạn đã trở thành một bộ phận quan trọng nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức với nhà nước. ..
3. Các vấn đề cơ bản của cho vay trung, dài hạn tại NHTM
a. Các nội dung cơ bản của hoạt động cho vay trung, dài hạn :
* Lãi suất cho vay :
Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như là chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của người khác. Vì vậy bản thân lãi suất đã chứa đựng một mâu thuẫn, đó là người cho vay muốn có lãi suất cao trong khi người đi vay muốn có lãi suất thấp. Do đó cũng như giá của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung và cầu về vốn. Người đi vay coi lãi suất như một khoản chi phí và khi chi phí càng giảm thì cầu càng tăng, còn khi lãi suất tăng thì cầu về vốn vay giảm xuống.
Ngoài việc chịu sự tác động của cung và cầu về vốn, lãi suất còn phụ thuộc vào mức độ rủi ro, số lượng, thời hạn vốn vay và tình hình kinh tế. Rủi ro trong việc hoàn trả càng nhiều thì người cho vay sẽ tính lãi suất càng cao. Do đó lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay của ngân hàng có thể khác nhau, phụ thuộc vào lĩnh vực mà người đi vay sẽ đầu tư vốn, vào tính khả thi của dự án vay và khả năng hoàn trả vốn. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, tỷ lệ lạm phát cao, người cho vay có thể yêu cầu một mức lãi suất cao hơn vì họ thấy có nhiều rủi ro hơn trong việc hoàn trả vốn gốc của người vay.
Do đặc điểm của những khoản vay trung và dài hạn là thời gian vay vốn lâu vì vậy nó sẽ chứa đựng nhiều rủi ro hơn những khoản cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, điều này còn do chi phí để ngân hàng huy động được những nguồn dài hạn lớn hơn chi phí cho nguồn vốn ngắn hạn.
Tuỳ theo thoả thuận mà món cho vay của ngân hàng đối với khách hàng có thể được tính theo lãi suất thả nổi hoặc lãi suất cố định. Lãi suất cố định là mức lãi suất được xác định ngay từ ban đầu và tồn tại trong suốt quá trình vay vốn. Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có hoặc không báo trước. Trong cho vay trung dài hạn phần lớn sử dụng lãi suất thả nổi. Điều này tránh cho người vay phải chịu một mức lãi suất cố định trong một thời gian dài khi mà lãi suất trên thị trường chắc chắn sẽ có sự thay đổi. Tính lãi theo cách này cũng hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất thị trường tăng.
ở Việt Nam, ngoài các yếu tố kể trên thì mức lãi suất cho vay còn phụ thuộc vào trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. Trần lãi suất là một trong những công cụ điều hành trực tiếp của chính sách tiền tệ. Nó giúp cho NHTƯ có thể khống chế mức tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Lãi suất trần được ổn định theo từng kỳ và các NHTM sẽ căn cứ vào đó để điều chỉnh lãi suất cho vay.
* Thời hạn cho vay :
Vay vốn trung, dài hạn là những khoản vay có thời hạn trên một năm và thời gian cho vay không quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Ngân hàng căn cứ vào thời gian khấu hao để xác định thời gian cho vay. Thời hạn cho vay ngắn hơn hoặc dài hơn quá nhiều so với thời gian khấu hao đều ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả vốn gốc cho ngân hàng vì khấu hao từ tài sản sẽ là một trong những nguồn chủ yếu để trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, do những khoản vay này có đặc điểm chung là thời hạn cho vay tương đối dài, vì vậy thời hạn cấp tín dụng cho khách hàng còn tuỳ thuộc vào kỳ hạn của nguồn vốn mà ngân hàng tập trung huy động được, đó có thể là tiền gửi của các thành phần kinh tế, dân cư hoặc tiền ngân hàng đi vay từ các TCTD khác. Ngân hàng không thể chỉ dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn vì khi đó ngoài rủi ro về thanh khoản, NHTM còn có thể gặp phải rủi ro về lãi suất. Những nguồn vốn ngắn hạn thường có lãi suất dễ biến động trong khi lãi suất trong hợp đồng tín dụng trung, dài hạn ít thay đổi, vì vậy ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu lãi suất đầu vào tăng mà lãi suất đầu ra không đổi. Do đó, ngân hàng có thể sẽ không cấp cho khách hàng những khoản vay lãi suất cố định trong một thời gian dài nếu như ngân hàng nhận định rằng trong thời gian đó, lãi suất sẽ có những thay đổi bất thường.
ở Việt Nam, theo quy định của NHNN thời hạn cho vay trung dài hạn được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tình hình nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 - 60 tháng (5 năm ), thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. Khi đến hạn trả nợ, nếu khách hàng không có khả năng trả hết nợ do nguyên nhân khách quan gây nên và có văn bản đề nghị gia hạn nợ thì TCTD xem xét cho gia hạn nợ vay trung, dài hạn tối đa bằng 1/2 thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
*> Số lượng và kỳ hạn của khoản cho vay :
Khối lượng và kỳ hạn của khoản cho vay trung, dài hạn được nêu lên trong hợp đồng cho vay định kỳ. Nội dung của nó bao gồm khối lượng của khoản cho vay, các cách thức người vay rút tiền, lãi suất, ngày đáo hạn, số chi phí (nếu có), và các điều khoản liên quan đến các khoản chi trả trước. Lượng tín dụng mà các NHTM cấp cho khách hàng của mình phụ thuộc vào hạn mức tín dụng mà ngân hàng đó được phân bổ. Hạn mức này căn cứ vào tình hình thực tiễn và phù hợp với yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Mục tiêu của NHNN khi sử dụng công cụ hạn mức tín dụng là để kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống NHTM và hướng các khoản cho vay đó vào mục tiêu có hiệu quả, đồng thời khống chế mức tăng của tổng phương tiện thanh toán nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng đủ vốn đầu tư cho phát triển kinh tế.
Về kỳ hạn trả nợ, sự bố trí thường thấy là khoản trả góp đều bằng nhau, ở mỗi định kỳ. Trong trường hợp nếu lợi tức thu được vượt quá số lượng nhất định nhờ các nghiệp vụ kinh doanh hoặc nhờ việc bán các tích sản thì khách hàng có thể thực hiện chi trả nhằm giảm bớt các khoản dư nợ. Các ngân hàng thường không phạt trong trường hợp trả trước một khoản trả góp hoặc trả hết toàn bộ khoản cho vay trước hạn, nếu nguồn vốn có được từ các nghiệp vụ kinh doanh, từ việc thu nợ, hoặc từ việc bán các tích sản. Tuy nhiên, nếu việc hoàn trả sớm được thực hiện do vay từ một ngân hàng khác, một mức phạt thường được áp dụng.
Một khoản lệ phí giao ước có thể được tính nếu khoản cho vay là tín dụng tuần hoàn với điều khoản nhằm chuyển đổi thành khoản cho vay định kỳ. Ngân hàng được quyền tính chi phí đối với vốn chưa sử dụng theo mức đã thoả thuận, bởi vì họ phải sẵn sàng cho yêu cầu sử dụng của khách hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện một cách bất đắc dĩ khi đầu tư những số vốn này vào các tích sản sinh lãi cao, chẳng hạn như các khoản cho vay trung, dài hạn khác.
ở Việt Nam, theo qui định của NHNN về giới hạn cho vay : Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của chính phủ, của các tổ chức và các cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các TCTD cho vay hợp vốn theo quy định của thống đốc NHNN. Trong trường hợp đặc biệt, TCTD chỉ được cho vay vượt quá giới hạn như trên khi được thủ tướng chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể.
*> Thế chấp cho khoản vay và số dư bù :
- Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (Bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn ) đối với bên cho vay.
Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ, làm giảm bớt hậu quả của “Chọn lựa đối nghịch “ (Là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch ) bởi vì nó giảm các tổn thất của người cho vay trong trường hợp xảy ra một vụ vỡ nợ. Nếu người vay vỡ nợ đối với món tiền vay, ngân hàng có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lại các tổn thất của mình do món vay đó gây ra.
- Số dư bù : Một khách hàng khi nhận được tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài khoản séc ở ngân hàng cho nó vay Ví dụ : Một doanh nghiệp nhận được một món vay 10 triệu đô la có thể bắt buộc phải giữ các số dư bù ít nhất 1 triệu đô la trong tài khoản séc của nó tại ngân hàng cho vay. 1 triệu đô la số dư bù này có thể bị ngân hàng đó lấy nếu doanh nghiệp đó vỡ nợ để bù đắp lại một phần tổn thất của món vay đó.
Ngoài việc có tác dụng như vật thế chấp, các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó và ngăn ngừa được rủi ro đạo đức.
- Tài sản thế chấp trong cho vay trung dài hạn thường là các bất động sản như nhà ở, công trình xây dựng, các cơ sở sản xuất kinh doanh (nhà má, khách sạn, cửa hàng. .), do đặc điểm của cho vay trung, dài hạn là thời gian vay vốn lâu vì vậy yêu cầu đầu tiên đối với tài sản thế chấp là tuổi thọ của tài sản thế chấp là tuổi thọ của tài sản thế chấp phải lớn hơn thời gian vay vốn. Yêu cầu thứ hai đối với tài sản thế chấp là phải có khả năng chuyển nhượng, mua bán được dễ dàng tức là các tài sản tương đối thông dụng và giá trị không quá lớn.
+ Việc định gía tài sản do các bên thoả thuận trên cơ sở giá cả thị trường, có tính đến các yếu tố tác động tăng, giảm giá đến thời điểm chấm dứt thế chấp. Ngân hàng căn._. cứ vào giá trị tài sản để xác định số tiền cho vay, số tiền này tối đa bằng 70%giá trị tài sản. Trường hợp tài sản thế chấp bị giảm giá mạnh mà doanh nghiệp vay vốn lại làm ăn thua lỗ không trả được nợ thì nhân hàng sẽ phải chịu rủi ro vì TSTC khi phát mại có thể không đủ để bù đắp cho số vốn đã vay. Ngoài ra, ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp mua bảo hiểm cho các loại TSTC để tránh các rủi ro xảy ra với tài sản như hoả hoạn, mất cắp. ..
Đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì một tài sản có thể được dùng để thế chấp cho một hoặc nhiều lần vay vốn tại một bên cho vay, mỗi lần thế chấp phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổng số tiền vay không vượt quá số mức cho vay tối đa xác định trên giá trị tài sản.
* Điều kiện vay vốn :
Để được vay vốn tại ngân hàng, người vay vốn phải có các điều kiện sau
- Điều kiện chung :
+ Đối với pháp nhân :
++ Được thành lập theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
++ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
++ Có giấy phép hành nghề của cơ quan quản lý chuyên môn
++ Có đủ vốn tự có theo quy định hiện hành
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần có thêm giấy phép đầu tư và phải góp đủ vốn pháp định
+Đối với hộ sản xuất kinh doanh cá thể
++ Người xin vay phải trên 18 tuổi
++ Có giấy phép kinh doanh
++ Có giấy phép hành nghề
- Điều kiện về tài chính và kết quả kinh doanh:
+ Có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng xin vay vốn
+ Hoạt động kinh doanh có lãi, không có nợ vay và bảo lãnh quá hạn
+ Có kế hoạch hoặc phương án xin vay vốn có tính khả thi.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu DNNN bị thua lỗ do kinh doanh theo chính sách của nhà nước phải có xác nhận của cơ quan tài chính cấp vốn bù lỗ. Nếu DNNN có dư nợ quá hạn tại ngân hàng và dư nợ đã được khoanh thì giám đốc (chi nhánh ) nhân hàng có thể xem xét cho vay.
- Chấp nhận và thực hiện các quy định về cho vay của ngân hàng
- Có tài sản đảm bảo nếu không thì việc cho vay sẽ do giám đốc quyết định
- Tổ chức hạch toán theo pháp lệnh về kế toán và thống kê của nhà nước
- Phải chấp hành những quy định của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đối với các dự án trung, dài hạn.
* Rủi ro trong cho vay trung, dài hạn :
Rủi ro trong cho vay của NHTM là hiện tượng bên vay vốn, do những nguyên nhân chủ quan họăc khách quan nào đó, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ được cho ngân hàng khi đến hạn.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, sản phẩm, dịch vụ các doanh nghiệp cung cấp không phải lúc nào cũng được thị trường chấp nhận vơí một mức giá cả cho phép thu hồi được vốn sản xuất và có lãi. Chính lúc sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp bị thị trường không chấp nhận là lúc doanh nghiệp bị rủi ro và dẫn đến rủi ro tín dụng.
Rủi ro trong cho vay trung, dài hạn có thể có các nguyên nhân sau :
- Các nguyên nhân thuộc nhóm chủ quan : Nghĩa là các nguyên nhân thuộc về NHTM, các tổ chức kinh doanh tiền tệ.
+ Nguyên nhân do kỹ thuật cấp tín dụng trung, dài hạn : Thông thường NHTM cho vay trung, dài hạn dựa trên đơn xin vay và phương án kinh doanh của người vay. Nhưng rủi ro xảy ra, vì không thể biết được độ tin cậy của phương án kinh doanh đó đạt đến mức nào. Hơn nữa, khi việc cấp tín dụng chỉ đặt ra chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của bên cho vay quyết định, thì vấn đề tiêu cực sẽ có điều kiện nảy nở.
+ Do các NHTM không nắm được một cách rõ ràng tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có cả việc không biết rõ trình độ, khả năng quản lý của nhà kinh doanh.
+ Do các NHTM ít am hiểu thị trường sản phẩm, dịch vụ :Việc cho vay không đánh giá được khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tạo ra từ vốn vay. Mặc dù nhà kinh doanh phải tự ước lượng khả năng xâm nhập thị trường của họ, song không có nghĩa là sự xác định của nhà kinh doanh luôn luôn là điểm tựa cho quyết định tín dụng, mà bản thân ngân hàng phải xác định mức sản xuất cho phép để bàn bạc tư vấn cho khách hàng nên dừng lại ở một mức được hoạch định trước để tránh trường hợp sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra quá nhiều làm cho cung vượt cầu.
- Các nguyên nhân khách quan là nhóm nguyên nhân bao gồm quản lý vĩ mô của nhà nước, các biến động của thị trường và hoạt động của các nhà kinh doanh - khách hàng của ngân hàng.
+ Những nguyên nhân thuộc quản lý vĩ mô của nhà nước :
++ Hoạt động thanh tra không đảm bảo về mặt chất lượng.
++ Vấn đề áp dụng pháp luật.
+ Rủi ro trong cho vay trung, dài hạn do thay đổi lãi suất, do tình hình thanh khoản của ngân hàng : Trong cho vay trung, dài hạn khi kỳ hạn của nguồn vốn huy động ngắn hơn kỳ hạn mà ngân hàng cho vay đối với khách hàng, nguồn vốn huy động này sẽ đến hạn thanh toán trước khi ngân hàng có thể thu hồi tiền cho vay từ khách hàng. Nếu ngân hàng không dự kiến những nguồn vốn khác để bù đắp cho những khoản tiền đến hạn thì rủi ro về thanh khoản là điều sẽ xảy ra. Tương tự như vậy, nếu NHTM cho vay dài hạn với lãi suất cố định trong khi lãi suất huy động lại thường xuyên thay đổi thì tiền thu được từ cho vay có thể không đủ để trả lãi tiền gửi cho khách hàng.
+ Rủi ro về tỷ giá :NHTM khi cho vay sẽ gặp phải rủi ro về tỷ giá nếu huy động bằng ngoại tệ nhưng lại cho vay bằng nội tệ và tỷ giá lại biến động theo chiều hướng tăng. Ngân hàng thu gốc và lãi bằng nội tệ trong khi phải trả gốc và lãi bằng ngoại tệ. Nếu tỷ giá tăng thì ngay cả khi khách hàng thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ của mình, ngân hàng vẫn có thể bị lỗ. Để hạn chế rủi ro này, ngân hàng có thể tham gia vào thị trường ngoại tệ kỳ hạn, cụ thể là mua ngoại tệ kỳ hạn nếu thấy tỷ giá có xu hướng gia tăng.
Như vậy, trong lĩnh vực cho vay trung, dài hạn của NHTM mặc dù nó có thể đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng cũng như nền kinh tế nhưng đi kèm với nó ngân hàng phải đương đầu và giải quyết rất nhiều rủi ro có thể gặp phải. Nắm được những nguy cơ này, NHTM trong nền kinh tế thị trường có thể đưa ra những cách thức phòng ngừa, hạn chế phù hợp.
4-/ Phân tích tín dụng trong cho vay trung, dài hạn
Trong cho vay trung, dài hạn của NHTM như trên đã đề cập, có rất nhiều các rủi ro có thể xảy ra. Để quyết định có cho vay hay không, người cho vay phải cố gắng ước lượng rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể được dự đoán trong một quá trình bằng phương pháp phân tích tín dụng. Vai trò của phân tích tín dụng trong cho vay trung, dài hạn hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng khoản cho vay.
Trong phân tích tín dụng, người cho vay thu thập thông tin có thể được dùng để đánh giá chí khí, các tích sản, khả năng kiếm lợi của ngưòi xin vay và môi trường kinh tế có thể có. Trong điều tra về đơn xin vay của doanh nghiệp, ngân hàng muốn biết một điều gì đó về lịch sử doanh nghiệp, sổ sách kế toán, mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa vào thị trường các sản phẩm mới và nguồn gốc của sự phát triển doanh thu và lợi nhuận. Tìm hiểu thông tin về nhà điều hành doanh nghiệp.
Ngân hàng cần biết về bản chất và nghiệp vụ của doanh nghiệp, những loại sản phẩm nào được buôn bán hoặc sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra. Trong đó, hàng hoá chính, hàng hoá phụ, tiêu dùng hay sản xuất, xa xỉ hay thiết yếu sẽ là những thông tin có giá trị. Nguồn gốc và tính ổn định của nguyên liệu và lao động cũng như địa điểm gần thị trường cũng là điều quan trọng. Các điều khoản mua bán, các phương pháp phân phối, mức độ giảm giá, các rủi ro trong kinh doanh và tầm quan trọng của việc kinh doanh trong nền kinh tế là những sự kiện đáng chú ý đặt doanh nghiệp vào trong một tương lai thích hợp.
Trong phân tích tín dụng, ngân hàng rất chú ý đến những thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Điều này cần phải xem xét lại những báo cáo tài chính, điều tra tình trạng có thể có các tiêu sản bất ngờ và kiểm tra phạm vi được bảo hiểm. Do điều kiện và tính hiệu quả của các tiện nghi vật chất của doanh nghiệp là rất quan trọng, nhân viên tín dụng có thể muốn kiểm tra qua các ngân hàng khác mà doanh nghiệp có quan hệ, người cung ứng và tiêu thụ để có thể có được những thông tin về các điều kiện cạnh tranh trong nghành công nghiệp và khuynh hướng bán hàng và lợi nhuận, trong việc đánh giá tương lai của một doanh nghiệp.
Bộ phận quan trọng nhất của phân tích tín dụng là đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư tín dụng theo dự án. Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư và mục đích hoạt động đầu tư của ngân hàng, việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của DAĐT được thực hiện thông qua các chỉ tiêu chính như sau:
- Chỉ tiêu tỷ lệ giữa lợi ích và chi phí :
Đây là chỉ tiêu so sánh giữa lợi ích thu được (Bene fit-B)và chi phí bỏ ra ( Cost-C) của dự án. Chỉ tiêu này cho biết lợi ích thu được trên một đồng vốn bỏ ra. Vì vậy, nếu hệ số B/C >= 1 thì dự án có thể chấp thuận. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm là không cho biết được quy mô tiền lời của dự án.
- Lãi ròng hàng năm và lãi ròng của cả đời dự án :
Lãi ròng là chênh lệch giữa doanh thu với chi phí. Lãi ròng hàng năm bằng doanh thu hàng năm trừ đi các chi phí trong năm. Lãi ròng trong cả đời dự án bằng tổng doanh thu của cả đời dự án trừ đi tổng chi phí của cả đời dự án. Để tính toán chính xác lãi ròng cần tính đến giá trị thời gian của đồng tiền. Thực chất của lãi ròng được tính theo thời điểm gốc còn gọi là giá trị hiện tại ròng hay hiện giá thuần.(Net present value- NPV)
- Chỉ tiêu lợi ích ròng trên tổng vốn đầu tư :
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia cho tổng vốn đầu tư. Đây là thước đo khả năng sinh lời của vốn đầu tư, là chỉ tiêu quan trọng để xác định hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của dự án càng cao và ngược lại.
- Tỷ suất lợi nhuận ròng của doanh số bán hàng :
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia cho doanh số bán hàng, tỷ lệ này được sử dụng để so sánh hiệu quả đầu tư vốn đối với từng loại sản phẩm để có sự lựa chọn đầu tư cho sản phẩm nào có hiệu quả hơn hoặc so sánh với cùng loại sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường để thấy rõ mức độ cạnh tranh.
- Tỷ suất lợi nhuận của vốn sở hữu :
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn sở hữu. Tỷ suất này cho biết một đồng vốn của chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ đó, cán bộ tín dụng có thể xác định được khả năng huy động lợi nhuận của khách hàng để thu nợ khi cần thiết.
- Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ ( Internal rate of return - IRR)
Nó có ưu điểm :Cho biết khả năng sinh lời riêng của dự án, có thể so sánh với lãi suất thị trường để quyết định đầu tư vì nó biểu thị lãi suất tối đa mà các dự án có thể chịu đựng được.
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn :
Nó phản ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư nhanh hay chậm. Tuy nhiên chỉ tiêu này có nhược điểm là không xem xét phần thu nhập sau thời gian hoàn vốn, không tính đến thời điểm phát sinh thu nhập và chi phí, không tính đến quy mô của dư án.
Cần phải xem xét cơ cấu vốn vay và vốn cổ phần. Phải có một cơ cấu vốn hợp lý vì sử dụng vốn vay phải trả lãi cố định, còn sử dụng vốn cổ phần sẽ phải trả lãi theo mức độ hiệu quả của dự án
-Chỉ tiêu phân tích, đánh giá khả năng thanh toán :
Giá trị tài sản có lưu động
Tỷ lệ lưu hoạt = ----------------------------------
Giá trị tài sản nợ ngắn hạn và nợ đến hạn.
Giá trị tài sản có lưu động - Giá trị tồn kho
Tỷ lệ cấp thời = ---------------------------------------------------
Giá trị tài sản nợ ngắn hạn
Dự án được đánh giá là có khả năng thanh toán tốt nếu : Tỷ lệ lưu hoạt khoảng từ 2 -4, tỷ lệ cấp thời vào khoảng 1
-Chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ của dự án :
Được xác định bằng tỷ lệ giữa khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án và nghĩa vụ hoàn trái (Bao gồm nợ gốc và lãi phải trả hàng năm ). Dự án được đánh giá là có khả năng trả nợ tốt nếu tỷ lệ này bằng hoặc lớn hơn 2.
5-/ Các nhân tố tác động tới hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM:
* Tình hình tài chính hiện tại và tương lai của ngân hàng :
Việc tự đánh giá như thế bao gồm việc đánh giá bản chất và biến động của các khoản ký thác, loại hình, chất lượng, thanh khoản, và mức đa dạng của các tích sản sinh lợi, và cuối cùng là phân tích tài khoản vốn.
Trong các yếu tố trên thì loại hình và mức biến động của các ký thác có ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện các khoản cho vay định kỳ. Trong cho vay trung và dài hạn nguồn vốn quan trọng nhất để NHTM có thể mở rộng cho vay là nguồn vốn trung và dài hạn. NHTM có thể dùng những khoản tiền gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn nhưng hoạt động này sẽ chỉ giới hạn ở một tỷ lệ nhất định của nguồn vốn ngắn hạn vì nếu tỷ lệ này quá cao, nó sẽ làm giảm tính thanh khoản của tài sản có.
* Các quy định của các nhà chức trách tiền tệ :
Những quy định này của các nhà chức trách tiền tệ nhằm hướng hoạt động của NHTM vào những mục tiêu có hiệu quả và hạn chế rủi ro có thể xảy ra. NHTM thông qua hoạt động của mình để góp phần thực hiện mục tiêu của Chính phủ trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
* Đội ngũ nhân viên tín dụng và cố vấn pháp lý được đào tạo trong hoạt động cho vay định kỳ:
Loại hình cho vay này không nhất thiết đòi hỏi các kỹ năng có được do kinh nghiệm như trong cho vay ngắn hạn hay trong cho vay tiêu dùng và bất động sản. Các thoả thuận trong cho vay định kỳ thường đòi hỏi các dịch vụ của các luật sư, kỹ sư và những người có kiến thức rộng về nghành công nghiệp mà người vay đang hoạt động.
ở Việt Nam, do điều kiện nền kinh tế mới chuyển hướng từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,chúng ta chưa có điều kiện như các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển, họ đã dày dạn kinh nghiệm trong cho vay trung, dài hạn. Vì vậy các cán bộ tín dụng nước ta thực hiện cho vay trung, dài hạn vẫn phải phấn đấu mọi mặt để có thể quyết định cho vay các dự án một cách hiệu quả nhất.
6. Quy trình cho vay trung và dài hạn.
- Giai đoạn xét duyệt khi cho vay
Sau khi nhận từ khách hàng hồ sơ xin vay (bao gồm đơn xin vay, luận chứng kinh tế kỹ thuật, phương án vay và trả nợ, báo cáo tình hình tài chính hồ sơ tài sản thế chấp. .) và hồ sơ ban đầu ( bao gồm quyết định thành lập doanh nghiệp,chứng nhận đang ký kinh doanh, giấy phép hành nghề. .), cán bộ tín dụng thẩm định hồ sơ xin vay theo trình tự :
+ Hồ sơ pháp lý
+ Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
+ Tình hình tài chính của doanh nghiệp
+ Tính khả thi của dự án, phương án vay; thẩm định về mặt kỹ thuật, mặt tài chính. .
Sau đó cán bộ tín dụng đánh giá tổng quát, ghi ý kiến trình trưởng phòng tín dụng, trưởng phòng tín dụng kiểm tra lại nội dung tờ trình ghi ý kiến trình giám đốc. Giám đốc duyệt và quyết định từ chối hay đồng ý cho vay, nếu cần đưa ra xem xét tại hội đồng tín dụng. ..
- Giai đoạn phát tiền vay :
Mỗi hợp đồng vay vốn khách hàng có thể rút làm nhiều lần, mỗi lần phải lập giấy nhận nợ hoặc khế ước vay. Cán bộ tín dụng theo dõi, giám sát từng lần rút tiền và kiểm tra việc sử dụng tiền vay của khách hàng.
- Giai đoạn thu nợ gốc và lãi :
Việc trả nợ gốc và lãi do hai bên thoả thuận, đến hạn trả nợ, khách hàng phải chủ động chuyển tiền trả nợ, nếu không ngân hàng được quyền trích tài khoản các loại để thu nợ. Trường hợp gặp khó khăn, khách hàng có thể được gia hạn nợ nếu tờ trình của cán bộ tín dụng được duyệt và chấp nhận.
7. > Hiệu quả tín dụng trung, dài hạn của NHTM
* Hiệu quả tín dụng trung dài hạn đối với bản thân NHTM :
Nói chung, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho NHTM nhưng phần lớn các rủi ro của ngân hàng cũng nằm trong hoạt động này. Vì vậy, thực hiện cho vay có hiệu quả để ngân hàng ngày càng phát triển là một nhu cầu nóng bỏng. Trong hoạt động cho vay, cho vay trung và dài hạn là bộ phận hay xảy ra rủi ro và để lại hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Vì vậy, trong quá trình phát triển của mình, các nhân hàng đã xây dựng nên các chỉ tiêu để nhìn vào đó họ có thể đánh giá phần nào thực trạng hiệu quả cho vay của mình để từ đó có những biện pháp xử lý và điều chỉnh phù hợp. Một số chỉ tiêu quan trọng nhất là
- Quy mô tín dụng trung, dài hạn: thể hiện ở doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế.
- Chất lượng tín dụng trung dài hạn : Thể hiện ở dư nợ quá hạn, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ.
- Tỷ lệ lãi từ cho vay trung, dài hạn trên tổng lợi nhuận của ngân hàng
- Một số chỉ tiêu khác.
* Hiệu quả tín dụng trung dài hạn của NHTM đối với phát triển kinh tế xã hội :
Đối với mỗi quốc gia, vai trò chủ yếu của đầu tư tín dụng trung, dài hạn được thể hiện ở chỗ ghóp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy và đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế lâu dài và vững chắc, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM tài trợ nhu cầu về vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp để mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để thực thi các dự án. Ngoài ra, chúng ta thấy rằng, sự cung cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn luôn kéo theo sự huy động tài nguyên rất lớn vào một mục tiêu cụ thể nào đó. Chính sự huy động vốn đó, nếu đạt hiệu quả thì sẽ mang lại cho xã hội và ngân hàng lợi ích to lớn và ngược lại sẽ gây tổn hại hết sức nghiêm trọng.
Vì vậy, đầu tư tín dụng trung, dài hạn NHTM phải đảm bảo phương châm lấy hiệu quả chung của nền kinh tế và hiệu quả riêng của mình cũng như của khách hàng vay vốn để làm mục đích trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG 2
Thực trạng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tạI Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
I > Sơ lược hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (VietcomBank - VCB )
1-/ Lịch sử hình thành và phát triển :
Ngày 1-4-1963 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được chính thức khai trương hoạt động với tư cách ngân hàng phục vụ kinh tế đối ngoại duy nhất của nước Việt Nam. Từ tổ chức tiền thân là cục quản lý ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia, VCB ra đời đã đánh dấu bước phát triển rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Trên 35 năm xây dựng và trưởng thành, VCB đã ghóp phần tích cực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Khi mới thành lập VCB mới chỉ có một cơ sở ở Hà Nội với 100 nhân viên, ngày nay đã trở thành một hệ thống hoàn chỉnh gồm Ngân hàng Ngoại thương trung ương và 22 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và hải cảng khắp đất nước, số nhân viên là 2500 người, có quan hệ đại lý với hơn 1300 ngân hàng thuộc 85 nước trên thế giới đảm bảo thực hiện các ngiệp vụ thanh toán, tín dụng quốc tế và các nghiệp vụ ngân hàng chính xác, an toàn. Trong thời gian qua, VCB đã triển khai mô hình tổ chức mới theo loại hình DNNN đặc biệt và sắp xếp lại tổ chức nội bộ, để thực hiện các đề án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Bên cạnh đó VCB còn đề ra kế hoạch cụ thể về đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực điều hành của cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và đội ngũ kỹ thuật viên ở trong và ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu cao của công nghệ mới đang được áp dụng vào hoạt động ngân hàng.
Hiện nay VCB cung cấp cho khách hàng các hình thức sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phong phú bao gồm :
+ Nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm bằng VND và ngoại tệ
+ Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ
+ Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài hệ thống Ngân hàng Ngoại thương
+ Bảo lãnh các khoản vay và thanh toán của các pháp nhân trong và ngoài nước
+ Kinh doanh ngoại tệ, làm các nghiệp vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng đối ngoại
+ Chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc, mua bán chứng khoán
+ Phát hành và thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế thuộc phạm vi hoạt động của VCB
+ Chuyển tiền trong và ngoài nước
+ Cho thuê tài chính
+ Làm các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, tín dụng, thanh toán quốc tế.
2 > Vài nét về tình hình hoạt động của VCB hiện nay
* Hoạt động huy động vốn
Ngay từ khi bước vào cơ chế thị trường, VCB đã chú trọng việc ổn định và tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là nguồn động lực tạo đà cho các mục tiêu chiến lược của ngân hàng. VCB đã tận dụng lợi thế của trên 35 năm hoạt động đối ngoại, áp dụng đồng thời nhiều biện pháp hữu hiệu của chiến lược kinh doanh để hỗ trợ nhiệm vụ trọng tâm này. Với truyền thống và kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại, VCB có hàng nghìn khách hàng là các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, TCTD, các ngân hàng trong và ngoài nước. Lợi thế này cho phép VCB có khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tiền gửi ngoại tệ. Qua việc nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, thực hiện có hiệu quả các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, phát hành thẻ thanh toán, với khối lượng ngày càng tăng. VCB đã giúp cho khách hàng quản lý an toàn, có hiệu quả nguồn vốn của mình. Do vậy nguồn vốn ngoại tệ đã được duy trì và tăng trưởng ổn định tại VCB. Là một trong những ngân hàng chủ lực của nền kinh tế Việt Nam, có mạng lưới ngân hàng đại lý trên nhiều nước, VCB đã tích cực triển khai các hình thức huy động vốn nước ngoài như vay tài chính, vay thương mại từ các TCTD quốc tế.
Từ cuối năm 1997, VCB đã chú trọng việc mở rộng huy động vốn từ thị trường vốn VND, loại vốn này trước đây chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (năm 1991 vón nội tệ chiếm 10,3% tổng nguồn vốn, năm 2001 tổng nguồn vốn là 33824 tỷ đồng, vốn nội tệ chiếm ) VCB đã áp dụng một chính sách khách hàng thực sự hấp dẫn cùng với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó lãi suất và điều kiện trả lãi được áp dụng một cách linh hoạt và đóng vai trò quan trọng trong chính sách huy động vốn
Đồng thời với các hình thức huy động vốn nói trên, VCB cũng tăng cường mở rộng mạng lưới trong và ngoài nước để mở rộng quy mô huy động vốn, kết quả là trong 10 năm gần đây, tổng nguồn vốn của VCB đã tăng trưởng không ngừng. Tính đến cuối tháng 11/2001 tổng nguồn vốn của VCB đạt 33824 tỷ đồng, tăng 25,7% so với năm 2000.
Tổng nguồn vốn của VCB tại thời điểm 31/12
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng nguồn vốn
13399
16727
21493
23208
26907
33824
Mức so với năm 1996
100%
125%
160%
173%
201%
252%
Tỷ trọng vốn VND
15%
21%
28%
33%
36%
40%
* Hoạt động cho vay
Phát huy vai trò chủ đạo của VCB trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, tín dụng của VCB đã giúp cho nhiều doanh nghiệp phát triển kinh doanh có lãi. Tuy nhiên trên cơ sở những “ bài học “ phải trả giá đắt cho một vài năm qua, việc chỉ đạo điều hành đã có những đổi mới thực sự. Cùng với việc tập trung toàn lực vào việc khắc phục những tồn tại trong công tác tín dụng, hoạt động tín dụng của VCB đã bắt đầu có sự tăng trưởng theo một định hướng đầu tư mới, đó là đầu tư trọng điểm cho các dự án quốc gia, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước lớn. Quy trình quy phạm thẩm định, xem xét các dự án đầu tư thông qua hội đồng tín dụng đã nhanh chóng được áp dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được VCB, thực hiện phương châm đầu tư thận trọng, có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đã được định hướng trong chính sách tín dụng của chính sách tài chính quốc gia trong từng thời kỳ. Vốn tín dụng của VCB sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, các nghành sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng hoá nhập khẩu. Đặc biệt VCB sẽ dành một lượng vốn thoả đáng đầu tư cho các dự án công nghệ tiên tiến, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (điện lực, hàng không, bưu điện. .)nhằm ghóp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tổng dư nợ tín dụng của VCB tính đến 31/12 hàng năm
( Đơn vị ; tỷ VND )
Năm
Tổng dư nợ
Cho vay bằng VND
Cho vay ngoại tệ
quy ra VND
Tín dụng
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
1996
5436
1073
20%
4383
80%
1997
7026
1746
25%
5250
75%
1998
8481
2963
35%
5518
655
1999
8412
3965
47%
4447
53%
2000
8668
4462
51%
4206
49%
2001
11034
Nguồn: Báo cáo hội nghị tổng giám đốc 3/2002
* Hoạt động thanh toán quốc tế
Công tác thanh toán quốc tế vẫn được coi là một thế mạnh của VCB so với các NHTM khác của Việt Nam. Mạng lưới ngân hàng đại lý tại các nước của VCB ngày càng được mở rộng thêm, nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh toán cũng như huy động vốn nước ngoài của VCB. Trong năm 2000, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 7,2 tỷ USD, bằng 30% kim nghạch xuất nhập khẩu của cả nước, doanh số chuyển tiền qua hệ thống VCB đạt tương đương 3,6 tỷ USD. Như vậy trong năm 2000, VCB đã thực hiện kim nghạch luân chuyển ngoại tệ giữa trong và ngoài nước đạt gần 11 tỷ USD. VCB đã tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu trong hoạt động đối ngoại.
* Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có tầm quan trọng lớn đối với VCB do lãi thu từ kinh doanh ngoại tệ là nguồn thu không nhỏ trong tổng doanh thu của ngân hàng ( Năm 2000, tỷ lệ này là 4,3% ). Việc kinh doanh ngoại tệ của VCB luôn luôn tuân thủ đúng chính sách tiền tệ cũng như tình hình tài chính trong nước và khu vực. Trong điều kiện cán cân thương mại còn nhập siêu, khủng hoảng tài chính trong khu vực gây tâm lý găm giữ ngoại tệ trong nền kinh tế. Trước tình đó, VCB đã kiên trì thực hiện các chủ trương khai thác mọi nguồn thu ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế khi đến hạn.
- Doanh số mua vào năm 2000 đạt 4064 triệu USD, bằng 85% năm 1999
- Doanh số bán ra năm 2000 đạt 4031 triệu USD, bằng 80& năm 1999
* Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ
VCB đã đi đầu trong việc áp dụng các phương thức thanh toán, đó là việc ứng dụng thẻ thông minh, một loại công nghệ mới có tính bảo mật rất cao và đang có nhiều hứa hẹn phát triển. Từ tháng 4-1998 và tháng 6-1999, VCB đã trở thành thành viên chính thức tại Việt Nam của hai tổ chức thẻ hàng đầu thế giới là Master card và Visacard quốc tế. Đồng thời, VCB cũng là đại lý thanh toán duy nhất tại Việt Nam cho hai tổ chức thẻ quốc tế khác là America express và Jcb. Thẻ tín dụng quốc tế tuy còn mới mẻ với thị trường Việt Nam, nhưng năm 2000 hoạt động thanh toán và phát hành thẻ đã dạt được doanh số trên 100 triệu USD với số thẻ bán được là 794 thẻ.
II > Thực trạng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại VCB
1 > Cho vay trung, dài hạn của VCB thời gian gần đây
a > Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng của VCB từ 1991 đến 2001
( Đơn vị ;tỷ đồng )
Ngắn hạn
Trung,dài hạn
Năm
Tổng dư nợ
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
1994
2170
2134
98%
36
1.7%
1995
3595
3573
99%
22
1%
1996
5456
4351
80%
1105
20%
1997
7026
5168
74%
1858
26%
1998
8481
6388
75%
2093
25%
1999
8412
6208
74,81%
2118,8
25,2%
2000
8700
6288,2
72,28%
2411,8
27,72%
2001
11034
8056,9
72%
2937,1
28%
Nguồn: báo cáo hội nghị tổng giám đốc năm 2002
VCB không ngừng tăng trưởng tín dụng, thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn. Năm 1988 - 2001, mười năm vốn tín dụng của VCB đã được đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau ; từ lĩnh vực thương mại, sản xuất, dịch vụ tới những lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng. .
Năm 1994 dư nợ tín dụng là 2170 tỷ đồng, năm 1996 đạt 5456 tỷ đồng, năm 1999 đạt 8412 tỷ đồng, năm 2000 đạt 8700 tỷ đồng và đến tháng 10-2001 đạt 11034 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2000 và gấp 45 lần so với năm 1988. Như vậy mức dư nợ bình quân trong 10 năm qua đạt gần 5000 tỷ đồng. Cơ cấu tín dụng cũng được thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng cho vay trung, dài hạn. Năm 1988 bắt đầu thực hiện cho vay trung, dài hạn. Năm 1994 dư nợ cho vay trung, dài hạn đạt 36 tỷ, chiếm 1,7%, năm 1996 đạt 1105 tỷ, chiếm 20 % ;năm 1999 đạt 2118.8 tỷ, chiếm 25.2% và năm 2000 đạt 2411.8 tỷ, chiếm 27.72% tổng dư nợ tín dụng. Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn bình quân 10 năm qua chiếm 24% tổng dư nợ. Tín dụng của VCB đã tập trung vào các nghành kinh tế mũi nhọn, các tổng công ty lớn của nhà nước, các lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, các dự án và các lĩnh vực kinh tế được nhà nước khuyến khích và ưu tiên như dầu khí, đường dây tải điện 500 KV, mở rộng mạng điện lực phía nam, hiện đại hoá nghành bưu chính viễn thông, xuất khẩu lương thực, lâm hải sản.
* Cho vay trung dài hạn các khu vực của nền kinh tế.
(Đơn vị:Triệu VND)
Khu vực
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ & nghành khác
1999
64.387
995.337
1.059.074
2000
68.154
1.065.750
1.277.870
2001
91.274
1.232.579
1.613.213
Nguồn : Báo cáo thường niên của VCB các năm 1999,2000,2001
* Cho vay trung dài hạn các thành phần kinh tế.
Năm
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Thành phần kinh tế
Nghìn USD
Triệu VND
Nghìn USD
Triệu VND
Nghìn USD
Triệu VND
Nhà nước
148250
254256
134064
257504
137376
403929
Hợp tác xã
0
256
0
9330657
0
657
Cty cổ phần, TNHH
7863
44495
6880
103996
3822
106628
Tư nhân
48
3178
33
15236
0
28796
Liên doanh
5509
4449
6110
20769
6842
22348
Nước ngoài
0
0
0
15315
345
18055
Thành phần khác
0
11442
0
50
0
36660
Tổng
161670
317820
147087
413084
148385
617067
Tổng dư nợ
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung dài hạn
Số liệu về cho vay trung, dài hạn của VCB ba năm gần đây nhất cho chúng ta thấy VCB đã không ngừng nỗ lực đẩy mạnh thời hạn cho vay dài hơn đối với các thành phần kinh tế góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khối lượng tín dụng này phần lớn là cho vay các doanh nghiệp nhà nước, năm 2000 tỷ lệ này là 85%, năm 2001 tỷ lệ này là 86%, sau đó đến tỷ lệ cho vay đối với các công ty cổ phần và công ty TNHH, chiếm tỷ lệ 7.5% năm 2000 và 5.3% năm 2001, sau nữa là đến các công ty liên doanh. Như vậy trong cơ cấu cho vay của VCB vì các DNNN là đối tượng chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng có tốc độ tăng tỷ lệ cho vay cao hơn. Cho vay đối với các công ty cổ phần, công ty TNHH tuy vẫn còn cao hơn các thành phần khác nhưng năm 2001 đã có những dấu hiệu sút giảm, các công ty liên doanh, công ty nước ngoài ngày càng vay vốn nhiều hơn từ VCB. Điều đó được giải thích vì VCB hướng cho vay của mình vào các nghành kinh tế mũi nhọn, các tổng công ty. ..để đảm bảo an toàn hơn đối với khoản cho vay đồng thời cũng góp phần thực h._.h thích khách hàng yên tâm gửi tiền : Ngoài rủi ro lớn nhất mà khách hàng lo sợ là ngân hàng phá sản thì họ còn lo một điều nữa là tiền gửi của họ với mức lãi suất không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi, nhất là khi gửi dài hạn. Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động phải lớn hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Như vậy để khuyến khích khách hàng gửi tiền dài hạn cần tạo một khoảng cách rõ rệt giữa lãi suất huy động dài hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên đề nghị này không có nghĩa là phải tăng lãi suất huy động trung, dài hạn vì như vậy sẽ dẫn đến phải tăng lãi suất cho vay trung, dài hạn, điều mà các nhà sản xuất không thể chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao thì thì họ sẽ không dầu tư trực tiếp vào các phương án kinh doanh mà gưỉ tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Điều này càng nguy hiểm vì ngân hàng sẽ ứ đọng vốn, không giải quyết được đầu ra. Vì vậy, cần có sự cân đối giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn và trung, dài hạn để tạo một khoảng cách cần thiết giữa hai mức lãi suất này.
+ VCB nên có chủ trương huy động vốn trung, dài hạn thường xuyên, liên tục hơn :
Thời gian qua, nhất là năm 1999, 2000 VCB hầu như huy động vốn trung dài hạn rất thấp, còn các kỳ phiếu, trái phiếu trung, dài hạn cũng không được phát hành thường xuyên. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với định hướng mở rộng quy mô tín dụng trung, dài hạn của VCB. Vì vậy để tăng nhanh doanh số huy động trung,dài hạn VCB cần có chủ trương và đa dạng hoá các loại hình huy động trung, dài hạn với mức lãi suất phù hợp. Bên cạnh đó VCB cùng các NHTM khác cần thiết lập một thị trường trái phiếu dài hạn linh hoạt, tích cực. Thực hiện chiết khấu, mua lại hoặc bán lại các trái phiếu dài hạn cho dân cư, điều đó cho phép người chủ trái phiếu có thể đổi các trái phiếu thành tiền dễ dàng khi có nhu cầu.
- Về nguồn vốn bộ tài chính chuyển sang :
Nguồn vốn từ Bộ Tài chính chuyển sang sẽ góp phần đáng kể tăng cường doanh số cho vay trung, dài hạn. Tuy nhiên, cần khắc phục nhược điểm hiện nay là nguồn vốn này thường rót xuống chậm. Thông thường cuối quý 2 hoặc đầu quý 3 Bộ Tài chính mới rót vốn tín dụng ưu đãi cho ngân hàng. Điều này làm ách tắc khâu giải ngân, không thể phân phối hết số vốn ưu đãi trong năm thực hiện, làm chậm trễ kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị trong diện được vay vốn. Ngoài ra, phần chênh lệch lãi suất mà ngân sách mà Ngân sách phải bù cho ngân hàng được chuyển sang rất chậm, thường năm sau mới thanh toán cho năm trước cho năm trước.
- Vốn nước ngoài
+ Vốn uỷ thác tài trợ phát triển : Nguồn vốn này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất rất thấp ( Trong đó có một phần không hoàn trả) và thời gian hoàn trả rất dài (30 –40 năm ), trong đó nguồn vốn ODA lớn và quan trọng nhất. Đây là nguồn tài trợ phát triển chính thức của hơn 20 quốc gia trên thế giới giúp Việt Nam từ năm 1996. Để cho tốc độ giải ngân nhanh, tận dụng được toàn bộ mức vốn mà đơn vị tài trợ cho Việt Nam, VCB cũng như các NHTM khác với tư cách được Bộ Tài chính cử làm đại lý phải tính toán chính xác lãi suất hoà đồng và các biện pháp đồng bộ kết hợp cả phía tài trợ, phía Việt Nam và bản thân VCB.
+ Vốn vay nước ngoài :
VCB hiện nay có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các ngân hàng trên thế giới việc đi vay có nhiều thuận lợi. Lãi suất vay sẽ là lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới (6,3 –6,5 % /năm ). Nếu cộng thêm phí để cho khách hàng vay lại với lãi suất hiện nay thì có thể thu lãi từ khoản vay này. Để có thể sử dụng nguồn vốn này, khi vay VCB phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một TCTD không vượt quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số dư nợ chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài VCB phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
2 > Giải pháp xử lý các khoản nợ khê đọng :
Đối với từng loại nợ và trong từng trường hợp cụ thể các giải pháp như sau :
* Nợ của các doanh nghiệp đã giải thể :
Ngày 1-10-2001,luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực. Để giúp cho các ngân hàng hoạt động có hiệu quả trong môi trường pháp lý mới cần thiết phải giải quyết triệt để tình hình nợ của các DNNN kéo dài trong nhiều năm qua tại VCB.
Để xử lý các khoản nợ này, cách tốt nhất là NSNN phải thanh toán cho VCB. Trong thực tế, việc xử lý nợ ( Không thay đổi tính chất sở hữu ) sẽ giúp cho VCB lành mạnh hoá tài chính để chuyển sang một giai đoạn mới và tạo điều kiện để thâm nhập vào thị trường tài chính quốc tế.
Trước mắt NSNN chưa có nguồn vốn để thanh toán thì NHNN có thể cho ngân sách vay và khoản nợ này sẽ được xử lý bằng vốn của ngân sách.
* Nợ của các doanh nghiệp phá sản theo quyết định của toà án.
Đối với các doanh nghiệp phá sản, nợ vay ngân hàng chia làm hai loại ;nợ có bảo đảm trong đó chủ yếu là thế chấp tài sản và nợ không bảo đảm.
Nợ có bảo đảm sẽ được xử lý như 3 mục dưới đây, còn đối với nợ không có bảo đảm thì có thể áp dụng cách xử lý như sau :Khi doanh nghiệp đã có quyết định tuyên bố phá sản, 50% dư nợ được loại khỏi bảng tổng kết tài sản và được tính vào chi phí, 50% còn lại sẽ được xử lý khi phát mại tài sản.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng việc phát mại tài sản đối với một doanh nghiệp phá sản thường kéo dài từ 3-5 năm và giá bán tài sản thường thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế, vì vậy nếu không tính ngay vào chi phí 50% thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của ngân hàng vì :
+Khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngân hàng không được tính lãi trên số tiền cho vay, trong lúc đó phải trả lãi cho người gửi tiền.
+Phải đóng thuế thu nhập cho NSNN trên cơ sở lợi nhuận trước thuế theo hạch toán lớn hơn thực tế.
+đối với 50% dư nợ còn lại theo tình hình thực tế khi đã phát mại tài sản có 3 tình huống xảy ra như sau :
++Phần thanh toán cho ngân hàng bằng 50% dư nợ còn lại ;Hợp đồng cho vay sẽ được thanh lý.
++Phần thanh toán cho ngân hàng nhỏ hơn 50% dư nợ còn lại, thanh lý hợp đồng tín dụng và đưa phần còn thiếu so với 50% dư nợ vào chi phí.
++Phần thanh toán cho ngân hàng lớn hơn 50% dư nợ. Thanh lý hợp đồng tín dụng và hạch toán phần chênh lệch vào thu nhập trước thuế (Để đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước ).
* > Nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
Đối với các doanh nghiệp có nợ vay VCB có đảm bảo nhưng không có khả năng thanh toán thì có thể xủ lý theo các cách sau :
- VCB mua lại TSTC để trả nợ, sau đó bán ra thị trường hoặc bán cho công ty kinh doanh bất động sản trực thuộc ngân hàng.
Cách xử lý này có thể áp dụng trong 2 trường hợp :
+Các hợp đồng thế chấp tài sản có thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi người đi vay không thanh toán được nợ.
+Hai bên thoả thuận bán TSTC cho ngân hàng đối với hợp đồng thế chấp thông thường.
Trở ngại lớn nhất khi áp dụng cách xử lý này là vấn đề thuế. Hiện nay, mỗi lần chuyển quyền sở hữu đều phải đóng thuế trước bạ. Để cách xử lý này được áp dụng dễ dàng thì nhà nước nên quy định miễn thuế trước bạ đối với chuyển nhượng TSTC trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
+Phát mại tài sản theo quyết đinh của toà án dưới hình thức bán đấu giá. Cách xử lý này áp dụng theo trình tự như mục trên.
Ngoài ra trong trường hợp đặc biệt, toà án có thể chuyển giao TSTC cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng có thể xử lý theo một trong 2 cách trên.
3 > Một số giải pháp để làm giảm nợ quá hạn của khoản cho vay trung, dài hạn tại VCB hiện nay
- Ngân hàng kinh doanh tiền tệ phải dựa vào thực lực tài chính của các doanh nghiệp. Đối với DNNN khi vay vốn phải quan tâm tới khả năng trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi chứ không nhất thiết là đủ tài sản bảo đảm và đủ vốn đối ứng. Hơn nữa, đối với DNNN khi cho vay VCB nên căn cứ vào hiệu quả và tính khả thi của dự án xin vay cũng như uy tín của DNNN đó trên thị trường.
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh không nên coi tài sản bảo đảm là chỗ dựa an toàn cho số tiền vay phát ra và tài sản bảo đảm là một công cụ duy nhất để bảo đảm việc thu hồi nợ mà phải xác định tư cách của người vay và doanh nghiệp đó phải sử dụng vốn vay như thế nào, khả năng trả nợ ra sao. .Bởi vì TSTC, cầm cố, bảo lãnh chỉ là cơ sở để NHTM có khả năng thu hồi nợ vay khi doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ, song không phải TSTC, cầm cố, bảo lãnh nào cũng dễ dàng bán ra để NHTM thu nợ một cách kịp thời và thực tế đã chứng minh rằng thu nợ bằng tài sản xiết nợ đang là gánh nặng khi xử lý của VCB.
Thực chất, việc thu hồi nợ bằng tài sản bảo đảm của khách hàng chẳng phải là một giải pháp tốt mà đó chỉ là một giải pháp tình thế, bắt buộc và khả năng thu bằng tiền thực sự từ phát mại TSTC, cầm cố, bảo lãnh cũng là một công việc nhiều khó khăn. Đó là chưa kể chúng là bất động sản không thuận tiện giao thông hay có giá trị cao ít có đối tượng mua.
- Cổ phần hoá các DNNN.
Cổ phần hoá các DNNN là một phương thức sắp xếp lại DNNN, huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào phát triển nền kinh tế. Do vậy chúng ta có thể nói :Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để DNNN có cơ hội tăng vốn tự có, trang trải nợ nần, tạo ra sức cạnh tranh mới, dưới một hình thức quản lý mới. Nếu không khẩn trương thực hiện việc cổ phần hoá, thì doanh nghiệp sẽ mất cơ hội tiếp cận với các khoản tín dụng lớn. Khi cổ phần hoá các DNNN thì NHTM có thể cho vay với phạm vi khách hàng rộng hơn với các yếu tố để có thể chấp nhận cho vay mà doanh nghiệp đưa ra cũng đầy đủ, trung thực hơn do đặc điểm của các công ty cổ phần. Vì vậy có thể làm giảm nợ quá hạn so với hiện nay khi mà chỉ có một số ít các công ty cổ phần mới được thành lập. VCB cũng như các NHTM khác phải cho vay trung, dài hạn trong điều kện không thuận lợi.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Rà soát lại về vốn thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tăngvốn điều lệ cho để phù hợp với quy mô và tốc độ phát triển của các DN NQD. Đặc biệt các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp ra đời của các DNNQD bằng “vốn ảo “ và mạnh dạn cho giải thể các DNNQD đến nay không có khả năng thanh toán nợ đến hạn
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức tổng quát cho cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng vẫn là khâu quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM. Do vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức tổng quát cho cán bộ tín dụng là một yêu cầu cấp thiết. để có thể hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng thì trước mắt cán bộ tín dụng phải thực hiện tốt chức năng của mình trong quá trình tiếp nhận hồ sơ vay vốn, quá trình thu thập thông tin và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính cũng như phải nắm chắc các yếu tố pháp lý trong khi xem xét giải quyết cho vay và năms chắc được cả mục đích sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của doanh nghiệp từ bảng luân chuyển vôns bằng tiền trong tương lai. Đặc biệt, cán bộ tín dụng phải thường xuyên, lên tục theo dõi sự vận động của vay để sớm phát hiện ra sự tiềm ẩn của rủi ro tín dụng và có biện pháp kịp thời thu hồi vốn.
Nghiệp vụ cho vay không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Muốn hiểu được khách hàng thì không thể chỉ thông qua cách báo cáo hay trình bày của doanh nghiệp mà cán bộ tín dụng phải nắm bắt được khả năng, nhu cầu thực tại và trong tương lai của khách hàng một cách khách quan và qua việc cán bộ tín dụng phải sẵn sàng và có đủ khả năng tách khỏi môi trường ngân hàng quen thuộc của mình để đi khaỏ sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay và năng lực quản lý của người vay.
- Quy định quỹ rủi ro với một tỷ lệ hợp lý :
VCB được tạo lập quỹ rủi ro với một tỷ lệ phần trăm hợp lý trên cơ sở tổng dư nợ hiện có của mình dưới sự cho phép của Bộ Tài chính và NHNN. Ngoài ra cần phải chú ý thêm quỹ này quy định cũng cần phải dựa vào các món nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. VCB sẽ căn cứ vào thể chế tín dụng hiện hành để phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra món nợ khó đòi, nếu là nguyên nhân khách quan thì được phép dùng quỹ rủi ro để xử lý.
4 > Giải pháp xử lý tải sản thế chấp tại VCB.
Đứng trước một thực trạng là tổng số dư nợ quá hạn 1498 tỷ đồng chiếm gần 14% tổng dư nợ trong đó số nợ gốc đã khoanh là 942 tỷ đồng, VCB đã phải áp dụng biện pháp tình thế là nắm giữ các tài sản của các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Các tài sản đó có thể được xử lý theo 2 cách :
Một là :Xiết nợ tài sản, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho VCB;gồm khách sạn, nhà cửa, kho bãi. ..
Hai là :Xiết nợ tài sản, dùng tài sản đó góp vốn liên doanh khai thác.
Tuy nhiên sau khi xiết nợ phải có biện pháp để thu hồi vốn.
Ban lãnh đạo VCB đã tập trung chỉ đạo toàn hệ thống đẩy mạnh các biện pháp xử lý tài sản. Tính từ đầu năm 1999 cho tới nay, VCB đã xử lý được một số tài sản, giảm được 212 tỷ đồng trong tổng số 487 tỷ đồng ứ đọng ở tài sản xiết nợ tại thời điểm 31-12-1998, cụ thể (tính tròn số ).
+Xử lý bán,cho thuê tài sản : 12 tỷ đồng.
+Mua làm trụ sở giao dịch cho VCB :23 tr đồng.
+Các doanh nghiệp lấy lại tài sản, trả nợ ngân hàng :176 tỷ đồng.
Số liệu trên đây cho thấy biện pháp xử lý đạt được hiệu quả cao là Ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện tổ chức lại, phát triển kinh doanh để có khả năng tài chính, thanh toán nợ cho Ngân hàng, nhận lại tài sản trươc đây đã gán nợ. Số tài sản này chủ yếu là đất đai. Trong cơn sốt đất đai năm 1996, 1997 các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh địa ốc, vốn bị ứ đọng, vừa không có vốn tiếp tục kinh doanh, vừa không đủ khả năng trả nợ Ngân hàng. Các doanh nghiệp này đứng trước nguy cơ phá sản hoặc bị giải thể. Ngân hàng Ngoại thương đã xem xét các trường hợp cụ thể. Đối với các doanh nghiệp đã được chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở, mở rộng các khu dân cư, VCB xiết nợ một phần dự án. Bước tiếp theo là ngân hàng hỗ trợ một phần để các doanh nghiệp thiết kế quy hoạch, xây dựng các công trình hạ tầng, chia thành các lô, bán để thu hồi vốn.
Ngoài biện pháp nêu trên và dùng quỹ phát triển để mua một số căn nhà làm phòng giao dịch theo nhu cầu của ngân hàng. Ban lãnh đạo VCB cũng đặc biệt quan tâm, chỉ đạo xử lý tài sản xiết nợ theo hướng bán đứt các tài sản hoặc cho thuê. Hiện nay VCB còn quản lý các tài sản thế chấp của các công ty Minh Phụng, Epco,..tạm nhận bàn giao theo chỉ đạo của Chính Phủ. Đối với các tài sản này, ngân hàng mới chỉ được phép cho thuê hoặc sử dụng và phải bảo quản, chờ xét xử. Để kịp thời xử lý các tài sản. Ban lãnh đạo VCB đã quyết định thành lập bộ phận chuyên trách, quản lý và khai thác các tài sản thế chấp tại Sở giao dịch Trung ương và một số chi nhánh. Đồng thời với việc triển khai cho thuê tài sản, ban lãnh đạo đã chỉ đạo xây dựng đề án thành lập công ty khai thác tài sản để xử lý các tài sản thế chấp sau khi có quyết định giao chính thức cho ngân hàng.
Như vậy giải pháp cho VCB trong xử lý tài sản thế chấp có tính khả thi cần có sự quan tâm của các bộ, nghành chủ quản liên quan, có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hoạt động này, cho phép ngân hàng được thành lập công ty chuyên doanh, được phép kinh doanh nghành ngề có liên quan đến việc xử lý tài sản như kinh doanh (Bán, cho thuê.. ) tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, gồm cả động sản và bất động sản. Trong khi chưa bán được tài sản, ngân hàng được phép đưa các tài sản đó vào khai thác, đầu tư bảo quản tài sản.
Do giá trị các tài sản lớn, các doanh nghiệp ít có khả năng đầu tư kinh doanh do hạn hẹp về vốn, việc xử lý các tài sản cần có thời gian, cần có chính sách hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp có hướng đầu tư vào các tài sản này, có chính sách ưu tiên cho việc cho việc xử lý tài sản như miễn thuế ( thuế chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng, thuế trước bạ.. ). Đối với trường hợp chuyển nhượng các tài sản này cần được đơn giản các thủ tục..
5> Giải pháp về chiến lược khách hàng của VCB:
Phát huy những thành quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của VCB trong những năm qua là tập trung vào các nghành kinh tế mũi nhọn, các tổng công ty lớn của nhà nước, các lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, các dự án và các lĩnh vực kinh tế được nhà nước khuyến khích và ưu tiên như dầu khí, đường dây tải điện 500 KV, mở rộng mạng điện lực phía Nam, thuê mua máy bay của Việt Nam airline, hiện đại hoá nghành bưu chính viễn thông, xuất khẩu lương thực, lâm hải sản. Vì vậy VCB phải mở rộng cho vay trung, dài hạn nhưng cũng cần quan tâm đến khách hàng trọng điểm.
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để có thể thu hút nhiều khách hàng đến với mình. Cải tiến quy trình nghiệp vụ nhằm tiết kiệm thời gian và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng cũng như đem đến cho khách hàng lãi suất hợp lý cho khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng.
Bám sát các định hướng của nhà nước về chiến lược phát triển của nền kinh tế, tiếp cận với các dự án, các trương trình kinh tế khả thi,chủ động tìm đến với các khách hàng đang có nhu cầu về vốn. Điều này đòi hỏi có sự thay đổi cơ bản nhận thức của toàn bộ các cán bộ ngân hàng về vai trò quan trọng và quyết dịnh của khách hàng đến sự tồn tại của VCB nói chung và quyền lợi của từng cán bộ nói riêng.
6> Các báo cáo tài chính của xin vay cần được kiểm toán xác nhận.
Người cho vay sử dụng các báo cáo tài chính và ngân quỹ để ước lượng nhu cầu vốn của người xin vay, đánh giá khả năng trả nợ ước lượng thiệt hại có thể có nếu người vay không hoàn trả và quyết định các điều khoản tài trợ nếu cho vay. Các nhân viên tín dụng phải tránh lệ thuộc quá nặng vào các thông tin trong bảng quyết toán lịch sử vì tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể thay đổi. Thông tin từ các bản báo cáo lợi tức trước đó cũng phải được sử dụng thận trọng vì số liệu lợi nhuận quá khứ chưa hẳn là cơ sở đáng tin cậy cho dự báo tương lai. Đây không phải là sự phủ nhận tầm quan trọng của việc đánh giá tình hình tài chính hiện nay của người vay và tầm quan trọng cuả việc kiểm tra mức độ và chiều hướng của các lợi tức trong quá khứ, nhưng nhân viên tín dụng cần thiết phải biết tình hình tài chính, khả năng sinh lợi và các nhu cầu ngân quỹ của người vay sẽ như thế nào trong tương lai. Giá trị chủ yếu của các báo cáo tài chính lịch sử là giúp đánh gía tính hợp lý của các dự báo về ngân quỹ và lợi nhuận của người vay. Ví dụ, nếu mức lãi trước khi nộp thuế của người vay trung bình là 5% trong những năm gần đây và không bao giờ vượt quá 6%, một dự báo cho thấy, giả sử 8% là đáng nghi vấn.
Tất cả những gì ở trên mà cán bộ có thể nắm bắt được sẽ quyết định một phần một phần rất quan trọng để có thể quyết định có cho khách hàng vay hay không. Nhưng việc đánh giá trên chỉ có ý nghĩa khi các báo cáo tài chính là trung thực, điều này đòi hỏi VCB phải yêu cầu ở họ một sự trung thực khi đi vay nhưng phải đồng thời kết hợp thêm các báo cáo tài chính họ đưa ra là các báo cáo tài chính phải được cơ quan kiểm toán xác nhận là trung thực
Ngoài ra đối với những báo cáo tài chính có thể không được kiểm toán ví dụ các báo cáo tài chính của nhiều công ty nhỏ, thì chúng phải được đánh gía cẩn thận với một mức độ nghi ngờ. Thông thường cần xem xét các báo cáo tài chính của các tháng trước, kết hợp với các báo cáo tài chính taì chính tạm thời chưa được kiểm toán. Trong trường hợp đó nhân viên tín dụng nên xem xét cẩn thận chất lượng của các báo cáo tài chính tạm thời, ngay cả những báo cáo kiểm toán cũng phải được sử dụng một cách thận trọng. Cần nhiều cách đánh giá khác nhau trong việc quyết định lại giá trị kế toán của các tích sản của một doanh nghiệp và khối lượng lợi nhuận của nó. Người cho vay quan tâm đến mức độ bảo toàn của các chỉ tiêu này. Việc một doanh nghiệp đang tuân theo các nguyên tắc kế toán thông thường được chấp nhận cũng không được xem là đầy đủ, do các nguyên tắc đó thường đem lại nhiều quyền hạn trong việc công nhận lợi tức và chi phí. Nếu phải dựa trên các dự báo về ngân quỹ và các báo cáo tài chính tạm thời của người vay, nhân viên tín dụng phải xem xét thận trọng các giả thuyết quan trọng về lợi nhuận, chẳng hạn như khối lượng hàng bán, giá bán, mức lương, các chi phí bán hàng và quản trị.
7 > Giải pháp đối với vấn đề rủi ro về tỷ giá:
Do tỷ giá biến động theo chiều hướng ngày càng tăng lên làm cho doanh nghiệp vay vốn của VCB bằng ngoại tệ sẽ lâm vào tình trạng ngày càng khó khăn hơn về việc trả gốc và lãi cho VCB. Đối với VCB, tồn tại này đặt ra hết sức cấp thiết và cần được giải quyết vì hiện nay VCB vẫn là ngân hàng thực hiện cho vay vốn ngoại tệ trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp với mức dư nợ lớn nhất nước ta, năm 2001 thực hiện cho vay 178.489 USD, chiếm 79% tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn và bằng khoảng 21.02% tổng dư nợ của VCB. Giải pháp có thể thực hiện theo hướng sau:
VCB trong quá trình cho vay đã nắm được các nội dung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sau khi cho vay cán bộ tín dụng cũng thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tình trạng tài sản bảo đảm, chủ động kịp thời phát hiện các trường hợp sử dụng vốn sai mục đích hoặc nguy cơ gây mất vốn.. để có kiến nghị giải quyết kịp thời. Xem xét xử lý các khó khăn vướng mắc như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, bổ sung hoàn chỉnh các hồ sơ vay vốn, đôn đốc thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn. Như vậy các cán bộ tín dụng của VCB có thể hỗ trợ doanh nghiệp rất nhiều trong việc nâng cao hiệu quả sxkd vì họ thường xuyên kết hợp với doanh nghiệp nên biết được tình hình sản xuất kinh doanh của doânh nghiệp, phương hướng hoạt động trong tương lai nên có thể đưa ra những ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp. Trong số đó cán bộ tín dụng của VCB bằng kiến thức, năng lực của mình và cùng với các phòng chức năng liên quan đến ngoại tệ sẽ đưa ra những tư vấn cho doanh nghiệp về những hoạt động liên quan đến ngoại tệ.
VCB phải lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải thoả thuận trong hợp đồng về việc tạo lập và sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái. Với phương pháp này doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng, quỹ này được hình thành từ lợi nhuận để lại và thu nhập khi tỷ giá biến động thuận lợi. Sau đó quỹ được dùng để bù đắp chi phí khi tỷ giá biến động bất lợi. Tuy nhiên, cách này có nhược điểm là đòi hỏi có những theo dõi phức tạp về mặt kế toán và dễ dẫn đến tình trạng sử dụng quỹ dự phòng vào việc khác.
8 > Một số giải pháp khác để hạ thấp rủi ro tín dụng trung, dài hạn.
Giải pháp hạ thấp mức cho vay hoặc phân tán rủi ro: khi không đủ căn cứ để có thể nhận xét hoàn hảo về khách hàng vay vốn, hoặc nhu cầu vốn lớn đối với dự án khả thi, mà nếu cho vay đủ nhu cầu vốn thì sẽ vi phạm quy chế. Trong trường hợp này, nên áp dụng giải pháp hạn mức tín dụng hoặc phương án cho vay đồng tài trợ. Mức cho vay thấp sẽ giảm mức rủi ro, tuy nhiên trong trường hợp nhiều TCTD cùng tài trợ thì rủi ro giảm thấp, nhưng theo đó lợi nhuận thu được bị hạn chế đối với những dự án chất lượng cao. Mặt khác nếu hạ thấp mức cho vay thì việc đầu tư của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng hoặc bị phá vỡ, khi đó rủi ro có thể ở mức cao hơn nhiều. Đây là một lĩnh vực mang tính nghệ thuật trong hoạt động kinh doanh của TCTD, mà các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn chuẩn xác.
Giải pháp tham gia bảo hiểm tín dụng: khi hoạt động bảo hiểm tín dụng được hình thành, phần lớn các rủi ro sẽ chuyển sang bên công ty bảo hiểm, kể cả trong trường hợp phát sinh thêm chi phí. VCB cũng có thể ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán độc lập ( Có tín nhiệm trên thị trường ) để khi có rủi ro VCB sẽ được đền bù một phần từ cơ quan kiểm toán. VCB cũng có thể thành lập công ty kiểm toán độc lập ( công ty con ), hoạt động trong môi trường đầu tư của ngân hàng, phục vụ trực tiếp cho kinh doanh tín dụng. Khi có rủi ro, công ty này có thể đủ sức gánh chịu một phần trách nhiệm của mình, mà không gây ảnh hưởng đến mặt bằng kinh doanh của VCB.
Giải pháp phân chia, lựa chọn thị trường tín dụng: Phân chia theo những tiêu thức phù hợp với quy mô của VCB, nhằm đánh giá vừa khái quát vừa cụ thể, từ đó hoạch định chiến lược khách hàng đối với “từng khúc “của thị trường đã được nghiên cứu cho tới kỳ trước mắt và lâu dài, nhằm đạt tới tỷ lệ thấp nhất cho những rủi ro có thể xảy ra ( Kể cả khi xảy ra thì hoàn toàn kiểm soát và xử lý theo hướng có lợi cho đầu tư tín dụng ), kết quả là, lợi ích nhiều mặt của VCB không bị ảnh hưởng.
Loại trừ khách hàng, đối tượng đầu tư không hiệu quả. Trong số rất nhiều khách hàng của mình, VCB có thể loại trừ một số hoặc một nhóm khách hàng, thực hiện một chế độ đặc thù như kiểm soát chặt chẽ, thu hồi nợ, hạn chế tiến tới chấm dứt đầu tư. Mục đích của giải pháp này là mang lại một lực lượng khách hàng có độ tín nhiệm cao nhất trong thị phần của mình, đẩy nguy cơ rủi ro ra khỏi môi trường đầu tư.
III>Một số kiến nghị để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung, dài hạn tại VCB.
Chính phủ cần sớm ban hành một Nghị định chung về thế chấp, cầm cố tài sản để các ban nghành cùng phối hợp thực hiện. Trong nghị định này cần điều chỉnh hợp lý hành vi thế chấp, hành vi phát mãi, đấu giá tài sản thế chấp. Có như thế mới có thể tháo gỡ ách tắc trong khâu xử lý tài sản thế chấp để ngân hàng mau chóng thu được nợ.
- Các doanh nghiệp Nhà nước cần được Bộ Tài chính cấp đủ vốn hoạt động để vốn vay ngân hàng chỉ là bộ phận hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nhờ đó sẽ giải quyết được tình trạng vốn vay ngân hàng chiếm đến 80-90% nguồn vốn hoạt động của một số doanh nghiệp như hiện nay.
Tăng cường các biện pháp Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng; quy mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ, năng lực trình độ quản lý. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập đối với các trường hợp vi phạm: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo,... Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong cơ chế thị trường.
Hoàn thiện chính sách, cơ chế vĩ mô và luật pháp của Nhà nước. Ban hành luật lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu thương mại để kiểm soát quan hệ tín dụng thương mại trên thị trường. Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố; xử lý công nợ của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể; qui định rõ giới hạn trách nhiệm, thời gian xử lý đối với từng vụ việc.
Các cơ quan quản lý vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một ngành, lĩnh vực nào đó gây nên lãng phí do quá tải giữa cung và cầu.
Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản chồng chéo thiếu đồng bộ, chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng, bảo lãnh phù hợp với môi trường kinh tế - pháp lý và hành chính ở Việt Nam hiện nay; điều chỉnh, bổ sung các điều kiện nguyên tắc cho vay phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Sửa đổi những qui định, điều kiện vượt ra ngoài khả năng quản lý kiểm soát của cán bộ tín dụng và những điều kiện trên thực tế Việt Nam chưa thực hiện được.
tài liệu tham khảo
Sách:
- Tiền tệ Ngân hàng và thị trường Tài chính - Frederic Mishkin.
- Ngân hàng thương mại - Edward W.reed and Edward K.Gill.
- Tài chính doanh nghiệp - Khoa ngân hàng - Tài chính trường KTQD
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
Báo và tạp chí:
- Tạp chí Ngân hàng số 12 - 2000; số 20,22,24 - 2001; số 1,3,4,6 - 2002.
- Thời báo kinh tế Việt Nam.
- Thông tin Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2000,2001,2002.
- Báo cáo thường niên Ngân hàng Ngoại thương các năm 1996 - 2001.
Các văn bản liên quan trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng:
- Luật NHNN và Luật các TCTD Việt nam
- Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng.
- Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Bản hướng dẫn thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- Hướng dẫn của Ngân hàng Ngoại thương về quy chế cho vay đối với khách hàng.
- Văn bản hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
kết luận
Đến đây, do những hạn chế nhất định mà quan trọng nhất là thời gian để hoàn thành bài chuyên đề này cũng đã tới. Như vậy sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về hoạt động cho vay trung, dài hạn, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo PTS - Vũ Duy Hào em cũng đã mở mang thêm rất nhiều kiến thức bổ ích, đặc biệt là tri thức về hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng. Qua quá trình nghiên cứu và thực tập viết chuyên đề em càng thấy yêu quí hơn nghề Ngân hàng, càng thấy sự quan trọng của tín dụng trung, dài hạn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, của nền kinh tế, lợi ích to lớn cũng như những mạo hiểm, rủi ro có thể xẩy ra khi cho vay. Trong bài chuyên đề này em cũng đã xuất phát từ thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và được sự giúp đỡ rất nhiều của các anh chị phòng Dự án của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Sau này, những kiến thức trong trường lớp và đặc biệt là những kiến thức mà em có được trong quá trình thực tập sẽ giúp ích em rất nhiều trong công việc. Một lần nữa cho em gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PTS - Vũ Duy Hào và các bác, các chú, anh chị tại Ngân hàng Ngoại thương, nhờ có sự giúp đỡ, động viên đáng chân trọng vừa qua mà em đã hoàn thành thời gian thực tập, viết chuyên đề. Em càng yêu mến thêm nghề Ngân hàng mà thấm vào mình câu nói của một nhà Ngân hàng mà em đã học hỏi được "Các nhà Ngân hàng đem tiền cho khách hàng của mình vay vào một buổi bình minh, ánh nắng trải nhẹ đó đây và có những hôm đầy trời mưa gió, đêm đông mịt mù nhà Ngân hàng phải khoác áo đi thu khoản tiền đã cho vay để cho Ngân hàng của mình tồn tại và phát triển".
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0228.doc