Mục lục
Bảng các chữ viết tắt
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
DNNQ
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
NHCT
Ngân hàng Công thương
HĐQT
Hội đồng quản trị
NHTM
Ngân hàng thương mại
NQH
Nợ quá hạn
NHQT
Ngân hàng quốc tế
SXKD
Sản xuất kinh doanh
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
Lời mở đầu
Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đứng trước những thử thách cũng như những vận hội mới. Sau hơn 10 năm tiến hành đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những bước phát triển lớn, đời sống của nhân dân khô
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng tại Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước tại sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngừng được cải thiện và nâng cao.
Trong bối cảnh đó, khu vực kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của mình đối với sự phát triển kinh tế. Để hoàn thành được mục tiêu Đảng và Nhà nước giao phó đòi hỏi các DNNN phải nhanh chóng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, trang bị máy móc thiết bị hiện đại, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trện thị trường trong nước cũng như thế giới. Điều này chỉ được đáp ứng khi doanh nghiệp có một lượng vốn lớn, mà lượng vốn này có được thông qua kênh cấp vốn chủ yếu là các ngân hàng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các DNNN, Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn chú ý đến việc cấp tín dụng cho đối tượng này, góp phần giúp DNNN mở rộng qui mô và tăng tốc độ phát triển, thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro, mà hậu quả là hiệu quả tín dụng bị ảnh hưởng. Do vậy, làm thế nào để nâng cao hiệu quả tín dụng đối với DNNN là vấn đề bức xúc vì hiệu quả tín dụng ngân hàng không những tạo ra giá trị thặng dư mà còn góp phần làm tăng GDP, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy kinh tế xã hội tiến bộ. Hiệu quả tín dụng ngân hàng còn có liên quan trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh, sự tồn tại và phát triển của Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Do đó em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với DNNN tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam” để viết khoá luận nhằm góp phần nhỏ bé đưa ra một số giải pháp kiến nghị để giải quyết vấn đề trên.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Vai trò của Tín dụng ngân hàng đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNNN tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với DNNN tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Đề tài được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các cán bộ tín dụng tại phòng Kinh doanh của Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam và đặc biệt của THS Phạm Thu Hương-giảng viên trường Đại học Ngoại Thương. Tuy nhiên do bản thân còn thiếu kinh nghiệm nên khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót, em mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: Trịnh Vân Anh.
Chương i Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay
I. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế việt nam
1. Khái niệm và phân loại DNNN
1.1. Khái niệm về DNNN
Trong sắc lệnh 104SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ban hành ngày 1/1/1948 thì DNNN là doanh nghiệp quốc gia. Điều II của sắc lệnh này ghi rõ: “Doanh nghiệp quốc gia là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc gia và do quốc gia điều khiển”.
Tuy nhiên, thuật ngữ “DNNN” lại chỉ được chính thức sử dụng bắt đầu từ Nghị định 338/HĐBT kí ngày 20/11/1991 ban hành qui chế về thành lập và giải thể DNNN. Tại điều I của Nghị định này đã định nghĩa: “DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu”.
Theo Luật DNNN ban hành ngày 20/4/1995, tại điều I có nêu rõ: “DNNN là một tổ chức kinh doanh do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao”.
Về mặt pháp lí, Luật DNNN qui định DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lí.
1.2. Phân loại DNNN
Việc phân loại DNNN được dựa trên các tiêu thức sau đây:
Nếu căn cứ theo mục đích hoạt động thì DNNN được phân thành DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Trong đó, DNNN hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận. Ngược lại, DNNN hoạt động công ích lại phục vụ cho mục tiêu xã hội, sản xuất, cung ứng các dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
Nếu căn cứ theo qui mô và hình thức tổ chức doanh nghiệp thì có DNNN độc lập, DNNN thành viên và Tổng công ty Nhà nước. DNNN độc lập là DNNN không có trong cơ cấu tổ chức của DNNN khác. DNNN thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp lớn hơn. Tổng công ty Nhà nước là doanh nghiệp có qui mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ,... do Nhà nước thành lập nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì.
Nếu căn cứ theo cơ chế quản lí nội bộ doanh nghiệp thì DNNN được phân thành DNNN có HĐQT và DNNN không có HĐQT. Đối với DNNN có HĐQT, HĐQT sẽ thực hiện chức năng quản lí hoạt động của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lí Nhà nước được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của doanh nghiệp theo mục tiêu được Nhà nước giao. Còn DNNN không có HĐQT thì giám đốc là người đại diện pháp nhân của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước pháp luật về điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Việc phân loại DNNN rất có ý nghĩa đối với ngân hàng trong việc đề ra các chính sách phù hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp, nhất là trong tình hình hiện nay, các DNNN vẫn đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển của toàn xã hội.
2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khu vực DNNN luôn có vai trò quan trọng. ở các nước kém phát triển đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường thì tầm quan trọng của DNNN lại càng lớn hơn. Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển đổi sang cơ chế mới, lại là nước đi theo định hướng CNXH thì càng phải hiểu rõ vai trò của DNNN hơn ai hết vì đó là một trong các yếu tố giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác trong tình hình hiện nay, khi nước ta đã gia nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á- Thái Bình Dương (APEC) và đang chuẩn bị để có thể gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì các DNNN càng phải đóng vai trò đầu tàu đưa đất nước đạt được những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Vai trò to lớn đó của DNNN được thể hiện trên một số khía cạnh cụ thể sau đây:
2.1. DNNN đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Hiện nay, kinh doanh trong lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, lao động có trình độ chuyên môn cao và lượng vốn đầu tư lớn đang là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là lĩnh vực đem lại lợi nhuận lớn nhưng đồng thời cũng có nhiều rủi ro. Với vai trò đầu tàu trong nền kinh tế, các DNNN phải là người đi tiên phong, mở đường trong lĩnh vực này. Không chỉ vậy, các DNNN còn chú trọng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lĩnh vực hết sức quan trọng nhất là đối với một đất nước có trên 70% dân số ở nông thôn và làm nghề nông như nước ta. Bằng việc giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các công nghệ chế biến có chất lượng, các loại máy móc, thiết bị, phân bón, các DNNN đã góp phần đưa đất nước ta vươn lên đứng trong 3 vị trí dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê,..
Ngoài ra, các DNNN còn đi đầu trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như các hoạt động ủng hộ đồng bào gặp thiên tai, cứu đói, các công việc có tính đền ơn đáp nghĩa, đóng góp vào các quĩ từ thiện, các quĩ hỗ trợ tài năng trẻ,... Trong nền kinh tế thị trường, khi các doanh nghiệp đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu thì các DNNN vẫn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Hơn nữa, đối với các lĩnh vực đầu tư đem lại ít lợi nhuận, đòi hỏi vốn lớn, rủi ro cao, khi các doanh nghiệp khác chùn bước thì các DNNN lại tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu của mình.
Một khía cạnh khác không kém phần quan trọng là các DNNN luôn là những đơn vị đi đầu trong quá trình liên kết, liên doanh với nước ngoài trong việc thực hiện các cam kết quốc tế. Như đã nói ở trên, hiện nước ta đã tham gia vào một số tổ chức quốc tế lớn, mà muốn vậy ta phải thoả mãn được các yêu cầu của họ. Các DNNN lại đóng vai trò tiên phong trong việc thực hiện các thoả thuận giữa đôi bên, chẳng hạn như việc cải tiến các mặt hàng kinh doanh, cạnh tranh trực tiếp với mặt hàng của các nước khác,... Trong điều kiện Việt Nam đang tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường ra nước ngoài thì DNNN phải là những chủ thể đi đầu trong hoạt động này. DNNN còn phải đóng vai trò làm gương cho các doanh nghiệp khác thực thi các chính sách mới của Đảng và Nhà nước.
2.2. DNNN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, quốc phòng toàn dân
Trong lĩnh vực kinh tế, các DNNN là chỗ dựa để Đảng và Nhà nước có thể thể hiện quyền thống lĩnh và chỉ đạo của mình. Đi đầu trong việc thực thi các chính sách mới, các DNNN đóng vai trò đầu tàu dẫn dắt các doanh nghiệp khác phát triển và vươn lên. DNNN là hình mẫu cho sự phát triển của các doanh nghiệp khác, cho thấy bộ mặt của phương thức kinh doanh và quản lí mang đặc thù của Việt Nam. Nhìn vào sự phát triển của DNNN có thể đánh giá được tính đúng đắn trong việc thực hiện chính sách mới. DNNN là công cụ ổn định, điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế xã hội. Nó còn đóng vai trò mở đường, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Qua đó có thể thấy DNNN có khả năng chi phối rất lớn đến sự vận động của thị trường, có tác động to lớn đến nhu cầu của toàn xã hội.
2.3. DNNN làm nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước
Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng trưởng nhanh và phát huy có hiệu quả cao nội lực của từng doanh nghiệp khi các yếu tố bên ngoài không còn đóng vai trò trọng yếu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá thể hiện chủ yếu ở việc thiết lập một cơ cấu kinh tế mới với những ngành công nghiệp mới có trình độ công nghệ cao, những sản phẩm có khả năng sinh lợi lớn, có triển vọng lâu dài và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cũng như các lợi thế so sánh của đất nước, đồng thời các ngành sản xuất truyền thống vẫn được duy trì. Thực hiện được nhiệm vụ này không phải là điều dễ dàng nhưng các DNNN, với vai trò tiên phong của mình, vẫn sẽ là lá cờ đầu trong công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá này.
Qua trên, chúng ta có thể thấy rằng DNNN đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
3. Hoạt động của DNNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
3.1. Những thành tựu đạt được
Bắt đầu từ năm 1986, năm chính thức thông qua chủ trương đổi mới nền kinh tế trong đó có đổi mới hệ thống DNNN, với những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, với những nỗ lực tự thân, trải qua những khó khăn vất vả ban đầu, các DNNN đã tiếp tục tồn tại, phát triển và khẳng định vai trò trọng yếu của mình. Đặc biệt trong thời kì 1991- 1995, khu vực kinh tế Nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng GDP gấp đôi so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Từ năm 1996 đến nay, do tác động của nhiều nhân tố mà tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có bị suy giảm, nhưng tốc độ tăng GDP của DNNN vẫn cao hơn mức bình quân của nền kinh tế nói chung. Các DNNN đóng góp trên 40% trong tổng giá trị GDP, chiếm 60% tổng số thu cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo được những yêu cầu đặt ra, giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển văn hoá giáo dục.
Nhận thức được tầm quan trọng của DNNN trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước không ngừng quan tâm và đưa ra những chính sách thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện bộ máy DNNN, để các DNNN có thể bắt kịp sự phát triển của kinh tế khu vực và thế giới, tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Một trong những đường lối đổi mới mang lại hiệu quả rõ rệt, đó là sắp xếp và đổi mới quản lí DNNN. Thực hiện đường lối này đã góp phần ngăn chặn tình trạng quốc hữu hoá tràn lan trong thời kì bao cấp, tạo điều kiện cho các DNNN hoạt động có hiệu quả bằng chính khả năng của mình.
Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương được đề ra từ đầu những năm 90, thông qua việc Chính phủ ban hành Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 về cổ phần hoá DNNN và thành lập các Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 theo Quyết định 90/TTg và 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các DNNN được tổ chức lại theo hình thức: 17 Tổng công ty 91, 76 Tổng công ty 90 và khoảng 5000 DNNN độc lập. Cho đến hết năm 2001, chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa được 870 DNNN, một tiến độ chậm chưa như mong muốn nhưng cũng đã đem lại những tác dụng đáng kể. Báo cáo hoạt động của hơn 50 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm cho thấy hầu hết đều có chuyển biến tích cực, toàn diện, doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng trên 50%. Số lượng lao động không hề giảm mà còn tăng bình quân là 10%, thu nhập của người lao động tăng bình quân hàng năm 20%. Lợi nhuận trước thuế bình quân tăng 26%, nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30%. Vốn điều lệ (bao gồm tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phiếu trong nước,...) tăng bình quân trên 25%/năm. Số DNNN có vốn dưới 1 tỉ đồng đã giảm từ 50% (1994) xuống còn 26% (1998), số DNNN có vốn trên 10 tỉ đồng tăng. Tỉ trọng sản phẩm do các DNNN tạo ra trong tổng sản phẩm quốc nội tăng, góp nguồn thu lớn vào ngân sách Nhà nước.
3.2. Những tồn tại, hạn chế của DNNN cần được khắc phục
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các DNNN vẫn còn tồn tại những khó khăn cần phải vượt qua.
3.2.1. DNNN còn nhiều về số lượng và nhỏ về qui mô, chưa được phân loại, chồng chéo theo cơ quan quản lí và ngành nghề
Hiện nay, tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến. Khoảng 94,3% số DNNN đã cổ phần hoá có số vốn dưới 10 tỉ đồng, trong đó có khoảng 75% có số vốn dưới 5 tỉ đồng. Việc bổ sung vốn lưu động cho các DNNN chưa đạt được mức cần thiết. Tổng vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ chiếm 0,7%, tức là không vượt quá 1000 tỉ đồng. 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo qui định tại nghị định 50/CP, vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80%, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, còn lại nằm ở vật tư tài sản bị mất mát, công nợ không thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp. Điều này dẫn đến tình trạng là các DNNN không có khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các DNNN với qui mô nhỏ hoạt động trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh không đáng có trong nội bộ khu vực kinh tế Nhà nước. Hoạt động của các DNNN dàn trải trên mọi lĩnh vực từ sản xuất đến thương mại, gây tình trạng manh mún, phân tán về vốn trong khi Nhà nước cần có sự tập trung để đầu tư vào các lĩnh vực chủ yếu, then chốt. Đây là sự lãng phí không đáng có. Để sản xuất, các DNNN lại phải đi vay, thực tế cho thấy trên 80% vốn vay hoạt động sản xuất của doanh nghiệp là vay ngân hàng, còn vốn tự có của doanh nghiệp là rất ít ỏi.
3.2.2. Các DNNN có trình độ kĩ thuật, công nghệ còn lạc hậu, chưa bắt kịp với tốc độ phát triển công nghệ của thế giới
DNNN ở Việt Nam hiện nay vẫn đang sử dụng những dây chuyền công nghệ có tuổi thọ cao, được mua từ nhiều nước khác nhau và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Trình độ công nghệ trung bình lạc hậu so với thế giới khoảng từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lí. Thời hạn khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân từ 10- 12 năm, trong khi thế giới chỉ khoảng 7- 8 năm. Chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến các sản phẩm làm ra. Chúng thường có giá thành cao nhưng chất lượng lại chưa tương xứng, mẫu mã chưa phù hợp với con mắt của người tiêu dùng, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các DNNN cần phải cố gắng khắc phục hơn nữa nhược điểm này.
3.2.3. Các DNNN đang gặp nhiều khó khăn trong việc khai thác thị trường trong nước và thế giới
Đối với thị trường trong nước, các doanh nghiệp phải đối đầu với tình trạng hàng giả, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng tràn lan, cùng với sự lũng đoạn của kinh tế tư nhân. Các DNNN phải đóng thuế và thực hiện đầy đủ các khoản nộp ngân sách theo luật định nên thường có giá thành cao, trong khi hàng trốn thuế, nhập lậu lại có giá thành rẻ hơn nhiều lần. Không chỉ vậy, tình trạng hàng giả, hàng nhái tràn lan khiến doanh thu của các doanh nghiệp giảm sút, các doanh nghiệp không mạo hiểm tung ra nhiều sản phẩm mới. Đối với thị trường thế giới, cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây đã khiến các dự án đầu tư giảm, co hẹp thị trường tiêu thụ sản phẩm của DNNN, mặt khác làm giảm sức cạnh tranh của hành Việt Nam do đồng tiền của các nước láng giềng giảm mạnh. Trước đây, thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Việt Nam là Đông âu nhưng hiện nay, do những biến động về chính trị, thị phần trên thị trường này đã giảm. Tất cả khiến các DNNN càng gặp nhiều khó khăn. Để vượt qua được thử thách này, các DNNN không còn biện pháp nào tốt hơn là tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.
3.2.4. Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN đang có dấu hiệu suy giảm
Tốc độ tăng trưởng bình quân của các DNNN sau nhiều năm liên tục đạt mức 13%, đến nay đã giảm xuống chỉ còn 7- 8%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, một đồng vốn bỏ ra khoản thu về thấp hơn nhiều so với những năm trước. Mức đóng góp cho ngân sách của các DNNN còn thấp xa so với nguồn lực bỏ ra. Tỉ suất lợi nhuận nộp ngân sách trên vốn chỉ là 0,35% vào năm 1998. Theo báo cáo của Cục quản lí DNNN, năm 1998 chỉ có 37% số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả (theo tiêu chuẩn bảo toàn được vốn, trả được nợ, nộp ngân sách và có lãi), 46,6% số doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh kém dẫn tới tình trạng công nợ của các doanh nghiệp Nhà nước tăng cao. Năm 1999, tổng số nợ của các DNNN là 199.060 tỉ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỉ đồng. So với tổng số vốn của các DNNN, số nợ phải thu chiếm 62% và số nợ phải trả là 109% trong khi khả năng thanh toán thấp. Đây là một gánh nặng đối với các DNNN mà không dễ gì khắc phục được.
Trước các khó khăn như trên, các DNNN cần phải có những biện pháp vượt qua, mà trong đó, nguồn cho vay của các ngân hàng thương mại đóng vai trò hết sức quan trọng.
II. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNN
1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
Tín dụng không chỉ là chức năng cơ bản của các ngân hàng thương mại mà còn là chức năng của hầu hết các định chế tài chính.
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển. Danh từ “tín dụng” dùng để chỉ một số hành vi hết sức phức tạp như: cho vay, bán chịu hàng hóa, chiết khấu, bảo lãnh, kí thác,... Để có một định nghĩa chính xác về tín dụng là một điều không dễ dàng, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản: “Tín dụng là một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hóa tương lai”, hay nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sử hữu này sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và lưu thông hàng hoá, quan hệ tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng, là công cụ chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại của các hình thức tín dụng cũ trong lịch sử. Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phản ánh mối quan hệ vay mượn trên cơ sở hoàn trả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các thành phần kinh tế khác trong xã hội thông qua việc ứng trước vốn tiền tệ.(Nguồn: sách “Ngân hàng thương mại-NXB Thành phố Hồ Chí Minh-Tác giả Edward W.Reed và Edward K.Gill)
Các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng này rất phong phú và đa dạng, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế. Quan hệ tín dụng giữa các chủ thể được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, hợp tác thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó, ngân hàng đóng vai trò trung gian, là người cung cấp vốn cho các cá nhân, các doanh nghiệp đang có nhu cầu về vốn, giúp họ đạt được mục tiêu tiêu dùng, phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh bằng việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nhờ vậy, ngân hàng có thể đáp ứng được những đòi hỏi về vốn cả về kì hạn và số lượng.
1.2 Bản chất và chức năng của tín dụng ngân hàng
1.2.1 Bản chất của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một hình thức của tín dụng nói chung nên nó cũng mang bản chất của tín dụng. Để thấy rõ được bản chất của tín dụng ngân hàng, chúng ta cần nghiên cứu qua quá trình vân động của tín dụng để từ đó rút ra được bản chất của nó. Quá trình vận động của tín dụng bao gồm:
Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: giai đoạn này vốn chạy từ các ngân hàng-trung gian tài chính sang người có nhu cầu vốn vay để sản xuất-các doanh nghiệp.
Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất: người đi vay mà cụ thể là các doanh nghiệp sau khi có vốn trong tay sẽ sử dụng vào các mục đích của mình như mua nguyên vật liệu, hàng hoá để sản xuất rồi đem bán lại trên thị trường cho người tiêu dùng hay phục vụ cho chính nhu cầu tiêu dùng của mình. Tuy nhiên do đây là vốn vay nên người đi vay không co quyền sở hữu chúng mà phải hoàn trả sau một thời gian nhất định.
Hoàn trả tín dụng: đến lúc này kết thúc một vòng tuần hoàn của chu kì sản xuất. Vốn tín dụng được hoàn trả cho người cho vay nguyên vẹn cộng với khoản lãi sinh ra do sử dụng vốn vay đó.
Như vậy hoàn trả là bản chất của tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng, là đặc điểm để phân biệt tín dụng ngân hàng với các phạm trù kinh tế khác. Hoàn trả tín dụng là sự quay trở về của giá trị. Hoàn trả phải đảm bảo không chỉ bảo tồn về mặt giá trị như ban đầu mà còn phát sinh lợi nhuận.
1.2.2 Chức năng của tín dụng ngân hàng
Chức năng thứ nhất của tín dụng ngân hàng là huy động và cho vay vốn trên nguyên tắc hoàn trả. Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức rồi tiến hành cho vay đối với các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế. Người đi vay sau một thời gian sử dụng phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng. Giữa huy động vốn và cho vay vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau: huy động vốn nhằm tập trung để phân phối và phân phối trên cơ sở nguồn lực đã tập trung được và ngược lại phân phối tạo điều kiện duy trì sự tập trung
Chức năng thứ hai tín dụng ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế. Có được chức năng này là do bên cạnh quan hệ tín dụng tín dụng với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức, ngân hàng còn có quan hệ về thanh toán, tiền tệ. Các mối quan hệ này bổ sung cho nhau, tạo đIều kiện cho ngân hàng kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng.
Chức năng thứ ba của tín dụng ngân hàng là công cụ để dẫn dắt hướng chảy của tiền vốn, phát huy đầy đủ công năng bơm hút, tập hợp phân chia vốn của thị trường, điều khiển một cách có hiệu quả luồng tiền tệ, là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng
Hiện nay, theo quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ban hành ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thì khách hàng vay vốn của các ngân hàng thương mại nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đồng thời trong điều 5 của quyết định này cũng nêu rõ tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng.
2. Các hình thức của tín dụng ngân hàng
Các hoạt động của tín dụng ngân hàng, dựa trên những tiêu chí khác nhau mà có thể phân thành nhiều loại khác nhau phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Nhưng nói chung, tín dụng ngân hàng được biểu hiện dưới các hình thức chủ yếu sau đây:
2.1. Tín dụng chiết khấu
Chiết khấu thương phiếu là việc một người yêu cầu ngân hàng ứng trước 1 món tiền tương đương với số tiền ghi trong thương phiếu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu, hoa hồng và các lệ phí khác. Ngân hàng trở thành chủ nợ của người phát hành thương phiếu và khi đến hạn thanh toán, ngân hàng được hưởng số tiền ghi trên thương phiếu.
Hình thức tín dụng chiết khấu được áp dụng phổ biến trong kinh tế thị trường đặc biệt là ngoại thương, bởi nó đem lại lợi ích cho cả 2 bên tham gia. Đối với người bán, họ có thể thu được nguồn vốn cần thiết, còn ngân hàng lại có một khoản cho vay an toàn vì ngân hàng có thể chọn những thương phiếu mà chủ phát hành là những công ty làm ăn phát đạt, lành mạnh. Giá trị của thương phiếu được cho vay một phần nên không sợ mất giá, định giá sai. Việc thanh toán thương phiếu được luật pháp bảo hộ. Khi chiết khấu thương phiếu, người bán phải làm đơn xin chiết khấu và đơn cam đoan. Thủ tục này không quá phức tạp. Là một hình thức tín dụng ngắn hạn, chiết khấu được xem như loại tín dụng thích hợp nhất, sinh lời nhất và đảm bảo nhất đối với các loại kí thác mà có thể rút tiền ra vào bất cứ lúc nào vì thương phiếu trình chiết khấu thường có thời hạn 30, 60, 90 ngày.
Ngoài ra, hình thức tín dụng này còn có một ưu điểm nữa là trong trường hợp khả năng thanh toán của ngân hàng kém đi, ngân hàng có thể đem thương phiếu đến ngân hàng khác để xin tái chiết khấu. Thêm vào đó, nếu khi ngân hàng thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho người xin chiết khấu được chuyển sang tài khoản tiền gửi, không rút ngay bằng tiền mặt và số tiền này khi chưa sử dụng ngay trở thành nguồn vốn của ngân hàng.
2.2. Tín dụng bảo lãnh
Trong loại hình cho vay qua cam kết bằng chữ kí của ngân hàng, bảo lãnh là loại tín dụng được áp dụng phổ biến. Bảo lãnh là nghiệp vụ sử dụng sức mạnh tài chính và uy tín của ngân hàng đảm bảo sẽ thanh toán thay cho khách hàng khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ đối với bên đối tác. Sự bảo lãnh của ngân hàng thường được áp dụng để bảo đảm cho một hoạt động nào đó của doanh nghiệp, trong trường hợp doanh nghiệp chưa được đối tác tin tưởng nên nhờ ngân hàng bảo lãnh. Việc bảo lãnh của ngân hàng cho phép chủ nợ của doanh nghiệp có một chứng từ đảm bảo thanh toán, đơn vị được bảo lãnh phải trả chi phí dưới hình thức lợi tức cho ngân hàng theo những cam kết thoả thuận.
Ngân hàng thu phí dịch vụ bảo lãnh với mức thu phụ thuộc vào nhu cầu bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh và khối lượng bảo lãnh nhưng thông thường các khoản này nhỏ hơn lãi cho vay. Nói chung, bảo lãnh là một hành vi có thể có nhiều rủi ro, cần phải được hoàn thiện về mặt pháp lí và kĩ thuật nghiệp vụ bảo lãnh. Trước khi bảo lãnh, ngân hàng cần nghiên cứu thận trọng uy tín và năng lực tài chính của khách hàng.
2.3. Tín dụng vãng lai
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai đó là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình bằng nội tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu của khách hàng có thể được sử dụng với khối lượng khác nhau, nhưng không vượt quá số tiền đã qui định trong hợp đồng.
Việc tính số dư các tài khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian qui định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của ngân hàng. Để tránh trường hợp các khoản nợ của khách hàng vượt quá khoản thu của họ và trên tài khoản không có vốn để bù đắp chênh lệch đó, khách hàng phải kí kết hợp đồng với ngân hàng về việc xin cấp tín dụng vãng lai.
Khách hàng có thể thường xuyên sử dụng toàn bộ số tiền đã thoả thuận trong hợp đồng. Tín dụng vãng lai cũng có thể nói chung là không được sử dụng trong thời gian dài, bởi vì các khoản thu thường đủ bù đắp các khoản chi phát sinh của chủ tài khoản. Tín dụng vãng lai do ngân hàng cấp thường phải có bảo đảm. Việc thanh toán tín dụng vãng lai được tiến hành sau những khoảng thời gian nhất định, thông thường là một lần trong quí hoặc 6 tháng.
2.4. Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là một hình thức cho thuê tài sản để khách hàng chuyên sử dụng vào một mục đích nhất định theo hợp đồng đã kí kết. Trong hợp đồng có kèm theo lời hứa của người cho thuê sẽ bán lại tài sản này chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng cho người thuê theo giá thoả thuận, đó là cho thuê tài chính.
Nghiệp vụ tín dụng này được bảo đảm bằng một quyền sở hữu về tài sản đã tài trợ vốn, đó có thể là động sản hoặc bất động sản, nhằm tránh cho doanh nghiệp phải kêu gọi góp thêm vốn tự có. Tín dụng thuê mua không phải chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp yếu kém, kĩ thuật này đem lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp nếu được chấp nhận một cách rộng rãi: tài trợ 100%, linh hoạt, có lợi về mặt thuế, nhất là đối với tín dụng thuê mua bất động sản.
Trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng thuê mua, người sử dụng phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua. Số tiền thuê phải bù đắp được chi phí khấu hao vốn bỏ ra mua thiết bị, chi phí trung gian. Chậm nhất là khi đến hạn hợp đồng, người thuê có thể mua tài sản thuê theo giá qui định của hợp đồng ban đầu. Giá này đã trừ đi số tiền thuê đã thu được. Người thuê cũng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng thuê mua trên những cơ sở mới hoặc trả lại tài sản thuê. Trong hợp đồng có thể qui định giá mua tuỳ ý lựa chọn vào cuối mỗi năm cho thuê.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNN trong giai đoạn hiện nay
3.1. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh
Đối với bất kì doanh nghiệp nào, vốn cũng là một yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, làm thế nào để giữ vững thị trường hiện có đồng thời xâm nhập sang thị trường mới là một mong muốn không dễ gì thực hiện. Vốn là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể đầu tư cải tiến công ._.nghệ, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, bán được ở thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Mặt khác, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm, tìm ra nhu cầu của người tiêu dùng để đáp ứng chính xác đòi hỏi của họ, đồng thời thu lợi nhuận về cho mình. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được điều đó. Đây chính là một trong ba nguồn tài trợ chính cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Khi các DNNN không còn trong chế độ bao cấp, Nhà nước chỉ tài trợ một phần, còn thì phải hạch toán kinh doanh, tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó giúp các ngân hàng không bỏ lỡ cơ hội thu lời, đồng thời còn giúp cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Ngoài thị trường trong nước, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ cho ngoại thương, tín dụng ngân hàng đã giúp các doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh ra nước ngoài. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với các DNNN.
3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các DNNN
Một trong các nhiệm vụ đặt ra hiện nay là đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các DNNN. Vốn tự có tại các DNNN rất thấp cho nên để phát huy được vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này, Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương cổ phần hoá DNNN nhằm mục tiêu huy động vốn trong nước, đổi mới phương thức quản lí để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực mới cho sự phát triển. Đối tượng cổ phần hoá trước mắt vẫn là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Quá trình cổ phần hoá được tiến hành bằng cách chuyển một phần hoặc toàn bộ vốn sở hữu thuộc Nhà nước thành các hình thức sở hữu khác thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp nói trên. Đây là việc làm mới mẻ nhưng cần thiết, và cần sự giúp đỡ của các ngân hàng từ khâu chuẩn bị tính toán số lượng cổ phiếu, trái phiếu phát hành, đấu thầu đến khi thu hồi vốn về cho các DNNN này. Các ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp bán trên thị trường cấp II, và trong trường hợp khách hàng cần vốn, nếu thấy an toàn và có lợi nhuận thì ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay vốn bằng giá trị phát hành, rồi đem cổ phiếu, trái phiếu bán lại trên thị trường cấp II để thu hồi vốn, có thể thu được cả lợi nhuận. Không chỉ giúp đỡ các DNNN trong quá trình phát hành cổ phiếu, các ngân hàng còn tiếp tục các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị mà còn cho thấy tính đúng đắn của việc cổ phần hoá doanh nghiệp. Đây là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khác tiến hành cổ phần hóa.
3.3. Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNNN
Trong nền kinh tế thị trường, không doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có của mình để kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp mà còn làm tăng giá vốn của doanh nghiệp đó. Tỉ trọng vay vốn của doanh nghiệp càng tăng thì giá vốn bình quân càng giảm, tỉ trọng vay vốn làm tăng lợi nhuận và do đó tăng giá thị trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu tuỳ ý vì khi vốn vay vượt một mức nào đó, giá vốn sẽ tăng. Do vậy, DNNN trong quá trình hoạt động, ngoài mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, còn cần phải thiết lập cho mình một cơ cấu vốn phù hợp và hoạt động phải tuân thủ cơ cấu vốn mục tiêu đề ra. Trong đó, mỗi nguồn vốn có tỉ trọng nhất định và chi phí vốn của doanh nghiệp là chi phí vốn bình quân gia quyền. Thông qua việc vay vốn tại ngân hàng, các DNNN có thể vay với tỉ lệ lớn hơn vốn tự có, chỉ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Điều đó có nghĩa là vốn tín dụng ngân hàng giúp cho DNNN giảm chi phí vốn, tạo cơ hội giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh, duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
3.4. Tín dụng ngân hàng giúp các DNNN tổ chức hoạt động quản lí kinh doanh có hiệu quả hơn
Nguồn vốn cho vay của ngân hàng là một trong những hình thức chủ yếu tài trợ vốn cho hoạt động cuả các doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngân hàng cũng là một tổ chức kinh doanh nên hoạt động cho vay phải đảm bảo việc hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm đã qui định trong hợp đồng. Việc này tạo áp lực lên các doanh nghiệp, buộc họ phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả để hoàn trả vốn vay đúng thời hạn. Không chỉ vậy, các ngân hàng còn xem xét rất kĩ các đối tượng nộp hồ sơ xin vay, và chọn lựa các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi mới cho vay. Vì vậy, các doanh nghiệp khi muốn vay vốn của ngân hàng thì phải tự mình khẳng định được khả năng trước ngân hàng. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng với qui trình kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp đã giúp các doanh nghiệp đi đúng hướng đã chọn, nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận cao nhất. Tín dụng ngân hàng còn buộc các doanh nghiệp phải làm ăn đúng đắn thông qua việc kiểm tra định kì các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thúc đẩy hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả mới có khả năng trả nợ cho ngân hàng, nên ngân hàng sẵn sàng cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn, đóng vai trò tư vấn cho các doanh nghiệp vay vốn.
3.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế cần khuyến khích, ưu tiên phát triển cũng như hạn chế một số ngành khác (nếu cần thiết) theo định hướng của Nhà nước
Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước và xu hướng phát triển kinh tế của thế giới mà Đảng và nhà nước ta đưa ra những qui định về việc tăng cường phát triển kinh tế khu vực này hay hạn chế sự phát triển kinh tế của khu vực kia. Mà một trong những công cụ khiến các chính sách này được thực hiện hiệu quả chính là hoạt động tín dụng ngân hàng bằng việc tập trung vốn để cho vay với các ngành kinh tế trọng điểm với lãi suất ưu đãi, đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Với trên 70% dân số sống bằng nghề nông, nước ta là một nước xuất khẩu gạo lớn, bên cạnh đó còn có cà phê, chè,... Khi các DNNN là người xuất khẩu, ngân hàng giúp các doanh nghiệp đó thu hồi được tiền, còn khi các DNNN là người nhập khẩu máy móc thiết bị, thì các ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, mở thư tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi. Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các ngành sản xuất mũi nhọn khi cần thiết, đồng thời hạn chế cho vay đối với các ngành sản xuất trong diện cần thu hẹp, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
III. Hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.Hiệu quả tín dụng và các chỉ tiêu thể hiện
1.1 Hiệu quả tín dụng
Các ngân hàng thương mại ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc thực hiện chức năng trung gian của mình. Dựa vào việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, dựa vào vốn tự có, các ngân hàng thực hiện mối quan hệ kinh tế với DNNN bằng việc cho vay có hoàn trả. Đối với ngân hàng, hoạt động tín dụng phải đảm bảo có thể thanh toán được khoản lãi huy động, các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Đối với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển. Vì vậy, việc xem xét hiệu quả tín dụng là điều hết sức cần thiết, giúp cho các ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động tín dụng của mình, phát hiện những thiếu sót cần sửa chữa và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Vậy tóm lại, hiệu quả tín dụng ngân hàng là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “hiệu quả”, nhưng hiệu quả tín dụng thì cần được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng (ở đây là các DNNN) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Ngoài ra, hiệu quả tín dụng còn là khả năng phòng ngừa và hạn chế rủi ro của ngân hàng khi thực hiện hoạt động tín dụng, đồng thời nó còn thể hiện ở việc cho vay đúng chỗ, đúng lúc và thực sự thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có lãi, đúng chính sách của Nhà nước.(Nguồn: sách “Ngân hàng thương mại”-NXB Thống kê-Tác giả GS.TS Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải)
Hiệu quả tín dụng được thể hiện cụ thể trên hai góc độ:
1.1.1 Trên góc độ vĩ mô
Đối với sự phát triển kinh tế, xã hội: Hiệu quả tín dụng được thể hiện ở sự phát triển đi lên của nền kinh tế, được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung của một quốc gia. Hiệu quả tín dụng trực tiếp tạo ra một phần giá trị mới, giá trị thặng dư, làm tăng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) và làm tăng nguồn ngân sách quốc gia. Tín dụng ngân hàng chỉ thực sự mang lại hiệu quả cho nền kinh tế nếu làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, phục vụ được sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người lao động, khai thác được những khả năng tiềm tàng của đất nước, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt quan hệ tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy dân giàu, nước mạnh.
1.1.2 Trên góc độ vi mô
Đối với các DNNN: Các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng là để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó, một khoản tín dụng được coi là hiệu quả đứng trên giác độ doanh nghiệp là phải thoả mãn nhu cầu vốn của doanh nghiệp, nghĩa là khoản tín dụng phát sinh phải phù hợp với mục đích sử dụng của doanh nghiệp với lãi suất, kì hạn hợp lí, thủ tục đơn giản gọn nhẹ để doanh nghiệp sớm đưa vốn vào sản xuất nhưng vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc tín dụng, phù hợp với chính sách kinh tế của Nhà nước và địa phương. Ngoài ra khoản tín dụng đó phải đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, bù đắp được chi phí, trả nợ doanh nghiệp và bản thân doanh nghiệp phải có lãi.
Đối với các NHTM: Ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, đóng vai trò trung gian dẫn vốn từ những nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn của nền kinh tế. Việc đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với ngân hàng là rất quan trọng, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận ngân hàng thu được mà còn phụ thuộc vào khả năng thu hồi an toàn mỗi đồng vốn bỏ ra theo đúng kì hạn đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Do vậy, một khoản tín dụng được coi là hiệu quả nếu như phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của bản thân ngân hàng, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi, hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động và cạnh tranh trên thị trường, mang lại lợi nhuận và đảm bảo an toàn thanh khoản cho ngân hàng.
1.2. Các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả tín dụng
1.2.1. Các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu tuyệt đối
Doanh số cho vay: là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá khái quát về tình hình tín dụng của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn của ngân hàng, qui mô đầu tư và cấp tín dụng của ngân hàng đó đối với nền kinh tế trong một thời kì.
Dư nợ tín dụng: là chỉ tiêu thể hiện số tiền đang còn cho vay đến một thời điểm nhất định. Đồng thời chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ với doanh số cho vay.
Dư nợ cuối kì = Dư nợ đầu kì + doanh số cho vay- doanh số thu nợ
Doanh thu của ngân hàng từ hoạt động tín dụng.
Nợ quá hạn phát sinh.
Các chỉ tiêu tương đối
Chỉ tiêu sử dụng vốn:
Dư nợ
Hệ số sử dụng vốn = 100%
Nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Tỉ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ.
Nợ quá hạn là điều mà không ngân hàng nào mong muốn nhưng không ngân hàng nào có tỉ lệ nợ quá hạn là 0%. Nói chung, nếu tỉ lệ nợ quá hạn dưới 3% là có thể chấp nhận được.
Tỉ lệ thu hồi nợ quá hạn trong kì: Nếu tỉ lệ thu hồi nợ quá hạn nhỏ thì ngân hàng đứng trước nguy cơ mất một lượng lớn vốn cho vay mà không thu hồi lại được.
Doanh số thu nợ quá hạn trong kì
Tỉ lệ thu hồi NQH =
Dư NQH đầu kì + doanh số chuyển NQH trong kì
Chỉ tiêu đánh giá mức độ thu nợ:
Doanh số thu nợ trong năm
Tỉ lệ thu nợ =
Dư nợ bình quân năm
Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ ngân hàng thu được nhiều nợ và ngân hàng đã đầu tư đúng hướng, có hiệu quả.
1.2.2. Các chỉ tiêu định tính
Thể hiện ở các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội thường, tuy nhiên chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội thường rất đa dạng và trừu tượng. Chúng ta có thể quan tâm đến một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Tổng giá trị gia tăng được tạo ra từ lượng tín dụng của ngân hàng. Việc xác định được đâu là giá trị gia tăng từ khoản cho vay của ngân hàng và đâu là giá trị gia tăng được tạo ra từ các nguồn khác trong một dự án có nhiều nguồn vốn là điều khó khăn. Do vậy, chỉ tiêu này chỉ có thể ước lượng một cách tương đối thông qua ước lượng theo tỉ lệ % góp vào dự án từ khoản tín dụng của ngân hàng.
Số việc làm được tạo ra từ các dự án có sử dụng nguồn vốn tín dụng.
Mức sống của người lao động trong các dự án có sử dụng nguồn vốn tín dụng.
Trình độ đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, khả năng cạnh tranh của các DNNN sử dụng vốn từ tín dụng ngân hàng.
Nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập người lao động, nâng cao năng suất lao động, trình độ nghề nghiệp chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính.
2. Các yếu tố tác động đến hiệu quả tín dụng ngân hàng
Nâng cao hiệu quả tín dụng là một đòi hỏi cần thiết cho sự phát triển của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp. Tuy nhiên để thu được thành công thì cần phải hiểu rõ các yêú tố tác động đến nó.
2.1. Các nhân tố về phía ngân hàng
2.1.1. Chính sách tín dụng
Đây là nhân tố chủ quan mang ý nghĩa định hướng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, giúp hoạt động tín dụng đi đúng quĩ đạo, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Nhân tố này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Chính sách tín dụng bên cạnh việc phù hợp với đường lối kinh tế xã hội của Nhà nước còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà với quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân ngân hàng. Dựa vào các chính sách của Đảng và Nhà nước mà ngân hàng qui định điều kiện vay vốn đối với DNNN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
2.1.2. Lãi suất tín dụng
Lãi suất là một công cụ quan trọng trong chính sách của các ngân hàng. Hiện nay ở nước ta, Ngân hàng Nhà nước qui định mức lãi suất cơ bản và một biên độ dao động, các ngân hàng qui định mức lãi suất của ngân hàng mình sao cho phù hợp với mục đích thu lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh và nằm trong khung lãi suất đã qui định đó. Vì vậy, mỗi ngân hàng đều có một chính sách lãi suất riêng phù hợp với điều kiện của ngân hàng mình để có thể thu hút được nhiều khách hàng đồng thời vẫn không nằm ngoài qui định của Nhà nước. Một mức lãi suất phù hợp sẽ khiến ngân hàng vừa tăng được lượng vốn huy động vừa có thể sử dụng được nhiều hơn nguồn vốn cho vay của mình.
2.1.3. Thông tin tín dụng
Nhờ có thông tin tín dụng mà các nhà quản lí ngân hàng có thể đưa ra được các quyết định cần thiết có liên quan đến việc cho vay, quản lí và theo dõi tiền vay. Thông tin tín dụng có thể thu được trực tiếp thông qua phỏng vấn, tham quan hay thu được gián tiếp thông qua các báo cáo tài chính do doanh nghiệp lập và do ngân hàng tự lập, thông qua các trung tâm tư vấn, trung tâm xử lí thông tin,... Thông tin càng chính xác, kịp thời thì ngân hàng càng giảm được rủi ro tín dụng, hiệu quả tín dụng đạt được càng cao.
2.1.4. Công tác tổ chức ngân hàng
Khi ngân hàng có một cơ cấu tổ chức hợp lí, khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa ban giám đốc và các nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau nhằm đáp ứng tốt nhất, kịp thời nhất các nhu cầu của khách hàng về vốn cho sản xuất kinh doanh, tránh sự chồng chéo trong công việc. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập đến vấn đề giao việc đúng người, phù hợp với khả năng của từng người để có thể phát huy hết khả năng trong công việc. Khi một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học, ngân hàng đó sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc thẩm định dự án đồng thời hoạt động cấp tín dụng sẽ được thực hiện chặt chẽ, tuần tự, vừa đảm bảo về mặt thời gian, vừa không có sự sơ hở sẽ làm cho chất lượng của món vay được nâng cao, từ đó nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng.
2.1.5. Qui trình tín dụng
Một ngân hàng nếu thực hiện chặt chẽ, chính xác các bước của qui trình tín dụng thì sẽ tránh được các sai sót, kịp thời phát hiện những điều cần sửa đổi cho phù hợp với thực tế của từng doanh nghiệp. Qui trình tín dụng thực hiện tốt sẽ làm giảm rủi ro cho ngân hàng và nó sẽ mang tới kết quả ngược lại nếu ngân hàng không thực hiện đầy đủ qui trình này. Đặc biệt trong quá trình thẩm định dự án do khách hàng đưa ra và phương án vay vốn vì các món cho vay của ngân hàng càng hiệu quả thì rủi ro tín dụng càng được hạn chế.
2.1.6. Kiểm soát nội bộ
Kiểm soát tín dụng là công việc thường xuyên, cần thiết đối với các ngân hàng, bởi lẽ công tác kiểm tra càng thường xuyên, chặt chẽ thì hoạt động tín dụng càng đi đúng hướng, thực hiện đúng nguyên tắc, qui trình tín dụng mà ngân hàng đã đề ra. Đồng thời qua việc kiểm soát nội bộ này còn giúp cho hoạt động tín dụng được chỉnh sửa, uốn nắn kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả tín dụng. Để công tác kiểm soát đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán bộ kiểm soát phải giỏi về chuyên môn, trung thực, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thường xuyên có chương trình công tác kiểm tra và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng.
2.1.7. Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng
Việc ngân hàng trang bị đầy đủ các phương tiện tiên tiến, hiện đại sẽ giúp các ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu thập và xử lí thông tin chính xác, kịp thời về khách hàng, đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ, phục vụ với chi phí hợp lí. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, các cấp quản lí của ngân hàng kịp thời nắm bắt được tình hình hoạt động tín dụng để điều chỉnh phù hợp với thực tế nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tránh bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh.
2.2. Các nhân tố về phía DNNN
2.2.1. Phương án kinh doanh của doanh nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp khi muốn vay vốn ở ngân hàng đều phải đưa ra được phương án kinh doanh khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải chứng tỏ được mình thông qua việc cung cấp cho ngân hàng một dự án nhiều khả năng thành công. Phương án kinh doanh của doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp, đến sự phát triển kinh tế xã hội cũng như đến ngân hàng cấp tín dụng cho phương án sản xuất đó.
2.2.2. Năng lực của bản thân DNNN
Mục tiêu hàng đầu khi vay vốn là dự án sẽ đem lại hiệu quả nhưng nếu bản thân doanh nghiệp không có khả năng thì doanh nghiệp cũng không thể thực hiện được mong muốn của mình. Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh, trong quản lí sản phẩm hoặc do thiếu kinh nghiệm trong cạnh tranh đã khiến doanh nghiệp thất bại trong phương án sản xuất kinh doanh của mình. Điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng.
2.2.3. Trình độ đội ngũ công nhân viên của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra rất quyết liệt. Một sản phẩm có thể có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất, nhưng nếu sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả hợp lí, phù hợp với thị hiếu khách hàng thì không lo sẽ không có chỗ đứng trên thị trường. Vì vậy, một doanh nghiệp có đội ngũ công nhân viên năng động, có đạo đức, có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình trong sản xuất, trong chiến dịch tiếp thị sẽ khiến sản phẩm của doanh nghiệp đến gần với người tiêu dùng hơn, chiếm lĩnh thị trường, thắng trong cạnh tranh, và từ đó có thể trả nợ ngân hàng đúng hạn, cả gốc lẫn lãi, làm tăng hiệu quả của tín dụng ngân hàng.
2.3. Các nhân tố khách quan khác
2.3.1. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của người đi vay. Một nền kinh tế phát triển, ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm khả năng vay và trả nợ không bị biến động lớn, nhu cầu tín dụng tăng và sử dụng vốn có hiệu quả, hiệu quả tín dụng được đảm bảo. Ngược lại, khi môi trường kinh tế không thuận lợi sẽ gây tác động xấu, dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng và mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng. Trong nền kinh tế không ổn định, lợi nhuận ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay của ngân hàng, nên với mức lãi suất cao, các doanh nghiệp không thể có khả năng trả nợ, hoạt động tín dụng của ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả tín dụng bị giảm sút.
2.3.2. Môi trường pháp lí
Môi trường pháp lí, cơ chế chính sách của Nhà nước là nhân tố có tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò quan trọng, là hàng rào pháp lí tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể tham gia vào thị trường. Môi trường pháp lí chặt chẽ hoặc thay đổi cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng. Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền bằng việc đưa ra các văn bản pháp luật và dần hoàn thiện các qui định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hợp đồng tín dụng, các qui định về đảm bảo tiền vay, về lãi suất,... đã nâng cao hiệu quả tín dụng. Tuy nhiên vẫn còn những sơ hở cần sửa chữa để hiệu quả tín dụng được bảo đảm hơn nữa. Cụ thể là các vấn đề như sửa đổi Pháp lệnh Kế toán-Thống kê, bổ sung quy định mới về lập chứng từ kế toán, hạch toán ghi sổ phù hợp với dịch vụ ngân hàng hiện đại hay hiệu lực pháp lý của chữ kí điện tử trong giao dịch của khách hàng với ngân hàng.
2.3.3. Môi trường chính trị- xã hội
Một đất nước có môi trường chính trị- xã hội ổn định là tiền đề để các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, mạnh dạn vay vốn đầu tư lâu dài cho sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi trường chính trị xã hội bất ổn thì không doanh nghiệp nào dám đầu tư sản xuất mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn, người dân sẽ có xu hướng giữ tiền hơn là đem gửi ngân hàng. Hơn nữa, tín dụng là quan hệ vay mượn trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng có tín nhiệm càng cao thì thu hút khách hàng càng lớn và ngược lại, khách hàng có tín nhiệm với ngân hàng thì việc vay vốn sẽ dễ dàng hơn cùng với mức lãi suất ưu đãi. Tín nhiệm là tiền đề để không ngừng nâng cao hiệu quả tín dụng. Bên cạnh đó, trình độ dân trí, biến động xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động đến hiệu quả tín dụng.
Qua nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng, ta có thể rút ra được những định hướng tăng trưởng tín dụng phù hợp với tình hình để nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng đối với DNNN. Bằng việc phát hiện ra các ưu, nhược điểm của hệ thống tín dụng, xác định được nguyên nhân của sự yếu kém đó, ta có thể đưa ra các biện pháp khắc phục để đạt được mục tiêu tăng cường hiệu quả tín dụng.
Trên đây là toàn bộ chương I với nội dung nghiên cứu là thực trạng hoạt động của DNNN trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tín dụng ngân hàng và vai trò quan trọng của nó đối với các DNNN, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với DNNN. Các vấn đề này là những kiến thức chung, tạo cơ sở để đi sâu phân tích và đưa ra các giải pháp cụ thể để góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các DNNN tại một ngân hàng cụ thể, đó là Sở giao dịch I- Ngân hàng công thương Việt Nam.
Chương iiThực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với dnnn tại sở giao dịch I-ngân hàng công thương việt nam
I. Một vài nét khái quát về sở giao dịch I-ngân hàng công thương Việt nam
1. Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch I
Ngân hàng Công thương Việt Nam có tư cách pháp nhân theo luật pháp Việt Nam, tên giao dịch quốc tế là Industrial and Commercial Bank of Viet Nam. Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam là thành viên hạch toán phụ thuộc của NHCT Việt Nam. Sự phát triển của Sở giao dịch I có thể khái quát qua 4 giai đoạn như sau:
Trong giai đoạn từ năm 1988 trở về trước, Sở giao dịch I của ngân hàng công thương Việt Nam là ngân hàng Hoàn Kiếm.
Sau đó, trong giai đoạn từ 1988- 1993, Sở giao dịch I mang tên là ngân hàng công thương Hà Nội. Thời kì này, cơ sở vật chất kĩ thuật của ngân hàng còn nghèo nàn, sản phẩm dịch vụ đơn điệu, kinh doanh đối nội là chủ yếu, kinh doanh đối ngoại còn chưa phát triển.
Không chỉ vậy, đội ngũ cán bộ ngân hàng được đào tạo trong cơ chế cũ, đông về số lượng nhưng yếu về chất lượng, nhất là kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế mới.
Qui mô hoạt động của ngân hàng trong thời kì này còn khiêm tốn, cụ thể như sau:
Tổng nguồn vốn hoạt động đến 31/12/1993 đạt 522 tỉ đồng.
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/1993 đạt 323 tỉ đồng.
Sang giai đoạn mới, từ 1/4/1993 đến 31/12/1998, ngân hàng lại được sát nhập với NHCT TW, lấy tên là Hội sở NHCT Việt Nam. Thời kì này, ngân hàng đã có những bước phát triển mới. Cơ sở vật chất, kĩ thuật công nghệ được tăng cường. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng khá phong phú, ngoài cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, còn có nhiều loại cho vay mới ra đời như: cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ, trả thay, bảo lãnh,... Kinh doanh đối ngoại trong thời kì này cũng được phát triển mạnh, đội ngũ cán bộ được đào tạo lại và bắt đầu thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, tạo tiền đề cho một bước phát triển mới của ngân hàng.
Vào ngày 1/1/1999, theo Quyết định số 134/QĐ HĐQT- NHCTVN, Hội sở được tách ra và mang tên chính thức là Sở giao dịch I-NHCT Việt Nam, hạch toán phụ thuộc ngân hàng công thương Việt Nam.
Từ đó đến nay, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển mạnh, đều trên tất cả các mặt nghiệp vụ, áp dụng giao dịch tức thời trên máy tính tại tất cả các điểm huy động vốn.
Sở giao dịch I đã mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình, phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới. Năm 2001, Sở đã mở phòng giao dịch số I và hình thành thêm tổ nghiệp vụ bảo hiểm. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã có bước tăng trưởng đáng kể:
Nguồn vốn huy động tăng 275 lần so với năm 1988, chiếm 20% tổng lượng vốn huy động của NHCT Việt Nam.
Dư nợ cho vay tăng 40 lần so với trước đây.
Trên đây là những nét cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam. Qua đó có thể thấy Sở giao dịch I ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống NHCT Việt Nam.
1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I(xem sơ đồ trang bên)
Hiện nay, Sở giao dịch I có số nhân viên là 260 người, trong đó phòng cân đối tổng hợp và phòng kinh doanh có số nhân viên là 60 người, phòng kế toán có số nhân viên khoảng 50 người, dưới sự đIều hành của 1 giám đốc và 3 phó giám đốc.
Phòng cân đối tổng hợp: Thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tổ chức huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và dân cư.
Trực tiếp điều hành lao động, tài sản tại các quĩ tiết kiệm hoặc Sở giao dịch I.
Lập kế hoạch kinh doanh, tổng hợp phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của Sở giao dịch I.
Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến thi đua khen thưởng tại Sở giao dịch I.
Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ:
Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung và dài hạn.
Thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp.
Chiết khấu thương phiếu, kì phiếu.
Phân tích hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Phòng kế toán tài chính: Thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ thanh toán bằng VNĐ, tính và thu lãi tiền vay, phí dịch vụ, trả lãi tiền gửi cho khách hàng, tham mưu cho giám đốc trích lập, hạch toán, sử dụng quĩ phúc lợi, quĩ khen thưởng.
Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện 2 chức năng chính: Thanh toán quốc tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức mở tài khoản nhờ thu và tín dụng chứng từ) và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng, chủ yếu là mua bán ngoại tệ để phục vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu). Bên cạnh đó hạch toán kế toán các nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc du lịch, thẻ tín dụng quốc tế,...
Phòng tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương: Quản lí, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, đảm bảo tiền lương cho cán bộ công nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề bạt cán bộ. Phối hợp với các phòng có liên quan tham mưu với giám đốc về kế hoạch, thực hiện quĩ lương quí, năm.
Phòng kiểm tra, kiểm toán: Thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm vụ trọng tâm của phòng. Ngoài ra, phòng còn giúp giám đốc giải quyết các đơn thư khiếu nại của khách hàng và cán bộ công nhân viên Sở giao dịch I.
Phòng ngân quĩ: Thực hiện các nghiệp vụ thu chi tiền mặt, bảo quản ấn chỉ và phân phối các chứng từ có giá.
Phòng điện toán: Quản lí và xử lí các dữ liệu kế toán, kết nối các mạng nội bộ. Đồng thời còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy phục vụ cho việc tổng hợp, cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán.
Phòng hành chính quản trị: Thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của các phòng ban trong ngân hàng, tổ chức công tác văn thư, lưu trữ.
Tổ nghiệp vụ bảo hiểm là phòng mới được thành lập vào năm 2001 góp phần hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I.
2. Các hoạt động của Sở giao dịch I-NHCT Việt Nam trong thời gian qua
Sau 15 năm tiến hành đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bắt nhịp được với cơ chế thị trường. Đất nước ta đã thoát khỏi tình hình khủng hoảng kinh tế triền miên, tỉ lệ lạm phát từ mức trên ba con số đã giảm xuống hai con số, trình độ dân trí được cải thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian dài. Trong thời gian từ năm 1991- 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt từ 7%- 9%, năm 1998- 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nền kinh tế có sự suy giảm. Tuy nhiên, năm 20._.hiều khách hàng mới, đạt mục tiêu mở rộng tín dụng đồng thời nâng cao hiệu quả tín dụng.
1.2.2. Đa dạng hoá hoạt động tín dụng đối với các DNNN
Để mở rộng hoạt động tín dụng, bên cạnh việc tăng cường quảng cáo tiếp thị thì một ngân hàng cung cấp các sản phẩm tín dụng đa dạng chắc chắn sẽ được các doanh nghiệp lựa chọn. Do vậy, Sở giao dịch I nên tiến hành đa dạng hoá hoạt động tín dụng đối với các DNNN cả về ngành nghề, phương thức cho vay, về loại tiền vay. Đa dạng hoá hoạt động tín dụng vừa khiến ngân hàng có thể phân tán và giảm thiểu rủi ro, tăng lợi nhuận do mở rộng khách hàng và thị trường, thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển, tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường vừa có thể thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Đa dạng hoá về ngành nghề cho vay
Trong cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam trong vòng 3 năm trở lại đây thì lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện luôn chiếm trên 60% tổng dư nợ cho vay, trong khi các ngành khác tỉ trọng còn thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Do vậy, Sở giao dịch I có thể tăng cường cho vay đối với các ngành nghề kinh doanh khác để tăng lợi nhuận, giảm rủi ro cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng ta đang phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nên việc tăng cường cho vay đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp là điều cần thiết để các doanh nghiệp này có thể hoạt động hiệu quả, phục vụ mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đặt ra. Để hoạt động này đạt hiệu quả, trước tiên cần đẩy mạnh công tác tiếp thị với lĩnh vực này và tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng nâng cao hiểu biết trong lĩnh vực đó.
Đa dạng hoá về phương thức cho vay
Một doanh nghiệp khi đến với ngân hàng đều muốn có một phương thức cho vay phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Hiện nay, Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam khi cho vay đối với các DNNN thường áp dụng cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư. Mỗi phương thức cho vay này đều có những ưu điểm cũng như hạn chế riêng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng cũng như nâng cao hiệu quả tín dụng, Sở giao dịch I có thể áp dụng một số phương thức cho vay mới. Chẳng hạn, đối với phương thức cho vay bắc cầu để tài trợ cho một dự án trung và dài hạn. Dư nợ cho vay của Sở giao dịch I chủ yếu là cho vay trung và dài hạn, cho vay trong khoảng thời gian dài như vậy thì không thể tránh khỏi rủi ro. Bằng phương thức cho vay bắc cầu, Sở giao dịch I có thể phối hợp với các ngân hàng khác cho DNNN đó vay vốn phục vụ một giai đoạn nhất định nào đó của dự án rồi chuyển giao cho ngân hàng kia. Với phương thức này, Sở giao dịch I vừa có thể chia sẻ rủi ro cho các ngân hàng khác vừa giúp các DNNN thực hiện được các dự án trung và dài hạn, đem lại lợi ích cho xã hội.
Bên cạnh đó, Sở giao dịch I nên tiếp tục phát triển các dự án cho vay đồng tài trợ. Trong phương thức này, Sở có thể kết hợp với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cùng góp vốn cho một dự án vay. Hình thức này thường chỉ áp dụng với các dự án dài hạn, vốn lớn, độ rủi ro cao. Đây là hình thức khá mới nên Sở cần phảI tính toán kĩ lưỡng để trong quá trình hợp tác các bên cùng có lợi. Hiện nay, số dự án cho vay đồng tài trợ của Sở còn ít. Những phương thức cho vay khác như cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay hợp vốn,... cũng cần được qui định cụ thể về phạm vi áp dụng, phương thức cho vay và thu nợ, có như vậy mới tạo hành lang pháp lí an toàn cho các ngân hàng khi mở rộng phương thức cho vay.
Đa dạng hoá về loại tiền cho vay
Hiện nay, Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam chủ yếu cho vay bằng ngoại tệ để thanh toán tiền nhập khẩu, vật tư, hàng hoá thiết bị và dịch vụ cho nước ngoài phục vụ hoạt động kinh doanh của khách hàng và chủ yếu bằng USD. Hơn nữa, dư nợ cho vay đối với DNNN bằng ngoại tệ vẫn là một con số nhỏ trong tỉ trọng dư nợ. Do vậy, Sở giao dịch I nên tăng cường đa dạng hoá loại tiền vay để phục vụ tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp trong thời kì nền kinh tế nước ta đang có sự hội nhập với kinh tế toàn cầu, nhu cầu về ngoại tệ của các DNNN đang tăng. Ngoài đồng USD, cần chú trọng cho vay đối với các đồng tiền mạnh khác như EUR, JPY... đặc biệt là đồng EUR khi mà đồng tiền này đại diện cho hầu hết các thành viên của liên minh EU-một đối tác quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc đa dạng hoá các loại tiền cho vay giúp cho việc thanh toán của các DNNN hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được dễ dàng, đồng thời còn là tiền đề ứng dụng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như acbit, swap.
1.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng
Trong việc quyết định cho một DNNN vay hay không, công tác thẩm định đóng vai trò quan trọng nếu không muốn nói là quyết định đến hiệu quả tín dụng sau này đối với ngân hàng. Do vậy, thực hiện tốt nhất công tác thẩm định luôn là một yêu cầu đặt ra đối với tất cả các ngân hàng mà Sở giao dịch I cũng không là một ngoại lệ.
Điều đầu tiên cần Sở giao dịch I thực hiện đó chính là tuân theo đúng qui trình tín dụng bởi qui trình tín dụng chính là tập hợp các nguyên tắc, các qui định trong việc cấp tín dụng, ngân hàng chỉ có thực hiện tốt qui trình này thì mới đảm bảo các món cho vay của ngân hàng thực sự có hiệu quả. Qui trình tín dụng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc gồm rất nhiều bước theo một trình tự nhất định, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nghiêm túc thực hiện vì kết quả của bước trước là cơ sở để thực hiện bước tiếp theo và tác động đến chất lượng của cả quá trình. Đặc biệt khâu thẩm địnhlà bước cực kì quan trọng, quyết định hồ sơ vay vốn có được chấp nhận hay không. Bởi bước này phân tích rõ khả năng hiện tại và khả năng tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Mục tiêu của bước này là giả định những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho khách hàng, tiên liệu khả năng kiểm soát của ngân hàng về những loại rủi ro đó, cũng như những biện pháp phòng ngừa và hạn chế các thiệt hại có thể xảy ra. Ngoài ra, đây cũng là bước giúp ngân hàng kiểm định tính chính xác của các thông tin do các doanh nghiệp cung cấp, từ đó có nhận định đúng về thái độ của khách hàng.
Để làm được điều này, trước tiên Sở giao dịch I cần nâng cao chất lượng thu thập thông tin. Trước khi quyết định cấp tín dụng cho bất kì một doanh nghiệp nào đòi hỏi phải có đầy đủ thông tin về doanh nghiệp và dự án vay vốn. Thông tin có chính xác, trung thực thì mới có thể đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác. Nguồn thông tin này lấy từ các báo cáo kinh doanh của doanh nghiệp trong vòng hai năm trở lại đây, ngoài ra còn phải thu thập từ các nguồn khác như: phỏng vấn trực tiếp người xin vay và điều tra trực tiếp từ cơ sở sản xuất để nắm bắt được nhịp độ sản xuất chung của doanh nghiệp, trách nhiệm của công nhân đối với công việc, cách thức tổ chức quản lí doanh nghiệp, từ đó thấy được triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai; hay sử dụng các thông tin từ các bộ phận có thẩm quyền cung cấp, sử dụng thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng,...
Sau đó, Sở giao dịch I cần tiến hành xử lí thông tin một cách chính xác. Sở cần phân tích doanh nghiệp trong mối tương quan nhiều chiều. Cần phân tích bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính,... theo cả chiều dọc và chiều ngang, sự thay đổi số liệu cả về số tương đối và số tuyệt đối. Trong khi phân tích theo chiều dọc và chiều ngang cũng đều phải xem xét đến sự thay đổi của các tỉ lệ này và phải đặt nó trong một môi trường, hoàn cảnh cụ thể. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá tình hình của doanh nghiệp do vậy tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà chọn lựa, trong đó quan trọng là chỉ tiêu sinh lời, khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Vì vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng, về kế toán doanh nghiệp mà còn phải có kiến thức sâu về thị trường, về lĩnh vực ngân hàng sẽ đầu tư, đầu tư tài chính... để khi thẩm định khách hàng, thẩm định phương án kinh doanh sẽ có những kết luận chính xác góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Thật vậy, kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng không chính xác sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình hoạt động của khách hàng, đồng thời còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Bởi nếu ngân hàng quyết định cho vay mà khách hàng lại không có khả năng trả nợ thì ngân hàng có thể bị giảm lợi nhuận, thậm chí mất vốn, giảm uy tín của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng. Còn nếu ngân hàng không chấp thuận mà bỏ đi một khách hàng tốt, có khả năng hoàn trả vốn tín dụng đúng hạn dẫn đến mất đi một cơ hội tăng thu nhập, mất đi cơ hội mở rộng thị phần của mình. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng cần phải thực hiện thật tốt công tác thẩm định tín dụng.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần thực hiện thật tốt công tác kiểm tra, kiểm soát trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn để xem doanh nghiệp có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không. Hàng quí hay 6 tháng một lần, ngân hàng cần yêu cầu khách hàng gửi báo cáo hay các tài liệu cần thiết như tình hình doanh thu, chi phí, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bản ghi rõ tiến độ thực hiện dự án... để làm cơ sở cho việc phân tích khả năng hoàn trả vốn vay. Ngoài ra, Sở giao dịch I có thể tiến hành kiểm tra trực tiếp cơ sở kinh doanh của khách hàng và nắm bắt những thông tin về tình hình chung của ngành mà trong đó doanh nghiệp vay vốn để hoạt động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các bạn hàng của doanh nghiệp.
1.4. Giải pháp phòng ngừa và xử lí rủi ro trong hoạt động tín dụng
1.4.1. Giải pháp phòng ngừa rủi ro
Rủi ro tín dụng là việc không thể tránh khỏi trong hoạt động của một ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng như: yếu tố khách quan như chính sách Nhà nước, môi trường kinh tế ngoài nước, thiên tai, hạn hán.. và yếu tố chủ quan ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn. Điều này đòi hỏi cán bộ của Sở phải nhạy bén thường xuyên tìm hiểu, phân tích yếu tố này, định hướng của ngành để có những tăng trưởng tín dụng phù hợp với từng loại hình kinh tế, ngành nghề kinh tế. Rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra từ chính bản thân cán bộ tín dụng nếu không thẩm định kĩ dự án vay vốn, tổng hợp thông tin không đầy đủ về khách hàng. Để phòng ngừa yếu tố này, đòi hỏi mỗi cán bộ của Sở phải nâng cao nghiệp vụ tín dụng, trau dồi kiến thức kinh tế xã hội, tìm hiểu phân tích thị trường, đặc biệt cần có kiến thức sâu sắc về tình hình tài chính của khách hàng. Để làm được việc đó, Sở nên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, mời các chuyên gia tư vấn về những vấn đề cần chú trọng trong từng thời kì cho phù hợp, giúp cán bộ thường xuyên theo kịp và nắm bắt được những thông tin mới nhất và có quyết định chính xác trong xử lí tín dụng. Định kì 6 tháng một lần tổ chức phân tích tài chính khách hàng, tích luỹ số liệu trên cơ sở phân tích tình hình thực tế để phân loại khách hàng theo 4 loại sau:
Khách hàng tập trung đầu tư có chính sách ưu đãi.
Khách hàng đầu tư có hạn chế (có biện pháp hỗ trợ).
Khách hàng tạm ngừng đầu tư.
Khách hàng ngừng quan hệ tín dụng, chỉ thu nợ. Lúc này đòi hỏi sự hỗ trợ của các cơ quan các ngành, các cấp.
Từ những đánh giá về khách hàng, giúp cán bộ tín dụng có những quyết định đúng đắn khi cho vay, ngăn ngừa và xử lí các món vay khi có dấu hiệu khó khăn và cuối cùng là những món vay có vấn đề. Một món vay có vần đề có thể được nhận ra khi có các dấu hiệu sau:
+ Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
+ Sự gia tăng bất thường hàng tồn kho và gia tăng các khoản nợ, gia tăng tài sản cố định một cách bất thường.
+ Hoàn trả tiền vay chậm, trì hoãn việc trả lãi.
+ Số dư tiền mặt và tiền gửi giảm sút bất thường.
Qua một số dấu hiệu trên, cán bộ tín dụng cần suy nghĩ và đề xuất hướng giải quyết cụ thể như giảm cho vay, tích cực thu nợ,... để từ đó cán bộ tín dụng nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, tìm mọi biện pháp hữu hiệu để thu nợ đồng thời giúp đơn vị xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi để xem xét đầu tư tiếp hay ngược lại, không tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp đó nữa.
Đối với các rủi ro phát sinh vượt quá khả năng chủ quan của cán bộ tín dụng thì giải pháp tốt nhất là san sẻ rủi ro, không cho vay quá lớn đối với một khách hàng, tốt nhất là nên cho vay đồng tài trợ với mục đích phân tán rủi ro tiềm ẩn.
Đối với các rủi ro bất khả kháng như thiên tai địch hoạ hay do Nhà nước thay đổi cơ chế, chính sách, không phải nguyên nhân do chính bản thân khách hàng, thì ngân hàng có thể xem xét để xử lí rủi ro này từ quĩ dự phòng rủi ro của ngân hàng.
1.4.2. Phương án xử lí rủi ro trong hoạt động tín dụng
Sở giao dịch I cần tập trung nâng cao chất lượng tín dụng với nội dung phân tích rõ những tiềm ẩn trong kinh doanh và tổ chức phân loại nợ theo 3 loại: nợ tồn đọng, nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn để có chính sách ngăn chặn rủi ro tín dụng. Có thể nói, nợ khó đòi không có khả năng thu hồi là yếu tố nguy hiểm ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng, do vậy ngay từ đầu năm, Sở giao dịch I cần phân tích thực trạng tín dụng để có kế hoạch thu hồi nợ quá hạn và nợ chưa quá hạn nhưng có nguy cơ trở thành nợ khó đòi. Tuy nhiên khi có nợ quá hạn phát sinh cần có những giải pháp mạnh mẽ kịp thời nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng.
- Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh thua lỗ chưa có khả năng trả nợ ngân hàng, trong trường hợp doanh nghiệp thực sự cần thêm vốn của ngân hàng và có thể sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao thì ngân hàng có thể tiếp tục cho vay vốn với điều kiện là doanh nghiệp phải trình bày rõ với Sở giao dịch I về kế hoạch thực hiện, lợi nhuận mang lại là bao nhiêu nếu được vay thêm vốn. Nếu thấy hợp lí thì ngân hàng sẽ cấp thêm vốn cho doanh nghiệp nhưng sau khi cho vay, Sở giao dịch I phải trực tiếp giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay, tình hình sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá, từ đó xem xét khả năng đầu tư tiếp cho doanh nghiệp trong những giai đoạn tiếp theo. Như vậy qua đó ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp tiếp tục làm ăn có lãi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, sản xuất được phục hồi dần dần, để từ đó doanh nghiệp có thể có đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng và các khoản nợ trước đây.
- Đối với các DNNN phát sinh nợ quá hạn do hàng hoá sản xuất ra chưa tiêu thụ được thì Sở giao dịch I có thể làm người môi giới, giới thiệu cho doanh nghiệp đó các đơn vị tiêu thụ sản phẩm. Trong trường hợp hàng tồn kho không tiêu thụ được do kém chất lượng hoặc lỗi thời lạc hậu thì ngân hàng cần yêu cầu các doanh nghiệp chịu bán lỗ để lấy tiền trả ngân hàng.
- Đối với các doanh nghiệp cố tình không trả nợ, để nợ quá hạn kéo dài, Sở giao dịch I cần áp dụng những biện pháp cứng rắn, kết hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan có chức năng để thu hồi nợ và phát mại tài sản thế chấp. Sau khi áp dụng các biện pháp trên vẫn chưa thu hồi hết nợ thì cần xem xét đề nghị được xử lí từ quĩ dự phòng rủi ro.
- Đối với các DNNN có nợ quá hạn không còn khả năng thanh toán chủ yếu do nguyên nhân khách quan thì đề nghị xử lí rủi ro bằng qũi dự phòng rủi ro của Sở giao dịch I. Đây là biện pháp cuối cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp thu hồi nợ từ phía khách hàng, phần còn lại được xử lí theo quĩ rủi ro.
1.5. Chính sách lãi suất
Sở giao dịch I nên thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt cho vay đối với từng đối tượng cụ thể. Lãi suất chính là giá cả của sản phẩm tín dụng. Đối với ngân hàng, giá mua chính là lãi suất huy động, giá bán chính là lãi suất cho vay, phần chênh lệch giá chính là lợi nhuận của ngân hàng. Việc xác định mức lãi suất từng thời kì lại phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, do vậy Sở giao dịch I cần có những tính toán hợp lí, đảm bảo lợi ích của ngân hàng cũng như lợi ích của khách hàng. Để thu hút các DNNN, tăng cường mở rộng qui mô cho vay, đôi khi Sở cần tính toán đến mức lãi suất cho vay thấp hơn các NHTM khác, hy sinh một phần lợi nhuận ban đầu để hướng đến những lợi ích lớn hơn trong tương lai. Những khách hàng truyền thống có quan hệ lâu dài, có tín nhiệm, Sở giao dịch I có thể đưa ra mức lãi suất ưu đãi. Bên cạnh việc giảm lãi suất do tiết kiệm chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát các khách hàng này, Sở nên có chính sách giảm lãi suất đối với những khoản vay lớn nhằm mở rộng tín dụng và giữ được khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng. Sở có thể miễn giảm lãi suất đối với những khách hàng gặp khó khăn khi vay vốn uỷ thác đầu tư, nên có chính sách lãi suất cho vay đặc biệt đối với khách hàng thường xuyên bán ngoại tệ cho ngân hàng.
1.6. Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng
Mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng có tính chất tương hỗ. Ngân hàng hoạt động và tồn tại trên cơ sở hoạt động của khách hàng. Nếu khách hàng làm ăn có hiệu quả tốt, lợi nhuận cao thì sẽ trả được nợ đồng thời có khả năng mở rộng qui mô, vay thêm vốn, tạo cơ sở cho ngân hàng hoạt động và thu lãi. Ngược lại, một ngân hàng hoạt động yếu kém thì có rất nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân quan trọng là do các khách hàng làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ. Bởi vậy, việc ngân hàng cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng chính là công cụ để ngân hàng và khách hàng cùng tồn tại và phát triển với mục đích: mở rộng thị trường, giảm rủi ro, tăng lợi nhuận. Bên cạnh các dịch vụ hiện có, Sở giao dịch I có thể triển khai các dịch vụ sau đây:
1.6.1. Dịch vụ tư vấn đầu tư
Trong dịch vụ tư vấn đầu tư, Sở giao dịch I hướng dẫn khách hàng xay dựng một dự án, lựa chọn sản xuất sản phẩm, các phương án kĩ thuật, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Trong việc tham gia thị trường tiền tệ, ngân hàng tư vấn cho khách hàng về số lượng và thời gian cần thiết để được hưởng lãi cao. Làm được điều này thì Sở giao dịch I đã trở thành người bạn thân thiết của khách hàng, khiến khách hàng gắn bó với ngân hàng trong mối quan hệ 2 bên cùng có lợi.
1.6.2. Dịch vụ tư vấn tài chính
Cán bộ ngân hàng là người rất giỏi về các nghiệp vụ ngân hàng và tài chính, do vậy Sở giao dịch I có thể triển khai hình thức tư vấn tài chính cho doanh nghiệp, lập kế hoạch tài chính, báo cáo tài chính, hỗ trợ công việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp,... Vì làm như vậy, Sở giao dịch I vừa kiểm soát được tình hình tài chính của khách hàng vừa thắt chặt thêm mối quan hệ với khách hàng.
1.7. Tiếp tục nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng
Trong bất cứ lĩnh vực nào, yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành bại của mọi hoạt động. Trong kinh doanh ngân hàng, con người là yếu tố trực tiếp tác động đến việc tăng giảm rủi ro, sự an toàn, ổn định và phát triển của ngân hàng. Do vậy, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ luôn là một yêu cầu được đặt ra trong bất cứ thời kì nào đối với ngân hàng. Các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng phảI thoả mãn được các tiêu chuẩn sau:
- Có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định vì sự phát triển của ngân hàng.
- Có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nắm bắt nhanh nhạy và đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng vị trí được giao.
- Cán bộ nhân viên ngân hàng cần được trang bị đầy đủ kiến thức không chỉ về nghiệp vụ ngân hàng mà cả các lĩnh vực có liên quan, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, khả năng giao tiếp tốt. Bởi có như vậy thì khách hàng mới tin tưởng ngân hàng, an tâm với chất lượng phục vụ của ngân hàng.
Sở giao dịch I nên chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên dựa trên các tiêu chuẩn trên. Với một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình với khách hàng như vậy thì Sở giao dịch I có thể yên tâm về hiệu quả tín dụng do đội ngũ nhân viên này đem lại.
2. Biện pháp đối với DNNN
Để hoạt động tín dụng ngân hàng có hiệu quả không chỉ đòi hỏi nỗ lực từ phía Sở giao dịch I mà còn từ phía các DNNN đi vay vốn. Điều này thể hiện:
- DNNN phải cung cấp đầy đủ, chính xác về tình hình tài chính, tiến độ sản xuất chung, kinh doanh, quan hệ bạn hàng, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
- Trước khi vay vốn phải nghiên cứu tính khả thi của dự án trên cơ sở xem xét các yếu tố như năng lực sản xuất của bản thân doanh nghiệp, lượng vốn vay, thời hạn vay, lãi suất đi vay. Sau khi được vay vốn phải đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, đúng ngành nghề đã thoả thuận trong hợp đồng vay vốn.
- Trong mỗi dự án cần tính toán hợp lý giữa tỉ lệ vốn tự có và vốn đi vay từ ngân hàng tạo một cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp tránh tình trạng vay vốn quá nhiều so với mục đích cần sử dụng gây ra sự lãng phí không cần thiết.
- Cần mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý phù hợp với thu nhập của đại bộ phận dân chúng. Ngoài ra doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu thị trường để có chiến lược sản phẩm, khách hàng hợp lý thì mới đảm bảo thắng trong cạnh tranh.
- Đội ngũ công nhân viên, cán bộ là yếu tố then chốt giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, quyết định thành công của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải chú trọng trong công tác đào tạo cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ tiếp cận với khoa học hiện đại, kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Doanh nghiệp cần lựa chọn, bố trí đúng cán bộ, sử dụng đúng người đúng việc, khai thác tối đa năng lực, trí tuệ của cán bộ chủ chốt. Để có được những người tài giỏi phải có chế độ đãi ngộ phù hợp cả về quyền lợi kinh tế cũng như các chế độ chính sách khác như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội..
- Doanh nghiệp nhà nước phải là người đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành nhằm làm tấm gương cho các doanh nghiệp khác noi theo.
III. Một số kiến nghị
1. Đối với Nhà nước
1.1. Chính sách của Nhà nước đối với các DNNN
- Việc nâng cao hiệu quả tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo vĩ mô của Nhà nước. Để các DNNN thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải có chủ trương sắp xếp lại các DNNN. Chính phủ cần đôn đốc việc thực hiện cổ phần hoá ở các DNNN, quy định cụ thể các DNNN không cổ phần hoá, các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Với các doanh nghiệp còn lại, các bộ, ngành, các địa phương cần phải có kế hoạch cụ thể trong vòng 5 năm tới để có thể cơ bản chuyển đổi hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp này. Mặt khác, Nhà nước cùng Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính cùng quan tâm chỉ đạo kịp thời các vướng mắc có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi này.
- Nhà nước cần tạo hành lang pháp lí ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN được diễn ra liên tục, xây dựng và hoàn thiện điều lệ hoạt động và quản lí DNNN sau khi đã được sắp xếp lại. Bên cạnh đó, tránh kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà sách nhiễu cho các doanh nghiệp bằng cách qui định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đối tượng, nội dung kiểm tra giám sát của từng cơ quan nhà nước đối với DNNN.
- Tạo môi trường kinh tế ổn định để các DNNN hoạt động: Nhà nước cần xác định rõ chiến lược qui hoạch dài hạn đầy đủ về phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là qui hoạch phát triển các DNNN trên các vùng kinh tế, khu kinh tế trọng điểm trong các ngành kinh tế- dịch vụ trọng điểm, then chốt. Tiếp tục kiềm chế lạm phát ở mức thấp, ổn định giá trị đồng tiền tạo môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, cần phải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để có điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác tốt các nguồn lực sẵn có, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp nhất. Môi trường kinh tế ổn định là tiền đề cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài.
- Nhà nước cần có chính sách đầu tư đúng và đảm bảo kịp thời về vốn cho các DNNN. Đối với các DNNN đang hoạt động, nếu là DNNN hoạt động công ích thì Nhà nước phải cấp đủ vốn (bao gồm cả vốn lưu động, vốn đầu tư mới, đầu tư mở rộng) đảm bảo để doanh nghiệp hoạt động ổn định, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Nếu là DNNN hoạt động kinh doanh, Nhà nước có thể từng bước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp, đảm bảo từ 50- 60% nhu cầu về vốn của từng doanh nghiệp theo từng ngành nghề cụ thể.
2.2. Chính sách của Nhà nước đối với các NHTM
- Nhà nước nên đưa ra chính sách cho phép các ngân hàng áp dụng các mức lãi suất khác nhau đối với nợ quá hạn do những nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với các DNNN có nguyên nhân gây ra nợ quá hạn là những nguyên nhân khách quan như hạn hán, mất mùa hay sự thay đổi trong cơ chế chính sách của Nhà nước thì nên có mức lãi suất khác phù hợp hơn.
- Đề nghị Nhà nước nhanh chóng hoàn thiện các văn bản và triển khai hoạt động của các công ti mua bán nợ để giải phóng vốn tồn đọng nằm trong các khoản nợ khó đòi và các tài khoản cầm cố, thế chấp, tài sản gán, xiết nợ mà các ngân hàng đang nắm giữ. Tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ti mua bán nợ dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Nói chung, việc xử lí nợ tồn đọng phải được phải được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thể hiện dưới các văn bản Luật để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong hợp đồng tín dụng một cách hiệu quả, bên cạnh đó cần khuyến khích việc mua tài sản tồn đọng của ngân hàng như đơn giản về thủ tục, giấy tờ, ưu đãi về thuế, cho vay,... Thành lập các công ti mua bán nợ là một giải pháp tốt trong việc xử lí nợ tồn đọng.
- Hoàn thiện các văn bản, nghị định liên quan đến các tổ chức tín dụng, tránh tình trạng chồng chéo, không ăn khớp giữa văn bản này với văn bản kia. Các văn bản này phải phù hợp với tình hình hoạt động hiện nay của các ngân hàng, gắn liền với thực tế kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác các văn bản này phảI tạo ra môi trường hoạt động thông thoáng, lành mạnh cho các ngân hàng.
2. Đối với Ngân hàng công thương Việt Nam
- Ngân hàng công thương Việt Nam tiếp tục có những hướng dẫn cụ thể hơn trong việc cho vay đối với các Tổng công ti lớn, giúp Sở giao dịch I có những chỉ đạo cụ thể khi khách hàng của Sở gồm nhiều Tổng công ti lớn như hiện nay.
- Xây dựng một hệ thống phân tích kinh tế từ cấp trung ương đến địa phương nhằm cung cấp thông tin, dự báo tình hình phát triển kinh tế của các ngành, giúp Sở giao dịch I cũng như các ngân hàng chi nhánh có những quyết định cho vay đúng đắn. Với hơn 100 chi nhánh ngân hàng công thương nằm rải rác trong cả nước, khi các ngân hàng cùng phối hợp cung cấp thông tin thì chắc chắn tính chính xác và hiệu quả sẽ cao hơn.
- Xây dựng hệ thống thông tin nội bộ giữa các chi nhánh ngân hàng công thương nhằm phản ánh các số liệu chính xác kịp thời, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng công thương Việt Nam với các ngân hàng chi nhánh.
- Ngân hàng công thương Việt Nam thiết lập một cơ chế tín dụng chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi của các ngân hàng chi nhánh, đồng thời thực hiện giám sát từ xa, can thiệp khi cần thiết nhằm chắc chắn rằng các ngân hàng chi nhánh đang thực hiện tốt các qui chế tín dụng hiện có.
- Khuyến khích các ngân hàng chi nhánh chủ động tìm kiếm khách hàng để mở rộng qui mô đầu tư và thu hút nguồn vốn huy động, tổ chức các lớp tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lí ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ quản lí, phục vụ tốt nhất cho mục tiêu phát triển của hệ thống ngân hàng công thương, đồng thời nâng cao hiệu quả tín dụng trong mỗi ngân hàng. Ngân hàng công thương đóng vai trò đầu tàu, định hướng cho các ngân hàng chi nhánh hoạt động và phát triển theo đúng đường lối, định hướng của Đảng và nhà nước. Thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng chi nhánh để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra với các ngân hàng.
Kết luận
Nghiệp vụ tín dụng là hoạt động hàng đầu có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, giúp các ngân hàng có thể mở rộng qui mô trên thị trường. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh diễn ra rất quyết liệt thì nghiệp vụ này lại càng được coi trọng. Trong khi đó, các DNNN luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Do vậy, nâng cao hiệu quả tín dụng đối với DNNN là mong muốn không chỉ của Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam mà còn là mong muốn của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang trong thời kì tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính vì lẽ đó, các DNNN đã luôn là đối tượng khách hàng được Sở giao dịch I quan tâm chú trọng ngay từ những ngày đầu. Sở giao dịch I luôn có những nỗ lực trong hoạt động đầu tư tín dụng với DNNN, kịp thời có những đổi mới hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả tín dụng với thành phần kinh tế này và đã đạt được nhiều thành công. Các khách hàng của Sở giao dịch I hiện nay đã bao gồm nhiều DNNN và các Tổng công ty lớn.
Không dừng lại ở đó, Sở giao dịch I với những nỗ lực của bản thân cũng như quán triệt các định hướng, chiến lược kinh doanh của Ngân hàng công thương Việt Nam để củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại hoạt động của mình nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng đối với DNNN. Sở giao dịch I- Ngân hàng công thương Việt Nam đã và sẽ luôn làm tốt nhiệm vụ, chức năng của mình, trong đó có nhiệm vụ giúp đỡ các DNNN phát triển, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước hoà nhập với kinh tế khu vực cũng như kinh tế thế giới.
TàI liệu tham khảo
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I- Ngân hàng công thương Việt Nam năm 1999- 2001.
Báo cáo hoạt động nghiệp vụ ngân hàng quốc tế năm 1999- 2001.
Ngân hàng thương mại- NXB Thành phố Hồ Chí Minh- Tác giả Edward W.Reed và Edward K.Gill.
Ngân hàng thương mại- NXB Thống kê- Tác giả GS.TS. Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải (chuyên viên kinh tế).
Thống kê kinh tế 2000- 2001- Thời báo kinh tế Việt Nam.
Cơ chế tín dụng của ngân hàng công thương Việt Nam.
Tạp chí ngân hàng, tạp chí tài chính doanh nghiệp, tạp chí thị trường tiền tệ năm 1999- 2001-2002.
._.