Nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Quảng Ninh

Lời nói đầu Đ ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam tháng 12 năm 1986 và nghị quyết 16/BCT ngày 15 tháng 08 năm 1988 của Bộ chính trị đã đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8.2%/năm, đời sống nhân dân từng bước được c

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải thiện, hoạt động sản xuất kinh doanh được chấn chỉnh và đi vào nề nếp, các nguồn tiền tệ tích tụ trong nền kinh tế đã được động viên khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển ... Từ những kết quả trên cho thấy chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Từ chỗ thấy được vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, Đảng và nhà nước ta bằng nhiều chính sách, biện pháp khuyến khích tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hiện nay ở nước ta có trên 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hàng năm đóng góp khoảng 51% GDP của cả nước. Mặc dù được khuyến khích và hỗ trợ nhưng cho đến nay kinh tế ngoài quốc doanh vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vấn đề nan giải nhất là thiếu vốn. Vì kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn có qui mô nhỏ, mới được hình thành không có khả năng tự mình huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong khi đó hiện nay các Ngân hàng thương mại đang bị ứ đọng vốn tín dụng và nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ cao. Do đó, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với một Ngân hàng thương mại là vấn đề được quan tâm nhất hiện nay, đặc biệt đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên và qua thời gian nghiên cứu công tác tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh tôi chọn đề tài : “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh ” cho bản luận văn tốt nghiệp của mình. Vì thời gian nghiên cứu có hạn, nên trong nội dung của bản luận văn về công tác tín dụng mà tôi đề cập chủ yếu tập trung vào khía cạnh Ngân hàng là người cho vay, các khách hàng là người đi vay. Mặt khác về kiến thức lí luận và trình độ khảo sát thực tế có hạn mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để bài viết được hoàn thiện hơn. Nội dung đề tài được chia thành 3 phần chính Chương I Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta. Chương II Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh với kinh tế ngoài quốc doanh. Chương III Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi n hánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh. Mục lục Lời nói đầu : Chương I: Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển KTNQD ở nước ta. I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt nam 1/ Đặc điểm và vai trò của KT ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 1.1/ Sự phân chia KT nhà nước, KT tư nhân và KTQD, KTND. 1.2/ Đặc điểm KTNQD ở nước ta. 1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé, nghèo nàn. 1.2.2/ Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu. 1.2.3/ Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao động thấp. 1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định. 1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường. 1.3/ Vai trò của KT ngoài quốc doanh. 1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội. 1.3.2/ Kinh tế NQD đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 1.3.3/ Kinh tế NQD phát triển góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước. 1.3.4/ Kinh tế NQD là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh tế Nhà nước giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động. 1.3.5/ Kinh tế NQD là thị trường để Ngân hàng huy động vốn vốn tín dụng góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. 2/ Xu hướng phát triển của KT NQD ở Việt nam. 2.1/ Khu vực KT NQD có vốn đầu tư trong nước. 2.2/ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. II/ Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. 1/ Tín dụng Ngân hàng vàvai trò của nó đối với sự phát triển KT NQD ở nước ta. 1.1/ Tín dụng Ngân hàng. 1.2/ Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của KT NQD. 2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới sự mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với KT NQD. 2.1/ Môi trường kinh tế. 2.2/ Nhân tố pháp luật. 2.3/ Những quy định của Nhà nước và Ngân hàng Trung ương. 2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng. 2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng. III/ Khái quát cơ chế tín dụng đối với KT NQD. 1/ Cho vay ngắn hạn. 1.1/ Cho vay từng lần. 1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. 2/ Cho vay trung và dài hạn. 2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư. 2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn. 2.3/ Cho vay trả góp. 2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. 2.5/ Cho vay thông quan các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. chương II: Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh với KT NQD. I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh. 1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển. 1.1/ Lịch sử hình thành. 1.2/ Quá trình phát triển. 2/ Một số đặc điểm kinh tế xã hội của Quảng ninh. II/ Thực trạng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh với thành phần KT NQD trong thời gian qua. 1/ Tình hình cho vay KT NQD tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh thời gian qua. 1.1/ Phân tích sự mất cân bằng giữa cho vay KTQD và KT NQD. 1.2/ Phân tích tình hình thu nợ. 2/ Những tồn tại rút râ trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh với KT NQD. Chương III GiảI pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với KT NQD tạI chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh. I/ Định hướng về mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với KT NQD tại chi nhánh NHNT Quảng ninh. II/ Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với KT NQD tại chi nhánh NGNT Quảng ninh. 1/ Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với KT NQD. 2/ Thực hiện biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng cường kiểm tra trong và sau khi cho vay. 3/Thực hiện các biện pháp bảo đảm trong kinh doanh tín dụng. 4/ Chủ động tìm khách hàng và chú ý đầu tư vốn cho các doanh nghiệp viên doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài có kỹ thuật công nghệ hiện đại. 5/ Chi nhánh cần tích cức giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi và bảo toàn vốn. 6/ Công tác cán bộ. 7/ Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân hàng đối với KT NQD. III/ Kiến nghị 1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước. 1.1/ Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình. 1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp là kinh tế NQD. 1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng. 1.4/ Cần chấn việc cấp giấy phép kinh doanh. 2/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước. 2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. 2.2/ Đối với đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng. 2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng. 2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. 3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Trung ương. 3.1/ Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn. 3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát hoạt động nội bộ hoạt động tín dụng. 3.3/ Qui định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Kết luận Chương I: Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoàI quốc doanh ở nước ta I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt nam. 1/ Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta : 1.1/ Sự phân chia kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh: Phát triển kinh tế nhiều thành phần không phải là đặc điểm riêng có ở nước ta mà nó đã trở thành một qui luật phổ biến trong sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Tuy nhiên, mỗi nước có những đặc điểm riêng của nó. Phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta là đường lối chiến lược quan trọng, nhất quán và lâu dài trong giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trường. ở đó, người ta có thể phân chia thành kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân, kinh tế quốc doanh hay kinh tế ngoài quốc doanh. Dù cho các cách phân chia như thế nào thì tựu chung vẫn có hai khu vực kinh tế, đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân dựa trên hai hình thức sở hữu chính đó là: Sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Ngoài ra còn có loại hình thức kinh tế hợp doanh được hình thành do sự kết hợp giữa hai hình thức sở hữu này. ở nước ta, đại hội VII của Đảng cộng sản Việt nam khẳng định nước ta có các thành phần kinh tế sau: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của thành phần kinh tế này là các doanh nghiệp nhà nước, đó là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lí hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.(Luật DNNN -Điều 1). Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm những đơn vị kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt của loại hình này là các HTX. Đây là các tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có qui mô kinh doanh nhỏ. Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư nhân để thành lập doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được pháp luật qui định. Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình thức kinh tế khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể kinh tế trong nước cũng như trong nước với nước ngoài. 1.2/ Đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta : Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình“quốc doanh hoá”và“Tập thể hoá”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gần như bị xoá bỏ . Kinh tế ngoài quốc doanh mới thực sự khởi sắc sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty được nhà nước ban hành năm 1991. Chính những biến cố lịch sử trên nó đã quyết định nên đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta. 1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn: Đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các yếu tố của quá trình tái sản xuất chỉ thuộc phạm vi sở hữu của một hoặc một số cá nhân, do đó đặc điểm đầu tiên của kinh tế ngoài quốc doanh là sự hạn chế về qui mô nguồn vốn. So với kinh tế quốc doanh được sự hỗ trợ của nhà nước về vốn thì kinh tế ngoài quốc doanh có một lượng vốn tiền tệ nhỏ hơn rất nhiều. Đây là một hạn chế rất lớn cho kinh tế ngoài quốc doanh trong quá trình cạnh tranh bởi vì đối với bất cứ một doanh nghiệp thuộc loại hình kinh tế nào, hoạt động trên lĩnh vực nào của nền kinh tế thì vốn vẫn luôn luôn là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Với một khối lượng vốn lớn, chủ doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện đầu tư đổi mới dây truyền công nghệ, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất và khi cần thiết có thể nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp đứng vững trong quá trình cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta rất cần có sự trợ giúp về vốn từ phía các tổ chức tín dụng mà cụ thể là từ các Ngân hàng thương mại. 1.2.2/Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu: Trình độ công nghệ quyết định năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nhưng do qui mô nguồn vốn của kinh tế ngoài quốc doanh nhỏ, nên dẫn đến sự hạn chế đáng kể trong việc tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ tiên tiến, hiện đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài mới được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công nghệ thủ công, dây chuyền thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Theo số liệu điều tra năm 1998 chỉ có 25% số doanh nghiệp và 20,5% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại , 33,5% số doanh nghiệp và 18,7% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền thống, 38,5% số doanh nghiệp và 60,5% số công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Hơn nữa, trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong nhiều năm trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả năng tiếp xúc với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc trong thời kỳ này là tự sản xuất ở trong nước hoặc nhập khẩu từ đông âu, Liên xô cũ. Trong thời gian gần đây nhà nước đã thành lập uỷ ban quốc gia về chính sách công nghệ, đã nhập được một số dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, song còn hạn chế ở một số lĩnh vực nhất định. Theo điều tra, hầu hết các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh đều không chú ý tới việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vì phải đầu tư vốn lớn và sợ giá thành sản phẩm cao. 1.2.3/Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao động thấp: Ra đời từ một nền kinh tế hậu chiến và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung khi chuyển sang cơ chế thị trường, các ông chủ và người lao động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn chưa qua các khoá đào tạo chính qui có tổ chức, chưa có kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh, trình độ hiểu biết pháp luật thấp, đặc biệt là hiểu biết về các qui định theo thông lệ quốc tế trong kinh doanh thương mại, thanh toán còn nhiều hạn chế. Điều này làm hạn chế tầm nhìn chiến lược và tính khoa học trong khâu tổ chức và thực hiện sản xuất kinh doanh, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại quốc tế và trong trường hợp có điều kiện áp dụng các kỹ thuật hiện đại và tiên tiến. 1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định: Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế trì trệ không tạo được động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng phát triển. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các thể chế kinh tế và pháp lý chưa được xác lập, hoàn thiện và phát triển một cách đầy đủ nên đã ảnh hưởng lớn đến các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh trong việc xác lập phương hướng sản xuất kinh doanh và chiến lược đầu tư. Phương hướng kinh doanh chủ yếu hiện nay là “đánh quả”. Các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ, vàng bạc chiếm trên 2/3 tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ gần 1/3 là lĩnh vực sản xuất. Đây là một cơ cấu chưa cân đối, đặc điểm này gây trở ngại rất lớn cho các Ngân hàng trong việc mở rộng cho vay vốn vì các Ngân hàng không muốn đầu tư vốn đối với các khách hàng có phương hướng sản xuất kinh doanh không ổn định. 1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường: Do quá trình ra đời, hoạt động và phát triển luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhanh chóng nắm bắt và thích nghi với những biến động của nền kinh tế, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời để chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Mặt khác ở thành phần kinh tế này tính tự chủ và khả năng quyết đoán cao là những điều kiện thuận lợi cho họ trong việc chủ động khai thác nguồn nguyên vật liệu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá, tất cả đều hướng tới một phương án sản xuất kinh doanh tối ưu nhất với chi phí đầu vào tối thiểu và thu nhập đầu ra tối đa nhằm tối đa hoá lợi nhuận bằng cách thoả mãn kịp thời và đầy đủ mọi nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, do tính năng động và tự chủ cao, trong quá trình cạnh tranh dễ đẫn đến mạo hiểm và gây ra rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Nếu thiếu sự điều tiết, hướng dẫn của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp này có thể sẽ dễ dàng bỏ qua những qui định, nguyên tắc do nhà nước đặt ra để chạy theo lợi nhuận trước mắt, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế và xã hội của đất nước. 1.3/ Vai Trò của kinh tế ngoài quốc doanh: Chính sách và chủ trương mới của Đảng và nhà nước trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển nhanh chóng của kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể tham gia cho dù là kinh tế quốc doanh hay là kinh tế ngoài quốc doanh đều chịu sự chi phối, điều tiết bởi hàng loạt các qui luật của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế thị trường đánh giá và chấp nhận các thành viên tham gia thị trường không phải căn cứ vào tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất mà căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của các thành viên, các thành viên đều bình đẳng trong sự sàng lọc của cơ chế thị trường. Trong môi trường kinh doanh đó, kinh tế ngoài quốc doanh có tính tự chủ, năng động và sáng tạo đã nhanh chóng thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế. 1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội: Nếu nhìn từ góc độ tạo việc làm và thu nhập cho người lao động thì vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh là đảm bảo việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống cho đại đa số người lao động. Với qui mô nhỏ vốn đầu tư không lớn lắm, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình hay một số cổ đông liên kết lại hoặc dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động thì đây là nơi cung cấp nhanh nhất giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế tập thể bị thu hẹp dần, kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và qui mô hoạt động thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ như: sản xuất vật liệu xây dựng, điện tử, may mặc, cơ khí, thủ công mỹ nghệ ... Trong 4, 5 năm trở lại đây cùng với số lao động được giải quyết thêm việc làm bằng nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước khoảng 40 - 50 vạn lao động mỗi năm, còn có thêm 80 - 85 vạn lao động có thêm việc làm do các đơn vị kinh tế tư nhân bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Đây là biểu hiện cụ thể của phương châm đúng đắn “nhà nước và nhân dân cùng làm” do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Theo số liệu của bộ lao động thương binh xã hội tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994, hàng năm có khoảng gần một triệu lao động có chỗ làm việc mới được tạo ra trong cả nước chủ yếu nhờ vào khu vực kinh tế này. BảngI: Số lao động được sử dụng trong ngành công nghiệp của Kinh tế ngoài quốc doanh Đơn vị : người Thời kỳ 1995 1996 1997 1998 Tổng 63.604 63.625 62.807 54.452 1.Kinh tế tập thể 5.237 5.246 4.968 4.376 2.Kinh tế tư nhân 1.035 848 934 910 3.Kinh tế cá thể 46.847 45.639 42.206 36.36 4.Kinh tế hỗn hợp 10.488 11.892 14.694 12.806 1.3.2/ Kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nưóc và xuất khẩu: Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về ngành nghề về qui mô và hình thức kinh doanh đã thực sự bù đắp những thiếu hụt, những lỗ hỗng của nền kinh tế do sự phá sản, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước, khơi dậy tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất tạo ra sự sống động cho nền kinh tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đóng góp đáng kể cho quỹ hàng hoá tiêu dùng và một phần đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Đại bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và cung ứng dịch vụ hoặc trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Trong những năm vừa qua, khối lượng hàng hoá và dịch vụ do kinh tế ngoài quốc doanh cung ứng cho nền kinh tế nước ta đã chiếm một tỷ trọng đáng kể so với tổng sản phẩm của cả nước và khối lượng đó có xu hướng ngày càng tăng lên. Hàng hoá do kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra không những góp phần bổ sung vào quỹ hàng hoá tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Trên lĩnh vực lưu thông hàng hoá, sự có mặt của tổ chức thương nghiệp ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá được thông suốt, hàng hoá trên thị trường luôn phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở mọi nơi và mọi lúc. 1.3.3/ Kinh tế quốc doanh phát triển góp phần tăng nguồn thu Ngân sách nhà nước : Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề để tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Do vậy, để tăng cường nguồn thu ngân sách lành mạnh biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước cần tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển, coi trọng vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng, điện nước, thông tin, giao thông vận tải một cách thuận tiện nhất để các thành phần kinh tế có điều kiện sản xuất, mở rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trên cơ sở tăng doanh thu trong sản xuất và kinh doanh dịch vụ từ đó nguồn thu của ngân sách nhà nước được tăng lên. Trên thực tế hàng năm kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp từ 30 đến 45% vào ngân sách nhà nước. 1.3.4/ Kinh tế ngoài quốc doanh là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh tế nhà nước giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động: Thực tế những năm qua cho thấy sự tồn tại và phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh là cần thiết phù hợp với qui luật phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn mới. Việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh chẳng những không làm suy yếu kinh tế quốc doanh mà còn có tác dụng ngược lại thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh hơn. Kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế quốc doanh phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế quốc doanh không đảm nhận và nếu có đảm nhận thì hiệu quả không cao, thậm chí không có hiệu quả. Thực tế ở các nước XHCN trước đây cũng đã chứng minh rằng mặc dù các nước này có chiến lược và mục tiêu kinh tế đúng đắn, song lại có sự độc quyền của nhà nước về kinh tế nên đã trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển, nền kinh tế trở nên xơ cứng, kém năng động và không có hiệu quả. Kết quả là dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt khi hoà nhập vào nền kinh tế thế giới mà ở đó khu vực kinh tế tư nhân phát triển rất mạnh. Điều đó cũng chứng tỏ rằng không có một khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh nếu sự phát triển của nó biệt lập với khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhạy bén, năng động kịp thích ứng với tình hình biến động của thị trường, bộ máy sản xuất kinh doanh gọn nhẹ. Hiệu quả kinh tế gắn liền với lợi ích kinh tế của người lao động cho nên họ luôn tiết giảm được những chi phí trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, sản xuất nhiều mặt hàng mẫu mã đẹp, chất lượng cao, giá thành hạ, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đó là những yếu tố đầy sức hấp dẫn với quy luật cạnh tranh thị trường. Ngược lại, với nền kinh tế chỉ huy “người tìm hàng” thì ở đó họ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không phải sản xuất ra những gì mà họ có. 1.3.5/ Kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để Ngân hàng huy động vốn tín dụng góp phần ổn định lưu thông tiền tệ: Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế hiện vật tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá thì khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế cũng tăng lên là điều tất yếu. Nếu trong điều kiện nền kinh tế chỉ huy do kinh tế quốc doanh làm chủ và chỉ đạo thị trường, tình trạng sản xuất theo mệnh lệnh, mua bán theo khuôn giá cứng nhắc làm cho sản xuất tách khỏi thị trường, phần lớn thu nhập của người lao động được trả bằng hiện vật, do đó làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã trở thành căn cứ trực tiếp của kế hoạch, giữ vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khối lượng vật tư hàng hoá tăng nhanh đòi hỏi phải có sự tăng lên của tiền tệ để đáp ứng nhu cầu của lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động dưới hình thức là doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đều mở tài khoản tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại. Kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển nếu các Ngân hàng thương mại tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt, thay đổi phong cách làm việc, khẩn trương, tôn trọng và có trách nhiệm với các khách hàng thì đây là một thị trường rộng lớn cho việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại với lãi suất thấp. Phát triển sản xuất, củng cố lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền là tiền đề thu hút lượng tiền mặt vào Ngân hàng. Ngược lại nguồn thu tiền mặt vào ngân hàng càng cao là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Kinh tế ngoài quốc doanh là điều kiện để tăng quỹ hàng hoá trên thị trường, góp phần tạo nên sự cân bằng quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. 2/ Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam: 2.1/ Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước: Với chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã kích thích phát huy nội lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo qui định của pháp luật. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước đã phát huy được thế mạnh của nó, khu vực này bao gồm hai loại hình: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình. Loại hình doanh nghiệp: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không thấp hơn mức vốn pháp định do nhà nước quy định, hoạt động theo luật doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động dưới nhiều hình thức: Doanh nghiệp tư nhân do một tư nhân làm chủ, Công ty trách nhiệm hữu hạn do một số sáng lập viên lập nên và làm chủ, công ty cổ phần do những ngươì nắm giữ cổ phiếu làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức hợp tác xã. Trong điều kiện nước ta hiện nay phổ biến nhất là hai loại hình công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn bởi nhiều lí do, trong đó lý do quan trọng nhất là số vốn cần thiết cho việc thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát triển của công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt nam. Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên khá nhanh, theo ước tính hiện nay có khoảng 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động. Trong khi đó số doanh nghiệp quốc doanh lại có xu hướng giảm xuống do tiến hành cổ phần hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản của một loạt các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy một bộ phận lớn người lao động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, do khu vực này đang làm ăn có hiệu quả. Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị trở nên lỗi thời không còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát triển thì phải đổi mới dây chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô và tài sản đó. Như vậy trong tương lai không xa một xu hướng tất yếu xảy ra đối với các doanh nghiệp này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó là tiền đề cho sự phát triển của các công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu. Nhưng tốc độ phát triển của công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các Ngân hàng. Khi các Ngân hàng phát triển đến một mức nhất định thì các ngân hàng không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty mà còn có thể mua luôn các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Loại hình không phải doanh nghiệp ( kinh tế hộ gia đình ): Là khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm ngoài khu vực doanh nghiệp như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại vận tải ._.và các dịch vụ khác. Theo thống kê hiện nay có khoảng 1,1 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế này phát triển rất nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn lực sản xuất của xã hội nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đối với nước ta hiện nay ngành nông lâm nghiệp giữ vai trò quan trọng thì sự phát triển của khu vực này hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần chuyển sang lao động trong các ngành công nghiệp hiện đại. Theo cơ chế mới nền kinh tế thị trường đa thành phần đã có những chuyển biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt nam và thế giới, nếu tốc độ phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn tốc độ phát triển của kinh tế quốc doanh bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩn xã hội nước ta trong 10 - 20 năm nữa là : Kinh tế quốc doanh 10%, kinh tế ngoài quốc doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế tư bản nhà nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, kinh tế cá thể và gia đình 30%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản tư nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác quốc tế. 2.2/ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt nam, hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần chuyển giao công nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong nước với mức lương cao, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công nghiệp hoá. Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được nhiều người quan tâm và trên thực tế hoạt động đầu tư nước ngoài đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt nam được bắt đầu từ cuối năm 1987 và được đánh dấu bằng sự ra đời luật đầu tư nước ngoài. Từ đó tới nay hoạt động đầu tư nước ngoài ngày một tăng lên cả về tổng số vốn đầu tư, số lượng dự án đầu tư, số nước tham gia và các lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt động đầu tư nước ngoài có phần giảm sút so với các năm trước, đây đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà kinh tế. Phải thừa nhận rằng đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm qua có nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á, môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính sách thuế thiếu ổn định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, có trình độ tay nghề cao, chịu khó, có nguồn nguyên liệu dẻ, cùng với thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài của chính phủ như cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, giảm giá cho thuê đất. Chắc chắn trong tương lai khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển một cách nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều những dự án kinh doanh có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao động. II /Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoàI quốc doanh. 1/Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta: 1.1/Tín dụng Ngân hàng: Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình thức xã hội khác nhau. Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những cách hiểu khác nhau. Theo quan niệm truyền thống tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển giao cho người khác, tổ chức kinh tế khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện được hai bên thoả thuận trước, những điều kiện đó thường là về số lượng, chất lượng, thời gian hoàn trả và lượng giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo luật các tổ chức tín dụng: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hoạt động tín dụng có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau. Tín dụng nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số vùng nông thôn, một đặc điểm của hình thức tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao từ vài chục đến hàng trăm %. Tín dụng nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ nhằm mục đích phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người. Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới chi phí vay vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay vốn với lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức tín dụng phù hợp hơn đó là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với các thương nhân. Theo C. Mác “ Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu ”. Quan hệ mua bán chịu này chỉ diễn ra trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức tín dụng này cũng không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời. Hoạt động tín dụng này có liên quan đến một chủ thể rất quan trọng đó là Ngân hàng. Khi nói về vấn đề này C.Mác nhận xét “ Ngân hàng ra đời với vai trò môi giới tài chính trung gian và tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các nhà doanh nghiệp và công chúng vay. Bằng cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không làm giảm sức mua của bất kỳ ai. Đó chính là nét nổi bật trong vai trò của Ngân hàng tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ”. 1.2/Vai trò của tín dụng Ngân hàng với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh: Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Vốn ở đây có thể hiểu bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kiến thức kỹ năng của người lao động, tiền bạc, tiếp đến khi doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng qui mô sản xuất thì yêu cầu đầu tiên đặt ra là phải có vốn. Từ đó cho thấy vốn là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ giai đoạn sản xuất kinh doanh nào, nó quyết định sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của một loại hình doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự thiếu hụt vốn trước mắt và lâu dài thì doanh nghiệp đứng trước ba con đường lựa chọn: Tự bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu; vay vốn các Ngân hàng thương mại; vay vốn từ người thân bạn bè hoặc vay nặng lãi ngoài thị trường “ Chợ đen ”. Tự bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí và sự sôi động của thị trường thứ cấp. ở nước ta hiện nay hình thức này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà vẫn chỉ dừng lại ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ một số công ty cổ phần. Vì thị trường chứng khoán chưa được thành lập do còn hạn chế ở hệ thống pháp luật, hệ thống Ngân hàng còn non yếu, trình độ dân trí thấp. Kinh tế ngoài quốc doanh với qui mô nhỏ mới được hình thành, chưa có uy tín trên thị trường, chưa có quá trình tích luỹ. Chính vì lẽ đó, đối với kinh tế ngoài quốc doanh tín dụng Ngân hàng luôn được coi là một điểm tựa vững chắc về vốn. Nhờ có tín dụng ngân hàng kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng các yêu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh, có điều kiện cần thiết để cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác và phát huy vai trò của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Thông qua quan hệ cho vay vốn, để đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả ngân hàng đi sâu nghiên cứu phương án sản suất kinh doanh, các dự án về kinh tế kỹ thuật và tài chính của doanh nghiệp để cùng với doanh nghiệp xác định những hướng đi đúng đắn, nghiên cứu nhu cầu vốn cần thiết, hiệu quả của quá trình sử dụng vốn cũng như khả năng hoàn trả của người vay qua đó đóng góp cho doanh nghiệp những ý kiến đúng đắn và thích hợp. Khi đó, vì lợi ích kinh tế và xã hội của cả hai bên ngân hàng đóng vai trò là một cơ quan tư vấn cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Bên cạnh đó tín dụng Ngân hàng còn có tác dụng điều tiết, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo một định hướng chung của nhà nước, hạn chế tính tự phát chạy theo lợi nhuận của kinh tế ngoài quốc doanh, đảm bảo một nền kinh tế phát triển lành mạnh và đồng đều, không có những mất cân đối nghiêm trọng xảy ra. Trên đây là toàn bộ vai trò kinh tế quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên, tất cả các vai trò đó vẫn còn nhiều tiềm ẩn, trong thực tế hiện nay không ít những hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải trang trải sự thiếu vốn của mình thông qua hình thức tín dụng không chính thức, sự nhanh chóng trong thủ tục vay vốn, chủ yếu thông qua hình thức tín chấp, đã làm cho các ông chủ doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất cao hơn để khỏi làm mất cơ hội kinh doanh. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại vẫn còn quá thận trọng trong cho vay đối với thành phần kinh tế này. Trước tình hình đó đòi hỏi các Ngân hàng phải có nhiều hình thức cho vay phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Hoạt động tín dụng Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là những hoạt động liên quan đến các dịch vụ về tiền tệ, vì vậy đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, nó trực tiếp tác động đến sự ổn định, cũng như tình hình an ninh, chính trị quốc gia, chính vì lí do đó mà nó luôn được đặt dưới sự kiểm soát khắt khe của nhà nước mà trực tiếp là Ngân hàng nhà nước Việt nam thông qua hệ thống pháp luật và những cơ chế chính sách của nhà nước. Bên cạnh đó còn có sự tác động ngược trở lại của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ đó dẫn tới việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng Ngân hàng. Chính vì vậy, khi xem xét hoạt động Ngân hàng chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ với những qui định của pháp luật và điều kiện kinh tế xã hội từng giai đoạn cụ thể. Dưới đây là một số nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: 2.1/ Môi trường kinh tế: Mọi hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế đều chịu sự chi phối của môi trường kinh tế. Bất kỳ một sự biến động nhỏ nào của môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Trong một nền kinh tế ổn định và tăng trưởng, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, người đầu tư sẽ yên tâm hơn khi vay vốn Ngân hàng để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và bản thân các Ngân hàng thương mại cũng sẵn sàng và yên tâm hơn khi cho vay trong một môi trường kinh tế ít biến động. Sự ổn định ở đây bao hàm cả yếu tố chính trị, an ninh và xã hội. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt đầu từ tháng 7/1997 đã cho chúng ta thấy một thực tế rằng khi một nền kinh tế bị mất ổn định cả về kinh tế và chính trị sẽ dẫn đến sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, số lượng những doanh nghiệp bị phá sản tăng lên, chất lượng tín dụng trong các Ngân hàng thương mại giảm đi, nhiều Ngân hàng rơi vào tình thế hoặc phải sát nhập hoặc phải tuyên bố phá sản. 2.2/ Nhân tố luật pháp: Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động của Ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, tạo môi trường hành lang pháp lí cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội. Nếu không có một môi trường pháp lí kinh doanh rõ ràng, sòng phẳng để tất cả các doanh nghiệp thực hiện. khung pháp luật điều chỉnh kinh doanh không có tính hệ thống, lùng bùng và đặc biệt là không phải là một khối “trong suốt”. Thì việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khó có thể thực hiện được. 2.3/ Những qui định của nhà nước và Ngân hàng Trung ương: Với mục tiêu đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, luật các tổ chức tín dụng, chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt nam có những qui định buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ theo như: - Những quy định về bảo đảm tiền vay: Tổ chức tín dụng chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý. Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, Ngân hàng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn. - Giới hạn cho vay đối với một khách hàng: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Vốn tự có của Tổ chức tín dụng bao gồm vốn điều lệ và quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Trường hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng quá lớn vượt mức 15% thì áp dụng hình thức cho vay hợp vốn hoặc được Thủ tướng chính phủ quyết định mức cho vay tối đa đối với từng trường hợp . Mục đích của việc quy định giới hạn này nhằm: Tránh rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, vì một phần vốn cho vay sẽ tham gia vào quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cho nên khi doanh nghiệp gặp rủi ro, khó khăn thì Ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn. Mặt khác khống chế mức cho vay tối đa sẽ hạn chế việc dồn vốn vào một số ít khách hàng và lĩnh vực kinh doanh. Bên cạnh đó mức khống chế cho vay tối đa đối với một khách hàng còn thúc đẩy Ngân hàng đa dạng hoá khách hàng, lĩnh vực đầu tư, tránh rủi ro. - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản có được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Hiện nay qui định đối với các tổ chức tín dụng ( trừ chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có so với tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Qui định giới hạn này nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. - Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn đối với các tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 25%. - Ngoài ra những quy định về lãi suất trần, lãi suất sàn và mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. 2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng của Ngân hàng: - Năng lực pháp lí của khách hàng: Khách hàng vay vốn là doanh nghiệp phải có tư cách pháp nhân, đối với cá nhân phải là những người có đầy đủ năng lực pháp lí và năng lực hành vi, có hộ khẩu thường trú trên cùng địa bàn với ngân hàng cho vay. Năng lực pháp lí là điều kiện tiên quyết để Ngân hàng xem xét cho vay nhằm xác định trước pháp luật về việc trả nợ vay cho ngân hàng. -Uy tín của khách hàng: Đây là yếu tố hết sức quan trọng mà Ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin của khách hàng đều đã được Ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng cũ, những giao dịch trước đó của Ngân hàng với họ sẽ đưa lại một lượng lớn thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, vào các doanh nghiệp khác có quan hệ với khách hàng đó và sự thông báo thực trạng từ Ngân hàng khác. - Tình hình tài chính của khách hàng: Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để Ngân hàng xem xét có cho vay hay không? và mức cho vay là bao nhiêu ? Khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính Ngân hàng phải so sánh kỳ này với kỳ trước, so sánh số thực tế với kế hoạch để thấy được mức độ phát triển của doanh nghiệp. So sánh với các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành để đánh giá doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, Trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện để Ngân hàng lựa chọn chính xác đối tượng đầu tư. - Năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp: Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tư chất và năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi cho vay Ngân hàng phải xem xét phân tích đánh giá họ về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín của người lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần khẳng định tư cách đạo đức họ như thế nào ? Có nhạy bén nắm bắt được những cơ hội mới không? Có thực hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh không ? Có uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng không ? 2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng: - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, đồng thời phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng. Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở khoa học. Đối với Ngân hàng thương mại phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở tuân thủ những quy định của pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Mặt khác đối với khách hàng phải đảm bảo lãi suất tiền vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân mà họ thu được, nhu cầu vay vốn được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi đúng qui định. - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lí tín dụng của Ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định nhanh chóng, chính xác trong hoạt động tín dụng. Thông tin tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng lớn. Trong tương lai khi cơ cấu tổ chức và các hình thức hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng được hoàn thiện thì việc thu thập phân tích các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ hơn và chính xác hơn. - Nhân tố con người: Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác tín dụng nói riêng. Nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển đòi trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng ngày càng cao để có thể sử dụng được các phương tiện làm việc hiện đại. Đặc biệt đối với cán bộ tín dụng ngân hàng phải có phẩm chất đạo đức tốt, có các nghiệp vụ về tiếp cận với khách hàng và giỏi về nghiệp vụ phân tích tín dụng, phân tích tài sản thế chấp, kiểm tra tín dụng, thẩm định các dự án cho vay, xây dựng hợp đồng tín dụng, giải quyết vấn đề nợ khó đòi, phải am hiểu kiến thức và qui luật trong nền kinh tế thị trường, kiến thức về luật pháp. Thực tế đã chứng minh rằng Ngân hàng có cán bộ tín dụng có trình độ đại học và trên đại học cao thì tỷ lệ nợ quá hạn ở Ngân hàng đó luôn ở mức thấp. Do đó có thể khẳng định rằng trình độ và phẩm chất cán bộ tín dụng trong các ngân hàng thương mại là điều kiện tiên quyết trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay của Ngân hàng. 2.6/ Các nhân tố khác: Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường tự nhiên như: Thời tiết, khí hậu, lũ lụt, sự ảnh hưởng này rất lớn đối với những Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình liên quan đến lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và các hoạt động khác có tính thời vụ. Môi trường tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và khách hàng, trường hợp này phải có biện pháp để khai thác các yếu tố thuận lợi . Môi trường tự nhiên tạo ra những khó khăn cho cả khách hàng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, làm cho rủi ro của kinh doanh Ngân hàng tăng, Ngân hàng phải dự báo được để cùng với khách hàng của mình giảm thiểu rủi ro, đo lường được những rủi ro có khả năng xẩy ra để phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro, có được những quyết định kinh doanh đúng đắn. III / Khái quát cơ chế tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Ngày 30 tháng 09 năm 1998, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam ra quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ban hành qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định này đã thay thế một loạt các quyết định có liên quan ban hành trước đó. Tại quyết định này qui định tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong cho vay của tổ chức tín dụng. Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; việc bảo đảm tiền vay thực hiện theo quy định của chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. 1/ Cho vay ngắn hạn: Tối đa là 12 tháng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của khách hàng. 1.1/ Cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần hiện nay được áp dụng phổ biến, mỗi lần có nhu cầu vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn và ký kết hợp đồng tín dụng, có giải trình về mục đích vay vốn, tổng nhu cầu đã trừ đi số vốn đơn vị đã có, hoạch định quá trình chu chuyển vốn của đối tượng xin vay vốn với khả năng trả nợ vốn vay. Việc giải ngân có thể giải ngân theo tiến độ thực hiện kế hoạch của khách hàng. Nếu khách hàng vay cho từng phương án, từng thương vụ Ngân hàng giải ngân một lần. Thu nợ: Tiến hành thu nợ theo kỳ hạn hoặc theo thời hạn cuối cùng đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là một phương thức cho vay đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và tổ chức của các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn và cũng rất thích hợp kể cả những trường hợp khi tổ chức kinh tế vốn là những khách hàng lớn nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất tín nhiệm trong quan hệ giao dịch. Hoặc đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên buộc các Ngân hàng thương mại phải cho vay từng món theo từng lần có nhu cầu. 1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Phương thức cho vay này được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm với Ngân hàng . Căn cứ vào nhu cầu vay vốn theo hạn mức của khách hàng, giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh ( Nếu có ), khả năng nguồn vốn của Ngân hàng và các giới hạn để đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng theo qui định, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định hạn mức tín dụng theo đó ngân hàng tham gia theo phần, có tính chất bổ sung vốn lưu động. Hạn mức tín dụng phải phù hợp với nhu cầu vốn cần thiết, hợp lí trong khoảng thời gian nhất định phù hợp với đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh, vòng luân chuyển đối tượng vay. Nhu cầu vay vốn Nhu cầu VLĐ bình quân Vốn tự có Của khách hàng = để thực hiện KH SXKD - và vốn khác Của khách hàng Ngân hàng sử dụng tài khoản cho vay thông thường để quản lý tiền vay. Sau khi hợp đồng tín dụng theo hạn mức đã có hiệu lực, mỗi lần rút vốn vay, khách hàng không phải ký hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ, cùng các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản tiền vay không được vượt hạn mức tín dụng. Việc thu nợ thực hiện theo kế hoạch khách hàng đã thoả thuận trước với Ngân hàng, khách hàng căn cứ vào nguồn thu để xác định kế hoạch trả nợ phù hợp. Nếu thực tế phát sinh không theo kế hoạch, Ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận lại kế hoạch trả nợ về mặt thời điểm nhưng không được thay đổi thời hạn cho vay đã cam kết. 2. Cho vay trung và dài hạn: ( Thời hạn cho vay trung hạn từ 1 năm đến 5 năm, cho vay dài hạn trên 5 năm ) Ngân hàng cho khách hàng vay trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. 2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng lựa chọn cho vay đối với những dự án sản xuất, kinh doanh, Dịch vụ có hiệu quả kinh tế trực tiếp, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Ngân hàng dựa vào nhu cầu vốn thực hiện dự án để tính toán mức cho vay cho phù hợp: Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của DA - Vốn tự có tham gia và vốn huy động khác Trong thời hạn rút vốn qui định của hợp đồng tín dụng, Ngân hàng phát tiền vay đầy đủ, kịp thời theo khối lượng hoàn thành của dự án. Khối lượng hoàn thành có thể là sản phẩm xây dựng cơ bản đã hoàn thành; các hạng mục công trình hoàn thành hoặc từng phần công việc thực hiện theo tiến độ được phê duyệt. Nguồn trả nợ là khấu hao cơ bản và lợi nhuận của dự án hoặc là các nguồn thu khác. 2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn: Cho vay hợp vốn là một số các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. 2.3/ Cho vay trả góp: Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi. 2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. 2.5/ Cho vay thông qua các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Chương II : Thực trạng quan hệtín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoạithương Quảng ninhvới kinh tế ngoàI quốc doanh I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh: 1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển: 1.1/ Lịch sử hình thành: Trước yêu cầu của một Ngân hàng đối ngoại để phục vụ cho hoạt động kinh tế ngày một phát triển theo hướng mở cửa của Quảng ninh - khu công nghiệp, thương mại và du lịch, được sự ủng hộ của các cấp,các ngành, chi nhánh Ngân hàng hàng ngoại thương Quảng ninh được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1991, có tên gọi giao dịch đối ngoại là VIETCOMBANK Quảng ninh. Sự ra đời của chi nhánh là nằm trong kế hoạch tổ chức lại hệ thống Ngân hàng từ một cấp thành hai cấp và để đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt nam cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng ninh. Tiền thân của Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh là phòng quản lý ngoại hối trực thuộc Ngân hàng nhà nước tỉnh Quảng ninh, với chức năng quản lý ngoại hối, ngoại tệ, kim khí quý và đá quý. So với một số chi nhánh Ngân hàng khác trên địa bàn thì lịch sử phát triển của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh chưa phải là đáng kể, song từ khi ra đời đến nay VIETCOMBANK Quảng ninh đã không ngừng phát triển, đóng góp phần không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế vùng và ngày càng khẳng định được uy tín, thu hút được nhiều khách hàng tới giao dịch. Cho đến nay ngoài trụ sở chính tại 172 Lê Thánh Tông thành phố Hạ long, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh đã có phòng giao dịch ._.i lãi suất nào là phù hợp nhất, phương thức thu nợ gốc và lãi như thế nào được ưa chuộng hơn cả... chỉ có làm như vậy thì Ngân hàng mới có thể là người bạn đồng hành của doanh nghiệp trong thương trường kinh doanh. - Tiến hành đổi mới chính sách khách hàng: Việc đổi mới này thu hút hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn Quảng ninh. Trên cơ sở đó việc đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh chóng bằng công nghệ hiện đại các tiện ích nhằm giúp các khách hàng có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, đem lại hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Ngân hàng phải có chính sách ưu đãi về vật chất đối với khách hàng ngoài quốc doanh, phù hợp với chiến lược kinh doanh từng thời kỳ. Những khách hàng có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì được giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ. III/ Kiến nghị: Xuất phát từ những hạn chế tồn tại trong công tác cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ do chủ quan của Ngân hàng mà còn bao gồm cả môi trường kinh tế chính trị văn hoá xã hội trong khu vực và cả những chính sách chế độ của nhà nước của các ban ngành, nên để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm thì không những đòi hỏi sự nỗ lực của chính Ngân hàng mà còn cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành các cấp. Từ thực trạng những khó khăn vướng mắc trong công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung, bài viết xin có một số kiến nghị sau: 1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của nhà nước : 1.1.Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình: - Trong thời gian qua nhà nước đã có những chủ chương chính sách nhằm phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước thông qua việc khuyến khích phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên ( chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai ...) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng thương mại còn đang phải khắc phục. Vì vậy nhà nước cần ban hành các chính sách vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng, chẳng hạn như : Sớm ban hành các chính sách cụ thể liên quan đến việc cho thuê đất hoặc có thể giao đất trong thời gian dài, ổn định đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh , tạo môi trường hoạt động tín dụng lành mạnh, giúp ngân hàng yên tâm đầu tư vốn hỗ trợ kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, tư vấn về cơ cấu ngành nghề... cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực ít sinh lời nhưng giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động. - Tạo lập pháp chế bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng thương mại thành lập công ty chuyên trách về bảo hiểm tín dụng để kịp thời bù đắp những rủi ro tổn thất không thu được nợ do các nguyên nhân khách quan như bị thiên tai, hoả hoạn, mất mùa... và các nguyên nhân do thay đổi cơ chế chính sách về quản lý kinh tế. Trước mắt, trong khi chưa có cơ quan bảo hiểm tín dụng thì việc trích lập quỹ đề phòng rủi ro tín dụng nên lấy căn cứ vào mức dư nợ tín dụng. Dư nợ tín dụng được phân loại trên cơ sở đó xây dựng tỷ lệ trích cho phù hợp để phản ánh đúng tính chất của phòng ngừa rủi ro. Việc trích quỹ nên tiến hành vào cuối các quý trên cơ sở dư nợ tín dụng phát sinh trong các quý, và vào sự đánh giá thực trạng dư nợ tín dụng. Số trích quỹ tuyệt đối phải tính cả tới phần chênh lệch ( thừa hoặc thiếu) của các khoản trích quý trước. - Để các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không nên hình sự hoá hoạt động Ngân hàng, những cá nhân cán bộ Ngân hàng tiêu cực tham nhũng cần phải được sử lí thích đáng, nghiêm minh kể cả bằng pháp luật. Nhưng đối với những rủi ro trong kinh doanh thì các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ, tranh chấp thì xử lý theo luật dân sự. 1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp là kinh tế ngoài quốc doanh: - Cần gắn trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép thành lập , giấy phép đăng ký kinh doanh với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy mới có được sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả từ phía các cơ quan hữu quan tới toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và có cơ sở pháp lý cho Ngân hàng có các biện pháp phối hợp khi cần thiết. Qui mô nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trong giấy phép phải phù hợp với qui mô nguồn vốn và năng lực sản xuất kinh doanh cũng như trình độ quản lí của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách hữu hiệu nhất nhằm bảo đảm tính an toàn và hiệu quả kinh tế cho không chỉ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp mà cả nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó đối với các hành vi vi phạm pháp luật như: Buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, lừa đảo... cần thẳng thắn nghiêm trị, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập để kiên quyết loại ra khỏi thị trường những phần tử kinh doanh không lành mạnh, gây lũng đoạn cho nền kinh tế, đó cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn rủi ro cho tín dụng Ngân hàng, đồng thời Ngân hàng có điều kiện mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: - Một thực trạng rất phổ biến trong những năm qua là tình trạng không tuân thủ một cách nghiêm túc pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Những doanh nghiệp này thường có từ hai đến ba quyển sổ ghi số liệu tình hình sản xuất kinh doanh rất trái ngược nhau. Đối với cơ quan thuế thì họ đưa ra những số liệu chứng minh rằng doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, để tránh phải nộp thuế cho nhà nước, còn khi vay vốn Ngân hàng thì hoàn toàn ngược lại, những số liệu của họ chỉ ra rằng doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và họ tìm đủ mọi cách để vay được vốn của Ngân hàng. Từ đó cho thấy Ngân hàng khó có thể đánh giá một cách chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nếu như không có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. ở nước ta hiện nay có một số công ty kiểm toán đang hoạt động nhưng mới chỉ dừng lại ở một số thành phố lớn như thành phố Hà nội, thành phố Hồ Chí minh và mới chỉ kiểm toán được một số doanh nghiệp nhà nước lớn chứ chưa đáp ứng được với tình hình thực tế hiện nay. Do vậy, Ngân hàng cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần có các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục buộc doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ về kế toán và thống kê do Bộ tài chính qui định. Chuẩn bị các điều kiện và sớm có các qui định thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cần có các qui định chính thức, chẳng hạn như doanh nghiệp và tổ chức nào không tuân thủ theo chế độ kế toán qui định sẽ bị thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh, đình chỉ sản xuất kinh doanh... Nhằm từng bước đưa các doanh nghiệp đi vào qũy đạo hoạt động chung của một nền kinh tế có tổ chức và có pháp luật. 1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng: Thủ tục công chứng hiện nay đang là một nhân tố chính kìm hãm việc vay vốn Ngân hàng của các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tình trạng quá tải và chỉ có ở trung tâm thành phố, thị xã của các cơ quan công chứng nhà nước, việc thu lệ phí công chứng (0,2% trên tổng số tiền vay) quá lớn, đây là những nguyên nhân gây phiền hà, mất thời gian và tiền của của khách hàng. Vì vậy, để giải quyết được thực trạng trên trong thời gian tới nhà nước phải có chính sách cơ cấu lại bộ máy tổ chức của cơ quan công chứng nhà nước sao cho vừa tiết giảm được chi phí quản lý, đồng thời vừa tiến hành được nhanh gọn và đạt hiệu quả cao các hoạt động của mình và giảm lệ phí công chứng chỉ nên ở mức 0,05% trên tổng số tiền vay là hợp lí nhằm giúp cho người vay không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và giảm được chi phí trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nhà nước cũng cần qui định rõ trách nhiệm cụ thể của công chứng viên nhà nước trong hoạt động công chứng. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp xảy ra tranh chấp, kiện tụng, đồng thời cũng thông qua đó các công chứng viên nhà nước sẽ phải có trách nhiệm hơn trong công việc của mình. 1.4/ Cần chấn chỉnh việc cấp giấy phép kinh doanh: Hiện nay việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân vẫn diễn ra tự phát chưa có được tư vấn và hỗ trợ từ các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền. Việc điều tra thị trường, xác định mục tiêu kinh doanh rất hạn chế dẫn đến các doanh nghiệp ra đời tính khả thi không cao. Bước vào hoạt động nhiều doanh nghiệp đã vấp phải không ít khó khăn trở ngại dẫn đến thua lỗ, phá sản. Do đó, trước khi thành lập doanh nghiệp nhà nước cần có các tổ chức tư vấn về cơ cấu ngành nghề, mô hình doanh nghiệp để chủ doanh nghiệp chọn loại hình doanh nghiệp và cơ cấu ngành nghề cho phù hợp. Đồng thời nhà nước sớm ban hành những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh phù hợp với khả năng đầu tư của chủ đầu tư. Việc cấp giấy phép một cách ồ ạt đã dẫn đến tình trạng nhà nước không quản lí được các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực không có trong giấy phép kinh doanh nhưng vẫn không bị ngăn chặn kịp thời, chỉ tới khi doanh nghiệp làm ăn đổ bể rồi thì mới bị các cơ quan nhà nước phát giác nhưng lúc đó thì đã quá muộn. Những ngưòi chịu thiệt hại ở đây không ai khác là Nhà nước, các Ngân hàng và người dân. Vì vậy việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp phải được kiểm soát một cách chặt chẽ và phải căn cứ vào khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng như nhưng kiến thức tối thiểu cần phải có trong lĩnh vực kinh doanh được chọn. 1/ Những kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước: 2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: Ngày 30/09/1998 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt nam đã ban hành quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1về qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Nhìn chung nội dung của qui chế này phù hợp với luật Tổ chức tín dụng cũng như phù hợp với tình hình kinh tế Việt nam hiện nay. Tuy nhiên, có một số qui định trong quy chế theo tôi trong giai đoạn trước mắt là chưa phù hợp cần phải điêù chỉnh để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng: Theo qui chế cho vay đối với khách hàng thì một khách hàng được vay nhiều tổ chức tín dụng hay nhiều Tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng. Nhờ cơ chế cho phép mà các khách hàng vay vốn có quyền lựa chọn Tổ chức tín dụng phù hợp để quan hệ giao dịch, quan hệ vay vốn để thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh. Điều này còn có tác động tích cực đến sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại, đó là việc đổi mới phong cách làm việc, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư cho vay, tăng cường mở rộng các dịch vụ Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng nhờ đó mà hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển, khẳng định là ngành tiên phong trong cơ chế thị trường. Nhưng, trong điều kiện hiện nay ở Việt nam, do điều kiện thông tin chưa phát triển để được cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, khi được Ngân hàng cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp sử dụng số tiền vay này nhằm mục đích mua nguyên vật liệu, thuê nhân công ... có tính chất ngắn hạn phục vụ cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh, kết thúc sẽ giải phóng vốn trả lại cho Ngân hàng. Đối với Ngân hàng đây lại là tài sản có mang tính ngắn hạn. Đặc điểm của nó là không lớn, rất nhiều món vay khó quản lý, việc điều tra cho vay phức tạp vì không có dự án để thẩm định. Thời gian cho vay lại ngắn nên dễ bị chiếm dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. đây cũng chính là khâu cho vay có nhiều sơ hở gây nên nợ quá hạn cao đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay. Chính vì vậy hiện nay cần khống chế một doanh nghiệp chỉ được vay vốn lưu động ngắn hạn tại một Ngân hàng trên địa bàn mà doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Tất nhiên doanh nghiệp vẫn có quyền lựa chọn Ngân hàng để vay. 2.2/ Đối với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng: Ngày 29 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã ban hành nghị định 178/1999/NĐ-CP quy chế về đảm bảo tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo quy định của luật tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lí quan trọng hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lí để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay. Theo quy định của nghị định này, tổ chức tín dụng có quyền chủ động sử lí tài sản đảm bảo tiền vay thu hồi nợ. Cụ thể là khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng thì tài sản đảm bảo tiền vay được sử lí theo phương thức đã thoả thuận trên hợp đồng. Trường hợp các bên không sử lí được tài sản bảo đảm tiền vay theo phương thức đã thoả thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba sử lí tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không sử lí được do không thoả thuận được giá bán thì tổ chức tín dụng có quyền định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ sử lí tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ đi các chi phí sử lí thì tổ chức thu theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác ( nếu có ). Tuy nhiên, trong thực tế việc ngân hàng lấy được tài sản thế chấp thu hồi nợ đã gặp nhiều trở ngại như: bên đi vay không tự nguyện bàn giao tài sản cho ngân hàng, thân nhân bên thế chấp tài sản thường đe doạ cán bộ ngân hàng trong khi làm nhiệm vụ phát mại tài sản... Do vậy, những quy định trên đây của nghị định 178 phải được Ngân hàng Nhà nước Việt nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan như: Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục Địa chính ... sớm có thông tư hướng dẫn thì nghị định bảo đảm tiền vay mới có thể thực hiện trên thực tế một cách đồng bộ và có hiệu quả trong cuộc sống. 2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng: Ngân hàng thương mại khi cho bất cứ một khách hàng nào vay thì đều cần phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các nguồn vốn vay. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro, tổn thất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng ( gọi tắt là CIC ) của ngành Ngân hàng. Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin và xử lí thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến động của CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ Pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền lợi riêng cho mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doannh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng thương mại Việt nam chiếm tỷ lệ cao, vượt mức cho phép. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình. 2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt: Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng là một trong những chức năng quan trọng của các Ngân hàng, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ khác, các ngân hàng phải luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ thanh toán để thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng, phát triển. Khi công nghệ thanh toán phát triển, đủ điều kiện cung cấp các tiện ích và lợi ích cho khách hàng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng nhà nước cần qui định không phát tiền vay bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán mà phải giải ngân tiền cho vay bằng các phương thức chuyển khoản để thanh toán theo tiến độ thực hiện hợp đồng giữa bên vay tiền và bên cung ứng hàng hoá hay dịch vụ. Xin đừng cho rằng việc này là do Ngân hàng làm khó dễ mà nó chính là cái chìa khoá bảo vệ an toàn Ngân hàng và các bên liên quan, hướng tiền vay được sử dụng đúng mục đích. 3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng ngoại thương Trung ương: 3.1/Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn: Để thu được lợi nhuận cao, ngân hàng phải mở rộng được tín dụng của mình đối với các thành phần kinh tế. Để làm được điều đó thì trước tiên ngân hàng phải tiến hành cải cách thủ tục vay vốn. Hiện nay rất nhiều khách hàng là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng để vay được vốn của ngân hàng thì cần phải có quá nhiều điêù kiện liên quan đến nhiều loại giấy tờ và tốn rất nhiều thời gian. Mặc dù nước ta đã chuyển từ nền kinh tế, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước được hơn 10 năm nhưng những lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn mang nặng những nét đặc trưng của thời kỳ bao cấp, vẫn còn tình trạng nhiều cửa gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, vẫn còn cảnh phải xếp hàng để chờ được công chứng giấy tờ do cơ quan nào cũng đòi hỏi phải công chứng giấy tờ mà đôi khi không thật sự cần thiết dẫn đến tình trạng quá tải, có hiện tượng tiêu cực, mất lòng tin vào nhà nước. Vì vậy, để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận lợi nhanh chóng. Đề nghị ngân hàng ngoại thương Trung ương cho phép bỏ những thủ tục giấy tờ thực sự không cần thiết như : không yêu cầu khách hàng phải có chứng thực của công chứng “ sao y bản chính” các quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, báo cáo tình hình tài chính... khi đến vay vốn khách hàng xuất trình bản chính để ngân hàng kiểm tra xem xét sau đó trả lại bản chính cho khách hàng, ngân hàng chỉ cần lưu hồ sơ tín dụng là bản sao không cần có chứng thực của công chứng, chỉ yêu cầu khách hàng công chứng hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo cho món vay có giá trị trên 50 triệu đồng còn những hợp đồng cầm cố tài sản là giấy tờ có giá hoặc hợp đồng thế chấp tài sản để bảo đảm cho món vay có giá trị dưới 50 triệu đồng hệ số rủi ro thấp thì không nhất thiết phải có chứng thực của cơ quan công chứng. Đối với phương án kinh doanh và đơn xin vay vốn không đòi hỏi khách hàng phải có xác nhận của chính quyền địa phương vì đối với khách hàng là thể nhân thì họ chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và phương án hoặc dự án kinh doanh là đủ điều kiện để xem xét cho vay còn việc xác nhận của chính quyền địa phương là thừa và “ không nói lên điều gì ”. Về điều kiện vay vốn, khách hàng chỉ cần có những điều kiện cơ bản sau: - Có giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh hợp pháp - Tình hình tài chính lành mạnh,có dự án hoặc phương án kinh doanh khả thi - Có tài sản bảo đảm nợ vay theo qui định của pháp luật . Để chủ động trong cho vay vốn, hạn chế những sơ xuất không đáng có Ngân hàng Ngoại thương Trung ương cần xây dựng và qui định mẫu các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản, các qui định trong hợp đồng mẫu vừa phải đảm bảo đúng các qui định của pháp luật vừa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng và tình hình cụ thể từng địa phương nhưng lại phải vừa chặt chẽ, dễ hiểu và ngắn gọn. Đây thật sự là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Đặc biệt đối với cho vay cầm cố và chiết khấu chứng từ có giá, Ngân hàng ngoại thương trung ương phải có hướng dẫn riêng, cụ thể với thủ tục gọn nhẹ, giải quyết cho vay nhanh chóng để thu hút những khách hàng này đến vay vốn, vì những món vay này tài sản bảo đảm nợ vay có tính lỏng cao, đảm bảo an toàn vốn vay. 3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng: Cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ hơn nữa công tác kiểm soát trong nội bộ ngân hàng nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác tín dụng. Nội dung kiểm tra hoạt động tín dụng bao gồm: Kiểm tra hồ sơ cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ, mức tín dụng được cấp, tài sản bảo đảm nợ vay. Ngoài việc kiểm tra cần phải đi vào xem xét về mục đích sử dụng tiền vay, khả năng trả nợ trực tiếp của một số khách hàng vay vốn để có ý kiến với lãnh đạo và cán bộ tín dụng có liên quan. Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng, song ở đây Ngân hàng chỉ nên tập trung vào một số những vấn đề mà hay có những sai sót trong thực hiện. Đây cũng là nội dung mà ngân hàng cần quan tâm trong công tác kiểm soát nội bộ. Cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích tín dụng và phân loại khách hàng nhằm tìm ra những biện pháp cho vay, đầu tư và quản lý vốn cho vay có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng hiện hành qua đó rút ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi để đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả. Kiến nghị tập trung thu hồi dứt điểm các loại nợ khê đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn; tiến hành sử lý các rủi ro phát sinh từ trước đến nay theo chế độ hiện hành. Mỗi lần Ngân hàng tiến hành kiểm tra về toàn bộ hoặc một phần công tác tín dụng phải có biên bản ghi rõ những việc đã kiểm tra và các ưu đIểm, khuyết điểm của đơn vị. Giám đốc chi nhánh phải chịu trách nhiệm sử lý những kiến nghị của kiểm soát và baó cáo kết quả với Ngân hàng ngoại thương Trung ương. 3.3/ Qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng: Để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với các thành phần kinh tế, Ngân hàng ngoại thương Trung ương cần qui định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt rõ ràng nghiêm minh. Trong trường hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với Ngân hàng, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm, sử phạt hành chính, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng quy mức trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ ngân hàng làm mất vốn như: Đối với cán bộ tín dụng có nợ khó đòi thì đình chỉ cho vay mới để thu nợ, không được tiền thưởng, chuyển công tác khác, tìm nguyên nhân để qui trách nhiệm đền bù vật chất ...tuy nhiên phải được miễn trừ trách nhiệm đối với những khoản nợ quá hạn phát sinh do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ và do thay đổi cơ chế chính sách... Không nên đề nghị quy trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, sẽ dẫn đến nhiều cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm nặng không giám giải quyết cho vay, trở nên khắt khe trong việc xét duyệt cho vay, dẫn đến hoạt động tín dụng bị co lại. Đưa ra quy chế khoán định mức cho vay hàng năm đối với cán bộ tín dụng. Dựa vào kết quả kinh doanh của các năm và chiến lược thị trường, các nhà lãnh đạo phân bổ định mức tín dụng cho cán bộ phụ trách từng khu vực. Sự phân bổ này nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng tích cực hơn, tự tìm đến các đơn vị, chủ thể có yêu cầu về vốn để cho vay, giúp doanh nghiệp phát triển. Việc khoán định mức cho vay nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm cho cán bộ hoạt động tín dụng. Tin rằng nếu làm được vấn đề trên chúng ta sẽ tìm được ra những cán bộ tín dụng có đức, có tài và đó là điều lý tưởng mà các nhà lãnh đạo Ngân hàng mong đợi. Đồng thời khi cán bộ tín dụng có thành tích thì phảI khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh thần một cách kịp thời, như thưởng tác nghiệp, nâng lương trước thời hạn, tặng giấy khen... Kết luận Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng và mang tính sống còn đối với các Ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Cùng với sự phát triển đi lên nó đã và đang tiếp tục khẳng định về sự cần thiết và tầm quan trọng đối với nền kinh tế, vấn đề này ngày càng được quan tâm một cách sâu sắc đối với sự ổn định và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại, hơn thế nữa, vấn đề này không chỉ liên quan tới sự tồn tại và phát triển của bản thân các ngân hàng mà quan trọng hơn là tới sự phát triển về mặt kinh tế của mỗi quốc gia, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc mở rộng và nâng cao chất lượng công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh là một đòi hỏi mang tính cấp thiết đặt ra cho các nhà kinh tế, đặc biệt là những người làm công tác Ngân hàng. Qua thời gian nghiên cứu và phân tích quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương với kinh tế ngoài quốc doanh, đề tài đã chỉ rõ được những nội dung cơ bản sau đây: 1/ Khái quát hoá được những vấn đề lí luận về kinh tế ngoài quốc doanh, vị trí của nó đối với nền kinh tế và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 2/ Đã đi sâu nghiên cứu phân tích thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh tế ngoài quốc doanh, tìm ra được những mặt còn tồn tại: Chính sách đầu tư tín dụng chưa đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tỷ lệ nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng ngày càng tăng; những vướng mắc về thế chấp, cầm cố tài sản đảm bảo nợ vay; thủ tục vay vốn rườm rà; chiến lược khách hàng chưa được quan tâm toàn diện. Trên cơ sở phân tích thực trạng, những tồn tại và nguyên nhân rút ra trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh tế ngoài quốc doanh, đề tài đã đưa ra được 7 giải pháp và 11 kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh. Hoàn thành bản luận văn này tôi hy vọng rằng với những kiến thức đã được trang bị tại trường, cùng với những nhận thức mới thu nhận được của bản thân về lý luận, thực tiễn hoạt động Ngân hàng nói chung và Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh nơi tôi công tác nói riêng, những giải pháp và kiến nghị tôi đưa ra sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất mới mẻ, phức tạp và rộng lớn, do đó mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng khả năng nghiên cứu, tìm hiểu và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết và có nhiều vấn đề đưa ra chưa được giải quyết thoả đáng. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy cô giáo và các đồng chí đồng nghiệp để bản luận văn của mình được hoàn chỉnh hơn. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy Tô Ngọc Hưng, cùng các Thầy cô giáo Học viện Ngân hàng Hà nội, Ban lãnh đạo và các đồng chí đồng nghiệp chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành bản luận văn này. Quảng ninh ngày 18 tháng 02 năm 2000 Tài liệu tham khảo Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính , tác giả FREDERIC S.MISHKIN Tiền tệ Ngân hàng và thanh toán quốc tế , tác giả: TS. Trần Hoàng Ngân Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại , tác giả DAVID COX Thẩm định dự án , tác giả Nguyễn Tuấn Ngân hàng thương mại Edward và Edward. Maketing Dịch vụ tài chính của TS. Nguyễn Thị Minh Hiền và TS. Nguyễn Thế Khải. Thanh toán và tín dụng quốc tế , tác giả : PGS Phan Quang Tuệ Một số nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Tác giả : TS. Nguyễn Văn Ngôn Tiền tệ và ngân hàng - Hoàng Kim. Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao, tác Giả: TS. Tô Ngọc Hưng TS.Nguyễn Kim Anh Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI , VII, VIII . Tạp chí cộng sản năm 1998 và 1999. Tài trợ dự án , tác giả : TS. Tô Ngọc Hưng và ThS. Trương Quốc Cường Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mới do Trần Thanh Sơn và Đào Thiên Hải sưu tầm. Luật giải thể và phá sản doanh nghiệp. Giáo trình toán tài chính. Tạp chí Ngân hàng năm 1997,1998,1999. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Tập san Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28237.doc
Tài liệu liên quan