Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á - Chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự mở của và hội nhập, đất nước chúng ta đang ngày một đổi mới cùng với sự phát triển nói chung của thế giới. Trong quá trình mở cửa chúng ta mở rộng mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới, đây cũng là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho các ngân hàng có điều kiện phát triển chính mình. Trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã có những đóng góp ngày càng tích cực vào công cuộc ph

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển kinh tế , kiềm chế lạm phát , huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và tổ chức kinh tế xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong các hoạt động của các ngân hàng thương mại thì hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng đem lại tới 80% lợi nhuận kinh doanh cho ngân hàng, trong đó tín dụng ngắn hạn chiếm tới 60%. Hơn nữa, với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, sự phát triển nóng của thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh sẽ khiến cho thị trường vốn trung và dài hạn sẽ không còn là thị trường mục tiêu hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại nữa. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, tuy các ngân hàng thương mại đã chú trọng tới mở rộng quy mô, tăng khả năng cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, song có thể nói tín dụng ngắn hạn vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Không ngoại lệ, tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội, tín dụng ngắn hạn là khoản mục có tỷ trọng lớn nhất. Trong những năm gần đây, hiệu quả tín dụng ngắn hạn đã dần được nâng cao tại chi nhánh, đem lại các khoản lợi nhuận to lớn, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như các khoản nợ xấu, nợ khó đòi làm ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh. Nhận thấy rõ vai trò của tín dụng ngắn hạn trong hoạt động của ngân hàng thương mại cũng như bối cảnh Việt Nam hiện tại, em đã chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Chuyên đề chọn điểm nghiên cứu thực tiễn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội. Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội. Tuy nhiên do trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều nên chuyên đề không tranh khỏi thiếu sót… em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. 1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại. 1.1.1.1. Khái niệm. Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp ra đời từ khá sớm gắn liền với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế đòi hỏi sự ra đời và phát triển của ngân hàng, đến lượt mình, quá trình phát triển của ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều các tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán cũng đều đang cố gắng cung cấp những dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Vì vậy, cách tiếp cận thận trọng nhất về ngân hàng thương mại có lẽ là xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của trường đại học Kinh tế quốc dân, Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa khác lại dựa theo các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Theo luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm: * Hoạt động huy động vốn. Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - hoạt động này đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại đã tìm mọi cách để huy động được tiền bởi nguồn tiền huy động này là điều kiện cần để có thể thực hiện các hoạt động sử dụng vốn cho ngân hàng. Một trong những nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Để gia tăng nguồn tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau: Nhận tiền gửi thanh toán; tiền gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn đa dạng, hấp dẫn; huy động trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... Ngoài ra, khi cần vốn cho nhu cầu thanh toán hay cho vay, đầu tư khác... ngân hàng có thể vay vốn từ các ngân hàng khác, vay trên thị trường tài chính hay vay của ngân hàng Trung ương. * Hoạt động sử dụng vốn. Với nguồn vốn huy động được, ngân hàng sử dụng vốn này vào nhiều mục đích khác nhau nhằm mục đích sinh lời hoặc đảm bảo khả năng thanh toán. Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất của ngân hàng thương mại, song cũng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Hoạt động này bao gồm: Hoạt động ngân quỹ: là hoạt động để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán tiền mặt thường xuyên của ngân hàng. Nguồn đảm bảo cho hoạt động này bao gồm các khoản tiền mặt trong quỹ của ngân hàng, tiền gửi tại Ngân hàng trung ương hay các ngân hàng thương mại khác và tiền mặt trong quá trình thu. Hoạt động đầu tư: Ngân hàng tham gia vào hoạt động đầu tư chứng khoán, mua bán chứng khoán trên thị trường trái phiếu, kỳ phiếu. Ngoài ra, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp bằng cách mua cổ phiếu các công ty, các doanh nghiệp, hùn vốn với các doanh nghiệp để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời… Các hoạt động sử dụng vốn khác: Quảng cáo, quảng bá, hoạt động tài trợ, quản lý ngân quỹ cho khách hàng… * Hoạt động trung gian. Khi thực hiện hoạt động này, ngân hàng đóng vai trò trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính cho khách hàng. Bao gồm: cung cấp các dịch vụ chuyển tiền, thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ đại lý... Những hoạt động này khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí giúp tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. * Các hoạt động khác: Ngoài các hoạt động cơ bản trên, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác như: bảo quản tài sản hộ, cho thuê thiết bị,… 1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm. Thuật ngữ tín dụng ngân hàng xuất phát từ chữ Latinh ‘ Credium’ có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, sự tín nhiệm. Lòng tin ở đây không chỉ của người đi vay mà cả người cho vay. Hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn thì người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn, khoản dôi đó được gọi là khoản lợi tức tín dụng. Còn hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng gồm 2 mặt : Huy động vốn và cho vay. Như vậy có thể rút ra khái niệm về tín dụng một cách đơn giản : Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả. Từ khái niệm về tín dụng có thể rút ra khái niệm về tín dụng ngân hàng như sau: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được thực hiện dưới hình thức vốn tín dụng bằng tiền bao gồm tiền mặt và bút tệ. 1.1.2.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại bao gồm: Tín dụng thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiếu khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán, người bán chuyển các khoản thu cho ngân hàng để lấy tiền trước. Sau đó, ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Tín dụng tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng thương mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng thường nhỏ lẻ và rủi ro mất vốn tương đối cao. Song sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong hoạt động cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Tài trợ tín dụng cho dự án: Bên cạnh hoạt động truyền thống là các hoạt động tín dụng ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà, phát triển các dây chuyền công nghệ cao,… Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động sản. Hoạt động tín dụng có rất nhiều hình thức: tín dụng trả góp, tín dụng trực tiếp từng lần, tín dụng gián tiếp,... 1.1.2.3.Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại. Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng có thể phân theo nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể: Tín dụng phân chia theo thời hạn cấp tín dụng: Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay không quá 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn nhằm mục đích bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. Tín dụng ngắn hạn có đặc điểm : Lãi suất thường thấp, tính thanh khoản của món vay cao và độ rủi ro thấp. Tín dụng trung hạn: Thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn nhằm mục đích tài trợ cho các tài sản cố định như sửa chữa, mua sắm thêm phương tiện vận tải, thay đổi sản phẩm hàng hoá … Tín dụng trung hạn có đặc điểm : Lãi suất thường cao, tính thanh khoản của món vay thấp và độ rủi ro tương đối cao. Tín dụng dài hạn: Thời hạn cho vay trên 5 năm. Mục đích của hình thức cấp tín dụng dài hạn là tài trở cho các công trình xây dựng cơ bản như cầu đường, sân bay, máy móc thiết bị có giá trị lớn tời gian sử dụng lâu dài phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều rộng hoặc chiều sâu … Cho vay dài hạn có đặc điểm: Lãi suất và độ rủi ro rất cao , tính thanh khoản của món vay lại rất thấp. Tín dụng phân chia theo đảm bảo: Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay được bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng có tài sản đảm bảo được chia thành tín dụng thế chấp và tín dụng cầm cố. Tín dụng thế chấp là hình thức mà người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Tín dụng cầm cố: Là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Tín dụng không có tài sản đảm bảo: Loại tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ dây dưa khó đòi hoặc cũng có thể cấp theo chỉ định của chính phủ. Tổ chức tín dụng có thể lựa chọn khách hàng vay để cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung han, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đủ các điều kiện sau: + Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong quan hệ vay vốn với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tín dụng khác. + Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật. + Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. + Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đòng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Tín dụng phân loại theo hình thức tài trợ tín dụng. Theo hình thức tài trợ, tín dụng được phân chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê,… Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay kà tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuốc kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổn số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuốc kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuốc kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phong tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khach hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là phần giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào nội bảng. 1.1.2.4. Đặc điểm: Hoạt động tín dụng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Thông qua cơ chế chính sách thích hợp, ngân hàng huy động những khoản nhàn dỗi để hình thành nguồn vốn cho vay nhằm bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế. Các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn và cấp tín dụng. Hoạt động của các ngân hàng bao gồm hai nhiệm vụ tương đối độc lập là huy động vốn và cho vay, khi ngân hàng nhận tiền gửi của dân cư, doanh nghiệp, chính phủ thì ngân hàng là ngưòi đi vay.Khi ngân hàng cung ứng tiền cho dân cư, doanh nghiệp, chính phủ thì ngân hàng là người cho vay. Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng phù hợp với sự vận động và phát triển của tái sản xuất xã hội. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì vốn cũng là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh càng mở rộng thì nhu cầu vốn lại càng cao trong đó vốn tín dụng sẽ cũng tăng theo. Với trường hợp này thì tín dụng ngân hàng vận động phù hợp với qui mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. 1.1.3. Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. 1.1.3.1. Khái niệm: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng. 1.1.3.2. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn. Vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tín dụng ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm thời vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc cho vay và thu nợ luôn diễn ra lúc vắt đầu và kết thúc của chu kì sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên vật liệu, hoặc trang trải các chi phí sản xuất và khi hàng hoá được tiêu thụ, khách hàng có thu nhập, cũng là lúc ngân hàng thu hồi nợ. Xuất phát từ đặc điểm này, các ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay trên cơ sở chu kỳ sản xuất của người vay. Do vậy, thời gian thu hồi vốn trong cho vay ngắn hạn nhanh. Rủi ro của khoản tín dụng ngắn hạn thấp hơn khoản tín dụng trung và dài hạn do thời hạn thu hồi vốn nhanh, cũng vì vậy mà mức lãi suất tín dụng ngắn hạn thấp hơn mức lãi suất tín dụng trung và dài hạn. Hình thức cấp tín dụng phong phú: Nhân hàng cung cấp ngày càng đa dạng các loại hình thức cấp tín dụng ngắn hạn như: Cho vay mua hàng dự trữ, cho vay vốn lưu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựong, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản… Điều này vừa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Tín dụng ngắn hạn là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Do nguồn tiền huy động được chủ yếu là nguồn ngắn hạn và sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn tiền và cho vay, nên ngân hàng chủ yếu cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn. Trên thực tế chì tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối, khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng và đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng thương mại. 1.2. Hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. 1.2.1.Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro có khả năng xảy ra với tỷ lệ cao. Hiệu quả hoạt động tín dụng được thể hiện bởi chất lượng, quy mô và khả năng cạnh tranh trong hoạt đông tín dụng. Vậy, hiệu quả tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại của ngân hàng. Hiệu quả tín dụng được hình thành và đảm bảo từ hai phía là ngân hàng và khách hàng, bởi vậy hiệu quả tín dụng của ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng, ngoài ra tổ chức tín dụng còn chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế xã hội. Đối với tín dụng ngắn hạn, kì hạn chỉ không quá 12 tháng nên phải phù hợp với mục đích sử dụng, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển của khách hàng.Ngoài ra hiệu quả tín dụng ngắn hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ , giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực của ngân hàng. Như vậy, để một khoản vay có hiệu quả thì cần phải đặt ra những tiêu chí để giám sát, lấy đó làm nền tảng để đánh giá cho các khoản vay sau này. Mỗi khoản vay có hiệu quả dẫn tới tổng hoà các khoản cho vay có hiệu quả và từ đó hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ có hiệu quả. Hiếm khi tất cả các khoản cho vay ra có thể thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn quy định, sẽ có một tỷ các khoản cho vay không tuân theo quy luật thông thường đó, nhưng tỷ lệ là bao nhiêu để không ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại, tỷ lệ đó không xác định rõ trong từng thời điểm cũng như không có một quy chuẩn nào để quy định tỷ lệ đó. Nhưng qua mỗi năm, ngân hàng tổng kết được một tỷ lệ các khoản vay không thu hồi đúng hạn, từ đó làm căn cứ để so sánh với số liệu của năm trước, so sánh với số liệu của toàn ngành. Nếu tỷ lệ các khoản vay chưa thu hồi năm nay thấp hơn năm trước chứng tỏ hoạt động tín dụng năm nay có nhiều biến chuyển mang tính tích cực. Mặt khác, tỷ lệ này nếu được so sánh với số liệu của toàn ngành mà cao hơn cho thấy chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng còn thấp hơn so với mặt bằng chung của toàn ngành ngân hàng, ngân hàng dựa vào đó làm cơ sở để phân tích, đánh giá cho những chính sách tín dụng sau này của ngân hàng. 1.2.2.Vai trò của hiệu quả tín dụng ngắn hạn. Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn có một vai trò hết sức quan trọng đến các doanh nghiệp, các cá nhân và đối với cả nền kinh tế. Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng cấp cho các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế đã đóng góp rất nhiều tới sự phát triển của một đất nước. Tín dụng ngắn hạn đem đến một nguồn vốn to lớn cho nền kinh tế, nó đã góp phần ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là một phần không thể thiếu trong chính sách phát triển của bất kì một nền kinh tế nào. Đối với chính ngân hàng : Thứ nhất, hoạt động tín dụng ngắn hạn là loại hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Để hoạt động tín dụng của ngân hàng có hiệu quả thì ngân hàng cần xem xét, đánh giá mỗi khách hàng vay của mình thật kỹ lưỡng để từng khoản vay có chất lượng. Hiệu quả tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo ở mức tối thiểu và hợp lý. Ngân hàng nên đặt khách hàng vào môi trường kinh doanh hiên tại của chính các doanh nghiệp, để đánh giá xem họ có đang kinh doanh trong thị trường như thế nào, những mặt hàng của doanh nghiệp sau khi sản xuất có khả năng tiêu thụ hay không… tìm hiểu về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng nắm bắt được đồng vốn mà ngân hàng cho vay có được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả không. Thứ hai, hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn tăng khả năng hoạt động của ngân hàng do tao được vòng quay vốn lớn, đảm bảo được nguồn vốn lớn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, nâng cao hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng sinh lợi, giảm những chi phí phát sinh như chi phí nghiệp vụ, chi phí bảo quản, chi phí quản lý, chi phí cơ hội do thu hồi vốn chậm,… Từ đó cải thiện được tình hình tài chính tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng thương mại. Thứ tư, hiệu quả tín dụng có tác động đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tốt sẽ giúp ngân hàng tạo dựng được một hình ảnh tốt đẹp trong mắt khách hàng, uy tín của ngân hàng tăng lên, từ đó thu hút thêm được nhiều khách hàng đến gửi tiền vào ngân hàng. Nó tạo nên một cơ sở bền vững lâu dài cho ngân hàng thương mại thể hiện ở chỗ, ngân hàng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng trung thành và đáng tin cậy. Những khách hàng này sẽ không chi vay ngân hàng mà còn có xu hướng sử dụng nhiều dịch vụ khác của ngân hàng như: quản lý ngân quỹ, tư vấn tài chính, bao thanh toán,… Những khách hàng thân quen trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Đối với khách hàng : Tín dụng ngắn hạn tạo ra một nguồn vốn bổ sung kịp thời cho các doanh nghiệp đang thiếu vốn tạm thời hoăc gặp khó khăn về mặt tài chính. Trong nhiều trường hợp tín dụng ngắn hạn còn là giải pháp tiết kiệm cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt kịp những cơ hội kinh doanh, tận được những thời cơ kiếm lợi. Tín dụng ngắn hạn đôi khi trở thành một phần trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và nó đóng vai trò như một đòn bẩy tài chính giúp doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và thu được nguồn lợi nhuận to lớn. Tín dụng ngắn hạn đồng thời là động lực, yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả cố gắng quay vòng vốn nhanh, tìm kiếm các chính sách có hiệu quả nhất nhằm mục đích kiếm lợi nhuận và trả nợ. Mặt khác, thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Như vậy hiệu quả tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đối với nền kinh tế : Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế. Đó là nợ tích tụ tập trung và cũng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Tín dụng là hoạt động mang tính chất đầu tư của ngân hàng thương mại. Các trung gian tài chính khác như công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, thị trường chứng khoán, quỹ đầu tư,… chủ yếu cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chính vì vậy, trách nhiệm cung cấp vốn ngắn hạn thuộc về các ngân hàng thương mại. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn đang gia tăng không ngừng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đạt lợi nhuận cao, thúc đẩy chuyển tiết kiệm thành đầu tư, tận dụng tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Nâng cao hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn nghĩa là khách hàng thực hiện được các mục tiêu vay vốn của mình, từ đó tạo những thương hiệu uy tín nhất định thị trường trong nước và quốc tế, cải thiện vị trí trong danh mục đầu tư quốc tế. Chất lượng tín dụng phải tạo ra được các hiệu quả xã hội như phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trương kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại cũng như thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngân hàng. Đồng thười xu hướng trên tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hạn chế rủi ro, thị trường tài chính nhờ vậy mà có mối quan hệ chặt chẽ thống nhất, bổ sung cho nhau. Từ những điều trên có thể rút ra : Hiệu quả tín dụng ngắn hạn là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại và sự thay đổi của môi trường bên ngoài. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố : thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng… 1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại.. Đối với NHTM, cho vay có vai trò quan trọng trong phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhờ có hoạt động tín dụng mà một ngành ngân hàng có thể mở rộng màng lưới kinh doanh, tăng quy mô nguồn vốn huy động và khả năng cho vay của mình, vì tín dụng góp phần đem lại tới 80% lợi nhuận cho ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng cần phải tìm biện pháp nâng cao chất lượng đối với các khoản cho vay và cho thuê của mình. Thực tế, chất lượng hoạt động tín dụng là một khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác. Thông thường để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng thương mại, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau, nhưng về bản chất chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được đánh giá qua các chỉ tiêu sau : 1.2.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định tính: Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng trên cơ sở pháp lý, việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ, việc thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. - Trên cơ sở pháp lý, hoạt động tín dụng có hiệu quả phải chấp hành pháp luật của Nhà nước, cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và của ngân hàng Nhà nước và các văn vản quy phạm pháp luật có liên quan. - Trên cơ sở quy chế tín dụng của ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng có hiệu quả luôn phải tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng. Từ những đặc điểm riêng có của mình, hầu hết các ngân hàng đều nghiên cứu và đưa ra những quy chế tín dụng phù hợp nhất cho bản thân ngân hàng, tuy nhiên về bản chất nó đều hướng tới một mục đích chung, đó là hiệu quả trong tín dụng. Cụ thể là các ngân hàng lập ra sổ tay tín dụng, trong đó đưa ra các khái niệm, quy định, các quy trình và các hướng dẫn cụ thể dành cho các cán bộ ngân hàng. Các quy định trong quy trình cho vay được áp dụng cụ thể cho từng trường hợp xin vay ở mỗi ngân hàng là nhằm thực hiện việc cho vay có chất lượng. Do vậy việc tuân thủ những quy trình là tiền đề của hiệu quả tín dụng. - Trên cơ sở hợp đồng cho vay: Trước khi tiến hành hoạt động cho vay đối với một khách hàng nào đó, ngân hàng thương mại và khách hàng sẽ tiến hành lập một hợp đồng, trong đó có quy định những điều khoản quan trọng như: thời hạn cho vay, số tiền vay, mục đính sử dụng tiền vay, phương thức trả nợ, trả lãi, ngày trả nợ gốc,trả lãi,…; Kèm theo hợp đồng tín dụng có thể là một phụ lục hợp đồng trong đó có ghi các điều khoản kèm thêm do thỏa thuận của hai bên khi trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay cần có những sự điều chỉnh cần thiết. Một khoản vay sẽ không thể được coi là hiệu quả khi mà khoản vay đó không được sử dụng đúng mục đích hay được trả không đúng hạn,… Các nhóm chỉ tiêu định tính trên đây có thể đánh giá một phần nào đó về hiệu quả của các khoản vay của ngân hàng và đó dường như không thể thiếu trong bất cứ một nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, để xem xét tính hiệu quả tín dụng ngắn hạn một các chi tiết hơn, toàn diện hơn thì không thể bỏ qua nhóm các chỉ tiêu định lượng. 1.2.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng: *Vòng quay vốn tín dụng. Chỉ tiêu này đánh giá tần suất sử dụng vốn (hiệu quả sử dụng vốn) của ngân hàng trong một thời gian nhất định. Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ/Dư nợ bình quân. Vòng quay vốn tín dụng lớn chứng tỏ vốn ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Với số lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ quay vòng vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn có thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho doanh nghiệp khác phát triển sản xuất. Vòng quay vốn tín dụng tăng phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng tốt, khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng có hiệu quả, thường trả nợ đúng hạn. * Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng. Bất kỳ một ngân hàng nào thì chỉ tiêu này cũng rất quan trọng, chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tài sản của nhà quản ly . Đây là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay đối với khách hàng. Trong hoạt động cho vay phải thực hiện được l._.ãi suất dương, có nghĩa là lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với các chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Ngân hàng có thể tuỳ thời gian điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách khách hàng hợp ly, nhằm mở rộng đầu tư tín dụng thu hút khách hàng mà vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ các khoản vay đã thu hồi được cả gốc và lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay.Bằng việc so sánh các chỉ tiêu này giữa các ngân hàng nên có thể đánh giá, xếp loại chất lượng tín dụng của các ngân hàng. * Chỉ tiêu nợ quá hạn. Chỉ tiêu này có thể nói là quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau : Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn/Tổng dư nợ)*100 Chỉ tiêu này phản ánh rõ nét nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào, ra. Với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng ở ngân hàng cao, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp vì nó nói lên trong các khoản cho vay của ngân hàng chỉ có một số ít các khoản vay không hoàn trả đúng thời hạn. * Chỉ tiêu tổng dư nợ. Chỉ tiêu này phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ (1 năm) bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chât lượng tín dụng thấp vì ngân hàng không có khả năng mở rộng cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, trình độ đội ngũ nhân viên không cao. Tuy nhiên, khi xét chỉ tiêu này chúng ta không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất. Tuy vậy tông dư nợ cao chưa chắc đã phản ánh chất lượng tín dụng cao, vì vậy chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất, ta thường dùng để tính hệ số sử dụng vốn vay. Hệ số sử dụng vốn vay = Tổng số dư nợ/Tổng nguồn vốn huy động. Hệ số này phản ánh kêt quả sử dụng vốn để đầu tư của NHTM, hệ số luôn nhỏ hơn 1, nếu hệ số gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. 1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. 1.3.1. Môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của ngân hàng, điều này thấy rõ ở đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước, của mỗi địa phương và ở mức độ phát triển của mỗi quốc gia, ở từng địa phương. Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản kí thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản kí thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể giảm sút từ đó gây lên tình trạng ngân hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của ngân hàng là đường lối chủ trương của quốc gia, địa phương. Lý do chủ yếu để ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng, xã hội. Về mặt lý luận các ngân hàng chỉ cho người nào vay tiền nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, nhưng theo chủ trương của Nhà nước. Tóm lại hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro nhiều hay ít có quan hệ hữu cơ với sự phát triển kinh tế của quốc gia. 1.3.2. Môi trường pháp lý. Nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động tín dụng nó tạo môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của ngân hàng. Nhân tố pháp luật ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí. Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể lệ tín dụng của ngành đúng với luật ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Bất kỳ một điều khoản nào, một quy định nào chưa phù hợp với thực tiễn đều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy, việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động ngân hàng là vấn đề có nhiều ảnh hưởng rất lớn đền hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.3.3. Về phía khách hàng vay vốn. Trong khi doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác trực tiếp sử dụng quản lý vốn của mình thì ngân hàng sử dụng vốn của mình dười hình thức gián tiếp đó là giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn. Do vậy chất lượng tín dụng ngân hàng chịu nhiều chi phối rất lớn từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn. Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng chính đến chất lượng tín dụng đó là : Năng lực về vốn và tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đủ vốn cố định và vốn lưu động để thực hiện nhiệm vụ của mình không, một doanh nghiệp có nguồn vốn dồiđào, nguồn vốn ít bị phụ thuộc vào ngân hàng, vào các chủ nợ khác thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng là cao hơn so với doanh nghiệp có vốn chủ yếu là đi vay. Giá trị thực của một doanh nghiệp là một tài tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của chính họ, và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng cho doanh nghiệp đó vay. Khối lượng và chất lượng tài sản của doanh nghiệp nói lên sự thận trọng và tháo vát của nhà quản lý doanh nghiệp đồng thời một số hoặc tất cả tài sản có thể đảm bảo cho khoản vay. Điều đó có ý nghĩa các khoản vay sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên chúng ta phải chú y một điều tuy các tài sản đó giảm bớt rủi ro cho ngân hàng nhưng các ngân hàng vẫn mong muốn vốn vay sẽ được trả từ lợi nhuận bởi vì điều đó chứng minh rằng vốn của ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả. Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, tương lai của doanh nghiệp phát triển ở mức độ nào, dư án, phưong án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không. Điều này cổ phần hoá ý nghĩa quyết định cho số phận món tiền ngân hàng cho vay, nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn của ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả. Mức độ chuyển biến nhận thức, quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao. Họ đã có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cap trông chờ nguồn vốn được cấp được vay ưu đãi. Trình độ doanh nghiệp ở mức độ nào, đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh, phát triển trong khi một doanh nghiệp khác bị thua lỗ, suy sụp. Sự khác biệt này có nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ chất lượng quản lý và đây cũng là yếu tố quyết định khiến cho doanh nghiệp có được vay vốn ngân hàng hay không và qua đó để đánh giá phần nào chất lượng tín dụng của ngân hàng. Như vậycó thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng và có lợi nhuận cho người vay các doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển được vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của ngân hàng sẽ cao và ngược lại. 1.3.4 Nhân tố chủ quan của ngân hàng. * Chất lượng cán bộ tín dụng. Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ ngân hàng trong cơ chế thị trường có ảnh hưởng to lớn tới chất lượng món vay của ngân hàng. Chúng ta đang đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian chung cho tất cả các nước, các thị trường tài chính mở rộng phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt ngân hàng trước những thử thách mới. Bởi vậy nếu ngân hàng nào không nhận thức được vấn đề này, không tự đổi mới tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh của riêng mình, có hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển trong đó chiến lược con người giữ vai trò chủ đạo. Thực tế cho thấy nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của ngân hàng, đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát của mình đối với các doanh nghiệp để rồi dẫn đến ngân hàng chịu toàn bộ rủi ro. * Chính sách tín dụng Với tầm quan trọng và quy mô lớn của tín dụng, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng. Chính vì vậy, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời là một nhiệm vụ quan trọng cần được đặt ra cho bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Tuy nhiên, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể đưa ra những chính sách tín dụng phù hợp như chú trọng vào nhóm khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hay các doanh nghiệp lớn, quốc doanh hay ngoài quốc doanh, tài trợ nhập khẩu, xuất khẩu, tài trợ tiêu dùng,… Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng chú trọng tới đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp nhập khẩu thì ngân hàng sẽ đưa ra những ưu đãi cụ thể về lãi suất, thời hạn vay, thủ tục và các điều kiện vay… đối với nhóm doanh nghiệp này đồng thời có biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với nhóm doanh nghiệp này. Một chính sách tín dụng được gọi là thành công nghĩa là nó mang lại hiệu quả cho món vay đó. Chính sách tín dụng của ngân hàng cần được xây dựng hợp lý, đúng đắn nhưng rất cần tính linh hoạt. Nếu chính sách được thực hiện quá cứng nhắc thì ngân hàng rất khó có thể thực hiện được món vay, giảm tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Với mức lãi suất đa dạng cho từng loại hình vốn vay và kỳ hạn phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ làm tăng tính hiệu quả của món vay, tức là nâng cao hiệu quả tín dụng. * Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là tất cả các bước mà ngân hàng thực hiện khi cấp tín dụng đối với khách hàng, kể từ khi khách hàng nộp đơn xin vay vốn đến khi ngân hàng thu cả nợ gốc và lãi. Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng đặt ra quy trình tín dụng và thực hiện cấp tín dụng theo quy trình này. Quy trình tín dụng bao gồm các bước sau: Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng Phân tích trước khi cấp tín dụng là hoạt động thu thập và phân tích thông tin về khách hàng (ngành nghề kinh doanh, tình hình tài chính,…), phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng và thẩm định tài sản thế chấp trước khi cấp tín dụng của ngân hàng. Có thể nói, phân tích trước khi cấp tín dụng chính là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng của món vay đó. Công việc này cần tính chặt chẽ, chính xác, có thực tế nhưng cũng rất cần sự linh hoạt, trình độ của cán bộ tín dụng cũng như sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa tính toán an toàn với tính sinh lời trong mọi công việc, tuy nhiên khi đã chọn ra được mục đích cụ thể thì cần có hướng đi đồng bộ trên mọi khâu của quy trình. Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng. Sau khi phân tích kỹ lưỡng phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, ngân hàng tiến hành xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng gồm có các điều khoản về số tiền cấp tín dụng, thời hạn tín dụng, lãi suất,… và quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia (khách hàng và ngân hàng). Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Quá trình này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được đối tượng mà mình cho vay, theo dõi xem khách hàng sử dụng vốn có đúng mục đích không và hiệu quả sử dụng của món vay đó. Thông qua kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay của mình như về thu nhập khi đến hạn hay ngân hàng phát hiện được những dấu hiệu sai trái, bất hợp pháp để từ đó có biện pháp ngăn ngừa và biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Bước 4:Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Bước cuối cùng là thu nợ gốc và lãi của ngân hàng cho từng đối tượng vay,bước này rất quan trọng vì chất lượng tín dụng được đánh giá trên kết quả thu được. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay biến động, có thể một lý do nào đó mà khách hàng chưa muốn trả nợ hoặc chưa có nguồn để trả nợ. Vì thế nếu ngân hàng không thu nợ kịp thời hay các định kỳ hạn nợ không hợp lý có thể dẫn tới nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu nợ của ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. Các bước của quy trình cho vay có mối liên hệ chặt chẽ, nếu trình tự này khoa học, hợp lí thì sẽ thuận tiện cho cả ngân hàng và khách hàng.Vì vậy việc định ra một quy trình cho vay chuẩn mực sẽ là một điều kiện để ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng của mình. * Phương thức tổ chức điều hành Phương thức tổ chức điều hành là việc bố trí, sắp xếp, quy định trách nhiệm quyền hạn của các cá nhân, bộ phận và trình tự tiến hành công việc của một tổ chức nói chung Phương thức tổ chức điều hành là yếu tố không trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nhưng nếu công tác tổ chức hoạt động của ngân hàng tỏ ra không khoa học, có sự chồng chéo thì việc thực hiện các hoạt động cho vay của phòng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng không tốt, chất lượng tín dụng không thể cao. * Thông tin và trang thiết bị công nghệ Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin tín dụng chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm nhưng thông tin tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý, thông tin về kinh tế xã hội… Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món vay có lợi cho ngân hàng. Hiện nay, tình trạng thông tin không hoàn hảo ở nước ta đang khá phổ biến, chính vì vậy, việc tìm kiếm thông tin có chất lượng như trên là rất khó khăn. Có nhiều khoản cho vay gặp rủi ro vì thiếu thông tin chính xác như một khách hàng dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều ngân hàng, giấy tờ giả, hợp đồng giả hoặc thổi phồng tính khả thi của phương án kinh doanh…Điều này không những gây tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng mà còn gây mất lòng tin của ngân hàng đối với những khách hàng khác. Ngân hàng nắm bắt những thông tin tín dụng không kịp thời sẽ không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng và như vậy hạn chế chất lượng tín dụng của ngân hàng. Cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại của ngân hàng sẽ phần nào hạn chế rủi ro này. Với trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, chính xác, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu rủi ro, bắt kịp sự thay đổi mạnh mẽ của các thành phần kinh tế trong nước cũng như quốc tế. Ngoài ra, hình thức của trang thiết bị của ngân hàng có thể đánh vào cảm giác ban đầu của khách hàng đối với ngân hàng, tạo tâm lý tin tưởng hoặc không tin tưởng của khách hàng. Đây cũng là yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng, mở rộng thị phần. Bên cạnh đó còn có các yếu tố khách quan như thiên tai dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ… thì bản thân ngân hàng phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm sút. Trong đó cán bộ tín dụng có vai trò và ảnh hưởng lớn đến chất lượng các món vay, bởi chính họ là người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề xuất cho vay và theo dõi quản lý dư nợ của khách hàng. Chính vì vậy mà cán bộ tín dụng chính là mẫu số chung nhỏ nhất của các ngân hàng khi tìm ra nguyên nhân của nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được. Như vậy để có một khoản vay tốt thì cần phải kết hợp nhiều điều kiện. Ngoài một báo cáo tài chính vững mạnh cần có một đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật, có trực giác nhạy bén, sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có năng lực, thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp thì các ngân hàng có thể bắt đầu một quá trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để lấy lại và nâng cao uy tín của mình trong xã hội. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI NGÂN HÀNG ĐÔNG Á–CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1. Khái quát về ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. Được sự chấp thuận của ngân hàng nhà nước, chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nội được thành lập vào ngày 17/09/1993 sau khi thành lập ngân hàng Đông Á được một năm. Sự ra đời của chi nhánh Hà Nội là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự phát triển của toàn hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Ngân hàng Đông Á với hội sở tại thành phố Hồ Chí Minh dần dần mở rộng địa bàn hoạt động của mình trên Hà Nội cũng như toàn quốc. Kể từ ngày thành lập, ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội đã không ngừng phát triển và mở rộng. Cho đến nay, hoạt động Chi nhánh ngân hàng Đông á Hà Nội đã dần ổn định và đang trên đà phát triển, lần lượt thành lập được 10 chi nhánh cấp 2 trực thuộc và đã chuyển thành phòng giao dịch trực thuộc phân bố đều khắp địa bàn Hà Nội. 2.1.2. Hệ thống tổ chức và nhiệm vụ của các phòng ban. 2.1.2.1. Hệ thống tổ chức: Mô hình tổ chức của ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội được xây dựng theo mô hình hiện đại hoá ngân hàng, theo hướng đổi mới tiên tiến và phù hợp với quy mô, đặc điểm hoạt động của chi nhánh. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nội và các phòng ban Phó giám đốc. Nguyễn Văn Sơn Giám đốc. Trần Đạo Vũ Phòng hành chính Phòng tín dụng và kinh doanh Phòng kế toán Phòng ngân quỹ Phòng thẻ Các phòng giao dịch trực thuộc PGD. Hưng Yên PGD. Hà Đông PGD. Thanh Xuân PGD. Long Biên PGD. Hồ Gươm PGD. Minh Khai PGD. Cầu Giấy PGD. Ba Đình PGD. Kim Liên PGD. Bạch Mai 2.1.2.2. Nhiệm vụ các phòng ban. Với đặc thù của ngành và phù hợp với địa phương, bộ máy của ngân hàng Đông á - chi nhánh Hà Nội được xây dựng trên phương thức gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo đủ các phòng ban cho công tác quản lý và hoạt động kinh doanh. Mỗi phòng , ban có chức năng và nhiệm vụ khác nhau , phụ trách từng mảng của Ngân hàng tạo nên 1 thể thống nhất mà không hề trùng lấp trong cơ cấu của Ngân hàng Đông á - chi nhánh Hà Nội. * Phòng tín dụng và kinh doanh: Phòng Tín dụng phục vụ cho vay vơi đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các thành phần kinh tế tư nhân ,cá thể, hộ gia đình. Tham mưu cho Giám đốc trong các vấn đề : Tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng , Thực hiện các nghiệp vụ tài trợ thương mại như : trình mở L/C vay vốn, bảo lãnh ngân hàng. Tham mưu cho giám đốc tổ chức thực hiện, áp dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tới các khách hàng theo sự phân công của chi nhánh. Tham mưu cho giám đốcvề thực hiện thanh toán quốc tế và các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại theo hướng dẫn và chỉ đạo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông á. * Phòng ngân quỹ thực hiện các chức năng: Quản lý quỹ nghiệp vụ của chi nhánh Chuyển ,nhận tiền từ Ngân hàng Nhà nước, các chi nhánh cấp 2 trực thuộc và các quỹ phụ . Phòng thực hiện xuất-nhập tiền mặt , bảo đảm đầy đủ lượng tiền mặt , ngoại tệ cho hoạt động của toàn chi nhánh. * Phòng kế toán có chức năng : Cung cấp các thông tin về tài chính và các chỉ tiêu thanh khoản của chi nhánh Tổ chức, phổ biến, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra toàn bộ việc thực hiện nghiệp vụ kế toán, tài chính, thanh toán, thực hiện các chính sách và chế độ kế toán. Phòng có nhiệm vụ lập và phân tích các báo cáo tài chính, kế toán, đánh giá tài chính và hiệu quả kinh doanh của toàn chi nhánh. * Phòng hành chính làm công tác: Tham mưu cho Giám đốc trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng , chế độ, pháp luật của Nhà nướcvà của ngành về các mặt: Tổ chức bộ máy, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của toàn chi nhánh. Tham mưu cho ban giám đốcvề công tác chi tiêu nội bộ, công tác quản lý xây dựng , quản lý tài sản. Tham gia thực hiện phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện công tác hành chính, quản trị ,bảo vệ, hậu cần, phục vụ các mặt hoạt động của chi nhánh. * Phòng thẻ có nhiệm vụ: Thực hiện tổ chức phổ biến, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục mở tài khoản thẻ ATM. Thực hiện phát hành thẻ ATM Cung cấp thông tin về tình hình rút tiền cũng như gửi tiền của khách hàng. Trực tiếp quản lý tình hình hoạt động về lĩnh vực phát hành thẻ của các chi nhánh cấp 2 trực thuộc. Thực hiện các hoạt động nhằm phát triển mở rộng thị trường thẻ của Ngân hàng Đông á tại địa bàn Hà Nội. * Chức năng nhiệm vụ của các phòng giao dịch trực thuộc ngân hàng Đông á - chi nhánh Hà Nội.: Chi nhánh ngân hàng Đông á Hà Nội bao gồm tất cả 10 phòng giao dịch trực thuộc bao gồm: PGD. Bạch Mai, PGD. Kim Liên, PGD. Hồ Gươm, PGD. Hưng Yên, PGD. Thanh Xuân, PGD. Minh Khai, PGD. Cầu Giấy, PGD. Ba Đình, PGD. Hà Đông, PGD. Long Biên. Các phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh ngân hàng Đông á Hà Nội là đơn vị hạch toán báo sổ, có con dấu riêng theo quy định của Nhà nước và trực thuộc sự quản lý của chi nhánh ngân hàng Đông á TP. Hà Nội. Thực hiện các nghiệp vụ do chi nhánh Hà Nội uỷ quyền bao gồm: Huy động tiết kiệm bằng VND, vàng và ngoại tệ. Mở tài khoản tiền gửi và thực hiện các hình thức thanh toán qua NH. Chuyển tiền nhanh, thu chi hộ và các dịch vụ khác về ngân quỹ; Thu đổi ngoại tệ, chi trả kiều hối. Cho vay thế chấp bằng sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá trị và các khoản vay theo uỷ quyền của chi nhánh Hà Nội. Dịch vụ thanh toán thẻ DONGACARD. Quản lý, theo dõi, thu nợ, thu lãi hồ sơ tín dụng do chi nhánh Hà Nội chuyển cho chi nhánh thực hiện. Tiếp nhận hồ sơ thanh toán quốc tế, tín dụng TCKT chuyển về chi nhánh Hà Nội thực hiện. Quảng bá hình ảnh Ngân hàng Đông á tại địa bàn hoạt động của phọng giao dịch. 2.1.3.Tình hình hoạt động kinh doanh tại ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội trong thời gian qua. 2.1.3.1.Kết quả hoạt động 5 năm 2001-2005 của ngân hàng Đông Á Biểu đồ 1: Tổng tài sản của ngân hàng Đông Á (đơn vị: tỷ đồng) Biểu đồ 2: Vốn điều lệ của ngân hàng Đông Á (đơn vị: tỷ đồng) Biểu đồ 3: Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng Đông Á 2.1.3.2.Hoạt động chính tại ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội. * Ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội. được huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND và ngoại tệ từ mọi nguồn vốn trong nước dưới nhiều hình thức. Nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn , tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của tổ chức dân cư. Huy động kỳ phiếu, trái phiếu với kỳ hạn khác nhau. Mượn vốn của tổ chức tài chính trung gian trên thị trường tiện tệ. * Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội cũng rất đa dạng bao gồm nhiều hình thức : Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh. Trực tiếp thực hiện hoặc làm đại ly cho thuê tài chính. Thực hiện nghiệp vụ chuyển đổi ngoại hối. Chiết khấu các chứng từ có giá. Thanh toán trong và ngoái nước giữa các khách hàng. Tư vấn tài chính. Ngân hàng đại lý 2.1.3.3. Tình hình hoạt động chi nhánh Hà Nội trong những năm vừa qua. a. Hoạt động huy động vốn : Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nội năm 2006 Loại Đ.vị Tỷ giá Dư đầu kỳ Gửi vào Rút ra Dư cuối kỳ VND Tr.đ 509,214 828,180 729,434 607,961 USD USD 16,092 12,467,958.33 13,288,005.03 14,710,818.11 11,045,145.25 Vàng Chỉ 1,000,000 26,018.64 43,109.831 22,716.921 46,411.550 EUR EUR 21,190 570,495.11 336,477.17 464,341.61 442,630.67 AUD AUD 12,550 26,692.38 36,282.49 33,394.92 28,579.95 CAD CAD 14,180 78,420.11 24,080.14 19,038.51 82,461.74 Tổng Tr.đ 749,403 1,093,048 999,405 843,045 Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nôi năm 2006. Tình hình huy động tiết kiệm năm 2006 của chi nhánh Hà Nội tăng đáng kể. Dư có huy đông tiết kiệm cuối kỳ tại chi nhánh Hà Nội đạt 999 tỷ đồng. Tăng 33% so với đầu kỳ. Huy động vốn tăng chủ yếu là do huy động tiết kiệm VND tăng 13%, vàng tăng 33%, AUD tăng 31% và các ngoại tệ khác. Trong tổng dư có cuối lỳ huy động tiết kiệm VND chiếm tỷ trọng 70,3%, ngoại tệ USD chiếm 24,6%, còn lại là vàng và ngoại tệ AUD, EUR, CAD. Nếu tính cả 10 chi nhánh trực thuộc thi số dư có tiền gửi tiết kiệm cuôc kỳ đạt 1.722 tỷ đồng. Các chi nhánh cấp 2 chủ yếu huy động tiết kiệm bằng VND. So với đầu kỳ tỷ lệ tăng là : 43% (đầu kỳ tỷ lệ tăng là : 43%) (đầu kỳ 1.204 tỷ ). * Tiền gửi thanh toán và ký quỹ: Bảng 2: Tiền gửi thanh toán và ký quỹ tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nội năm 2006 Loại Đơn vị Dư đầu kỳ Ttr (%) Dư cuối kỳ Ttr (%) So sánh (%) TGTT Triệu 102,965 71.42 154,805 86.18 150 TGKQ Triệu 41,212 28.58 31,289 13.82 75.92 Tổng Triệu 144,177 100 186,094 100 119.68 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nôi năm 2006. * Bình quân các loại tiền gửi của chi nhánh Hà Nội: Bảng 3: Bình quân các loại tiền gửi của chi nhánh Hà Nội năm 2006 Loại Đ. vị Năm 2006 Năm 2005 Tăng/ giảm Tỷ trọng 2006 1. TGTK Tỷ đồng 808.021 733.221 74.8 88.61% 2. TGTT Tỷ đồng 68.453 80.095 -11.642 7.5% 3. TG ký quỹ Tỷ đồng 35.338 38.059 -2.721 3.89% 4. TG TCTD Tỷ đồng 632.432 Tổng cộng Tỷ đồng 1,544.240 851.375 +60.437 100% Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nôi năm 2006. Khoản mục tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng tiền gửi bình quân của chi nhánh (tới 88.61%). Tổng huy động vốn bình quân đạt 1,544 tỷ đồng. Trong đó huy động tiết kiệm là 733 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán và ký quỹ 104 tỷ đồng, TCTD là 632 tỷ đồng. Nhìn chung hoại dộng huy động vốn năm 2006 của chi nhánh Hà Nội chuyển biến tích cực, kuy động vốn tăng từ nguồn tiết kiệm và cả nguồn từ tổ chức doanh nghiệp. Mặc dù các ngân hàng bạn đồng loạt đưa ra nhiều loại hình tiết kiệm, lãi suất tăng cao cũng như các chương trình khuyến mại lớn nhằm thu hút thị trường và lôi kéo khách hàng của EAB – HN nhưng bằng các biện pháp nghiệp vụ riêng, EAB Hà Nội đã không những giữ vững lượng khách hàng cũ mà còn thu hut thêm một số lượng lớn các khách hàng tiết kiệm mới. Đặc biệt là lực lượng lao động xuất khẩu lao động của các công ty Trong năm, EAB Hà Nội đã tăng cường công tác quảng bá thương hiệu Đông á bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau như: Đăng bài trên các báo đặc thù của Hà Nội, thực hiện các cuộc phỏng vấn nghiệp vụ chuyên môn trên các hãng thông tin đại chúng, sử dụng các phương tiện quảng bá hữu hình và văn hoá doanh nghiệp. Sự đoàn kết thống nhát của tập thể cán bộ nhân viên chi nhánh trong quá trình phục vụ khách hàng (tiếp đón niềm nở lịch sự, nhiệt tình, chu đáo, cam kết phục vụ khác hàng... ) trên cơ sở chỉ đạo sâu sát của ban lãnh đạo ngân hàng, góp phần tăng trưởng nguồn vốn huy động trong những tháng đầu năm 2006. Những nỗ lực đó đã mang lại hiệu quả lớn la, khẳng định vị thế của EAB trên thị trường Hà Nội. b. Hoạt động tín dụng: Bảng 4: Hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Đông Á chi nhánh Hà Nội Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2006 Năm 2005 Tăng/Giảm Hoạt động cho vay Số dư đầu kỳ Tr.đ 240,632 163,951 +76,681 D.số cho vay trong kỳ Tr.đ 750,122 563,383 +186,739 Thu lãi trong kỳ Tr.đ 32,874 23,278 +9,596 Số dư cuôi kỳ Tr.đ 365,361 240,632 +124,729 Số dư bình quân Tr.đ 265,780 243,912 +21,868 Nợ quá hạn Số dư đầu kỳ Tr.đ 882 882 0 Số phát sinh trong kỳ Tr.đ 0 0 0 ThuhồitrongkỳNQH Tr.đ 0 263 -263 Số dư cuối kỳ Tr.đ 882 882 0 NQH sovới dư nợ BQ % 0.33 0.36 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Đông Á Hà Nội năm 2006 So với đầu kỳ, dư nợ cuối kỳ đạt 365 tỷ đồng, tăng 124 tỷ đồng (tỷ lệ tăng 51%). Doanh số cho vay trong hỳ tăng 186 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 91%. Thu lãi cho vay năm 2006 đạt 32,874 triệu đồng, tăng 41% so với cùng kỳ năm 2005 (23,278 triệu đồng). Dư nợ bình quân năm 2006 là 281 tỷ đồng, đạt 93% kế hoạch 2006. So với dư nợ bình quân năm 2005 là 251 tỷ đồng thì tăng 11%. Dư nợ tín dụng của chi nhánh Hà Nội theo cơ cấu như sau : • Theo kỳ hạn: Ngắn hạn chiếm tỷ trọng 85.69%, trung dài hạn 22.21%. • Theo thành phần: TCKT :77.06%, còn lại là các thành phần khác. • Theo loại tiền: Chủ yếu là VND: 79.7%, vàng : 4.5% và ngoại tệ: 15.8%. • Theo mục đích: TTQT: 38.1%, bổ sung VLD : 24.1%, còn lại là tài trợ xây dựng và trả góp và các mục đích khác. Nợ quá hạn của chi nhánh Hà Nội là 882 triệu đồng. Chiếm tỷ lệ 0.26% trong tổng dư nợ vình quân. Không phát sinh thêm hồ sơ quá hạn so với năm 2005. Hoại động tín dụng năm 2006 của chi nhánh ổn định và hiệu quả. Tín dụng của chi nhánh chủ yếu tập trung theo hướng tài trợ dự án, tài trợ nhập khẩu của các khách hàng mà EAB - HN phát hành thư bảo lãnh. Với phương thức đảm bảo tiền vay linh hoạt bằng bất động sản, bằng hang hoá, đơn vị đã duy trì được lượng khách hàng hiện tại, phát triển khách hàng mới và thắt chặt mối quan hệ giữ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32115.doc
Tài liệu liên quan