Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch ngân hàng NHCSXH huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định

LỜI MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài: Trong tiến trình đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dành sự quan tâm đặc biệt của mình vào xoá đói, giảm nghèo. Mục tiêu này đang thực hiện bởi nhiều chương trình lớn của Chính phủ, trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: Nền kinh tế tiếp tục phát triển, xã hội ổn định, quan hệ ngoại giao mở rộng, tạo được những tiền đề cơ bản để đẩy nhanh công nghiệp hóa

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch ngân hàng NHCSXH huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiện đại hoá đất nước. Song cùng với quá trình phát triển đó, bên cạnh sự tăng thu nhập của số đông dân cư vẫn tồn tại một bộ phận người nghèo khổ. Mặt khác, do tác động của cơ chế thị trường, sự tăng trưởng kinh tế thường đi đôi với sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt và có xu hướng ngày càng gia tăng. Trước thực trạng đó đã đặt ra nhiều nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước còn phải quan tâm tới công cuộc xoá đói giảm nghèo (XĐGN). Giải quyết vấn đề nghèo đói là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị đánh giá Chương trình Mục tiêu quốc gia về XĐGN tháng 10 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài của Đảng, Nhà nước và toàn dân, là trách nhiệm xã hội của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức; nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế xã hội, chính trị và nhân văn sâu sắc”. Nhằm cụ thể hóa chủ trương này của Đảng và Nhà nước, thời gian qua các Bộ, Ngành đã trình Chính phủ ban hành một hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp để giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ xã hội cơ bản, để tạo cho họ có cơ hội thuận lợi tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo và trở nên khá giả, giàu có. Một trong những chính sách và giải pháp quan trọng đó là chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo. Ngày 04 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH). NHCSXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Với mục đích khắc phục những tồn tại về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Phục vụ người nghèo trước đây, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thúc đẩy quá trình hiện đại và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời nhằm tập trung và quản lý thống nhất những chương trình tín dụng ưu đãi, phối hợp lồng ghép có hiệu quả những dự án hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển thị trường lao động. Xuất phát từ yêu cầu thực tế này, tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH nói riêng. - Phân tích thực trạng về hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo trong giai đoạn 2006 - 2009 tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ (PGD NHCSXH). - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ - Phạm vi nghiên cứu: Tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ - Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2006 đến năm 2009. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động tín dụng. - Phương pháp duy vật lịch sử được áp dụng khi xem xét đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ có gắn với các điều kiện lịch sử nhất định. - Phương pháp nghiên cứu kinh tế học cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: Đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp kết hợp với quan sát thực tế để làm rõ đề tài nghiên cứu. 5. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo của NHCSXH Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ Bài viết của em còn nhiều thiếu xót em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Ngọc Diệp đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO CỦA NHCSXH 1.1 Đói nghèo và sự cần thiết phải giảm đói nghèo 1.1.1 Đói nghèo và hậu quả của đói nghèo 1.1.1.1. Khái niệm người nghèo: Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục tập quán ấy được xã hội thừa nhận”. Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith thì cho rằng: “ Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức”. Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tổ chức tại Copennhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”. Các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ánh 3 khía cạnh chủ yếu của người nghèo: - Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu dành cho con người. - Có mức thu nhập thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư. - Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. * Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo: Đói nghèo do nhiều nguyên nhân, nhưng có thể chia đói nghèo thành những nguyên nhân sau: - Nhóm nguyên nhân do chủ quan của người nghèo: + Thiếu vốn sản xuất: Các tài liệu điều tra cho thấy đây là nguyên nhân chủ yếu nhất. Nông dân thiếu vốn thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản xuất kém, làm không đủ ăn, phải đi làm thuê, phải đi vay để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Có thể nói: thiếu vốn sản xuất là một lực cản lớn nhất hạn chế sự phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của các hộ gia đình nghèo. + Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức, sản xuất tự cung, tự cấp là chính, thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin, con cái thất học… Những khó khăn đó làm cho hộ nghèo không thể nâng cao trình độ dân trí, không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, thiếu kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh dẫn đến năng suất thấp, không hiệu quả. + Do sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu, không đủ sức làm kinh tế. Bình quân nhân khẩu lớn nhưng lao động ít. + Đất đai canh tác ít, thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng, mắc các tệ nạn xã hội. Mặt khác do hậu quả của chiến tranh dẫn đến nhiều người dân bị mất sức lao động, nhiều phụ nữ bị goá phụ dẫn tới thiếu lao động hoặc thiếu lao động trẻ, khoẻ có khả năng đảm nhiệm những công việc nặng nhọc. + Gặp những rủi ro trong cuộc sống, người nghèo thường sống ở những nơi hẻo lánh xa trung tâm, thời tiết khắc nghiệt, nơi mà thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh… Cũng chính do thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn mà hàng hoá của họ sản xuất ra thường bị bán rẻ (do chi phí giao thông) hoặc không bán được, chất lượng hàng hoá giảm sút do lưu thông không kịp thời. - Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư, chính sách trong giáo dục - đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh, định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế… - Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên xã hội: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động đến sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nghèo, ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến tranh để lại, cơ sở hạ tầng thiếu hoặc không có là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất. * Những đặc trưng cơ bản của hộ nghèo: - Đặc trưng cơ bản và dễ nhận diện nhất đó là hộ gia đình nghèo thường thiếu việc làm. - Người nghèo đa phần là những nông dân sống ở các vùng nông thôn, cơ bản họ vẫn còn tư liệu sản xuất như ruộng đất. Nhưng họ thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức sản xuất. - Đa số người nghèo có trình độ học vấn thấp, bị hạn chế về khả năng tiếp cận kỹ năng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến và những thông tin thị trường. - Những hộ nghèo thường rất dễ bị tổn thương bởi những biến cố khách quan mang tính thời vụ hoặc những biến động bất thường xảy ra. - Các hộ nghèo thường có nhiều con hoặc có ít lao động trong gia đình, chịu những áp lực lớn về chi phí y tế, giáo dục, phải tốn kém nhiều để giữ gìn, nâng cao nguồn nhân lực. - Các hộ nghèo thuộc dân tộc ít người thường chịu nhiều bất lợi do bị tách biệt về mặt địa lý và về mặt xã hội. - Những hộ nghèo ở thành thị đa phần là những người thất nghiệp hoặc có những việc làm không ổn định. - Hộ nghèo ở các vùng nông thôn có một số rơi vào tình trạng không có đất do phải cầm cố, cho thuê hoặc bán để chi tiêu vào những lúc khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống và cũng có rất nhiều hộ nghèo có ít đất đai. 1.1.1.2. Hậu quả của đói nghèo: - Cản trở tăng trưởng kinh tế: nghèo đói ăn không đủ, vốn sản xuất không có dẫn đến thất nghiệp, không có thu nhập làm cho kinh tế của toàn xã hội không phát triển. - Kìm hãm phát triển con người: nghèo đói làm cho các em nhỏ không có điều kiện cắp sách tới trường dẫn đến mù chữ, trình độ học vấn thấp không đủ kiến thức để đáp ứng yêu cầu sản xuất của nền kinh tế mới, gây cùng cực cho người nghèo. - Bất bình đẳng xã hội: quy luật từ sự đói nghèo dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng nó đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội, hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng tăng, phát sinh tệ nạn cho vay nặng lãi và bán sản phẩm trước kỳ thu hoạch của các hộ nông dân. - Phá huỷ môi trường: từ nghèo đói con người sẽ huỷ hoại và khai thác rừng bừa bãi làm ô nhiễm môi trường sinh thái. - Nguy cơ mất ổn định xã hội và phát triển bền vững: thiếu vốn, thiếu việc làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, gia tăng buôn lậu, tham nhũng, hối lộ… * Thực trạng hộ nghèo ở Việt Nam: - Chuẩn mực phân loại hộ nghèo đói: Chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo hoặc tiêu chuẩn nghèo) là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo. Hầu hết chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những người được coi là người nghèo khi mức sống của họ được đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn một mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Những người có mức thu nhập (hoặc chi tiêu) ở trên chuẩn này là người không nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của chính phủ tới nghèo đói; cho phép so sánh nghèo đói theo thời gian; tạo điều kiện so sánh với các nước khác và giám sát chi tiêu xã hội theo hưóng có lợi cho người nghèo. Ngoài ra còn định hướng chính sách hướng vào người nghèo để cải thiện vị thế của họ như: xây dựng các chính sách hỗ trợ người nghèo theo các nguyên nhân nghèo đói khác nhau, xây dựng các chính sách hỗ trợ giảm nghèo theo vùng, tình trạng việc làm, văn hoá, giới tính. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều thước đo khác nhau, tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà các quốc gia có thể lựa chọn để sử dụng cho mình phương pháp xác định cho phù hợp. Chỉ tiêu đánh giá về đói nghèo của Việt Nam là lấy thu nhập bình quân đầu người một tháng (hoặc năm) được đo bằng giá trị hay hiện vật quy đổi bằng lương thực (gạo) để đánh giá. + Thực trạng xác định chuẩn nghèo của nước ta thời kỳ 2001-2005: Trong những năm qua, Việt Nam tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ các mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo và hộ nghèo của Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới. Cụ thể như sau: Vùng đô thị là 150 nghìn VNĐ/tháng/người (1,8 triệu VNĐ/năm,/người). Vùng nông thôn đồng bằng là 100 nghìn VNĐ/tháng/người (1,2 triệu VNĐ/năm/người). Vùng nông thôn miền núi là 80 nghìn VNĐ/tháng/người (0,96triệu VNĐ/năm/người). + Chuẩn nghèo mới áp dụng cho Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010: Điểm nổi bật trong viêc xây dựng chuẩn nghèo mới thời kỳ 2006 – 2010 là đã thống nhất về khái niệm, nội dung và phương pháp xác định chuẩn nghèo giữa các cơ quan có liên quan, đặc biệt là Bộ lao động thương binh xã hội và Tổng cục thống kê. Chỉ sử dụng một chuẩn nghèo quốc gia duy nhất và từng bước tiếp cận phương pháp xác định của quốc tế để tạo điều kiện cho việc hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực XĐGN. Cụ thể giai đoạn từ năm 2006 - 2010 quy chế quy định như sau: Đối với khu vực thành thị: hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 250.000 đồng. Đối với khu vực nông thôn: hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 200.000 đồng. - Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam: Thành tựu của quá trình đổi mới đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào một giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tiến tới phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo, nhiều chỉ tiêu kinh tế bình quân đầu người còn ở mức thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Phần lớn hộ nghèo tập trung ở nông thôn (chiếm 80% số hộ nghèo là các hộ nông dân) và thường rơi vào các nhóm hộ độc canh cây lúa, sản xuất tự cung tự cấp, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu lao động, thiếu việc làm hoặc việc làm kém hiệu quả, thu nhập thấp, không có khả năng tích luỹ để tái sản xuất giản đơn. Việt Nam thuộc nhóm các nước nghèo của thế giới, tỷ lệ hộ đói nghèo khá cao. Nếu tính theo chuẩn đói nghèo của Việt Nam năm 2002 còn khoảng 2,4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 14% tổng số hộ toàn quốc. Theo chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 thì tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 22% tương đương với 4 triệu hộ nghèo. - Đặc điểm cơ bản người nghèo ở Việt Nam: Những người nghèo thường có những đặc điểm tâm lý và nếp sống khác hẳn với những khách hàng khác thể hiện: + Những người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp thường bó gọn trong làng, xã… + Bị hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, người nghèo thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó, sản xuất mang nặng tính tự cung tự cấp, chưa tạo ra được sản phẩm hàng hoá và đối tượng sản xuất kinh doanh thường hay thay đổi. + Phong tục, tập quán sinh hoạt và những truyền thống văn hoá của người nghèo cũng tác động tới nhu cầu tín dụng. Khoảng cách giữa ngân hàng và nơi người nghèo sinh sống đang là trở ngại, người nghèo thường sinh sống ở những nơi mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Người nghèo thường sử dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu hoặc những ngành nghề thủ công, buôn bán nhỏ. Do vậy, nhu cầu sử dụng vốn của người nghèo mang tính thời vụ. 1.1.2. Sự cần thiết phải giảm đói nghèo: Ngày nay, thế giới đã và đang phát triển ở đỉnh cao chưa từng có trong lịch sử gắn liền với một nền văn minh rực rỡ. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại đói, nghèo mang tính toàn cầu. Theo ước tính của Ngân hàng thế giới, hiện nay có hơn 1 tỷ người trên hành tinh còn sống trong nghèo đói với mức thu nhập bình quân đầu người dưới 1USD một ngày và trên 2 tỷ người có mức thu nhập dưới 2USD một ngày. Với những nước chậm phát triển, đói, nghèo đang là vấn đề nhức nhối, một thách thức lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đói, nghèo không những chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn liên quan đến nhiều vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội và tính nhân đạo trong cuộc sống. Nghèo cũng là sự phản ánh tình trạng của sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, biểu hiện ra ở phân tầng xã hội, phân hoá giai cấp và phân cực xã hội. Trong giai đoạn hiện tại thương mại hoá toàn cầu là xu hướng phát triển của kinh tế thế giới, trong kinh tế thương mại qui luật cạnh tranh đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển không đều, càng làm sâu sắc thêm sự phân hoá giữa các tầng lớp dân cư trong một quốc gia, giữa các quốc gia với nhau và các châu lục. Qua kinh nghiệm của một số nước cho thấy, khi kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu, năng suất lao động càng cao bao nhiêu nếu không giải quyết các vấn đề xã hội như: công bằng trong phân phối, chống tình trạng bóc lột thì tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư lại càng bức xúc và dễ có nguy cơ dẫn đến xung đột. Điều đó được thể hiện rõ nét và trực tiếp ở bức tranh ảm đạm của thế giới về tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, về tốc độ tăng thu nhập không đều của các cá nhân và các nhóm dân cư, cũng như các giai cấp trong xã hội (giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột). Khoảng cách về mức thu nhập của người nghèo so với người giàu ngày càng có xu hướng dãn rộng ra đang là vấn đề có tính toàn cầu. Chính vì thế, cho nên công cuộc xoá đói giảm nghèo đối với mọi quốc gia luôn đóng một vai trò cần thiết và quan trọng trong suốt quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Vì thế trong giai đoạn hiện nay hầu hết các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, mặc dù dưới những thể chế chính trị khác nhau nhưng đều có mục tiêu làm cho quốc gia mình, dân tộc mình giàu có hơn. Trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nhất là các quốc gia nghèo càng có yêu cầu bức thiết hơn. Vì chính bản thân việc đói, nghèo là một bất lợi lớn cho việc phát triển kinh tế. Nhưng nếu phát triển kinh tế thiếu bền vững và thực hiện chính xã hội thiếu công bằng thì sẽ dẫn đến việc tỷ lệ nghèo tăng lên đáng kể. Tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện để giảm thiểu sự nghèo khó của một quốc gia. Thực tế trong vòng một trăm năm trở lại đây, tỷ trọng phát triển kinh tế thế giới tăng lên với tốc độ cao gấp nhiều lần so với các thế kỷ trước đó, nhưng tỷ lệ người nghèo cũng tăng lên không ít. Đã có hơn một tỷ người sống trên trái đất này là nghèo khó. Do vậy, trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển, các quốc gia đều quan tâm đến việc giảm thiểu sự đói, nghèo. Đói, nghèo thường là nguyên nhân xảy ra bất ổn định xã hội, xung đột giai cấp, xung đột chính trị. Là nhân tố tác động ngược lại quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, hầu hết các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, mặc dù có những thể chế chính trị xã hội khác nhau nhưng đều có mục tiêu chung đó là làm thế nào để giảm thiểu tình trạng đói, nghèo, ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế, làm cho quốc gia mình, dân tộc mình giàu có hơn. Xoá đói giảm nghèo đóng một vai trò quan trọng cần thiết. Hơn nữa, trong tiến trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có mối quan hệ biện chứng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở, điều kiện vật chất để giảm nghèo. Ngược lại giảm nghèo là nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế mang tính bền vững. Tuy nhiên trong mối quan hệ này, giảm nghèo vẫn là yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào yếu tố tăng trưởng kinh tế. 1.2. Hiệu quả tín dụng của NHCSXH đối với hộ nghèo: 1.2.1. Ngân hàng Chính sách xã hội: 1.2.1.1. Tổ chức, bộ máy, mục tiêu hoạt động của NHCSXH: * Tổ chức của NHCSXH gồm: - Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội. - Có 64 chi nhánh đặt tại 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có Sở giao dịch và Trung tâm đào tạo đặt tại Hà Nội. - Có gần 600 đơn vị NHCSXH cấp huyện thuộc 64 tỉnh, thành phố trong cả nước. - Có hơn 8.000 điểm giao dịch của NHCSXH đặt tại UBND cấp xã trên phạm vi toàn quốc. Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội sở chính, Sở giao dịch, Trung tâm đào tạo, Chi nhánh và Phòng giao dịch thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị. Quản trị NHCSXH là Hội đồng quản trị với 12 thành viên, trong đó có 9 thành viên kiêm nhiệm là đại diện có thẩm quyền của: Văn phòng Chính phủ, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Dân tộc, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được thành lập Ban đại diện HĐQT do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban và các thành viên là đại diện có thẩm quyền của các ngành, tổ chức như HĐQT nêu trên do Chủ tịch UBND cùng cấp quyết định. * Bộ máy hoạt động của NHCSXH: - Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị và điều hành của Hội sở chính: + Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc. + Ban kiểm soát. + Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. + Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ. - Tổ chức bộ máy điều hành của Sở giao dịch, Trung tâm đào tạo và các Chi nhánh bao gồm: + Giám đốc, các Phó giám đốc. + Các phòng chuyên môn nghiệp vụ. + Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ. - Phòng giao dịch đặt tại các huyện, quận, thành phố thuộc Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh nơi không có Chi nhánh NHCSXH. Phòng giao dịch có con dấu. Điều hành Phòng giao dịch là Giám đốc. * Mục tiêu hoạt động của NHCSXH: Ngân hàng Chính sách xã hội là một định chế tài chính của Nhà nước, được thành lập theo quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. NHCSXH hoạt động vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận được Nhà nước cấp vốn điều lệ ban đầu 5.000 tỷ đồng và cấp bổ sung hàng năm phù hợp với quy mô hoạt động, được Nhà nước đảm bảo khả năng thanh toán, không phải dự trữ bắt buộc và không phải nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Nhiệm vụ của NHCSXH là sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi để sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải tạo đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. 1.2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCSXH: - NHCSXH huy động vốn theo kế hoạch hàng năm được Chính phủ phê duyệt để tạo lập nguồn vốn cho vay. - Nhận vốn uỷ thác của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước để cho vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. - Cho vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo quy định của Chính phủ. - Thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ. 1.2.1.3. Tín dụng đối với người nghèo: * Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với người nghèo: Thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo, cung cấp vốn tín dụng ngân hàng cho người nghèo vay, luôn đóng một vai trò quan trọng, cần thiết trong việc giúp đỡ về tài chính cho người nghèo khi thiếu vốn để sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, thoát cảnh đói nghèo. Trong các nguồn tài chính cho người nghèo thì nguồn vốn tín dụng của ngân hàng luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn cung cấp đến người nghèo, vừa mang tính thương mại hơn, phù hợp hơn với cơ chế kinh tế thị trường, vừa phát huy hiệu quả hơn so với các nguồn vốn khác trong công tác xoá đói giảm nghèo. Chính vì thế tín dụng ngân hàng đối với người nghèo luôn giữ vai trò cần thiết, quan trọng trong chương trình xoá đói giảm nghèo. Bởi vì tín dụng ngân hàng có những vai trò như: Vai trò làm đầu mối huy động mọi nguồn vốn dành cho người nghèo: tổ chức tín dụng cho vay người nghèo là nơi huy động các nguồn vốn phục vụ cho chương trình xoá đói giảm nghèo, là địa chỉ cần thiết để các tổ chức, cá nhân thể hiện mối quan tâm đối với người nghèo thông qua việc gửi vốn có lãi hoặc không lãi để cho người nghèo vay. Đồng thời, thông qua hoạt động huy động vốn để cho người nghèo vay, được triển khai rộng rãi trong cộng đồng dân cư và những hộ nghèo thông qua tổ nhóm tiết kiệm đã khơi dậy tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, phát huy nội lực bản thân, nộ lực từng vùng và khu vực, để thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo. Có thể số lượng huy động trong cộng đồng người nghèo không nhiều, song qua đó cũng hình thành dần ý thức tích luỹ đầu tư, tạo thói quen tiết kiệm và gửi tiền vào ngân hàng, đồng thời sử dụng các dịch vụ ngân hàng như chuyển tiền, nhận tiền... Cung cấp vốn tín dụng đối với người nghèo, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống: vốn tín dụng cho người nghèo, đã góp phần cải thiện tình hình thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người gặp khó khăn, những vùng có nhiều hộ nghèo sinh sống, hạn chế được nạn cho vay nặng lãi, tình trạng bán, gán, cầm cố ruộng đất hoặc tình trạng bán sản phẩm non ở các khu vực nông thôn đối với hộ nghèo. Khi có nhu cầu sản xuất kinh doanh họ phải vay nặng lãi, cầm cố ruộng đất hoặc nhận bán sản phẩm non để có vốn đầu tư sản xuất và chi phí cho cuộc sống gia đình, do vậy áp lực tài chính đối với những hộ nghèo rất nặng nề. Khi có nguồn vốn tín dụng cho người nghèo đến với những hộ nghèo đã giải toả phần lớn các áp lực về tài chính. Nhất là khi hộ nghèo vay vốn bị rủi ro bất khả kháng, tuỳ mức độ thiệt hại, Nhà nước có chính sách xử lý gia hạn nợ, giãn nợ, khoanh hoặc xoá nợ. Như vậy, hộ nghèo không bị áp lực tâm lý về khoản nợ không trả được do rủi ro khách quan. Mặt khác nguồn vốn tín dụng đối với người nghèo cho vay với lãi suất ưu đãi cũng đã góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi thường xảy ra trước đây ở các vùng nông thôn. Vốn tín dụng ngân hàng dành cho người nghèo góp phần tạo nhiều cơ hội việc làm cho người nghèo: vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần tạo việc làm cho nhiều lao động, phát huy tiềm năng sẵn có của những hộ gia đình nghèo. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên đầu người hiện nay ở các vùng nông thôn của nhiều nước quá thấp. Trong khi đó, số lao động ở nông thôn ngày càng tăng, sản xuất thuần nông trên thời gian làm việc của một lao động trong năm gom lại chỉ khoảng 100 ngày. Còn hơn 2/3 thời gian lao động trong năm của nông dân là nông nhà, thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp diễn ra khá phổ biến ở các vùng nông thôn. Đặc biệt hộ nghèo thường là những gia đình đông con, không có việc làm, thu nhập thấp không đảm bảo chi tiêu, là gánh nặng trong cuộc sống. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ trợ phát triển ngành nghề ở nông thôn, như chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cũng như thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống. Nhờ vậy đã giải quyết việc làm cho nhiều chục vạn lao động, giải quyết phần lớn thời gian nông nhàn, tận dụng lao động để khai thác ngành nghề truyền thống, khai thác tiềm năng nội lực, tạo cơ hội cho người nghèo tự vận động, phát huy tính nhân bản, vượt qua khó khăn, nghèo đói hoà nhập dần dần vào cơ chế kinh tế thị trường. Vốn tín dụng cho người nghèo góp phần nâng cao thu nhập của hộ nghèo: vốn cung ứng cho người nghèo thông qua hình thức tín dụng đã góp phần tạo cơ hội cho người nghèo tăng thu nhập, nâng cao đời sống và giúp nhiều vạn hộ nghèo vượt qua ngưỡng đói nghèo. * Các hình thức cho vay: Cơ bản hiện nay vận dụng cho vay theo hai phương thức. Cho vay trực tiếp và cho vay cho vay uỷ thác thông qua các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức đoàn thể. Mỗi loại phương thức cho vay có những ưu điểm riêng nhưng cũng có tồn tại nhất định: - Đối với phương thức cho vay trực tiếp phải có một tổ chức tín dụng chuyên trách thực hiện cho vay hộ nghèo, khi cho vay sẽ quản lý vốn chặt chẽ hơn, nghiệp vụ chuyên môn sâu hơn sẽ phát huy hiệu quả đồng vốn tốt hơn và tiếp cận xã hội trên diện rộng nên thuận lợi cho việc huy động nguồn vốn. Nhưng chi phí để thực hiện cho vay tốn kém hơn. - Đối với phương thức cho vay gián tiếp, có mặt lợi là chi phí để thực hiện cho vay tiết kiệm, cộng đồng trách nhiệm trong công tác xoá đói giảm nghèo. Nhưng quản lý khó khăn hơn, dễ bị phân tán, hạn chế trong việc huy động vốn. Do vậy quá trình thực hiện xoá đói giảm nghèo để phát huy mặt lợi, hạn chế mặt bất lợi trong các phương thức đã nảy sinh phương thức kết hợp đó là phương thức uỷ thác từng phần, vừa kết hợp trách nhiệm cộng đồng vừa nâng cao việc quản lý đồng vốn tín dụng. * Các đối tượng cho vay của NHCSXH: - Hộ nghèo. - Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề. - Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). - Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. - Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi, vùng sâu, vùng xa (gọi là chương trình 135). - Cho vay chương trình nhà ở cho các hộ dân vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. - Cho vay chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn theo quyết định số 62/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ. - Cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa từ._. nguồn vốn KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức). - Cho vay dự án trồng rừng thương mại tại 4 tỉnh miền trung là Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. - Cho vay một số đối tượng khác cho các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và các chương trình tín dụng chính sách uỷ thác từ tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. * Lãi suất cho vay: NHCSXH cho vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác và áp dụng cùng một mức lãi suất cho tất cả các loại cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay. Hiện nay, lãi suất cho vay của NHCSXH đối với hộ nghèo từ 01/01/2006 là 0,65%/tháng. Trong đó có một số đối tượng chính sách được vay với mức lãi suất thấp hơn gồm: + Người nghèo ở vùng III và các xã đặc biệt khó khăn là 0,6%/tháng. + Người vay vốn là người tàn tật vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm là 0,5%/tháng. + Cho vay nhà ở các hộ dân vùng ngập lũ thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long là 0,25%/tháng. Ngoài lãi suất cho vay, hộ nghèo vay vốn không phải trả thêm bất kỳ một khoản phí nào khác. Lãi suất cho vay từ nguồn vốn do chi nhánh NHCSXH nhận uỷ thác của chính quyền địa phương, của tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước thực hiện theo hợp đồng uỷ thác. * Quy mô tín dụng: Trong năm năm NHCSXH đã cho vay hộ nghèo với tổng doanh số là 14.785 tỷ đồng; doanh số thu nợ là 7.869 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2008, số dư nợ là 14.891 tỷ đồng; số hộ nghèo có dư nợ là 3.540 ngàn hộ, bình quân một hộ nghèo được vay là 4,2 triệu đồng. Số liệu chi tiết qua các năm như sau: Biểu số 01: Cho vay hộ nghèo NHCSXH từ năm 2006-2008 Đơn vị tính : Tỷ đồng, 1000 hộ Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1. Doanh số cho vay trong năm 3.476 5.989 7.021 2. Doanh số thu nợ trong năm 2.250 2.631 3.743 3. Dư nợ Trong đó: Nợ quá hạn 8.249 7,0 11.609,5 5,6 14.891 4,1 4. Số hộ dư nợ 2.840 3.226 3.539 5. Dư nợ bình quân 1 hộ (Tr đ) 2,9 3,6 4,2 6. Số hộ thoát ngưỡng nghèo 314.633 229.150 229.356 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Qua bảng số liệu ta thấy: Dư nợ hộ nghèo năm 2007 tăng so với năm 2006 là 3.361 tỷ đồng (tỷ lệ tăng là 40,7 %); năm 2008 so với năm 2007 là 3.282 tỷ đồng (tăng 28,3%). Thực hiện đúng chủ trương của Chính phủ nguồn vốn tín dụng của NHCSXH tập trung ưu tiên cho các tỉnh Miền núi, Tây Nguyên, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tuy nhiên ở những vùng này do trình độ dân trí còn thấp bên cạnh đó cơ sở hạ tầng còn hầu như chưa có gì do vậy việc đầu tư tín dụng cho hộ nghèo còn nhiều khó khăn. Trong tổng dư nợ cho vay hộ nghèo là 14.892 tỷ đồng, dư nợ cho vay trung hạn là 11.698 tỷ đồng chiếm 78,6 % tổng dư nợ, cho vay ngắn hạn chỉ chiếm 21,4 % tổng dư nợ. Dư nợ cho vay hộ nghèo phân theo vùng kinh tế như sau: Biểu số 02: Dư nợ cho vay hộ nghèo theo vùng kinh tế các năm 2005-2008 Đơn vị tính : Tỷ đồng, 1000 hộ TT Vùng kinh tế Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1 Vùng Miền núi và Trung du phía bắc 2.080 2.371 2.980 3.777 2 Vùng Đồng bằng sông Hồng 1.335 1.514 1.999 2.382 3 Vùng Khu Bốn cũ 1.313 1.577 2.121 2.456 4 Vùng Duyên hải Miền trung 795 1.018 1.435 1.776 5 Vùng Tây Nguyên 303 342 693 1.020 6 Vùng Đông Nam bộ 350 395 713 1.035 7 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 846 1.032 1.668 2.445 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Dư nợ phân theo ngành kinh tế: nguồn vốn của NHCSXH đầu tư vào ngành nông nghiệp là chủ yếu chiếm hơn 82% đầu tư vào các ngành khác chiếm tỷ trọng nhỏ. 1.2.2. Hiệu quả tín dụng đối với người nghèo: 1.2.2.1. Khái niệm: hiệu quả trên phương diện Ngân hàng, hiệu quả tín dụng đối với người nghèo: * Hiệu quả trên phương diện Ngân hàng: Theo lý thuyết kinh tế tiền tệ, tín dụng ngân hàng thương mại được khái niệm như là hoạt động thường xuyên của những tổ chức trung gian tài chính, thường là các ngân hàng thương mại. Đó là việc nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Trong đó nghiệp vụ cho vay là chủ yếu và đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Mục đích chính của hoạt động ngân hàng thương mại để tồn tại và phát triển là phải tạo ra mức chênh lệch dương giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay hay nói đúng hơn là phải có một khoản lợi nhuận. * Hiệu quả tín dụng đối với người nghèo: Có thể đưa ra khái niệm chung nhất về tín dụng ngân hàng đối với người nghèo là: Tín dụng ngân hàng đối với người nghèo, đó là việc sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động, cho người nghèo vay theo một chính sách ưu đãi nhất định, để người nghèo dùng vào việc sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Hoạt động tín dụng ngân hàng đối với người nghèo là hoạt động kinh tế mang tính chính sách không vì mục đích lợi nhuận. Như vậy, tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo là loại hình hoạt động kinh tế mang tính chất chính sách xã hội. Nhưng vì bản chất của tín dụng là một loại hình cung cấp tài chính, chịu ảnh hưởng bởi các quy luật kinh tế khách quan trong cơ chế thị trường như: quy luật cung cấp, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị...Do vậy những vấn đề lãi suất cho vay như thế nào? Lãi suất huy động ở mức nào để huy động được? Nguồn vốn cần bao nhiêu? Điều kiện cho vay như thế nào để phù hợp với người nghèo? Căn cứ chuẩn mực đói nghèo như thế nào để cho vay?...Để giải quyết những vấn đề này tuỳ theo quan điểm của mỗi quốc gia đưa ra những giải pháp khác nhau. Riêng đối với Việt Nam do điều kiện môi trường kinh tế xã hội có tính đặc biệt hơn nên cung cấp tín dụng phục vụ người nghèo áp dụng ưu đãi về điều kiện vay, xử lý khi rủi ro và với lãi suất ưu đãi. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà cách vận dụng có khác nhau, nhưng nhìn chung tín dụng ngân hàng đối với người nghèo đó là việc huy động các nguồn vốn có kỳ hạn, không kỳ hạn của mọi tầng lớp dân cư trong và ngoài nước, các tổ chức kinh tế xã hội, đồng thời có thể vay hoặc nhận nguồn vốn uỷ thác các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để cho những hộ gia đình nghèo có sức lao động, có khả năng tổ chức sản xuất nhưng thiếu vốn, cho vay với mức lãi suất ưu đãi (thấp hơn lãi suất thị trường hoặc lãi suất bằng mức lãi suất thị trường), thời hạn vay vốn phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh; điều kiện cho vay dễ dàng hơn (không phải thế chấp tài sản, thủ tục đơn giản) và có chính sách xử lý khi gặp rủi ro khách quan. Tín dụng ngân hàng đối với người nghèo có đặc điểm khác biệt hơn so với tín dụng ngân hàng thương mại đó là: - Mục đích hoạt động của tín dụng ngân hàng đối với người nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận mà là góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo. - Đối tượng vay vốn là hộ nghèo, các tổ chức kinh tế và các hộ sản xuất kinh doanh thuộc khu vực nghèo, vùng nghèo. - Được ưu đãi về điều kiện vay vốn như: không phải thế chấp tài sản, được miễn các khoản lệ phí khi vay vốn. - Lãi suất cho vay được áp dụng theo mức lãi suất cho vay ưu đãi do Nhà nước quy định theo từng thời kỳ. - Được Nhà nước hỗ trợ xử lý khi gặp những rủi ro khách quan. 1.2.2.2. Các tiêu chí phản ánh hiệu quả cho vay đối với hộ nghèo: * Trên phương diện hoạt động của NHCSXH: Sau khi có Nghị định của Chính phủ và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, được sự giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn thuộc 9 Bộ, Ngành, cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, trong khoảng thời gian ngắn NHCSXH đã thiết lập một hệ thống các quy chế điều hành, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, đồng bộ, đảm bảo cho NHCSXH triển khai các hoạt động theo đúng yêu cầu, nội dung chính sách tín dụng của Nhà nước đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của cấp uỷ và chính quyền các địa phương, sự phối hợp có hiệu quả của các Bộ, Ngành liên quan, của các tổ chức chính trị xã hội; NHCSXH sau hơn 6 năm hoạt động đã tạo ra thế và lực đảm bảo tiếp tục nối việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày một tốt hơn. Đã có 773.139 hộ vay vốn thoát nghèo. Nợ quá hạn giảm dần, từ 7% nợ xấu (bao gồm nợ quá hạn và nợ khoanh) khi kiểm kê đối chiếu thực tế sau khi nhận bàn giao xuống còn 4,1% năm 2008(kế hoạch phấn đấu là ở mức dưới 5%). Mạng lưới giao dịch của NHCSXH đã về tận xã, phường; số hộ nghèo còn dư nợ tăng từ 2,76 triệu khách hàng (năm 2005) lên 3,54 triệu khách hàng (năm 2008của NHCSXH cho vay). Mức dư nợ bình quân một hộ nghèo cũng được nâng lên, từ 2,5 triệu đồng (năm 2005) lên 4,2 triệu đồng (năm 2008). Tình hình nợ xấu (bao gồm nợ quá hạn và nợ khoanh) qua các năm như sau: Biểu số 03: Tổng hợp nợ xấu qua các năm 2005-2008 Năm Tổng số (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Năm 2005 154 Năm 2006 576 7,0 Năm 2007 652 5,62 Năm 2008 610 4,1 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) * Trên phương diện người nghèo: Chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác đã thực sự đi vào lòng dân, được nhân dân phấn khởi và tin tưởng vào Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhờ đó hộ nghèo đã biết sử dụng vốn tín dụng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất chăn nuôi, kinh doanh dịch vụ, nâng cao thu nhập, bước đầu làm quen với dịch vụ vay, trả vốn tín dụng NHCSXH. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động vốn tín dụng của NHCSXH đã góp phần giúp 773.139 hộ vay vốn thoát ngưỡng nghèo, thu hút 1.062.764 người lao động có việc làm. Vì vậy thu nhập của người nghèo được nâng lên nhờ đó mà đời sống của họ cũng được cải thiện. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI PGD NHCSXH HUYỆN GIAO THUỶ 2.1. Thực trạng hộ nghèo ở huyện Giao Thuỷ: Giao Thuỷ là một huyện đồng bằng ven biển nằm phía Đông của tỉnh Nam Định, có diện tích tự nhiên 232,5 km2, trong đó 10.050 ha đất nông nghiệp, 32 km bờ biển, 3.580 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ, hải sản. Toàn huyện có 20 xã và 2 thị trấn, dân số trên 200 nghìn người trong đó dân số nông thôn là 194 nghìn người (chiếm 97%), dân số thị trấn 6 nghìn người (chiếm 3%) với 115 nghìn lao động (chiếm 55% dân số). Điều kiện tự nhiên nơi đây thuận lợi cho việc phát triển đa dạng các ngành nghề: sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản, làm muối, nước mắm… Trong những năm gần đây, nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, định hướng phát triển kinh tế của địa phương nông nghiệp nông thôn huyện Giao Thuỷ đã có bước chuyển biến, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, nhiều hộ gia đình đã xây dựng được nhà cửa khang trang, sắm sửa được những tiện nghi đắt tiền. Tuy nhiên, qua điều tra tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giai đoạn 2006-2010 của Giao Thuỷ vẫn còn 6.565 hộ chiếm tỷ lệ 12,32% so với tổng dân số. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xoá đói giảm nghèo, vì vậy trong Nghị quyết lần thứ 22 của Đại Hội Đảng bộ huyện Giao Thuỷ quán triệt: “Tích cực đổi mới cơ cấu lao động xã hội, tạo nhiều việc làm cho lao động phổ thông, giảm tỷ lệ lao động thiếu việc làm. Tích cực thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2010 xuống còn 7%. Tăng tỷ lệ hộ giàu, cải thiện đời sống của nhân dân…” Qua nghiên cứu tình hình cụ thể trên địa bàn huyện Giao Thuỷ thì hộ nghèo chủ yếu do những nguyên nhân sau: Thiếu vốn sản xuất: Đây là nguyên nhân chính, bởi vì khi thiếu vốn hộ nghèo thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản xuất kém, làm không đủ ăn, phải đi làm thuê, phải đi vay để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày không phát triển được sản xuất. Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức, hộ nghèo không thể nâng cao trình độ kiến thức, không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, thiếu kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh dẫn đến năng suất thấp, không hiệu quả. Do sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu, không đủ sức làm kinh tế. Bình quân nhân khẩu trong gia đình lớn nhưng lao động ít. Đất đai canh tác ít, thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng, mắc các tệ nạn xã hội, gặp những rủi ro trong cuộc sống. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít… đã ảnh hưởng tới sản xuất của hộ nghèo. Theo số liệu điều tra nông hộ một số địa phương trong huyện thì hơn 80% số hộ thuộc hộ nghèo do nguyên nhân thiếu vốn sản xuất. Do vậy vốn tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo là một vấn đề cấp thiết hiện nay, phục vụ mục tiêu xoá đói giảm nghèo tạo điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp của huyện phát triển. 2.2. Giới thiệu về PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ: 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển: PGD NHCSXH Giao Thuỷ thuộc Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nam Định được thành lập theo Quyết định số: 474/QĐ-HĐQT ngày 10 tháng 5 năm 2003 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội và chính thức khai trương đi vào hoạt động ngày 07 tháng 7 năm 2003. Những ngày đầu tiên tách ra khỏi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ gặp rất nhiều khó khăn như: Về trụ sở làm việc, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, công tác tổ chức cán bộ, mạng lưới hoạt động…trong khi đó phải triển khai một khối lượng lớn công việc từ nhận bàn giao các nguồn vốn đến tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn huyện. Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động, được sự chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc chi nhánh NHCSXH tỉnh, Ban đại diện Hội đồng quản trị, huyện uỷ, HĐND, UBND huyện, của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự phối kết hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị-xã hội huyện cùng với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể CBCNV, PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã đoàn kết, phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm vượt khó khăn đi vào hoạt động ổn định và thực hiện thắng lợi các mục tiêu, đánh dấu một bước quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển những năm tiếp theo. 2.2.2. Các hoạt động cơ bản của PGD NHCSXH: 2.2.2.1. Công tác huy động vốn: Thực hiện sự chỉ đạo của NHCSXH Việt Nam, PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn tham gia gửi tiết kiệm vì người nghèo với số tiền gửi các loại kỳ hạn là 1.295 triệu đồng. Trong đó PGD đã tận dụng mạng lưới hoạt động của các tổ vay vốn để mở rộng hình thức thông qua 1.180 tổ với số tiền là 1.187,4 triệu đồng (Song việc thu tiết kiệm qua Tổ TK&VV đã xảy ra nhiều bất cập, vì vậy từ ngày 26/9/2009 Tổng giám đốc NHCSXH có công văn yêu cầu tạm dừng thu tiết kiệm qua Tổ TK&VV). Số dư tiết kiệm các loại kỳ hạn tại PGD NHCSXH Giao Thuỷ đến 31/12/2009 như sau: - Loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 1.188,8 triệu đồng. - Loại tiền gửi tiết kiệm 3 tháng: 20 triệu đồng. - Loại tiền gửi tiết kiệm 6 tháng: 45 triệu đồng. - Loại tiền gửi tiết kiệm 12 tháng: 41,2 triệu đồng. Tổng cộng: 1.295 triệu đồng. 2.2.2.2. Cho vay các chương trình: Ngoài nhiệm vụ cho vay hộ nghèo, cho vay giải quyết việc làm, cho vay xuất khẩu lao động, PGD được giao thêm nhiệm vụ cho vay Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VS MTNT), cho vay học sinh - sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của chính quyền địa phương, sự phối kết hợp chặt chẽ của các Hội đoàn thể, sự lỗ lực của cán bộ PGD các chương trình đã được triển khai nhanh chóng, hiệu quả, đúng đối tượng. * Cho vay hộ nghèo: PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã uỷ thác từng phần cho các tổ chức CT-XH như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh huyện. Đến ngày 31/12/2009 PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã có dư nợ là 34.196 triệu đồng, với 9.766 hộ vay, dư nợ trung bình là 3,5 triệu đồng/hộ. * Cho vay giải quyết việc làm: Thực hiện cho vay quỹ Quốc gia giải quyết việc làm theo Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã phối kết hợp chặt chẽ với Phòng nội vụ &TBXH, với các cơ quan thực hiện chương trình ở địa phương nhanh chóng hoàn thành hồ sơ thủ tục vay vốn, thẩm định và giải ngân kịp thời khi có Quyết định cho vay của cấp có thẩm quyền không để tồn đọng vốn. Đến ngày 31/12/2009 PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã có dư nợ là 5.244 triệu đồng với 672 khách hàng và 204 dự án. * Cho vay xuất khẩu lao động: Để thực hiện nhiệm vụ này, PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã tiến hành tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông báo trong các cuộc họp giao ban tổ trưởng về chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Đến ngày 31/12/2009 PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã có dư nợ là 492 triệu đồng với 57 lao động. * Cho vay Chương trình NS&VSMT: Thực hiện Quyết định 62/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ và văn bản hướng dẫn số 1411/NHCS-KHNV ngày 03/8/2004 của Tổng giám đốc NHCSXH về việc cho vay chương trình NS&VSMTNT, được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương các xã, sự nhiệt tình ủng hộ của nhân dân PGD đã cùng các tổ chức đoàn thể nhận uỷ thác thành lập được 133 tổ trên 18 xã, dư nợ 5.497 triệu đồng, 1.601 hộ vay, 328 công trình nước sạch và 293 công trình vệ sinh. * Chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: Ngày 19/9/2006 Tổng giám đốc NHCSXH đã có công văn hướng dẫn số: 2162/NHCS -TD về nghiệp vụ cho vay đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Với nguồn vốn được phân bổ PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã uỷ thác qua HND cho vay thí điểm trên 2 xã Giao Hải và Giao Tiến với số tiền là 100 triệu đồng với 58 hộ gia đình có học sinh, sinh viên được vay vốn. 2.3. Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại huyện Giao thuỷ: 2.3.1. Thực trạng cho vay đối với hộ nghèo: 2.3.1.1. Cơ chế tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH: a- Mục đích cho vay: NHCSXH cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và ổn định xã hội. b- Đối tượng áp dụng: Sở giao dịch, các chi nhánh, đơn vị thuộc hệ thống NHCSXH và tổ chức nhận uỷ thác cho vay của NHCSXH (gọi tắt là bên cho vay). Khách hàng vay vốn là hộ nghèo. c-Nguyên tắc cho vay: Hộ nghèo vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Sử dụng vốn đúng mục đích xin vay. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. d- Điều kiện vay vốn: Bên cho vay xem xét và quyết định cho vay khi hộ nghèo có đủ các điều kiện sau: Có hộ khẩu thường trú hoặc có đăng ký tạm trú dài hạn tại địa phương nơi cho vay. Có tên trong danh sách hộ nghèo ở xã (phường, thị trấn) sở tại theo chuẩn nghèo do Bộ lao động - Thương binh và xã hội công bố từng thời kỳ. Hộ vay không phải thế chấp tài sản và được miễn lệ phí làm thủ tục vay vốn nhưng phải là thành viên tổ tiết kiệm và vay vốn, được tổ bình xét, lập danh sách đề nghị vay vốn có xác nhận của UBND cấp xã. Chủ hộ hoặc người thừa kế được uỷ quyền giao dịch là người đại diện hộ gia đình chịu trách nhiệm trong mọi quan hệ với bên cho vay, là người trực tiếp ký nhận nợ và chịu trách nhiệm trả nợ ngân hàng. e- Sử dụng vốn vay: Đối với cho vay sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: + Mua sắm các loại vật tư, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, gia cầm…phục vụ cho các ngành trồng trọt, chăn nuôi. + Mua sắm các công cụ nhỏ như: cày, bừa, cuốc, thuổng, bình phun thuốc trừ sâu… + Các chi phí thanh toán cung ứng lao động như: thuê làm đất, bơm nước, dịch vụ thú y, bảo vệ thực vật… + Đầu tư làm các nghề thủ công trong hộ gia đình như: mua nguyên vật liệu sản xuất, công cụ lao động thủ công, máy móc nhỏ… + Chi phí nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ, hải sản như: đào đắp ao hồ, mua sắm các phương tiện ngư lưới cụ… + Góp vốn thực hiện dự án sản xuất kinh doanh do cộng đồng người lao động sáng lập và được chính quyền địa phương cho phép thực hiện. Cho vay làm mới, sửa chữa nhà ở: + Cho vay làm mới nhà ở thực hiện theo từng chương trình, dự án của Chính phủ. + Cho vay sửa chữa nhà ở: NHCSXH chỉ cho vay đối với hộ nghèo sửa chữa lại nhà ở bị hư hại, dột nát. Vốn vay chủ yếu sử dụng vào việc mua nguyên vật liệu xây dựng, chi trả tiền công lao động phải thuê ngoài. Cho vay điện sinh hoạt: Chi phí lắp đặt đường dây dẫn điện từ mạng chung của thôn, xã tới hộ vay như: cột, dây dẫn, các thiết bị thắp sáng… Cho vay góp vốn xây dựng thuỷ điện nhỏ, các dự án điện dùng sức gió, năng lượng mặt trời; máy phát điện cho một nhóm hộ gia đình ở nơi chưa có điện lưới quốc gia. Cho vay nước sạch: Góp vốn xây dựng dự án cung ứng nước sạch tới từng hộ. Những nơi chưa có dự án tổng thể phát triển nước sạch thì cho vay làm giếng khơi, giếng khoan, bể lọc, chứa nước… Cho vay giải quyết một phần nhu cầu thiết yếu về học tập: Các chi phí cho học tập như: học phí, mua sắm các thiết bị phục vụ học tập (sách, vở, bút mực…) của con em hộ nghèo đang theo học tại các trường phổ thông. g-Loại cho vay và thời hạn cho vay: Loại cho vay: + Cho vay ngắn hạn là khoản cho vay đến 12 tháng. + Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Thời hạn cho vay: + Mục đích sử dụng vốn vay. + Chu kỳ sản xuất, kinh doanh (đối với cho vay sản xuất, kinh doanh, dịch vụ). + Khả năng trả nợ của hộ vay. + Nguồn vốn cho vay của NHCSXH. h-Lãi suất cho vay: Hiện nay, lãi suất cho vay của NHCSXH đối với hộ nghèo từ 01/01/2006 là 0,65%/tháng. Riêng người nghèo ở vùng III và các xã đặc biệt khó khăn là 0,6%/tháng. Ngoài lãi suất cho vay, hộ nghèo vay vốn không phải trả thêm bất kỳ một khoản phí nào khác. i- Phương thức cho vay: Bên cho vay áp dụng phương thức cho vay từng lần. k- Mức cho vay: Mức cho vay đối với từng hộ nghèo được xác định căn cứ vào: nhu cầu vay vốn, vốn tự có và khả năng hoàn trả nợ của hộ vay. Mỗi hộ có thể vay một hay nhiều lần nhưng tổng dư nợ không vượt quá mức dư nợ cho vay tối đa đối với hộ nghèo do Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định và công bố từng thời kỳ. Hiện nay, mức dư nợ cho vay tối đa Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay đối với hộ nghèo là 10 triệu đồng. Riêng một số đối tượng như chăn nuôi đại gia súc, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản…mức dư nợ cho vay tối đa đối với một hộ nghèo là 15 triệu đồng. * Những hộ nghèo không được vay vốn NHCSXH: Hộ nghèo không còn sức lao động, hộ nghèo thuộc diện chính sách xã hội như: già cả neo đơn, tàn tật, thiếu ăn. Những hộ này được ngân sách Nhà nước trợ cấp. Những hộ mắc các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, lười biếng không chịu lao động, hộ độc thân đang trong thời gian thi hành án. 2.3.1.2. Cho vay đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ: * Nguồn vốn: Tổng hợp nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn qua các năm 2007 đến 2009 như sau: Biểu số 04: Cơ cấu nguồn vốn của PGD NHCSXH qua các năm 2007-2009 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Tổng số Tỷ trọng Tổng số Tỷ trọng Tổng số Tỷ trọng - Vốn Trung ương 25.738 100% 28.884 98% 34.184 100% -Vốn địa phương 600 2% - Vốn khác Tổng cộng: 25.738 100% 29.484 100% 34.184 100% (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Theo bảng số liệu trên cho thấy nguồn vốn của PGD NHCSXH tăng 8.446 triệu đồng so với thời điểm 31/12/2009 (tăng gấp 1,33 lần), đạt 33%. Sau hơn 06 năm thành lập NHCSXH đã thực hiện được việc tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách có nguồn gốc từ ngân sách vào một đầu mối, bước đầu tạo lập được nguồn lực tài chính bảo đảm cho việc thực hiện các kênh tín dụng chính sách không bị gián đoạn, các nguồn vốn được khai thác đa dạng hơn và đã có tốc độ gia tăng đáng kể. * Hoạt động cho vay: Trong hơn 06 năm PGD NHCSXH Giao Thuỷ đã cho vay hộ nghèo với tổng doanh số là 35.829 triệu đồng; doanh số thu nợ là 25.764 triệu đồng. Tính đến 31/12/2009, số dư nợ là 34.196 triệu đồng; số hộ nghèo có dư nợ là 9.766 hộ, bình quân một hộ nghèo được vay là 3,5 triệu đồng. Số liệu chi tiết qua các năm như sau: Biểu số 05: Cho vay hộ nghèo của PGD NHCSXH từ năm 2007-2009 Đơn vị tính : triệu đồng, hộ Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1. Doanh số cho vay trong năm 1.930 15.330 18.569 2. Doanh số thu nợ trong năm 150 11.809 13.805 3. Dư nợ Trong đó: Nợ quá hạn 25.738 106 29.485 20 34.196 12 4. Số hộ dư nợ 8.903 9.329 9.766 5. Dư nợ bình quân 1 hộ (tr. đ) 2,9 3,2 3,5 6. Số hộ thoát ngưỡng nghèo 256 365 481 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Qua bảng số liệu ta thấy, dư nợ cho vay hộ nghèo năm 2009 tăng so với năm 2007 là 8.458 triệu đồng (tỷ lệ tăng 33%). Dư nợ hộ nghèo năm 2008 tăng so với năm 2007 là 3.747 triệu đồng (tỷ lệ tăng là 14,6 %); năm 2009 so với năm 2008 là 4.711 triệu đồng (tăng 16%). Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày một tốt hơn, đã có 1.102 hộ vay vốn thoát nghèo. Nợ quá hạn giảm dần, từ 0,41% nợ xấu (bao gồm nợ quá hạn và nợ khoanh) khi kiểm kê đối chiếu thực tế sau khi nhận bàn giao xuống còn 0,053% năm 2009. Mạng lới giao dịch của NHCSXH đã về tận xã, thị trấn; số hộ nghèo còn dư nợ tăng từ 8.903 khách hàng (năm 2007 do Ngân hàng Phục vụ người nghèo cho vay) lên 9.766 khách hàng (năm 2009 của NHCSXH cho vay). Mức dư nợ bình quân một hộ nghèo cũng được nâng lên, từ 2,9 triệu đồng (năm 2007) lên 3,5 triệu đồng (năm 2009). Việc cho vay hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ, ngoài hiệu quả về kinh tế, những kết quả đạt được của NHCSXH còn góp phần củng cố nền chính trị, xã hội ổn định, nhân dân tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Ngay sau ngày Thủ tướng Chính phủ công bố quyết định thành lập, NHCSXH được nhân dân và UBND các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội hồ hởi đón nhận. Các tổ chức chính trị nhận uỷ thác cho vay của NHCSXH bao gồm: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh. Kết quả nhận uỷ thác cho vay cụ thể như sau: Biểu số 06: Kết quả uỷ thác cho vay hộ nghèo đến 31/12/2009 Đơn vị quản lý Số hộ còn dư nợ (hộ) Dư nợ đến 31/12/09 (triệu đồng) Số tổ TK&VV (tổ) Tỷ trọng (%) 1. Hội Phụ nữ 3.027 9.768 100 28,6 2. Hội Nông dân 6.185 22.255 313 65 3. Hội Cựu chiến binh 554 2.173 27 6,4 Tổng cộng: 9.766 34.196 440 100 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Đến 31/12/2009 PGD NHCSXH đã thực hiện uỷ thác cho vay từng phần cho các tổ chức xã hội với tổng dư nợ là 34.296 triệu đồng, chiếm 75,3% tổng dư nợ của tất cả các chương trình cho vay, trong đó cho vay hộ nghèo là 34.196 triệu đồng, chiếm 75%. Các tổ chức hội, đoàn thể nhận uỷ thác cho vay đã xây dựng và quản lý 602 Tổ Tiết kiệm và Vay vốn. Hội Nông dân có số dư nợ nhận uỷ thác cao nhất trong 3 tổ chức đạt 22.355 triệu đồng, chiếm 65,2% trong tổng dư nợ nhận uỷ thác. Người nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn làm ăn, tổ chức chính trị có thêm điều kiện tập hợp, giúp đỡ đoàn viên, hội viên. Chính quyền các cấp sử dụng NHCSXH như một trong những công cụ kinh tế quan trọng của Nhà nước thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích mọi người vươn lên làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo. 2.3.2. Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo: * Số lượng hộ nghèo giảm: Sau hơn 6 năm thực hiện Nghị định 78/2002 của Chính phủ và thực hiện các văn bản liên tịch giữa NHCSXH và các hội đoàn thể về việc uỷ thác cho vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đã tạo ra một luồng sinh khí mới trong nông nghiệp nông thôn. Nhờ nguồn vốn của NHCSXH nhiều hộ đã phát huy nội lực tự vươn lên xoá đói giảm nghèo, vì vậy hộ nghèo của huyện Giao Thuỷ ngày càng giảm. Cụ thể hộ nghèo của các xã, thị trấn năm 2009 đã giảm như sau: Biểu số 07: Tỷ lệ hộ nghèo giảm năm 2009: STT Xã (T.T) Tổng số hộ Số hộ nghèo Tỷ lệ (%) Số hộ nghèo giảm Số hộ nghèo còn Tỷ lệ (%) 1 Giao Thiện 2.317 341 14,72 21 320 13,81 2 Giao Thanh 1.654 248 14,99 15 233 14,09 3 Giao An 2.592 264 10,19 24 240 9,26 4 Giao Hương 1.854 250 13,48 17 233 12,57 5 Giao Lạc 2.385 313 13,12 23 290 12,16 6 Hồng Thuận 4.153 480 11,56 35 445 10,71 7 Giao Xuân 2.418 361 14,93 23 338 13,98 8 Bình Hoà 2.223 311 13,99 20 291 13,09 9 Giao Hà 2.395 322 13,44 23 299 12,48 10 Giao Hải 1.800 208 11,56 16 192 10,67 11 Giao Long 2.378 396 16,65 33 363 15,26 12 Giao Nhân 2.018 314 15.56 18 296 14,67 13 Giao Châu 2.060 296 14,37 19 277 13,45 14 Giao Yến 2.123 297 13,99 19 278 13,09 15 Bạch Long 2.165 309 14,27 20 289 13,35 16 Giao Phong 2.071 209 10,09 19 190 9,17 17 T.T Quất Lâm 2.281 239 10,48 21 218 9,56 18 Giao Thịnh 3.080 438 14,22 28 410 13,31 19 Giao Tân 2.256 272 12,06 23 249 11,04 20 Giao Tiến 4.886 210 4,29 26 184 3,76 21 Hoành Sơn 2.512 300 11,94 23 277 11,03 22 T.T Ngô Đồng 1.685 187 11,09 15 172 10,21 Tổng cộng: 53.306 6.565 12,32 481 6.084 11,41 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) * Nợ quá hạn giảm: Nhờ sự phối kết hợp chặt chẽ giữa PGD NHCSXH, các Hội đoàn thể và các cấp uỷ đảng chính quyền địa phương. Vì vậy chất lượng tín dụng của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đạt kết quả cao, không có nợ quá hạn phát sinh mà các khoản nợ quá hạn bàn giao từ Ngân hàng No&PTNT ngày càng giảm đáng kể. Cụ thể tình hình nợ xấu (bao gồm nợ quá hạn và nợ khoanh) qua các năm như sau: Biểu số 08: Tổng hợp nợ xấu qua các năm 2007 - 2009 Năm Dư nợ (triệu đồng) Quá hạn (triệu đồng) Tỷ lệ (%) Năm 2007 25.738 106 0,41 Năm 2008 29.485 20 0,067 Năm 2009 34196 12 0,053 (Nguồn: Ngân hàng Chính sách xã hội) Nợ quá hạn phát sinh do nhiều nguyên nhân, ngoài nguyên nhân khách quan như: thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, cây trồng, vật nuôi… còn có nguyên nhân chủ quan từ bản thân người nghèo, nguyên nhân từ cơ chế chính sách và quản lý điều hành. Song để đạt được những kết quả trên PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ đã phối hợp với các cấp uỷ chính quyền địa phương, các tổ chức chính._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25664.doc
Tài liệu liên quan