Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất nước.v.v.. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng- dân chủ- văn minh. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 2001-2010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.v.v… Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và đến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo và đã góp phần to lớn trong công cuộc XĐGN cho đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v… Những vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước cũng như toàn xã hội. Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo. - Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình bày luận văn. 5. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo. Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007). Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO Khái niệm về đói nghèo Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm. Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số đông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp phù hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành công chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền vững, thì điều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là nghèo, người nghèo là ai và vì sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác, phải hiểu rõ được bản chất và nội dung của đói nghèo. Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục, tập quán của địa phương’’[5, trang 122] Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ gay gắt cao hơn, cần thiết phải xoá và có khả năng xoá. Còn nghèo, mức độ thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói nghèo, ta thường dùng cụm từ "Xoá đói giảm nghèo". Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dù ở dạng nào, thì đói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình dung các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau: - Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa . - Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn mức 1.500 calo/ngày, thì đó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt. Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như chỉ dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như không có. 1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu này được gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản thay đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ phát triển, chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn cầu, Ngân hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia). Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam: Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm; Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung. Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp vào diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định. Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng dân số trong cùng một thời điểm. Năm 1997, chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương trình quốc gia (chuẩn nghèo cũ) để áp dụng cho thời kỳ từ năm 1996 - 2000 như sau: Hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 đồng cho tất cả các vùng). Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng như nhau: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương đương 55.000 đồng). - Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg gạo/người/tháng (tương đương 70.000 đồng). - Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng). Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo từ 40% trở lên, thiếu một trong các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ). Trước những thành tích của công cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên 1,5 lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn hộ nghèo đã được điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ- TB&XH quy định tại văn bản số 1143 ngày 01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ 2001- 2005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng như sau: - 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng miền núi nông thôn. - 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn. - 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. - Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ). - Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cư) nằm ở vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, là vùng có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao. Theo tiêu chí đánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010: - Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng. - Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng. Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thì đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam còn 7%, còn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%. Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ- TB&XH nêu trên có những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính toán, dễ điều tra. Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ- TB&XH là phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng quát về đói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra các giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc bình xét hộ nghèo tại một số địa phương (xóm, bản, xã, phường) đã không thực hiện đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ- TB&XH về các tiêu chí đánh giá hộ nghèo, cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số hộ nghèo được cấp thẻ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm (vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở phần sau). Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong đó, chi tiêu cho lương thực phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1 người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu không đảm bảo giỏ tiêu dùng này. Phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu tỏ ra là một phương pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là nó đòi hỏi rất nhiều số liệu, chi phí điều tra cao, thời gian dài. 1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên (vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau: 1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội - Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo. Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông thôn “Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói nghèo vẫn là hiện tượng phổ biến ở nông thôn và đối với các dân tộc thiểu số, thì mức độ đói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các đặc trưng khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị thiên tai và tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn” [16, trang 1]. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là 15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại. Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chưa đủ công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn lớn” [4, trang 19]. Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao. - Điều kiện kinh tế - xã hội Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy, không có đủ điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục, trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy, khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn rất lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên; 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình đẳng giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo; họ thường xuyên gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục. “Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc điểm khác nhau là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số cũng thấp hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa 13%. Trình độ giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể; một hộ gia đình chủ hộ có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ đại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu vợ/chồng có trình độ trung cấp và 48% nếu vợ/chồng có trình độ đại học” [3, trang 20]. Ngoài yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Một số vùng đồng bào dân tộc hiện nay vẫn còn những hủ tục lạc hậu, như người ốm không đưa đến các trạm y tế để chữa bệnh mà mời thầy cúng đến làm lễ để cúng “con ma” ám vào người bệnh (họ cho rằng người ốm là do ma ám). Làm lễ cúng như thế, bệnh của người ốm ngày càng nặng thêm và rất tốn kém về kinh tế, dẫn đến gia đình nghèo càng nghèo thêm. - Chính sách nhà nước Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng, kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế, chính sách đất đai…đã ảnh hưởng đến kết quả XĐGN. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo: Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp như lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước… không đúng đối tượng, làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi. Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hoá thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, buộc họ phải gia nhập vào đội ngũ người nghèo. Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn lực lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu nhập của nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn, đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu một số đạo luật quan trọng. Nhiều văn bản pháp quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây không ít cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số luật về kinh tế, một số văn bản pháp quy dưới luật còn yếu. Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ nghèo còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho người dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với điều kiện từng vùng, từng thời kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp thời để hỗ trợ họ. 1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và kỹ năng làm ăn, tư liệu sản xuất: Đất sản xuất, công cụ lao động, sức kéo…); trong đó, thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng để SXKD là một lực cản lớn nhất trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường không đủ điều kiện để vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có khiêm tốn hoặc không có. Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều. Song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu ở các vùng thành phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí dịch vụ pháp lý còn cao so với khả năng tài chính của họ. Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin trong việc giải quyết các vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội, người nghèo thường quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo hơn mình. Không muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từ đó, càng làm hạn chế về khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế giỏi. Đây là một cản trở lớn trong công cuộc XĐGN. Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là chính, chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketting không có; bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị thấp; sản phẩm làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản phẩm của mình có, chứ không bán cái mà thị trường cần). Người nghèo thường sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm, không năng động tìm kiếm việc làm, lười biếng lao động. Do sinh con nhiều, đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu nhiều, nhưng số người có sức lao động lại ít. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém, nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra nhưng bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. “Các rủi ro trong SXKD đối với người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém, do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa.” [4, trang 24]. Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải gánh chịu mất đi thu nhập từ lao động và chi phí cao cho việc khám chữa bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi đói nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng bệnh của người nghèo còn hạn chế: Tình trạng sức khỏe của người Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều tra, mức sống năm 1998, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm, so với 2,4 ngày/năm của nhóm 20% người giàu. Bệnh tật và sức khoẻ yếu ảnh hưởng đến việc lao động sản xuất và tìm việc làm của người nghèo. Hộ nghèo do có người không chịu làm việc, hoặc hay uống rượu, hoặc chơi cờ bạc. 1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo 1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại môi trường và cản trở nâng cao dân trí Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên các vấn đề xã hội. Ở nông thôn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu hẹp; ngành nghề phụ một số nơi không phát triển và có thu nhập thấp hoặc không có ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp phần làm nảy sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút. Các nguồn tài nguyên xuống cấp và cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và các môi trường tự nhiên biển bị phá hủy; môi trường tự nhiên ở vùng đất mặn và ven biển bị mất đi; mất đất rừng tự nhiên ở các vùng núi, cùng với sự phá hoại hệ sinh thái đa dạng; các vùng đất có vấn đề ngày càng lan rộng do sử dụng đất kém và không đúng cách, ô nhiễm nước mặn, đất và nguồn nước khu vực nông thôn. Những mất mát đi kèm với việc các hộ nghèo buộc phải bán đất, di dân tự do ra thành thị và ven đô, nơi họ sinh sống thiếu hoặc khô._.ng có những dịch vụ cơ bản, một bộ phận con cái họ dễ trở thành nạn nhân của tội phạm (trộm cắp, buôn bán hàng cấm, gái mại dâm…) và sự xuống cấp của môi trường xung quanh tăng ở mức ngoài tầm kiểm soát…Nhiều hộ cả vợ chồng bỏ ra thành phố làm ăn, một năm về nhà vài lần, ở nhà các con tự nuôi nhau hoặc ở nhà với ông bà già, các con thiếu sự quản lý, thiếu tình thương bố mẹ, nhiều trường hợp học hành giảm sút bị bỏ dở, tham gia trộm cắp…Tại thành phố sự chênh lệch giàu nghèo rõ nét, thiếu việc làm, không có đất để sản xuất dẫn đến một số người làm ăn phi pháp, tệ nghiện hút ở thanh niên ngày càng gia tăng… 1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm 2001- 2010 là: “ Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” [4, trang 36]. Để đạt được những mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường cở sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện hệ thống giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường các lợi thế cạnh tranh trong các cam kết thương mại song phương và đa phương nhằm chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nhằm tạo thêm việc làm, cải thiện sức khoẻ cộng đồng, XĐGN và ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Muốn thực hiện các mục tiêu nêu trên, thì yếu tố con người là yếu tố đầu tiên và có tính chất quyết định. Vì vậy, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu, vừa là động lực to lớn khơi dậy mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. XĐGN là một trong những chính sách xã hội hướng phát triển con người, nhất là đối với nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đói nghèo và lạc hậu bao giờ cũng đi đôi với gia tăng dân số, suy giảm thể lực, trí lực… Vì vậy, XĐGN là một yêu cầu cấp thiết để phát triển một xã hội bền vững. 1.1.4.3. Xoá đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã hội phát triển bền vững XĐGN không chỉ là công việc trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài; trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo. Lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. XĐGN góp phần thực hiện công bằng xã hội thể hiện trên các mặt: Mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân và nhóm người nghèo, nâng cao năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình trong tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng cách và sự chênh lệch quá đáng về mức sống giữa nông thôn và thành thị, các nhóm dân cư. XĐGN tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗi người, nhất là nhóm người nghèo. Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất là những dịch vụ xã hội cơ bản. XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động, mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thoát nghèo. XĐGN không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn; mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do vậy, các chính sách ban hành để thực thi chương trình XĐGN giữ vai trò quan trọng, góp phần tích cực hoàn thành mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao, tạo cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội SXKD và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng, tạo điều kiện thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trong cả nước. 1.2. TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo 1.2.1.1. Khái niệm Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Trong mối quan hệ này ngân hàng vừa là người cho vay, vừa là người đi vay. Tuy trong kinh tế thị trường có nhiều hình thức tín dụng, nhưng tín dụng ngân hàng là hình thức chủ yếu và phổ biến nhất. Các ngân hàng thực tế là một trung gian tài chính quan trọng hàng đầu trong bất kỳ một quốc gia nào. Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác; trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.2.1.2. Đặc điểm - Hoạt động tín dụng ngân hàng đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Khi nói các hình thức tín dụng khác, chẳng hạn tín dụng thương mại, việc vay mượn dưới hình thức hiện vật (hàng hoá); ngược lại, các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng đều được thực hiện bằng tiền tệ. Trên cơ sở huy động mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hoặc lâu dài trong nền kinh tế, để hình thành quỹ cho vay; đồng thời các Ngân hàng thương mại cũng tiến hành cho các tác nhân và tư nhân vay để bổ sung cho nhu cầu SXKD hoặc tiêu dùng. Do huy động và cho vay bằng tiền, nên đối tượng cho vay của ngân hàng rất linh hoạt và đáp ứng mọi nhu cầu trong nền kinh tế. - Ngân hàng thương mại đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay; ở đây ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. 1.2.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với hộ nghèo. Nó được coi là công cụ quan trọng để phá vỡ vòng luẩn quẩn của thu nhập thấp, tiết kiệm thấp và năng suất thấp, là chìa khoá vàng để giảm nghèo. Vai trò tín dụng ngân hàng được thể hiện ở một số nội dung sau: - Cung cấp vốn tín dụng, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống: Vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần cải thiện tình hình thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Trong ba yếu tố cơ bản để hộ nghèo có điều kiện SXKD; đó là vốn bằng tiền hoặc đất đai, lao động và kỹ thuật; trong đó, vốn bằng tiền đóng vai trò quan trọng nhất vì nếu có vốn bằng tiền, thì người sản xuất có thể mua sắm các tư liệu sản xuất khác, kể cả đất đai. Hiện nay, tích luỹ của người nghèo ở nước ta rất thấp, do đó hầu như các hộ nghèo đều thiếu vốn để SXKD. Nhờ nguồn vốn của ngân hàng mà các hộ nghèo có điều kiện tiếp cận được khoa học kỹ thuật, công nghệ mới như các giống cây, con mới, kỹ thuật canh tác mới và cũng nhờ vay vốn, mà hộ nghèo tiếp cận được với công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. - Tín dụng ngân hàng làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi: Tệ nạn cho vay nặng lãi đã có từ lâu đời nay, hiện nay vẫn đang tồn tại khá nặng nề ở nông thôn, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Cho vay nặng lãi thể hiện ở lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của ngân hàng hoặc dưới dạng mua bán sản phẩm non như lúa non, lạc non, mía non…ở thời kỳ giáp hạt. Do nhu cầu cấp bách (thường là do đói kém, ốm đau bệnh tật, chi phí con đi học hoặc nhu cầu đột xuất), nên họ phải vay nặng lãi. Tín dụng nặng lãi gây nhiều tác hại cho người dân, đặc biệt là hộ nghèo, làm cho hộ nghèo càng nghèo thêm. Chính hoạt động tín dụng ngân hàng, nhất là NHCSXH đã trực tiếp làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi. - Giúp người nghèo có việc làm, nâng cao kiến thức tiếp cận thị trường, có điều kiện hoạt động SXKD trong nền kinh tế thị trường: Cung ứng vốn cho người nghèo theo chương trình, với mục tiêu đầu tư cho SXKD để XĐGN; sau một thời gian thu hồi cả gốc và lãi đã buộc người vay phải tính toán trồng cây gì, nuôi con gì, làm nghề gì và làm như thế nào để có hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho gia đình; đồng thời trả nợ cho ngân hàng. Để làm được điều đó, họ phải học hỏi kỹ thuật sản xuất, suy nghĩ biện pháp quản lý. Từ đó, tạo cho họ tính năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, tích luỹ được kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế. Mặt khác, khi số đông người nghèo sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá thông qua việc trao đổi trên thị trường, làm cho họ tiếp cận được kinh tế thị trường một cách trực tiếp. Đồng thời giải quyết tình trạng không có việc làm cho hàng vạn lao động nghèo, phát huy tiềm năng sẵn có của các hộ gia đình. Như chúng ta đã biết diện tích đất nông nghiệp trên đầu người hiện nay ở các vùng nông thôn của đất nước quá thấp (do quá trình đô thị hoá nhanh làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp). Trong khi đó, số lao động nông thôn ngày càng tăng (một phần do sinh đẻ không có kế hoạch), sản xuất thuần nông (không có ngành nghề phụ) nên thời gian nông nhàn của người nghèo lớn (thời gian làm việc của một lao động trong một năm chỉ khoảng 100 ngày, còn 265 ngày không có việc làm). Tình trạng không có việc làm diễn ra phổ biến ở các vùng nông thôn. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ trợ phát triển ngành nghề ở nông thôn, như: Chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cũng như thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống. Nhờ vậy, đã giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Giải quyết phần lớn thời gian nông nhàn. Tận dụng lao động để khai thác ngành nghề truyền thống, khai thác tiềm năng nội lực, tạo cơ hội cho người nghèo tự vận động, vượt qua khó khăn, vươn lên thoát khỏi đói nghèo hoà nhập cộng đồng. - Cung ứng vốn cho người nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới: Tín dụng cho người nghèo của NHCSXH thực hiện theo các quy định nghiệp vụ như bình xét công khai đối tượng được vay, thành lập tổ vay vốn, phải qua sự kiểm tra của chính quyền xã, phường, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp từ Trung Ương đến xã, vốn vay được phát trực tiếp tận người vay Do đó, thông qua vay vốn, các hộ nghèo trong tổ cùng giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống; trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý kinh tế, chia sẻ rủi ro, hoạn nạn. Thông qua đó mà tình làng nghĩa xóm được gắn bó hơn. Đồng thời số lượng các hội viên sinh hoạt tại các tổ chức hội (HND, HPN, HCCB, ĐTN) ngày càng đông, hoạt động của các tổ chức hội phong phú hơn về nội dung, các hội làm dịch vụ uỷ thác cho vay hộ nghèo cũng có thêm khoản thu nhập từ phí uỷ thác ngân hàng trả theo tỷ lệ và định kỳ nhất định (hàng quý). Kết quả phát triển kinh tế đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Trật tự an ninh, an toàn xã hội được giữ vững; hạn chế được những mặt tiêu cực, tạo ra bộ mặt mới trong đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. 1.2.2. Hiệu quả tín dụng hộ nghèo Đối với các Ngân hàng thương mại, thì các dịch vụ tín dụng là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của ngân hàng, chúng gồm các khoản cho vay và các dịch vụ mang tính chất tín dụng. Đối với NHCSXH hiện nay, các khoản cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động tín dụng ngân hàng và chúng là sản phẩm dễ bị rủi ro nhất. Khái niệm hiệu quả tín dụng hộ nghèo ở đây được hiểu là hiệu quả cho vay. 1.2.2.1. Khái niệm Hiệu quả tín dụng hộ nghèo xét trên các khía cạnh: - Thực hiện bình xét dân chủ, công khai, vốn đến đầy đủ, đúng địa chỉ hộ nghèo cần vay vốn (hộ nghèo có sức lao động, có khả năng SXKD nhưng thiếu vốn) và được sử dụng đúng mục đích. - Quy mô tín dụng: Quy mô tín dụng đối với hộ nghèo được thể hiện ở số tuyệt đối dư nợ tín dụng đối với hộ nghèo trong tổng dư nợ ngân hàng, doanh số cho vay, thu nợ hộ nghèo; số tiền vay đối với một hộ. Số tuyệt đối dư nợ lớn và tỷ trọng dư nợ cao, doanh số cho vay, thu nợ lớn thể hiện hoạt động tín dụng ngân hàng đã đáp ứng tốt nhu cầu vốn của các hộ nghèo. - Chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo thể hiện ở mức độ an toàn tín dụng, khả năng hoàn trả và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của người vay). Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ hộ nghèo thấp, cho thấy các khoản tín dụng đối với hộ nghèo an toàn, lành mạnh. Tỷ lệ nợ quá hạn cao, phản ảnh sự rủi ro các khoản tín dụng. - Khả năng bảo toàn vốn: Khi ngân hàng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển SXKD. Ngân hàng tính toán được khả năng thu hồi vốn (cả gốc và lãi), sau khi trừ các chi phí thì vẫn có lãi. Từ đó ngân hàng có thể duy trì và mở rộng hoạt động phục vụ của mình. - Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý cho hộ nghèo, hỗ trợ hộ nghèo phát triển kinh tế, tăng thu nhập vươn lên thoát khỏi đói nghèo, hoà nhập cộng đồng. - Số hộ nghèo thoát khỏi đói nghèo nhờ vay vốn, số việc làm được giải quyết thông qua vay vốn NHCSXH. 1.2.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng hộ nghèo Tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng nhất của một ngân hàng nói chung, dư nợ tín dụng là khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng. Tín dụng cũng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng, thông qua việc đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý cho khách hàng. Hiệu quả tín dụng đối với ngân hàng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá liên quan đến lợi ích của 03 đối tượng: Lợi ích khách hàng vay vốn, ngân hàng và nền kinh tế- xã hội. Trong luận văn này chúng tôi xin đi sâu đánh giá cụ thể về hiệu quả tín dụng hộ nghèo của NHCSXH. (1). Hiệu quả kinh tế a. Về phía hộ nghèo - Hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo được thể hiện ở doanh số vay, trả (gốc, lãi) đúng hạn, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, rủi ro trong sử dụng vốn thấp. Nếu doanh số vay của hộ lớn, hộ vay sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ (gốc, lãi) đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng, trong quá trình sử dụng vốn không gặp các rủi ro gây thất thoát vốn, sau khi trừ đi các khoản chi phí vẫn còn có lãi, thể hiện vốn sử dụng có hiệu quả. - Biểu hiện qua việc sử dụng vốn của hộ nghèo vào SXKD như thế nào? Nếu hộ nghèo vay vốn về SXKD thuận lợi, sản xuất nhiều hàng hoá bán thu được lợi nhuận cao, sau khi trừ đi phần trả nợ cho ngân hàng (gốc, lãi), trả tiền công lao động, mà vẫn có lãi, thì đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cao. Ngược lại, nếu vay vốn về SXKD thua lỗ thì hiệu quả thấp; thậm chí mất vốn. Có nhiều trường hợp vay vốn ngân hàng về chăn nuôi, trồng trọt, tuy đã trả hết nợ cho ngân hàng đúng kỳ hạn, nhưng vẫn bị đánh giá là hiệu quả thấp vì nguồn để trả nợ cho ngân hàng phải đi vay chỗ khác, chứ không phải từ nguồn thu nhập của người vay. Trường hợp này, nếu không đi vay chỗ khác thì hộ nghèo phải bán tài sản hình thành từ vốn vay để trả nợ. Cho nên, nếu chỉ nhìn một mặt trả nợ của hộ vay cho ngân hàng để đánh giá hộ vay sử dụng vốn có hiệu quả là chưa đủ. - Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo cũng được đánh giá thông qua tiêu chí: Tỷ suất lợi nhuận và mức sống của hộ nghèo; nếu tỷ suất lợi nhuận được tăng lên, mức sống hộ nghèo được cải thiện tốt, thì hiệu quả tín dụng tốt. - Thông qua việc sử dụng vốn vào SXKD, trình độ quản lý kinh tế của người vay được nâng lên. Người nghèo có điều kiện tiếp cận được với kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi tiến tiến, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Đây cũng là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng mang lại cho hộ nghèo. - Số hộ thoát nghèo bền vững, vươn lên thành hộ giàu là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của tín dụng đối với hộ nghèo. Hộ đã thoát khỏi ngưỡng đói nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn chuẩn mực đói nghèo hiện hành, không còn nằm trong danh sách hộ nghèo do Phòng LĐ- TB&XH huyện, thị, thành phố lập theo từng năm. Tổng số hộ nghèo đã thoát khỏi khỏi đói nghèo (ra khỏi danh sách hộ nghèo) = Số hộ nghèo trong danh sách đầu kỳ - Số hộ nghèo trong danh sách cuối kỳ - Số hộ nghèo chuyển đi địa bàn khác trong kỳ + Số hộ nghèo chuyển đến trong kỳ Mục tiêu của tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo là giúp họ có vốn sản xuất, thoát nghèo để hòa nhập cộng đồng và hơn thế nữa là ổn định tình hình chính trị - xã hội. Do vậy, số hộ thoát khỏi nghèo đói hàng năm cao; trong đó, có hộ vay vốn NHCSXH, có nghĩa là vốn của NHCSXH đã được hộ nghèo sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tại một số địa phương việc đánh giá hộ thoát nghèo không chính xác, vì nhiều lý do khác nhau. - Tỷ lệ hộ nghèo được vay vốn: Đây là chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng đối với công tác tín dụng. Tỷ lệ này càng cao, một mặt thể hiện nguồn vốn tín dụng lớn để phục vụ hộ nghèo; mặt khác, đánh giá khả năng SXKD của hộ nghèo ngày càng lớn, nguồn vốn có hiệu quả (nếu sử dụng vốn không hiệu quả, thì hộ nghèo sẽ không có nhu cầu vay). Tỷ lệ hộ nghèo được vay vốn = Tổng số hộ nghèo được vay vốn Tổng số hộ nghèo trong danh sách X 100% - Luỹ kế số hộ thoát nghèo lớn, cũng là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo qua cả một thời gian. b. Về phía ngân hàng NHCSXH là tổ chức tín dụng của nhà nước, hoạt động vì mục tiêu XĐGN, phát triển kinh tế và ổn định xã hội, không vì mục đích lợi nhuận. Hiệu quả tín dụng NHCSXH được thể hiện: Thứ nhất, quy mô tín dụng: Quy mô tín dụng đối với hộ nghèo được thể hiện ở số tuyệt đối dư nợ tín dụng đối với hộ nghèo và tỷ trọng dư nợ tín dụng hộ nghèo trong tổng số dư nợ tín dụng của NHCSXH. Số tuyệt đối lớn và tỷ trọng dư nợ cao, thể hiện hoạt động tín dụng ngân hàng đã đáp ứng tốt nhu cầu vốn của hộ nghèo. Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với hộ nghèo = Dư nợ tín dụng hộ nghèo x 100% Tổng dư nợ tín dụng Tăng trưởng dư nợ tín dụng hộ nghèo = Dư nợ tín dụng hộ nghèo năm sau x 100% Dư nợ tín dụng hộ nghèo năm trước Thứ hai, chất lượng tín dụng: - Có 03 tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay. - Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản mà ngân hàng đang dùng để đánh giá chất lượng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ % giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng và bị chuyển sang nợ quá hạn, với lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất bình thường (lãi suất nợ quá hạn hiện nay bằng 130% lãi suất cho vay). Trên thực tế, các khoản nợ quá hạn thường là các khoản nợ có vấn đề ( nợ xấu), có khả năng mất vốn (có nghĩa là tính an toàn thấp). Trong kinh tế thị trường, nợ quá hạn đối với ngân hàng là khó tránh khỏi, vấn đề là làm sao để giảm thiểu nợ quá hạn. Những ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp được đánh giá chất lượng tín dụng tốt, hiệu quả tín dụng cao và ngược lại. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ nghèo = Dư nợ quá hạn cho vay hộ nghèo Tổng dư nợ hộ nghèo x 100% - Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích: Người vay sử dụng vốn đúng mục đích đã trở thành nguyên tắc quan trọng của ngân hàng nói chung; tuy vậy, trong thực tế đã không ít khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết với ngân hàng, với động cơ thiếu lành mạnh và do đó dễ bị rủi ro; trong trường hợp này người ta gọi là rủi ro đạo đức. Những khoản vay bị sử dụng sai mục đích phần lớn đều không đem lại như hiệu quả kinh tế xã hội như mong muốn của ngân hàng. Chỉ tiêu này có thể xác định theo công thức: Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích = Số tiền sử dụng sai mục đích Tổng dư nợ x 100% Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng bị đánh giá là thấp và ngược lại. - Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: Nguồn trả nợ cho ngân hàng về nguyên tắc là được trích ra từ phần thu nhập của người vay. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả bị mất vốn nên người vay phải bán tài sản để trả nợ, trong trường hợp này đánh giá chất lượng tín dụng thấp: Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản = Số tiền nợ thu được do khách hàng bán Tổng doanh số thu nợ x 100% Thứ ba, khả năng sinh lời: NHCSXH là một tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nhưng phải bảo toàn vốn. Muốn duy trì hoạt động bền vững thì NHCSXH phải có chênh lêch dương về thu, chi nghiệp vụ. Các khoản thu chủ yếu là thu lãi tiền vay; chi chủ yếu trả phí ủy thác, hoa hồng, trả lãi tiền vay. NHCSXH cho hộ nghèo vay vốn phải thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, hạn chế thấp nhất về rủi ro xảy ra (kể cả rủi ro bất khả kháng). Thứ tư, mức độ đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của hộ nghèo, hỗ trợ hộ nghèo phát triển kinh tế, vượt lên thoát đói nghèo. Nếu nguồn vốn của ngân hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn ngày càng tăng của hộ nghèo, thì đánh giá hiệu quả của NHCSXH đối với tín dụng hộ nghèo cao và ngược lại. Thứ năm, về thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp nhanh chóng, giảm bớt chi phí trong hoạt động cho vay, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. (2). Hiệu quả xã hội a. Đối với hộ nghèo. - Tạo việc làm cho người lao động: Thông qua công tác cho vay hộ nghèo, đã thu hút được một bộ phận con, em của hộ nghèo có việc làm ổn định, tạo thêm nhiều của cải cho gia đình và xã hội, góp phần hạn chế tệ nạn xã hội, ổn định trật tự chính trị và an toàn xã hội. - Các vùng nghèo, xã nghèo, nhờ nguồn vốn tín dụng; đặc biệt là vốn tín dụng của ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây, nay là NHCSXH đã xoá bỏ được tình trạng vay nặng lãi và bán nông sản non, góp phần thay đổi bộ mặt đời sống nhân dân nông thôn. Tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hộ nghèo. b. Đối với ngân hàng - Nếu hiệu quả tín dụng của NHCSXH được nâng lên, thì không chỉ các hộ nghèo được vay vốn, mà ngân hàng còn có điều kiện để phục vụ các hộ thuộc vùng khó khăn trong các khoản vay thương mại; phục vụ chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ, của địa phương. Đây chính là sự tồn tại và phát triển bền vững của NHCSXH. - Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương: Nếu hiệu quả tín dụng cao, ngân hàng sẽ có thêm điều kiện để phục vụ tốt hơn nhu cầu vay vốn của các đối tượng; từ đó sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội của địa phương phát triển. - Thông qua cho vay của NHCSXH, đã kéo theo một đội ngũ cán bộ ở cấp xã, huyện vào cuộc cùng ngân hàng, số tiền hoa hồng tổ nhóm, phí ủy thác đã là nguồn thu đáng kể đối với ban quản lý tổ vay vốn và tổ chức hội. - Thông qua vay vốn hộ nghèo, nội dung hoạt động của các tổ chức hội càng thêm phong phú, số lượng hội viên tham gia sinh hoạt ngày càng đông. 1.2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo (1). Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo, những hộ sống ở vùng đồng bằng, nơi có cơ sở hạ tầng tốt, trình độ dân trí cao, khí hậu ôn hòa, đất đai rộng, thì vốn tín dụng hộ nghèo dễ có điều kiện phát huy hiệu quả cao và ngược lại, những nơi cơ sở hạ tầng thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, đất đai ít, cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt thì vốn tín dụng phát huy hiệu quả không cao. (2). Điều kiện xã hội Do tập quán canh tác ở một số nơi vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn lạc hậu, như chăn nuôi gia súc, gia cầm thả rông, không có chuồng trại, không tiêm phòng dịch, nên hiệu quả không cao. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo. Các hộ nghèo thường có số con đông hơn các hộ trung bình, nhưng sức lao động ít; trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên trong gia đình thấp, nên sử dụng vốn kém hiệu quả. Một số hộ nghèo do nhận thức còn hạn chế, xem nguồn vốn tín dụng của NHCSXH là vốn cấp phát, cho không của Nhà nước, nên sử dụng chủ yếu vào sinh hoạt trong gia đình; không đầu tư vào SXKD; vốn sử dụng không có hiệu quả, dẫn đến không trả nợ cho Ngân hàng. (3). Điều kiện kinh tế Vốn tự có của hộ nghèo hầu như không có (chỉ có sức lao động), nên vốn SXKD chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng cũng là một yếu tố làm giảm hiệu quả của vốn vay. Cùng với việc thiếu vốn SXKD, thì việc lồng ghép tập huấn các chương trình như: Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư…hạn chế cũng góp phần làm giảm hiệu quả tín dụng hộ nghèo. Điều kiện y tế, giáo dục, thị trường cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo. Những nơi có trạm y tế, có đội ngũ y, bác sỹ đầy đủ, thì nơi đó việc chăm sóc sức khỏe cho người dân được đảm bảo, người dân có sức khỏe tốt đồng nghĩa với sức lao động tốt, có điều kiện để SXKD tốt, sử dụng vốn có hiệu quả; trong đó, có vốn tín dụng hộ nghèo và ngược lại. Giáo dục có ý nghĩa quyết định đến việc sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả. Nếu nơi nào có tỷ lệ người được học cao, thì nơi đó dễ có điều kiện tiếp thu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; nơi đó con người có ý thức tốt hơn; SXKD có hiệu quả, chấp hành pháp luật Nhà nước và thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay có những vùng sâu, vùng xa, vùng điều kiện đi lại khó khăn (vùng đồng bằng Sông Cửu Long…) tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều. Đó là chưa kể đến việc học sinh đi học ngồi nhầm lớp, có trường học ở miền núi tỷ lệ đậu tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2006- 2007 dưới 1%. Cá biệt có trường 100% học sinh trượt tốt nghiệp lần 1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo. Nơi nào có chợ, chợ họp thường xuyên, thì nơi đó kinh tế phát triển, hàng hóa sản xuất ra dễ tiêu thụ, người dân tiếp cận được với khoa học kỹ thuật, có điều kiện tiếp cận được kinh tế thị trường. (4). Chính sách nhà nước Sự can thiệp (điều tiết) của Nhà nước đối với nền kinh tế là một tác nhân quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế. Sự điều tiết của Nhà nước đúng, kịp thời sẽ giúp môi trường kinh tế được lành mạnh hóa, hoặc ngược lại sẽ gây rối loạn thị trường. Để Nhà nước có các chính sách hỗ trợ vốn cho các vùng nghèo, xã nghèo, hộ nghèo kịp thời, liên tục; có chính sách hướng dẫn hộ đầu tư vốn vào lĩnh vực nào trong từng thời kỳ, xử lý rủi ro kịp thời cho hộ nghèo, thì vốn vay dễ có điều kiện phát huy hiệu quả cao. Sản phẩm làm ra của hộ nghèo, nếu có thị trường tiêu thụ tốt, thì dễ tiêu thụ có lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao và ngược lại; nếu Nhà nước có các chính sách đúng, kịp thời hỗ trợ hộ nghèo trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thì góp phần làm cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. Nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, bao gồm xây dựng và nâng cấp các con đường giao thông nông thôn, các công trình thuỷ lợi và chợ. Hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, bao gồm cung cấp giống mới và các loại vật tư nông nghiệp khác, tập huấn và khuyến nông để người nghèo có các điều kiện cần thiết sử dụng vốn có hiệu quả. (5). Bản thân hộ nghèo Khách hàng vay vốn của NHCSXH hiện nay chủ yếu là hộ nghèo và các đối tượng chính sách, mà hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ; trong đó, có tri thức, kinh nghiệm SXKD, dẫn đến hiệu quả của SXKD hạn chế, sản phẩm sản xuất ra chi phí cao, chất lượng và khả năng cạnh tranh kém khó vượt qua các rủi ro trong sản xuất và đời sống. Về vốn chủ yếu là vốn vay ngân hàng, không có vốn tự có, dẫn đến bị động về vốn sản xuất. Nếu hộ nghèo có ý thức sử dụng vốn đúng mục đích gặp thuận lợi trong sản xuất, chăn nuôi thì có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tại một số vùng đặc biệt khó khăn là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của Nhà nước. Một số hộ nghèo do ý thức kém, nên sử dụng vốn sai mục đích, không chấp hành việc trả nợ (gốc, lãi) cho ngân hàng đúng hạn. 1.3. KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước 1.3.1.1. Kinh nghiệm cho vay XĐGN của Ngân hàng Grameen (Bangladesh) Bangladesh là một nước nông nghiệp lạc hậu, diện tích tự nhiên gần 143.000 km2, dân số khoảng 120 triệu người, thuộc nước nghèo nhất thế giới; trong đó, 80% dân số sinh sống ở nông thôn. GDP bình quân đầu người dưới 200 USD, nhưng bình quân GDP của nông dân chỉ hơn 100USD/năm. Dân trí thấp, nhiều người mù chữ. Bangladesh là nước đồng bằng, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do đó, đời sống của đa số nông dân rất thiếu thốn. Ngân hàng Grameen (có nghĩa là làng xã) hình thành từ năm 1976, vốn ban đầu chỉ có 28 USD của Giáo sư, TS Yumus sáng lập. Hệ thống Ngân hàng Grameen gồm: Ngân hàng TW, trụ sở tại thủ đô Datka, Văn phòng đại diện tại các bang hoặc vùng, hơn 1.000 Chi nhánh khu vực ở nông thôn; dưới chi nhánh, mỗi làng có Trung tâm tín dụng do thành viên vay vốn tự xây dựng và tự quản lý, một thành viên làm trưởng Trung tâm tín dụng, mỗi Trung tâm tín dụng có ít nhất 10 Tổ tín dụng. Mỗi Tổ tín dụng có 5 thành viên, một thành viên làm tổ trưởng. Nông dân nghèo muốn được vay tiền Ngân hàng Grameen phải là thành viên của Ngân hàng Grameen và sinh hoạt trong một Tổ tín dụng, các thành viên trong nhóm được yêu cầu tuân thủ các nguyên tắc của Ngân hàng về tính kỷ luật, đoàn kết, dũng cảm và chăm chỉ, cũng như “16 quyết định” bao gồm: Duy trì mô hình gia đình nhỏ, tất cả trẻ em đều được đến trường, thực hiện tiến bộ gia đình và giúp đỡ các thành viên khác trong nhóm khi gặp khó khăn. Hàng tuần, các trung tâm tín dụng họp với các thành viên một lần, mỗi thành viên phải gửi 1 cata (đơn vị tiền tệ của Bangladesh) vào tài khoản tiền gửi của mình tại chi nhánh Ngân hàng Grameen. Quy chế cho vay của Tổ tín dụng: Đầu tiên 2 thành viên trong tổ được vay vốn; khi trả xong nợ, thì 2 thành viên tiếp theo được vay; tổ trưởng tín dụng là người vay cuối cùng. Khi tổ trưởng trả xong nợ, thì lại có 2 thành viên khác được vay vốn, quy chế này được lặp đi, lặp lại. Các thành viên trong Tổ tín dụng giám sát lẫn nhau về sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ đúng ._. sung cho phù hợp. Để thông tin của người dân kịp thời đến với NHCSXH, thì phải tăng số lượng hòm thư góp ý, đảm bảo tất cả các xã, phường, thị trấn và trụ sở ngân hàng phải có hòm thư góp ý. Bảo quản hòm thư an toàn, định kỳ vào ngày giao dịch, tổ giao dịch lưu động tại xã cùng cán bộ UBND xã và lãnh đạo các tổ chức hội mở hòm thư góp ý. Nếu có trường hợp khiếu nại, tố cáo thì NHCSXH phải xem xét trả lời thoả đáng, kịp thời cho nhân dân. 3.3.4.4. Sự tham gia của chính quyền và các ban ngành vào hoạt động xóa đói giảm nghèo Sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và các ban, ngành vào hoạt động của NHCSXH có ý nghĩa quyết định đến kết quả XĐGN. Nơi nào cấp uỷ, chính quyền địa phương quan tâm đúng mức thì hoạt động tín dụng chính sách nói chung và cho vay hộ nghèo nói riêng đạt hiệu quả cao. Hiện nay, tại tỉnh Nghệ An công tác cho vay hộ nghèo của NHCSXH được đa số chính quyền và các ban ngành địa phương các cấp thực sự quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn một số chính quyền địa phương và ban, ngành chưa thực sự quan tâm; xem việc cho vay đối hộ nghèo là nhiệm vụ của riêng NHCSXH, từ đó làm cho hiệu quả đồng vốn chưa cao. Để hiệu quả SXKD của hộ nghèo ngày càng cao, đòi hỏi chính quyền địa phương các cấp và các ban, ngành cần thường xuyên quan tâm chỉ đạo hoạt động cho vay của NHCSXH. Hàng năm trích ngân sách đại phương (tỉnh, huyện) từ nguồn tăng thu tiết kiệm chi để chuyển cho NHCSXH làm nguồn vốn cho vay; hỗ trợ kinh phí để tăng cường công tác tập huấn cho cán bộ làm công tác cho vay vốn của NHCSXH. Thường xuyên hỗ trợ kinh phí để trang bị thêm cơ sở vật chất tại điểm giao dịch. Tăng cường tập huấn các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho hộ nghèo, hướng dẫn hộ nghèo trong sản xuất và tiêu thu sản phẩm. 3.3.5. Đẩy mạnh cho vay theo dự án, nâng suất đầu tư cho hộ nghèo lên mức đối đa ` 3.3.5.1. Cho vay theo dự án vùng, tiểu vùng - Để công cuộc XĐGN thực hiện nhanh và bền vững, trong cho vay hộ nghèo nên chuyển hình thức đầu tư cho vay nhỏ lẽ như hiện nay, sang cho vay theo dự án vùng và tiểu vùng (dự án chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà..., trồng sắn, chè, trồng rừng đối với các huyện miền núi. Cho vay đánh bắt nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, trồng cây ăn quả... đối với các huyện đồng bằng và ven biển). - Lập dự án vùng theo quy mô toàn xã, có từ 150- 200 hộ chia thành nhiều tổ, mỗi tổ khoảng 40 người; với dư nợ 3- 4 tỷ đồng/dự án. Dự án tiểu vùng lập theo xóm hoặc 02- 03 xóm liền kề, quy mô từ 80- 100 hộ, dư nợ 1,6- 2 tỷ đồng/dự án; thời gian cho vay căn cứ vào chu kỳ sản SXKD của đối tượng vay để xác định. Thực hiện phân kỳ trả nợ gốc theo từng năm, lãi trả hàng quý. - Về vốn đáp ứng tối đa nhu cầu xin vay của hộ. - Định kỳ hàng năm phải có sơ kết, hết thời gian thực hiện dự án có tổng kết hiệu quả dự án mang, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. 3.3.5.2. Nâng suất cho vay hộ nghèo Tại NHCSXH tỉnh Nghệ An trong những năm qua việc cho vay hộ nghèo tăng trưởng nhanh. Về quy mô dư nợ, số tổ vay vốn, mức dư nợ bình quân/hộ (dư nợ tăng 3 lần, dư nợ bình quân/hộ tăng 2 lần so với năm 2003). Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của hộ vay. Để góp phần cho hộ nghèo sử dụng vốn vay có hiệu quả thì NHCSXH cần phối hợp với các tổ chức hội, chỉ đạo ban quản lý tổ vay vốn thực hiện dân chủ, công khai trong quá trình bình xét cho vay; trên cơ sở nhu cầu vay vốn của các hộ ngân hàng đáp ứng tối đa. Đối với những hộ vay chăn nuôi ngân hàng cho vay mua con giống và chi phí làm chuồng trại, chi phí thức ăn thời gian đầu (vì một số hộ không có chuồng trại chăn nuôi, do tập quán chăn nuôi thả rông hoặc không đủ tiền để làm chuồng trại); đối với những hộ vay trồng cây, cải tạo vường tạp... Ngân hàng cho vay mua cây giống, nếu gia đình không có vốn tự có thì cho vay chi phí để mua phân bón, thuốc trừ sâu... Phấn đấu đến cuối năm 2008 mức cho vay bình/ hộ là 10 triệu đồng (Theo công văn số 527/NHCS-TD, ngày 06/4/2007 của Tổng Giám đốc NHCSXH Việt Nam, hiện nay mức cho vay tối đa đối với 1 hộ nghèo SXKD là 30 triệu đồng). 3.3.5.3. Đa dạng hóa các ngành nghề đầu tư Tại Nghệ An trong những năm qua đối tượng sử dụng vốn của NHCSXH còn đơn điệu; trong đó, chăn nuôi trâu, bò là chính, các ngành nghề và dịch vụ chưa nhiều do đó, hiệu quả kinh tế đối với vốn vay NHCSXH còn hạn chế. Đối với hộ nghèo việc đầu tư vào ngành nghề mới là rất khó khăn, vì điều kiện tiếp cận thị trường hạn chế; tâm lý sợ rủi ro. Để đồng vốn sử dụng có hiệu quả cao thì phải đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là các ngành nghề mới như: Dự án chăn nuôi lợn siêu nạc, dự án trồng rau sạch, dự án nuôi cá... Muốn đa dạng hoá các ngành nghề đầu tư, thì một mặt hộ nghèo phải chủ động tìm đối tượng đầu tư phù hợp; mặt khác, đòi hỏi phải có sự giúp đỡ định hướng của các cấp, các ngành ở TW và địa phương; mở nhiều nhà máy tiêu thụ sản phẩm; nhiều lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người dân. 3.3.6. Tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát Công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động tín dụng, nó là một trong những điều kiện để đảm bảo hiệu quả tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn của hộ nghèo. Nó giúp ngân hàng ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các sai sót trong hoạt động tín dụng; nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng; hạn chế nợ quá hạn. Đối với NHCSXH hiện nay cơ chế giải ngân tín dụng hộ nghèo thực hiện ủy thác qua các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn; việc bình xét hộ vay, mức vay, thời hạn vay được thực hiện tại tổ vay vốn; có sự kiểm tra của tổ chức hội và phê duyệt của UBND cấp xã; hộ nhận tiền vay, trả nợ (gốc, lãi)... tại điểm giao dịch của NHCSXH tại xã. Do đó, việc kiểm tra giám sát có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động của NHCSXH. Phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của Ban đại diện HĐQT các cấp, tổ chức chính trị xã hội nhận uỷ thác và người dân. 3.3.6.1. Ban đại diện HĐQT các cấp (1). Ban đại diện HĐQT tỉnh Trong những năm qua, công tác kiểm tra của Ban đại diện HĐQT NHCSXH tỉnh được duy trì thường xuyên; chất lượng kiểm tra ngày càng được nâng lên; thông qua kiểm tra đã kịp thời nắm được những khó khăn, vướng mắc, tồn tại ở cơ sở trong việc thực hiện tín dụng đối với hộ nghèo; từ đó đưa ra các giải pháp chỉ đạo kịp thời. Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra trong thời gian qua của Ban đại diện tỉnh vẫn còn một số tồn tại như: Số cuộc kiểm tra còn ít, thời gian và chất lượng kiểm tra còn hạn chế. Trong thời gian tới, để công tác kiểm tra của Ban đại diện HĐQT tỉnh có hiệu quả cao, nên thực hiện theo hướng : - Các thành viên Ban đại diện thực hiện tốt kế hoạch kiểm tra do Trưởng ban phân công; đi kiểm tra phải xuống tận cơ sở (tổ, hộ vay). Một thành viên mỗi quý kiểm tra 01 huyện, trong năm kiểm tra tối thiểu 03 huyện. - Thường xuyên quan tâm chỉ đạo các địa bàn mình phụ trách để xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc, sai phạm trong quá trình thực hiện bình xét cho vay, thu nợ, sử dụng vốn tại cơ sở. - Thời gian kiểm tra mỗi huyện từ 2- 3 ngày làm việc. (2). Ban đại diện HĐQT cấp huyện Căn cứ nội dung, chương trình kiểm tra của Ban đại diện HĐQT tỉnh đề ra hàng năm để xây dựng kế hoạch kiểm tra cho phù hợp với địa phương mình; về nội dung kiểm tra: - Kiểm tra các tổ chức hội về thực hiện 06 khâu nhận ủy thác. Mỗi tháng 1 thành viên kiểm tra tối thiểu 01 xã. - Kiểm tra ban quản lý tổ trong việc thực hiện bình xét cho vay, ghi chép sổ sách, thực hiện việc thu lãi và đôn đốc thu nợ gốc của hộ nghèo. Kiểm tra sử dụng vốn vay của hộ nghèo. 3.3.6.2. Các tổ chức nhận ủy thác các cấp Để công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức hội nhận ủy thác các cấp (tỉnh, huyện, xã) được thực hiện tốt, góp phần làm cho hoạt động cho vay hộ nghèo của NHCSXH ngày càng có hiệu quả cao; cần có sự chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên của tổ chức hội cấp trên đối với hội cấp dưới (TW đối với tỉnh, tỉnh đối với huyện, huyện đối với xã). - Tổ chức nhận uỷ thác cấp tỉnh: Ngay từ đầu năm đề ra kế hoạch kiểm tra đối với cơ sở, hàng quý căn cứ vào kế hoạch kiểm tra, cán bộ được phân công thực hiện kiểm tra hoạt động của tổ chức nhận uỷ thác cấp huyện, xã. Định kỳ hàng quý, tổng hợp kết quả kiểm tra gửi về NHCSXH tỉnh. - Tổ chức nhận uỷ thác cấp huyện: Căn cứ kế hoạch kiểm tra của tổ chức nhận uỷ thác cấp tỉnh và tình hình thực tế tại địa phương mình để đề ra kế hoạch kiểm tra trong năm; hàng tháng tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động của tổ chức hội cấp xã về thực hiện các khâu được NHCSXH huyện uỷ thác, hoạt động của tổ vay vốn và đối chiếu tận hộ vay. Hàng tháng, tổng hợp kết quả kiểm tra gửi phòng giao dịch cấp huyện. - Đối với tổ chức nhận uỷ thác cấp xã: + Chỉ đạo và tham gia cùng tổ tiết kiệm và vay vốn, tổ chức họp tổ để bình xét công khai người vay có nhu cầu xin vay đủ điều kiện vay đưa vào danh sách hộ gia đình đề nghị vay vốn NHCSXH (mẩu số 03/TD). + Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của người vay theo hình thức đối chiếu công khai (mẩu số 06/TD) và thông báo kịp thời cho ngân hàng cho vay về các đối tượng sử dụng vốn sai mục đích, vay ké, bỏ trốn, chết, mất tích, bị rủi ro do nguyên nhân khách quan, để có biện pháp xử lý kịp thời. Kết hợp với tổ tiết kiệm vay vốn và chính quyền địa phương xử lý các trường hợp nợ chây ỳ, nợ quá hạn, hướng dẫn người vay lập hồ sơ đề nghị xử lý nợ rủi ro do nguyên nhân khách quan (nếu có). + Chỉ đạo và giám sát ban quản lý tổ tiết kiệm và vay vốn trong việc thực hiện hợp đồng uỷ nhiệm đã ký với NHCSXH. + Đối với các cán bộ ban XĐGN, cán bộ hội, phải phân định rõ địa bàn kiểm tra gắn quyền lợi với trách nhiệm. Nếu thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, gây lãng phí, mất vốn thì phải bồi hoàn vật chất. - NHCSXH trả phí ủy thác cho các tổ chức hội nhận làm dịch vụ uỷ thác, theo mức độ hoàn thành các khâu trong 06 khâu được NHCSXH ủy thác. 3.3.6.3. Ngân hàng CSXH các cấp (1). NHCSXH tỉnh - Ngay từ đầu năm NHCSXH tỉnh đề ra kế hoạch kiểm tra; trong đó, chia theo quý. Đồng thời, có văn bản chỉ đạo NHCSXH cấp huyện lập kế hoạch kiểm tra. - Hàng tháng, phòng Kiểm tra kiểm toán nội bộ tham mưu cho Giám đốc NHCSXH tỉnh thành lập các đoàn kiểm tra. Về nội dung: Kiểm tra chỉ đạo điều hành của ban lãnh đạo NHCSXH cấp huyện, thực hiện kế hoạch tín dụng, kế toán; kiểm tra đối chiếu tại tổ và hộ vay vốn. Hàng tháng, quý căn cứ vào báo cáo tài chính của Ngân hàng cấp huyện gửi lên Ngân hàng tỉnh (bảng cân đối, báo cáo thu nhập chi phí, báo cáo kiểm tra...) Ngân hàng tỉnh kiểm tra giám sát từ xa về hoạt động của Ngân hàng huyện. - Định kỳ quý hoặc đột xuất, lãnh đạo NHCSXH tỉnh mời các thành viên Ban đại diện Hội đồng quản trị tỉnh đi kiểm tra theo kế hoạch đã phân công từ đầu năm. (2). NHCSXH cấp huyện - Thực hiện kiểm tra đối chiếu danh sách đề nghị vay vốn NHCSXH (mẩu số 03/TD) với danh sách thành viên tổ tiết kiệm và vay vốn (mẩu số 10/TD). Kiểm tra tính pháp lý của bộ hồ sơ xin vay theo quy định. - Định kỳ hoặc đột xuất, lãnh đạo NHCSXH mời các thành viên trong Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH cấp huyện thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn, của người vay và tổ chức hội cấp xã trong việc chấp hành chính sách tín dụng và hiệu quả sử dụng vốn vay của người vay. - Chủ động tổ chức giao ban định kỳ tại các điểm giao dịch tại xã, để trao đổi về kết quả uỷ thác, tồn tại, vướng mắc, bàn giải pháp và kiến nghị xử lý nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ bị rủi ro, nợ bị xâm tiêu (nếu có). Để hoạt động kiểm tra đạt hiệu quả cao NHCSXH tỉnh cần phải: - Tăng số lượng cán bộ làm công tác kiểm tra ở phòng Kiểm tra kiểm toán nội bộ Ngân hàng tỉnh và phòng giao dịch cấp huyện (NHCSXH tỉnh tối thiểu 06 người, NHCSXH huyện có 01 cán bộ chuyên trách). - NHCSXH tỉnh tăng cường kiểm tra, giám sát đối với phòng giao dịch cấp huyện, hoạt động của tổ chức hội cấp huyện, cấp xã và hoạt động tổ vay vốn. Hàng tháng, NHCSXH tỉnh đi kiểm tra thực tế tại một số hộ vay vốn (mỗi tháng kiểm tra 02 xã, 04 tổ, đối chiếu 50% số hộ của mỗi tổ). - Phòng giao dịch cấp huyện kiểm tra hoạt động của tổ vay vốn (mỗi tháng kiểm tra 10% số tổ trong huyện), đối chiếu 70% số hộ vay vốn của mỗi tổ. Kiểm tra việc ghi chép sổ sách của ban quan lý tổ, việc bình xét cho vay; kiểm tra việc sử dụng vốn, chấp hành trả lãi, gốc của hộ vay. - Thường xuyên tập huấn nghiệp vụ kiểm tra đối với cán bộ NHCSXH và cán bộ các tổ chức nhận uỷ thác, ban quản lý tổ vay vốn, ban XĐGN xã. 3.3.6.4. Người dân kiểm tra hoạt động ngân hàng Về hoạt động của NHCSXH tỉnh Nghệ An hiện nay có các nghiệp vụ: Tín dụng, kế toán ngân quỹ, kiểm tra, hành chính tổ chức. Trong luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến người dân kiểm tra về hoạt động tín dụng của NHCSXH. Người dân ở đây có cả những người đang vay vốn NHCSXH và những người không vay vốn. Để công tác kiểm tra, giám sát của người dân được tốt, NHCSXH tỉnh Nghệ An cần làm tốt một số việc như sau: - NHCSXH phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, thường xuyên cung cấp các thông tin về chính sách tín dụng, đặc biệt là những chính sách mới. Các thông tin được cung cấp từ các phương tiện thông tin đại chúng, tờ rơi, trong các hội nghị tập huấn. - Tại điểm giao dịch, NHCSXH cần công khai toàn bộ nội dung chính sách tín dụng, cụ thể: Biển điểm giao dịch rõ ràng, được đặt ở nơi dễ nhìn, giao dịch thuận lợi, cần có biển chỉ dẫn vào điểm giao dịch; thông báo chính sách tín dụng; nội quy giao dịch; hòm thư góp ý; danh sách dư nợ để cho mọi người dân biết thực hiện và kiểm tra. 3.3.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo - Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của bất cứ một hoạt động nào, trên mọi lĩnh vực. Trong hoạt động tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo thì yếu tố con người lại càng đóng vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng, hiệu quả tín dụng, uy tín và vị thế của NHCSXH. Vì vậy, để tín dụng hộ nghèo có hiệu quả cao, thì việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác của NHCSXH là công tác phải làm thường xuyên, liên tục. Tập huấn nghiệp vụ đối với cán bộ NHCSXH, cán bộ tổ chức nhận uỷ thác, ban quản lý tổ vay vốn. 3.3.7.1. Đào tạo cán bộ NHCSXH - Đối với cán bộ NHCSXH ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ giỏi phải có chuyên môn về SXKD, để giúp hộ nghèo sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, tư vấn cho khách hàng của mình nên vay vốn để làm gì? Số tiền vay bao nhiêu?... - Coi trọng công tác đào tạo cán bộ ngân hàng, làm cho tất cả cán bộ nhân viên ngân hàng đều tinh thông nghiệp vụ, nắm vững các chủ trương của Đảng và nhà nước về tín dụng chính sách. Hàng tuần, vào chiều thứ 5 cán bộ NHCSXH học nghiệp vụ, hàng quý tập huấn các nghiệp vụ như: Tín dụng, kế toán, kiểm tra, tin học. 3.3.7.2. Đào tạo ban quản lý tổ vay vốn Để ban quản lý tổ vay vốn hoạt động tốt NHCSXH cùng các tổ chức hội thường xuyên tập huấn cho ban quản lý tổ về nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, ghi chép sổ sách của tổ; thành thạo việc tính lãi của các thành viên, trích hoa hồng...; làm sao để thành viên ban quản lý tổ nắm vững nghiệp vụ tín dụng của NHCSXH như cán bộ ngân hàng. Đào tạo ban quản lý tổ vay vốn thành cán bộ NHCSXH “không chuyên” và thực sự là cánh tay vươn dài của NHCSXH. Từ đó, hướng dẫn hộ vay làm các thủ tục liên quan đến vay vốn, trả nợ, xử lý nợ quá hạn, xử lý nợ gặp rủi ro... Đồng thời, các thành viên ban quản lý tổ là cán bộ tuyên truyền về chính sách cho vay của NHCSXH. Ban quản lý tổ phải được thường xuyên dự các lớp tập huấn về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Các văn bản nghiệp vụ mới ban hành có liên quan đến cho vay, thu nợ của NHCSXH, tổ chức hội cùng NHCSXH huyện sao gửi kịp thời đến tất cả tổ trưởng tổ vay vốn. 3.3.7.3. Đào tạo cán bộ nhận ủy thác Trong thời gian qua, việc tập huấn nghiệp vụ cho vay của NHCSXH đối với đội ngũ cán bộ nhận làm dịch vụ uỷ thác cấp huyện, xã được thực hiện thường xuyên hàng năm. Tuy nhiên, trong số cán bộ được đào tạo với nhiều lý do khác nhau, có một số người hiện nay không làm nữa. Nên việc đào tạo cho cán bộ nhận ủy thác vẫn phải làm thường xuyên; đồng thời với việc mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, định kỳ hàng quý thông qua cuộc họp giao ban giữa NHCSXH với các tổ chức hội cấp tỉnh, huyện, xã; ngân hàng thông báo các chính sách tín dụng mới cho cán bộ hội biết. 3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.4.1. Đối với Chính phủ - Theo quy định hiện nay nước ta đang áp dụng chuẩn nghèo cho giai đoạn 5 năm (từ 2005- 2010), song dưới tác động của các yếu tố giá cả tăng, lạm phát thì chuẩn nghèo hiện nay là quá thấp. Do đó, đề nghị Chính phủ sớm điều chỉnh lại chuẩn nghèo mới, để nhiều người dân nghèo được thụ hưởng nhiều hơn chính sách ưu đãi của nhà nước. Trong dài hạn chuẩn nghèo nên điều chỉnh theo từng năm thay cho từng giai đoạn như hiện nay. - Về lãi suất cho vay: Không bao cấp về lãi suất, vì bao cấp không khuyến khích người vay nghĩ đến việc hoàn trả. Bao cấp của Chính phủ không phải là một hình thức trợ giúp đáng tin cậy. Nó chỉ thể hiện tính nhận đạo và không phải là một hình thức đầu tư tạo thu nhập. Nên nâng mức vốn vay, thời hạn cho vay, xử lý kịp thời các khoản nợ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan cho khách hàng vay vốn; - Chính phủ tiếp có văn bản chỉ đạo cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp, thực hiện nghiêm túc việc bình xét hộ nghèo từng năm; việc bình xét phải thực hiện công khai, dân chủ, đúng với thực tế. Tránh tình trạng như hiện nay, hầu hết các địa phương số hộ nghèo có tên trong danh sách ít hơn nhiều so với hộ nghèo thực tế. 3.4.2. Đối với NHCSXH Việt Nam - Nghệ An là một tỉnh lớn, dân số đông và mức thu nhập chỉ bằng khoảng 60% so với bình quân chung cả nước. Trong 5 năm qua, chi nhánh đã nhận được sự quan tâm rất lớn của NHCSXH Việt Nam về việc hỗ trợ nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu về nguồn vốn vẫn rất bức xúc, đề nghị NHCSXH Việt Nam tiếp tục quan tâm tạo điều kiện tăng thêm nguồn vốn, để NHCSXH tỉnh Nghệ An thực hiện tốt hơn nhiệm vụ cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. - Sớm có thông báo kết quả xử lý rủi ro về cho vay giải quyết việc làm , theo hồ sơ NHCSXH tỉnh Nghệ An đã trình NHCSXH Việt Nam những năm trước đây. - Sớm hướng dẫn thực hiện cho vay giải quyết việc làm theo Quyết định số 157/2008/QĐ-TTg, ngày 23/01/2008 của Thủ Tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều tại quyết định số 71 ngày 5/4/2005 của Thủ Tướng chính phủ về cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay của quỹ quốc gia về việc làm. 3.4.3. Đối với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp tại tỉnh Nghệ An - Đề nghị cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để NHCSXH hoạt động có hiệu quả. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg, ngày 16/3/2004 của Thủ Tướng Chính phủ về việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của NHCSXH. Đề nghị UBND tỉnh Nghệ An chỉ đạo sở Tài Chính, trích đủ nguồn vốn từ ngân sách địa phương hàng năm theo nghị quyết số 151/2006/NQ-HĐND, ngày 08/7/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh. Hàng năm, UBND các huyện tiếp tục trích ngân sách địa phương để làm nguồn vốn cho vay hộ nghèo, trang bị thêm máy móc, phương tiện làm việc cho NHCSXH Nghệ An. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động cho vay của NHCSXH, để đồng vốn của ngân hàng đầu tư đúng đối tượng, hộ vay sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Ngăn chặn, xử lý kịp thời tình trạng thu phí, lệ phí đối với hộ nghèo vay vốn của UBND, tổ chức chính trị xã hội cấp xã. - Thường xuyên mở các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật mới trong SXKD, để hộ nghèo tham gia học tập, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả SXKD cho hộ nghèo. 3.4.4. Đối với Ngân hàng CSXH tỉnh Nghệ An - Thường xuyên tham mưu cho Ban đại diện HĐQT tỉnh phân bổ nguồn vốn cho vay hộ nghèo, căn cứ vào nhu cầu đề nghị vay vốn của các hộ nghèo đủ điều kiện vay vốn nhưng chưa được vay tại các địa phương; ưu tiên đối với các hộ nghèo thuộc khu vực miền núi và miền núi cao. - Hàng năm tham mưu cho UBND Tỉnh trích một phần ngân sách Tỉnh để làm nguồn vốn cho vay. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo UBND cấp huyện, trích một phần vốn ngân sách từ nguồn tăng thu tiết kiệm chi để làm nguồn vốn cho vay hộ nghèo. Kết luận chương 3 Chương 3 đã tập trung nghiên cứu các vấn đề đó là: 1. Nêu lên định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2006- 2010, trên cơ sở đó NHCSXH Nghệ An đề ra định hướng hoạt động trong thời gian tới. 2. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại NHCSXH Nghệ An và những kiến nghị với các cấp để các giải pháp đề xuất có thể thực hiện được. KẾT LUẬN NHCSXH là tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động vì mục tiêu XĐGN, phát triển kinh tế xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận. Muốn XĐGN nhanh và bền vững thì một vấn đề quan trọng là nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH. Năm năm hoạt động, NHCSXH tỉnh Nghệ An đã luôn bám sát chủ trương, định hướng của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh về phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện chương trình, mục tiêu XĐGN. Vốn NHCSXH đã đầu tư tới trên 350.000 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách vay, với 7 chương trình tín dụng ưu đãi; trong đó, cho vay hộ nghèo chiếm 80% tổng dư nợ toàn chi nhánh. Góp phần quan trong vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu XĐGN trên địa bàn tỉnh Nghệ An; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 14,79% năm 2002 xuống còn 19,8% cuối năm 2007. Tuy nhiên, hiệu quả tín dụng hộ nghèo vẫn thấp so với mục tiêu đề ra; số hộ nghèo đủ điều kiện có nhu cầu vay chưa được vay vẫn còn lớn (tỷ lệ 39,7% so với tổng số hộ nghèo); hiệu quả tín dụng hộ nghèo còn hạn chế. Do đó, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả của tín dụng hộ nghèo mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng không chỉ cho NHCSXH Nghệ An mà của cả tỉnh Nghệ An. Luận văn “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An” sử dụng phương pháp nghiên cứu thích hợp đã hoàn thành những nội dung chủ yếu như sau: Thứ nhất: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo, sự cần thiết phải XĐGN, các chỉ tiêu tính toán hiệu quả tín dụng và rút ra sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo. Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH Nghệ An. Đồng thời, chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân trong cho vay hộ nghèo tại Nghệ An trong thời gian vừa qua. Thứ ba: Trên cơ sở mục tiêu hoạt động của NHCSXH tỉnh Nghệ An; luận văn đưa ra 7 nhóm giải pháp và một số kiến nghị với Chính phủ, NHCSXH Việt Nam, với cấp ủy Đảng chính quyền các cấp tại Nghệ An, NHCSXH tỉnh Nghệ An, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo; Mặc dù có nhiều cố gắng, song vì điều kiện thời gian và khả năng còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các nhà khoa học và những người quan tâm đến đề tài, để bản luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Phạm Ngọc Phong, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo về những lời nhận xét quý báu, đóng góp đối với bản luận văn. Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo Học viện Ngân hàng về những bài giảng lý thú, hữu ích cũng như các cán bộ khoa Sau đại học đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi đối với em trong quá trình học tập. Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp ở NHCSXH tỉnh Nghệ An, cũng như các bạn lớp cao học khoá 7 đã giúp đỡ, động viên trong quá trình viết luận văn. Cuối cùng, em xin cảm ơn sự khuyến khích, quan tâm tạo điều kiện của những người thân trong gia đình đã giúp em hoàn thành bản luận văn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Jonathan Morduch- Vai trò của cấp bù tín dụng vi mô: Thực trạng được đúc rút từ Ngân hàng Grameen- tín dụng vi mô ở các nước Phòng Hợp tác quốc tế - NHCSXH Việt Nam. 2. Rajesh Chakrrabarti: Kinh nghiệm của Ấn Độ về tài chính vi mô- thành tựu và thách thức tín dụng vi mô ở các nước- Phòng Hợp tác quốc tế - NHCSXH Việt Nam. 3. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004: Nghèo báo cáo phát triển Việt Nam (2004). 4. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội tháng 5/2002. 5. TS. Nguyễn Mạnh Hùng- Nhà xuất bản thống kê: Chiến lược - kế hoạch - đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010. 6. Học Viện Ngân hàng: Cẩm nang quản lý tín dụng Ngân hàng 1999 7. NHCSXH Nghệ An (2003-2005), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động. 8. NHCSXH Nghệ An (2003-2008), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động. 9. Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới tấn công đói nghèo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Trần Ngọc Quang (1997), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nghệ An. 11. Sở LĐ- TB&XH Nghệ An, Báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo năm 2007, số 2026/BC/LĐ-TBXH ngày 31/12/2007. 12. Thông tin Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam số 19 (2007). 13. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An, Nghệ An thế và lực mới trong thế kỷ XXI. 14. UBND tỉnh Nghệ An, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2007 và kế hoạch phát triển năm 2008 (Tài liệu báo cáo tại kỳ họp thứ 11- HĐND tỉnh khoá XV. 15.Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X. 16. Việt Nam chiến lược hỗ trợ quốc gia của nhóm Ngân hàng Thế giới giai đoạn 1999 – 2002. MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 4 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 4 ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 4 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO 4 1.1.1. Khái niệm về đói nghèo 4 1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo 6 1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo 9 1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội 9 1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo 15 1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo 17 1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại môi trường và cản trở nâng cao dân trí 17 1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 19 1.1.4.3. Xoá đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã hội phát triển bền vững 20 1.2. TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 21 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo 21 1.2.1.1. Khái niệm 21 1.2.1.2. Đặc điểm 21 1.2.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo 22 1.2.2. Hiệu quả tín dụng hộ nghèo 24 1.2.2.1. Khái niệm 24 1.2.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng hộ nghèo 25 (1). Hiệu quả kinh tế 26 a. Về phía hộ nghèo 26 b. Về phía ngân hàng 28 (2). Hiệu quả xã hội 30 a. Đối với hộ nghèo. 30 b. Đối với ngân hàng 31 1.2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo 31 (1). Điều kiện tự nhiên 31 (2). Điều kiện xã hội 31 (3). Điều kiện kinh tế 32 (4). Chính sách nhà nước 33 (5). Bản thân hộ nghèo 33 1.3. KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 34 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước 34 1.3.1.1. Kinh nghiệm cho vay XĐGN của Ngân hàng Grameen (Bangladesh) 34 1.3.1.2. Kinh nghiệm cho vay XĐGN của Ấn Độ 37 1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 38 Kết luận chương 1 39 CHƯƠNG 2 41 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN (2003 - 2007) 41 2.1. TÌNH HÌNH ĐÓI NGHÈO TẠI NGHỆ AN 41 2.1.1. Tổng quan về kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An 41 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên 41 2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 43 2.1.2. Thực trạng đói nghèo tại tỉnh Nghệ An 45 2.1.2.1. Số lượng, cơ cấu và phân bố hộ đói nghèo ở Nghệ An 45 2.1.2.2. Đặc điểm và nguyên nhân đói nghèo tại Nghệ An 47 a. Đặc điểm. 47 b. Nguyên nhân 48 2.2. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN 49 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển 49 2.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động 50 2.2.2.1. Về mô hình tổ chức 50 a. Bộ phận quản trị 50 b. Bộ phận điều hành tác nghiệp 51 2.2.2.2. Hoạt động của NHCSXH tỉnh Nghệ An 53 2.2.2.3. Cơ chế cho vay 58 2.3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NHCSXH TỈNH NGHỆ AN 59 2.3.1. Nguồn vốn 59 2.3.2. Hoạt động cho vay 61 2.4. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO 64 2.4.1. Những kết quả đạt được 64 2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân 64 2.4.2.1 Tồn tại 64 2.4.2.2. Nguyên nhân 66 Kết luận chương 2 66 CHƯƠNG 3 68 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN 68 3.1. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH XĐGN Ở NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 68 3.1.1. Mục tiêu tổng quát 68 3.1.2. Mục tiêu cụ thể 68 3.2. MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG CỦA NHCSXH TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2008 - 2010 69 3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI NHCSXH TỈNH NGHỆ AN 69 3.3.1. Hoàn thiện mạng lưới hoạt động 69 3.3.1.1. Điểm giao dịch tại xã 70 3.3.1.2. Tổ tiết kiệm và vay vốn 70 3.3.2. Đẩy mạnh tín dụng ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội 72 3.3.3. Gắn công tác cho vay vốn và dịch vụ sau đầu tư 73 3.3.3.1. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư 73 3.3.3.2. Thị trường 74 3.3.3.3. Kế hoạch hóa gia đình, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh 74 3.3.4. Thực hiện công khai hóa - xã hội hóa hoạt động NHCSXH 74 3.3.4.1. Chính sách tín dụng của NHCSXH 75 3.3.4.2. Hồ sơ thủ tục vay vốn 75 3.3.4.3. Hòm thư góp ý 76 3.3.4.4. Sự tham gia của chính quyền và các ban ngành vào hoạt động xóa đói giảm nghèo 76 3.3.5. Đẩy mạnh cho vay theo dự án, nâng suất đầu tư cho hộ nghèo lên mức đối đa 77 ` 3.3.5.1. Cho vay theo dự án vùng, tiểu vùng 77 3.3.5.2. Nâng suất cho vay hộ nghèo 77 3.3.5.3. Đa dạng hóa các ngành nghề đầu tư 78 3.3.6. Tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát 78 3.3.6.1. Ban đại diện HĐQT các cấp 79 (1). Ban đại diện HĐQT tỉnh 79 (2). Ban đại diện HĐQT cấp huyện 80 3.3.6.2. Các tổ chức nhận ủy thác các cấp 80 3.3.6.3. Ngân hàng CSXH các cấp 81 (1). NHCSXH tỉnh 81 (2). NHCSXH cấp huyện 82 3.3.6.4. Người dân kiểm tra hoạt động ngân hàng 83 3.3.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo 83 3.3.7.1. Đào tạo cán bộ NHCSXH 84 3.3.7.2. Đào tạo ban quản lý tổ vay vốn 84 3.3.7.3. Đào tạo cán bộ nhận ủy thác 84 3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 85 3.4.1. Đối với Chính phủ 85 3.4.2. Đối với NHCSXH Việt Nam 85 3.4.3. Đối với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp tại tỉnh Nghệ An 86 3.4.4. Đối với Ngân hàng CSXH tỉnh Nghệ An 87 KẾT LUẬN 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-5.doc
Tài liệu liên quan