MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vốn đầu tư là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế, do đó huy động, khai thác, sử dụng tối đa và có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển (đặc biệt là ở những nước đang phát triển) là một yếu tố cực kỳ quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước phụ thuộc trực tiếp và phần lớn vào
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một bộ phận không kém phần quan trọng.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là kênh hỗ trợ vốn cho các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực, các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn cần được khuyến khích đầu tư và các chương trình kinh tế lớn quan trọng của Nhà nước có tác dụng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sở Giao dịch I là đơn vị thuộc NHPT là một đơn vị có quy mô hoạt động lớn nhất trong hệ thống NHPT được giao nhiệm vụ thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Kể từ khi thành lập, ngày 1/1/2000 đến nay, SGDI (trước đây là Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội) đã quản lý và điều hành tốt hoạt động cho vay đầu tư phát triển, có những đóng góp nhất định trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư góp phần tiếp tục đổi mới, tăng trưởng kinh tế bền vững của đất nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT thực hiện tại Sở Giao dịch I bộc lộ một số hạn chế, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Xuất phát từ đòi hỏi khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống một số vấn đề lý luận về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển, phân tích kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT tại một số NHPT trên thế giới từ đó rút ra những kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I - Ngân hàng phát triển.
- Trên cơ sở đó và xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam, quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT của NHPT và định hướng hoạt động của Sở Giao dịch I để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hiệu quả tín dụng ĐTPT đối với khối KTTW tại Sở Giao dịch I.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về tình hình hoạt động cho vay đầu tư phát triển trong 3 năm từ năm 2005 đến hết năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận phục vụ cho việc nghiên cứu, các phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng để nghiên cứu.
Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn có sự tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và dựa vào kinh nghiệm của bản thân tiếp thu được qua thực tế công tác, từ các tài liệu, các công trình nghiên cứu và các vấn đề có liên quan đến đề tài.
5. Kết cấu nội dung của luận văn.
Tên luận văn: “Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I- Ngân hàng phát triển Việt Nam”.
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân hàng phát triển.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I - Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển đối với khối kinh tế trung ương tại Sở Giao dịch I - Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Kết luận
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1. Khái quát về Ngân hàng phát triển
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng phát triển
Nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo là sự ra đời của các tổ chức tài chính với nhiều hình thức khác nhau như NHTM, ngân hàng đầu tư, các tổ chức tài chính phi ngân hàng như quỹ đầu tư, công ty tài chính… Các trung gian tài chính này phần lớn hoạt động vì mục đích lợi nhuận tuy nhiên một số tổ chức hoạt động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế- xã hội. Các tổ chức này được gọi chung là các công ty tài chính phát triển và NHPT cũng là một tổ chức như vậy.
Vậy, ngân hàng phát triển là tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung và dài hạn cho các dự án phát triển.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản
1.1.2.1. Huy động vốn
Để tài trợ cho các dự án phát triển, NHPT phải huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất bình quân thấp. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng gia tăng, ổn định vĩ mô kém bền vững, khả năng tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư thấp… thì yêu cầu đối với nguồn vốn mà NHPT huy động phải là nguồn vốn hỗn hợp với lãi suất tương đối thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro.
NHPT huy động vốn bằng các hình thức sau:
Một là, huy động trên thị trường tiền gửi: NHPT huy động tiền gửi ngắn, trung và dài hạn trong đó trung và dài hạn là chủ yếu.
Hai là, Ngân hàng phát hành giấy nhận nợ trung và dài hạn: Trái phiếu ngân hàng dễ chuyển đổi, lãi suất hấp dẫn, có tính an toàn cao do được Chính phủ bảo lãnh nên thu hút được nhiều tổ chức kinh tế, dân cư trong và ngoài nước tham gia.
Ba là, huy động các quỹ của Nhà nước (tài trợ của Nhà nước cho dự án phát triển): Một phần trong nguồn vốn hoạt động của NHPT do Ngân sách Nhà nước cấp. Nguồn vốn này giúp cho NHPT có nguồn vốn hỗn hợp với chi phí bình quân thấp hơn các NHTM, tạo điều kiện để NHPT cho vay với lãi suất thấp hơn hoặc gia tăng khả năng chấp thuận rủi ro.
Bốn là, huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác: Hoạt động của NHPT vì mục tiêu KT-XH nên có thể phù hợp với mục tiêu hoạt động của các tổ chức, do đó NHPT có thể huy động nguồn tài trợ từ các tổ chức này cho cùng một dự án.
Năm là, vay nước ngoài (song phương, đa phương hoặc từ các tổ chức tài chính phát triển): NHPT có thể vay các NHTM nước ngoài, phát hành giấy nợ trên thị trường nước ngoài hoặc tìm kiếm các khoản vay ưu đãi đối với các dự án phát triển từ các tổ chức tài chính như WB, NHPT khu vực, NHPT của các nước, các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ.
Sáu là, tài trợ từ NHTW: Một số trường hợp, tài trợ của Chính phủ được thực hiện qua NHTW như mua lại các khoản nợ, bảo lãnh, cấp vốn…
Bảy là, huy động từ vốn và quỹ của ngân hàng: Vốn cấp từ Nhà nước hoặc từ các cơ quan phát triển, các tổ chức tài chính phát triển, vốn cổ phần. Các quỹ bao gồm quỹ tích luỹ, quỹ dự phòng tổn thất…
1.1.2.2. Sử dụng vốn của Ngân hàng phát triển
NHPT sử dụng vốn thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
Một là, tài trợ theo dự án (trung và dài hạn): đây là hoạt động quan trọng nhất của NHPT. NHPT có thể tài trợ theo dự án đã được chỉ định trước của chủ tài trợ hoặc theo dự án do ngân hàng khai thác và tìm kiếm hoặc theo dự án với nguồn vốn ưu đãi; tài trợ độc lập, hoặc đồng tài trợ, hoặc tài trợ qua ngân hàng đầu mối.
Hai là, tài trợ ngắn hạn: quy mô tài trợ ngắn hạn nhỏ, chủ yếu trong các dự án phát triển mà do ngân hàng tài trợ trung và dài hạn.
Ba là, đầu tư trực tiếp vào các ngành kinh tế: NHPT có thể tham gia đầu tư vào các dự án và các doanh nghiệp thông qua mua cổ phần. Hoạt động này NHPT đã trực tiếp chia sẻ rủi ro với các CĐT dự án.
Bốn là, cho thuê: NHPT có thể tài trợ cho các dự án thông qua cho thuê. Hình thức này phù hợp với các dự án có vốn tự có ít.
Năm là, trả lãi cho các khoản tiết kiệm và trái phiếu: Dựa trên kỳ hạn của nguồn tiền và dự đoán các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn của nguồn tiền, NHPT có thể ước lượng nhu cầu chi trả từ đó có thể dự đoán nhu cầu ngân quỹ này trong dài hạn.
1.1.2.3. Hoạt động khác
NHPT cung cấp dịch vụ bảo lãnh, uỷ thác, thanh toán… các hoạt động của NHPT ít đa dạng so với NHTM.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng phát triển
Hoạt động của NHPT là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc phát triển KT-XH của một đất nước. Vai trò của NHPT thể hiện như sau:
1.1.3.1. NHPT là một tổ chức phát triển kinh tế có nhiệm vụ tập trung các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư có trọng điểm và ưu đãi cho các dự án phát triển, được thể hiện thông qua:
- Mục tiêu mà ngân hàng theo đuổi như: khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển doanh nghiệp, thay đổi cơ cấu thu nhập và cơ cấu kinh tế…
- Các loại dự án ngân hàng tài trợ: NHPT tài trợ cho các dự án có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng, ngành hoặc liên quan đến phân phối thu nhập cho các tầng lớp dân cư nghèo, cải thiện môi trường …kết hợp mục tiêu tài chính và các mục tiêu xã hội khác.
- Các nghiệp vụ chính NHPT thực hiện: tìm kiếm các dự án theo định hướng của Chính phủ, phân tích thẩm định các dự án, tính toán các mục tiêu xã hội bên cạnh mục tiêu kinh tế nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển; tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính khác.
1.1.3.2. NHPT khuyến khích và duy trì hiệu quả kinh tế của các dự án:
NHPT về cơ bản là một tổ chức tín dụng, hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi và có lãi, vì vậy người vay phải hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian. Để đảm bảo an toàn vốn, NHPT chỉ cho vay đối với các dự án có hiệu quả kinh tế, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của dự án, có biện pháp phòng ngừa rủi ro… Nhờ đó NHPT thúc đẩy các nhà đầu tư sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hình thức tín dụng đặc biệt, ở đó tính kinh tế của hoạt động tín dụng không phải là kinh tế đơn thuần mà thường có những đặc tính sau:
- Tính kinh tế vĩ mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực then chốt hoặc một số ngành, một số vùng, hay một số khu vực có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
- Tính kinh tế vi mô: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích cho các nhà đầu tư đầu tư vào các lĩnh vực, ngành hàng, khu vực có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
- Tính xã hội: tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước như: việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh, trật tự - xã hội, chính trị ….
1.2.2. Sự cần thiết tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Cơ chế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu như sự phân hoá giàu nghèo, cạn kiệt nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường… cũng như tính chu kỳ của nó đã dẫn đến sự phát triển không cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng và khu vực từ đó làm nảy sinh khủng hoảng, độc quyền, lạm phát và thất nghiệp cho nền kinh tế. Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại và có hiệu quả phải là một nền kinh tế hỗn hợp giữa thị trường (bàn tay vô hình) và sự quản lý của Nhà nước (bàn tay hữu hình) tức là nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò quản lý điều tiết kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh các công cụ tài chính Nhà nước thường sử dụng để điều tiết nền kinh tế như thuế, phí, chi ngân sách… Nhà nước còn thành lập các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế hoặc các lĩnh vực có tính chất xã hội để thông qua đó thực hiện đầu tư các dự án theo mục tiêu của Nhà nước. Trước đây, Nhà nước thường cung cấp vốn cho các DNNN này dưới dạng cấp phát trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng có hoàn lại. Vì vậy, tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời như là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của Nhà nước trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước vẫn cần phải tăng cường để xây dựng các nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết cho nền kinh tế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm… Để thực hiện nhiệm vụ nặng nề này, nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách thì phạm vi cấp phát không hoàn lại của vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ĐTPT kinh tế phải thu hẹp lại thay thế vào đó là mở rộng tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với các hoạt động chi ĐTPT nhưng có khả năng thu hồi vốn. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong trường hợp này là một hình thức mang tính quá độ để các doanh nghiệp làm quen dần với cơ chế tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Đối với một số DNNN, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có thể là bước hỗ trợ chuyển tiếp để phát triển rồi sau đó có thể chuyển giao cho khu vực ngoài quốc doanh thông qua cổ phần hoá. Hơn nữa, Nhà nước sử dụng vốn tín dụng ĐTPT để khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực khó khăn, mang lại hiệu quả thấp nhưng có tác động tích cực đến sự phát triển chung của nền kinh tế.
Mặt khác, xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hoá trong khi các thể chế kinh tế- tài chính của các nước đang phát triển chưa có thời gian tiếp cận để khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Do đó Nhà nước luôn phải thực hiện chức năng trung gian hoặc nhà bảo lãnh cho các hoạt động tài chính đối ngoại như thực hiện việc cho vay lại hoặc bảo lãnh đối với các khoản tín dụng nước ngoài.
Vậy việc điều tiết kinh tế là một việc làm thiết yếu của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp và tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Nội dung tín dụng ĐTPT của Nhà nước
1.2.3.1. Các hình thức thực hiện:
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được thực hiện thông qua 2 hình thức:
- Cho vay đầu tư: Là việc Ngân hàng cho các nhà đầu tư vay vốn để thực hiện dự án đầu tư
- Bảo lãnh tín dụng đầu tư: là cam kết của ngân hàng với tổ chức cho vay vốn về việc sẽ trả nợ thay cho bên đi vay (nhà đầu tư) trong trường hợp bên đi vay không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ khi đến hạn, ngân hàng sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Bên đi vay phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
1.2.3.2. Đối tượng tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là chính sách ưu đãi của nhà nước nên chỉ áp dụng đối với một số đối tượng nhất định. Đối tượng tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường là các dự án đầu tư vào các ngành kinh tế trọng điểm, có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ví dụ như phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển công nghiệp và nông nghiệp nông thôn. Vì vậy, tuỳ vào đặc điểm phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ mà Nhà nước quy định danh mục các dự án, chương trình được hưởng tín dụng ĐTPT.
1.2.3.3. Mức vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Tuỳ thuộc vào mức độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư đối với từng ngành, từng vùng trong từng thời kỳ để xác định mức vốn tín dụng ĐTPT cho các dự án.
1.2.3.4. Thời hạn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Là khoảng thời gian kể từ khi vay vốn đến khi trả hết nợ gốc. Các dự án phát triển là những dự án có thời gian đầu tư dài, thu hồi vốn chậm nên thời hạn tín dụng thường dài.
1.2.3.5. Lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Nhằm ưu đãi cho các CĐT, Nhà nước thường quy định lãi suất tín dụng ĐTPT luôn thấp hơn lãi suất cho vay của các NHTM. Tuy nhiên, xu thế các nước trên thế giới hiện nay không lấy lãi suất làm công cụ ưu đãi, ngày càng thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất tín dụng ĐTPT và lãi suất tín dụng thương mại nhằm giảm cấp bù của Nhà nước cũng như giảm gánh nặng ngân sách. Thay thế ưu đãi lãi suất bằng ưu đãi về điều kiện vay vốn như thời hạn tín dụng, bảo đảm tiền vay.
1.2.3.6. Bảo đảm tiền vay
Là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Việc yêu cầu khách hàng thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của khách hàng; Phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của khách hàng không thực hiện được hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước; Phòng ngừa khách hàng có hành vi gian lận.
1.3. Hiệu quả tín dụng ĐTPT
1.3.1. Quan niệm hiệu quả tín dụng ĐTPT:
Tuỳ vào mục đích, lĩnh vực hoạt động, Hiệu quả có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước một khái niệm rất tổng hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả 3 đối tượng: nền kinh tế xã hội ; Ngân hàng phát triển và nhà đầu tư :
- Đối với nền kinh tế- xã hội : hoạt động tín dụng ĐTPT phải đúng quy hoạch, đúng theo chương trình và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ ; đem lại sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế, tiến bộ trong xã hội do tập trung đầu tư vào những lĩnh vực then chốt ; thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế; tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, môi trường được cải thiện, tiến tới công bằng xã hội, phát triển công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật…
- Đối với NHPT : hoạt động tín dụng ĐTPT thực hiện đúng đối tượng, đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn, tăng trưởng tín dụng tốt ; giảm cấp bù ngân sách đến mức thấp nhất.
- Đối với nhà đầu tư : hiệu quả tín dụng ĐTPT thể hiện thông qua thành công của các dự án mà nó tài trợ, từ đó góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thể hiện ở sự tăng lên doanh thu, giảm chi phí từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
Hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT được thể hiện thông qua hiệu quả của các dự án mà nó tài trợ. Do vậy, nếu dự án có hiệu quả thì hoạt động tín dụng ĐTPT có hiệu quả, nếu dự án có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả thì hoạt động tín dụng ĐTPT không có hiệu quả.
Có thể phân loại hiệu quả dự án thành 3 nhóm như sau :
- Nhóm 1 : Dự án có hiệu quả : là dự án mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp đúng như dự kiến ban đầu, từ đó doanh nghiệp mới có thể trả được đầy đủ nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng, ngân hàng đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn và hoạt động tín dụng tăng trưởng tốt. Đối với nền kinh tế xã hội, dự án có hiệu quả làm cho mục tiêu, chiến lược phát triển của Nhà nước được thực hiện đúng, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, phát triển công nghệ của đất nước do đó đem lại sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế.
- Nhóm 2 : Dự án có hiệu quả thấp : là dự án có phát huy hiệu quả nhưng không đạt được như mong đợi của nhà đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ vay của nhà đầu tư. Đôi khi để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.
- Nhóm 3 : Dự án không có hiệu quả : là dự án đầu tư dở dang không thể hoàn thành, hoặc dự án đầu tư hoàn thành nhưng không vận hành được, không tạo ra sản phẩm, lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp không có nguồn để trả nợ. Đây là những dự án không có khả năng thu hồi nợ.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ĐTPT
Tín dụng ĐTPT ra đời là một công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế phát triển một cách bền vững, cân bằng thông qua việc hỗ trợ cho các dự án phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau:
Dư nợ cho vay và Mức tăng dư nợ vay.
Dư nợ cho vay là số tiền mà Ngân hàng đã giải ngân cho vay sau khi trừ đi số nợ gốc đã trả tại một thời điểm nhất định.
Mức tăng dư nợ vay được thể hiện qua công thức:
Mức tăng dư nợ vay = (
Dư nợ cho vay kỳ này - 1
) * 100
Dư nợ cho vay kỳ trước
Dư nợ cho vay ở một thời điểm nhất định thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn Mức tăng dư nợ vay thể hiện mức độ mở rộng hoạt động tín dụng qua các thời kỳ. Dư nợ cho vay ngày càng tăng và Mức tăng dư nợ cho vay càng lớn cho thấy vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã tham gia ngày càng nhiều dự án phát triển.
- Tỷ lệ giải ngân vốn:
Tỷ lệ giải ngân vốn = (
Số vốn đã giải ngân
) * 100
Số vốn cho vay theo HĐTD
Tỷ lệ giải ngân vốn cho thấy số vốn thực tế cho vay chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng số vốn đã cam kết cho vay theo HĐTD. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy vốn tín dụng ĐTPT được giải ngân càng nhanh từ đó góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, đưa dự án hoàn thành đúng kế hoạch. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả tín dụng ĐTPT càng lớn và ngược lại.
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
* 100
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ quá hạn cho biết số nợ không được trả đúng hạn theo cam kết trong HĐTD chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong Tổng dư nợ cho vay. Nhằm đảm bảo nguyên tắc an toàn vốn, Chỉ tiêu này càng nhỏ cho thấy hoạt động tín dụng ĐTPT càng hiệu quả và ngược lại. Tuy nhiên, những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng ĐTPT là không thể tránh khỏi. Vì vậy, thông thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.
Chênh lệch lãi suất bình quân:
Chênh lệch lãi suất bình quân
=
Lãi suất đầu ra bình quân
-
Lãi suất đầu vào bình quân
=
Thu từ lãi
-
Tổng chi phí phải trả
Tổng tài sản sinh lời
Tổng nguồn vốn phải trả lãi
Ngân hàng phát triển phải huy động vốn với lãi suất thị trường trong khi đó thực hiện cho vay với lãi suất thường chỉ bằng 70% lãi suất thị trường nên hoạt động tín dụng ĐTPT phải được Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất. Do đó chỉ tiêu này có liên quan mật thiết với số cấp bù chênh lệch lãi suất của Ngân sách Nhà nước. Nếu Chênh lệch lãi suất bình quân ngày càng thấp thì càng giảm số cấp bù chênh lệch lãi suất do đó hoạt động tín dụng ĐTPT càng hiệu quả và ngược lại.
- Khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Điều này trước hết biểu hiện ở chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc an toàn cần thiết và theo những quy trình nhất định), cung cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời. Nhờ đó bên đi vay sẽ tiết kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ không bỏ lỡ những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt.
- Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa phương và cả nước. Nó được biểu hiện ở chỗ, hoạt động tín dụng ĐTPT sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chủ trương, định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho người dân.
Để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT cần phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống cả trên tầm vi mô cũng như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào định hướng, chủ trương đầu tư phát triển trong từng lĩnh vực, ngành hay chương trình, dự án cụ thể để có sự đánh giá mức độ ưu tiên cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác. Tuy nhiên, vì là hoạt động tín dụng chính sách nên việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước có khi chỉ đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà hiệu quả kinh tế đơn thuần chưa cao thì điều đó cuẽng có thể coi là hoàn thành nhiệm vụ (đây là đặc điểm khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại).
Hoạt động tín dụng ĐTPT là hoạt động mang nặng tính chính sách cho đầu tư phát triển, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Nhà nước phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, vì mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước là nhằm hỗ trợ cho các dự án phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế tỉ suất lợi nhuận mang lại thấp, nên hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của nhà nước là một khái niệm tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng, nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu liên quan đến nhiều đối tượng: tổ chức thực hiện, nhà đầu tư và nền kinh tế-xã hội của đất nước.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả TDĐT phát triển
1.3.3.1. Mục tiêu và phương thức hoạt động của ngân hàng
Hoạt động của NHPT là công cụ của Nhà nước để phát triển kinh tế bền vững với mục tiêu chính là phục vụ phát triển kinh tế. Vì vậy, NHPT phải tập trung mọi nguồn lực cho các dự án trọng điểm quốc gia, dự án của ngành hoặc vùng có khả năng chuyển dịch cơ cầu kinh tế nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc an toàn vốn và có lãi. NHPT phục vụ cho các mục tiêu ưu đãi làm cho tình hình tài chính của ngân hàng gặp khó khăn khi các nguồn ưu đãi giảm sút. NHPT chỉ cho vay các đối tượng ưu đãi tương đối hẹp nên thường gặp khó khăn trong đa dạng hoá nhằm hạn chế rủi ro.
1.3.3.2. Các dự án mà ngân hàng tài trợ
Vai trò của ngân hàng được đánh giá bởi thành công của các dự án phát triển mà ngân hàng tài trợ. Nếu dự án có hiệu quả, phù hợp giữa mục tiêu của quốc gia và mục tiêu của ngân hàng, khi dự án thành công, ngân hàng sẽ thu được gốc, lãi đúng hạn và mang lại hiệu quả KT-XH như mong đợi. Tuy nhiên, do các dự án phát triển luôn nhằm tới hai mục tiêu là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội nên rất khó đạt được tối đa hoá lợi nhuận khi CĐT đầu tư dự án. Bên cạnh đó, một số dự án NHPT tài trợ là do Chính phủ chỉ định cho vay đã làm giảm khả năng lựa chọn và quyết định của Ngân hàng.
1.3.3.3. Mô hình tổ chức bộ máy và năng lực của cán bộ thực hiện nghiệp vụ
NHPT là cơ quan quản lý và điều hành nguồn vốn tín dụng ĐTPT, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT. Việc xây dựng mô hình, tổ chức, bộ máy của NHPT phù hợp là nhân tố thúc đẩy tính hiệu quả tín dụng ĐTPT. Bên cạnh đó, hoạt động của NHPT có triển khai được thuận lợi và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào quy trình nghiệp vụ và năng lực của cán bộ thực hiện nghiệp vụ. Vì vậy việc quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối quan hệ giữa các bộ phận sẽ giúp cho việc tác nghiệp, phối hợp được nhịp nhàng thuận lợi. Quy trình quản lý tín dụng được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp phần nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động của NHPT.
Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo hiệu quả của khoản vay và dự án. Nếu năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung cấp thông tin của khách hàng cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng. Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các thông tin tín dụng. Nếu thiếu khả năng này, tổn thất trong hoạt động tín dụng sẽ không tránh khỏi. Do đó, hiệu quả TDĐT phát triển sẽ thấp.
Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế xẩy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi sát sao và chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi.
1.3.3.4. Cơ chế, chính sách của Nhà nước
Nhà nước hỗ trợ cho hoạt động TDĐT phát triển thông qua việc cung cấp các nguồn vốn ưu đãi, cấp bù lãi suất, bảo lãnh các khoản đi vay và cho vay… Sự hỗ trợ này cho phép NHPT thực hiện được các mục tiêu sinh lợi cùng với các mục tiêu KT -XH khác.
Cơ chế, chính sách của nhà nước về tín dụng ĐTPT nhân tố đặc biệt quan trọng, có tác động hiệu quả tín dụng ĐTPT. Trong trường hợp nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với tình hình KT -XH của đất nước và phù hợp với nguyện vọng của các doanh nghiệp thì sẽ có tác dụng mạnh mẽ và trực tiếp đến hiệu quả tín dụng ĐTPT. Trường hợp ngược lại sẽ kìm hãm hạn chế đến hiệu quả tín dụng ĐTPT.
1.4. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT ở một số nước và bài học đối với Việt Nam.
1.4.1. Hàn Quốc
Để đưa nền kinh tế phát triển, Hàn Quốc đã sử dụng nhiều công cụ nhằm huy động các nguồn lực để phát triển, trong đó có tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Từ những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh. Đầu tư của Nhà nước nói chung, của tín dụng ĐTPT của Nhà nước nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển cân bằng, phục vụ chiến lược phát triển trong thời kỳ này. Vào cuối giai đoạn “cất cánh”, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp. Đạt được sự phát triển nhanh chóng đó Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 2 chính sách quan trọng: một là chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, hai là chính sách tạo nguồn vốn hợp lý.
Để hỗ trợ cho các ngành cần được khuyến khích đầu tư Chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ các nguồn tài chính thông qua Quỹ đầu tư quốc gia. Các chính sách được áp dụng gồm cho vay có chọn lọc, ưu tiên lãi suất cho phát triển những ngành công nghiệp có mục tiêu quốc gia. Từ năm 1973, Hàn Quốc chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp nặng như công nghiệp sắt, thép, kim loại màu… và công nghiệp hoá chất như phân bón, chất dẻo…. bằng cách cho vay ưu đãi với lãi suất thấp.
Thực hiện chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, Chính phủ hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu bằng các biện pháp chủ yếu như: cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu một số sản phẩm quan trọng, cho vay với lãi suất ưu đãi để sản xuất hàng xuất khẩu, cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu nguyên liệu thô và thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu, cho vay để chuyển đổi nhà máy sang sản xuất hàng xuất khẩu,…..
Tuy nhiên, đến cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã xuất hiện những dấu hiệu phát triển mất cân đối buộc Chính phủ phải điều chỉnh chính sách phát triển. Trước hết, Chính phủ giảm hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay xuất khẩu, đồng thời Nhà nước chuyển sang khuyến khích phát triển doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được ưu tiên phân bổ cho khu vực này.
Tóm lại, sự tăng trưởng kinh tế nhanh của Hàn Quốc trong 4 thập kỷ liên tiếp phần lớn nhờ thực hiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu và công nghiệp hóa chất với sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ ._.từ ngân sách Nhà nước và tín dụng đầu tư Nhà nước.
1.4.2. Trung Quốc
Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống tín dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Một trong các nội dung của công cuộc cải cách cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản là xác định rõ phạm vi đầu tư từ ngân sách và phân biệt ranh giới danh mục các công trình dự án đầu tư công cộng và các công trình dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn.
Nhà nước Trung Quốc đã tách hoạt động của các NHTM ra khỏi các khoản cho vay chính sách bằng cách thành lập NHPT Nhà nước Trung Quốc (sau đó đổi tên thành NHPT Trung Quốc) vào tháng 3/1994 để cho vay và quản lý các dự án có quy mô vừa và lớn, tài trợ cho các ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng. NHPT Nông nghiệp Trung Quốc được tách khỏi Ngân hàng Nông nghiệp (7-1994) thực hiện vai trò ngân hàng chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp. Tháng 12-1998, Ngân hàng Đầu tư bị giải thể và sáp nhập vào NHPT Trung Quốc. Do đó hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước do 3 Ngân hàng thực hiện: Ngân hàng phát triển, Ngân hàng phát triển nông nghiệp và Ngân hàng xuất nhập khẩu. Ngân hàng phát triển nông nghiệp chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng phát triển chuyên về lĩnh vực xây dựng cơ bản và Ngân hàng xuất nhập khẩu chuyên về lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong ba ngân hàng này chỉ có Ngân hàng phát triển là ngân hàng chính sách thuần tuý, hai ngân hàng còn lại hoạt động có tính lưỡng chế, vừa kinh doanh đồng thời vừa tiếp nhận và quản lý nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho từng lĩnh vực.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được thực hiện dưới các hình thức như cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, bảo hiểm tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Nguồn vốn hoạt động của NHPT Trung Quốc chủ yếu từ phát hành trái phiếu trong nước thông qua bảo lãnh của Nhà nước. Trái phiếu dần được coi là sự đầu tư an toàn và ngày càng hấp dẫn đối với các NHTM. Vào cuối năm 1998, dư nợ trái phiếu dài hạn là 437 tỷ nhân dân tệ.
Hoạt động tín dụng ĐTPT ở Trung Quốc đã đạt được những thành công trong việc tài trợ cho các dự án lớn trong đó phần lớn là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, tạo cơ sở cho phát triển kinh tế.
1.4.3. Đài Loan
Từ năm 1959 đến năm 1972, Chính phủ Đài Loan thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp nhẹ có định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động thông qua việc cấp tín dụng đầu tư với lãi suất thấp và thực hiện chế độ ưu đãi đối với các công ty tham gia phát triển các ngành công nghiệp chiến lược bao gồm :
- Sự trợ giúp vốn của Nhà nước: các công ty đáp ứng được tiêu thức trên có thể đề nghị sự giúp đỡ từ phía Chính phủ khi tiêu thức xác định các công ty được phân hạng và Chính phủ có thể trợ giúp khoảng 50% số vốn của toàn bộ chương trình hỗ trợ;
- Cho vay với lãi suất thấp: năm 1982, Chính phủ đã lập quỹ với số tiền 250 triệu USD để đảm bảo các khoản cho vay với lãi suất thấp đối với các công ty trong ngành công nghiệp chiến lược. Các khoản vay với lãi suất thấp được các công ty dùng để mua máy móc, thiết bị là chủ yếu.
1.4.4. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở các nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu cho việc thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở Việt nam như sau:
Thứ nhất, các biện pháp hỗ trợ tài chính cho ĐTPT được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bên cạnh hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách còn có hình thức cấp tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp hỗ trợ tài chính, ngân hàng tham gia vào việc huy động vốn để cho vay theo các đối tượng được Nhà nước quy định hoặc Nhà nước hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng đầu tư và cho vay đầu tư quản lý thống nhất thông qua một đầu mối.
Thứ hai, để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, cần thành lập một tổ chức có đủ năng lực và thẩm quyền để điều hòa vốn và quản lý chung.
Thứ ba, hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần được áp dụng rộng rãi và luôn được điều chỉnh trong mỗi thời kỳ phù hợp với tình hình phát triển của đất nước.
Thứ tư, lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước thấp hơn lãi suất vay vốn trên thị trường tự do. Lãi suất vay vốn thấp là công cụ quan trọng của Nhà nước trong hỗ trợ vốn dài hạn để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt cần nhiều vốn trong thời kỳ đầu của giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cần dần dần thay thế công cụ lãi suất bằng các công cụ khác như điều kiện vay vốn.
Thứ năm, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế phục vụ chiến lược phát triển của Chính phủ.
Thứ sáu, đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước không nên quá rộng, làm cho các doanh nghiệp ỷ lại, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và tăng khoản nợ của Chính phủ.
Thứ bảy, bên cạnh hỗ trợ đầu tư thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước còn phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp hỗ trợ khác.
Thứ tám, để có đủ nguồn vốn cho vay ĐTPT cần đa dạng hóa các hình thức huy động. Bên cạnh việc đẩy mạnh huy động nguồn vốn dưới hình thức trái phiếu trên thị trường trong nước, chúng ta cũng nên khẩn trương tiến hành huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tế.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
ĐỐI VỚI KHỐI KINH TẾ TRUNG ƯƠNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I- NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hệ thống các chủ trương, định hướng, quy định chi phối hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam. Đến nay, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được điều chỉnh qua 03 nghị định của Thủ tướng Chính phủ. Trước hết là Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000, tiếp đó là Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 có hiệu lực từ ngày 27/4/2004; Kể từ ngày 16/1/2007, hoạt động tín dụng ĐTPT được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006.
Toàn bộ nội dung của Nghị định được giới thiệu tại Phụ lục của Luận văn, phần này chỉ tóm lược một số nét chung về hoạt động cho vay ĐTPT của chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước thực hiện thông qua Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 1/4/2004 và nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006.
2.1.1. Điều kiện cho vay :
- Các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của Nhà nước thuộc danh mục các dự án, chương trình do Chính phủ quyết định
- CĐT là tổ chức và cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tính hình tài chính bảo đảm khả năng thanh toán;
- CĐT có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trả được nợ;.
- CĐT phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án và các điều kiện tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư ngoài phần vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Trường hợp đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định giữa hai Chính phủ được thực hiện theo quy định ghi trong Hiệp định.
2.1.2. Mức vốn cho vay
Mức vốn cho vay đối với mỗi dự án do NHPT quyết định, tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động).
2.1.3. Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay không quá 12 năm. Một số dự án đặc thù (dự án Nhóm A, trồng cây thông, cây cao su) có thể thời hạn cho vay tối đa là 15 năm.
2.1.4. Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay đầu tư thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính từng thời kỳ và được giữ nguyên trong suốt thời hạn vay vốn của dự án.
2.1.5. Bảo đảm tiền vay:
CĐT được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay. Trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay, CĐT phải sử dụng tài sản hợp pháp khác để bảo đảm tiền vay với giá trị tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn vay.
2.2. Giới thiệu NHPT và Sở Giao dịch I.
2.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển NHPT
Tín dụng ĐTPT của nhà nước trước đây do Ngân hàng Kiến thiết (thuộc Bộ Tài chính) sau đó đổi tên là Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng nay là Ngân hàng đầu tư và phát triển. Năm 1995, thực hiện nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển chuyển sang hoạt động với vai trò là một NHTM, tiến hành kinh doanh tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Để thống nhất quản lý và tách bạch giữa hoạt động cho vay tín dụng chính sách và tín dụng thương mại của các Ngân hàng, ngày 10/12/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 187/CP về việc thành lập Tổng cục ĐTPT trực thuộc Bộ Tài chính.
Để thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý đầu tư của Nhà nước, hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 trên cơ sở tiếp nhận toàn bộ công việc, nhân sự và cơ sở vật chất của Tổng cục ĐTPT và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia bàn giao sang. Từ 1/1/2000, Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức đi vào hoạt động và thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là quản lý và điều hành nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là để phù hợp với lộ trình cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và yêu cầu đổi mới chính sách tín dụng ĐTPT, ngày 19/5/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 108/2006/QĐ-TTg thành lập NHPT Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
NHPT có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước, các NHTM trong nước và nước ngoài, được tham gia hệ thống thanh toán với các ngân hàng và cung cấp dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. NHPT kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ Quỹ hỗ trợ phát triển.
Hoạt động của NHPT không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Vốn điều lệ của NHPT là 10.000 tỷ đồng.
Cơ cấu tổ chức của NHPT gồm:
- Hội đồng quản lý
- Ban kiểm soát
- Bộ máy điều hành gồm: Hội sở chính đặt tại thủ đô Hà Nội, Sở Giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài.
2.2.2. Tổ chức và hoạt động Sở Giao dịch I
Sở Giao dịch I được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội. Là đơn vị thuộc NHPT có chức năng, nhiệm vụ huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Sở Giao dịch I là một tổ chức tài chính nhà nước, có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và các NHTM trên địa bàn.
Một số chức năng nhiệm vụ chính của Sở Giao dịch I:
- Huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn.
- Cho vay đầu tư, bao gồm: Cho vay đầu tư phát triển và cho vay các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ..
- Hỗ trợ sau đầu tư.
- Bảo lãnh tín dụng đầu tư.
- Cho vay xuất khẩu
- Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu.
- Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện Hợp đồng xuất khẩu.
- Nhận ủy thác cấp phát, ủy thác và nhận ủy thác cho vay
- Quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn viện trợ, vay nợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại các dự án đầu tư trên địa bàn Hà Nội, một số dự án liên tỉnh mà chủ đầu tư có trụ sở chính đặt tại Hà Nội.
- Tổ chức công tác thẩm định, phòng ngừa rủi ro, pháp chế, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin (thu thập, xử lý, lưu trữ, phân tích, báo cáo, bảo mật).
- Tổ chức công tác thi đua, khen thưởng, công tác hành chính , quản trị tài vụ, xây dựng cơ bản nội bộ tại đơn vị theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc NHPT giao.
Tổ chức bộ máy:
BAN LÃNH ĐẠO
Phòng tổ chức hành chính
Phòng tài chính kế toán
Phòng kiểm tra
Phòng quản lý vốn nước ngoài
Phòng Tín dụng xuất khẩu
Phòng Tín dụng
Phòng Thẩm định
Phòng kế hoạch nguồn vốn
Phòng Kế hoạch nguồn vốn
a. Ban Lãnh đạo:
Ban Lãnh đạo Sở Giao dịch I gồm Giám đốc và Các Phó Giám đốc. Giám đốc là người đứng đầu Sở Giao dịch I do Tổng Giám đốc NHPT quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật. Giám đốc là người được Tổng Giám đốc ủy quyền đại diện trước pháp luật và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về toàn bộ hoạt động của Sở Giao dịch I. Các Phó Giám đốc Sở Giao dịch I giúp Giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Sở Giao dịch I theo phân công của Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc, trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công.
b. Các phòng thuộc Sở Giao dịch I:
- Phòng Kế hoạch - Nguồn vốn: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc trong việc tổ chức thực hiện các công tác sau: (1) Công tác kế hoạch, báo cáo thống kê và tổng hợp, (2) Công tác huy động vốn (3) Công tác cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn (4) Công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo (5) Một số nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Giao dịch I giao
- Phòng Thẩm định: thực hiện chức năng tham mưu giúp Giám đốc trong việc tổ chức, thực hiện công tác thẩm định các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước; công tác phòng ngừa và xử lý rủi ro.
- Phòng Tín dụng: thực hiện chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Giao dịch I trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước, bao gồm: cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư; quản lý cấp phát, cho vay vốn nhận uỷ thác của những dự án (vốn đối ứng hoặc không phải là vốn đối ứng).
- Phòng Tín dụng xuất khẩu: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Giao dịch I trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu (bao gồm: cho vay xuất khẩu, bảo lãnh TDXK, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu) theo đúng quy định của Nhà nước và của NHPT.
- Phòng Quản lý vốn nước ngoài: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Giao dịch I trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ cho vay lại, uỷ thác, nhận uỷ thác cho vay lại đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ, vốn vay nợ nước ngoài do Chính phủ hoặc các Bộ do Chính phủ uỷ quyền bảo lãnh, các dự án do NHPT vay nước ngoài (do Chính phủ bảo lãnh) để cho vay lại; quản lý nguồn vốn ODA của Chính phủ Việt Nam ra nước ngoài và tổ chức cho vay, thu hồi nợ vay, lãi và phí của các nguồn vốn này. Cho vay, cấp phát uỷ thác nguồn vốn đối ứng để thực hiện các dự án ODA.
- Phòng Tài chính kế toán: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc trong tổ chức, quản lý và thực hiện công tác hạch toán kế toán các hoạt động nghiệp vụ Sở Giao dịch I, hoạt động thu - chi tài chính; tổ chức công tác thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước; tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý kho quỹ trong phạm vi Sở Giao dịch I; tổ chức thực hiện công tác tài vụ nội bộ Sở Giao dịch I.
- Phòng Hành chính - Quản lý nhân sự: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Giao dịch I quản lý và tổ chức thực hiện công tác hành chính, quản trị, văn thư, lễ tân phục vụ, công tác tổ chức, quản lý nhân sự, đào tạo và lao động tiền lương của Sở Giao dịch I.
- Phòng Kiểm tra: có chức năng tham mưu giúp Giám đốc tổ chức thực hiện công tác kiểm tra nội bộ và công tác pháp chế của Sở Giao dịch I .
2.3. Thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với khối KTTW tại Sở Giao dịch I
2.3.1. Giới thiệu khối KTTW
Để thuận lợi trong quản lý cũng như thao tác nghiệp vụ, căn cứ vào cơ quan thành lập doanh nghiệp, NHPT đã chia các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với NHPT thành 2 khối, đó là: Khối kinh tế trung ương và khối kinh tế địa phương.
Khối kinh tế trung ương bao gồm các đơn vị vay vốn thuộc các Tổng công ty được thành lập theo các Quyết định số 90/TTg và số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là các Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91) hoặc các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty 90 và 91. Hiện nay một số Tổng công ty đã chuyển thành Tập đoàn, Công ty mẹ con.
Các Tổng công ty là những đơn vị đóng vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực của nền kinh tế, nắm vững những ngành kinh tế then chốt.
Khối kinh tế địa phương bao gồm các doanh nghiệp do Uỷ ban nhân dân tỉnh thành lập.
2.3.2. Thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với khối kinh tế TW tại Sở Giao dịch I
Kể từ năm 2004, cơ chế Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, để hạn chế tình trạng bao cấp thông qua tín dụng ĐTPT, Chính phủ ban hành Nghị định số 106/NĐ-CP ngày 01/04/2004 về tín dụng ĐTPT của nhà nước thay thế Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999. Hạn chế nhiều danh mục đầu tư và thống nhất một mức lãi suất mới là 6,6%/năm, sau đó lãi suất được nâng lên 7,8%/năm để mức lãi suất vốn vay tiến sát với thị trường, hạn chế việc bao cấp thông qua lãi suất. Trong thời gian qua, với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ viên chức, thêm vào đó hệ thống các quy trình nghiệp vụ được ban hành đã được điều chỉnh theo hướng rõ ràng và hợp lý hơn, Sở Giao dịch I đã chủ động trong việc triển khai nhiệm vụ, kịp thời nghiên cứu tổng hợp trình NHPT giải quyết các vấn đề vướng mắc nên công tác cho vay ĐTPT đã được triển khai đạt kết quả khá tốt. Có thể thấy được tình hình cho vay, giải ngân cho số dự án vay vốn qua các năm ở Bảng sau:
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện cho vay các dự án tín dụng ĐTPT của Nhà nước thuộc khối KTTW
ĐVT: tỷ đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Số vốn cho vay theo HĐTD
5.379
6.591
7.681
2
Số dự án vay vốn
132
109
115
3
Số vốn giải ngân
4.446
4.828
5.319
4
Thu nợ gốc
1.404
1.627
1.838
5
Dư nợ tại thời điểm 31/12
3.042
3.201
3.481
Trong đó: Nợ quá hạn
68
232
203
6
Mức tăng dư nợ vay
5,23%
7,56%
8,73%
7
Tỷ lệ giải ngân
82,65%
73,25%
69,24%
8
Tỷ lệ nợ quá hạn
2,01
6,69
5,83 %
9
Chênh lệch lãi suất bình quân
- 1,02%
- 0.91%
- 0,82%
“Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay, thu nợ các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của NN các năm 2005, 2006, 2007”
Với đặc thù của nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, không giống như việc thẩm định cho vay tại các NHTM, các dự án xét duyệt để cho vay tại Sở Giao dịch I ngoài việc phải đảm bảo các yêu cầu về năng lực pháp luật, tình hình tài chính lành mạnh của CĐT, phương án trả nợ vốn vay phải đảm bảo tính khả thi; nguồn thu từ dự án bảo đảm trả nợ vay, có khả năng thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay mà còn phải đúng đối tượng quy định của Chính phủ. Do đó, số các dự án vay vốn thường ít hơn và phần lớn các dự án không được vay là do không đúng đối tượng. Nhìn vào biểu trên ta thấy, qua 3 năm (từ năm 2005- 2007) Sở Giao dịch I đã triển khai cho vay rất ít dự án. Năm 2006, Sở Giao dịch I chỉ triển khai cho vay 7 dự án thuộc khối KTTW với tổng số vốn chấp thuận cho vay là 1.324 tỷ đồng trong khi đó tiến hành thanh lý 30 dự án. Năm 2007 triển khai ký Hợp đồng tín dụng để cho vay được 4 dự án thuộc khối KTTW với tổng số vốn vay chấp thuận cho vay là 1.278 tỷ đồng. Tuy vậy, các dự án cho vay thường là các dự án lớn, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng cũng như củng cố chính trị xã hội như dự án Đóng mới toa xe lửa của Tổng công ty đường sắt Việt Nam (vay 125 tỷ đồng), Dự án Đóng mới tàu Containers (vay 136 tỷ đồng), Dự án Phòng vệ tinh viễn thông Vinasat (vay 771 tỷ đồng), Dự án Thuỷ điện Xekaman 3- Lào (vay 1.147 tỷ đồng).
- Về Mức tăng dư nợ vay: qua các năm đều tăng: năm 2006 tăng 159 tỷ đồng (tương đương 7,56%), năm 2007 tăng 280 tỷ đồng (tương đương 8,73%) và tốc độ dư nợ tăng cho thấy hoạt động tín dụng ĐTPT khả năng mở rộng tín dụng của Sở Giao dịch I. Mặc dù vậy, mức tăng dư nợ vay chưa cao.
- Vể tỷ lệ giải ngân: Mức tăng giải ngân cho các dự án cũng khá lớn, so với năm 2005, năm 2006 số vốn giải ngân tăng 382 tỷ đồng (gần 8,6%), năm 2007 số vốn giải ngân tăng 491 tỷ đồng (gần 10,1%) so với năm 2006. Tuy vậy, tỷ lệ giải ngân không cao và giảm qua các năm (năm 2005 là 82,65%; năm 2006 là 73,25%; năm 2007 là 69,24%). Điều này cho thấy công tác giải ngân chưa thực hiện tốt, điều này ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành dự án dẫn đến hiệu quả tín dụng ĐTPT chưa cao.
- Về nợ quá hạn: Với đặc điểm là cho vay chính sách, cho vay theo kế hoạch của Nhà nước đối tượng vay vốn của NHPT là các dự án thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực khó khăn được Nhà nước khuyến khích đầu tư (đây là điểm khác biệt lớn giữa đối tượng vay vốn của NHPT Việt Nam với các NHTM). Do đó hoạt động tín dụng của NHPT Việt Nam khả năng gặp rủi ro nhiều hơn so với hoạt động tín dụng của các NHTM khác.
Hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của nhà nước, xét tại Sở Giao dịch I cũng giống như ở các NHTM thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn. Như đã trình bày ở phần trên, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT tại Sở Giao dịch I chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. CĐT được vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn vay vốn dài, được hưởng thời gian ân hạn cũng như các điều kiện khác như được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp cho khoản vay. Thêm vào đó, công tác thẩm định năng lực tài chính và khả năng trả nợ của dự án đã được Sở Giao dịch I hết sức chú trọng. Do đó, phần lớn các dự án đều trả được lãi vay và nợ gốc đúng hạn. Đến 31/12/2007 dư nợ quá hạn chiếm 5.86% tổng dư nợ. Phần lớn nợ quá hạn tập trung chủ yếu vào các dự án có nguồn trả nợ từ ngân sách Nhà nước như Dự án nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn (nợ quá hạn: 39.842 triệu đồng); Dự án Thay ray nhỏ các cầu L>25M và thông tin tín hiệu (nợ quá hạn: 8.244 triệu đồng); Dự án Xây dựng đường nối QL32 (nợ quá hạn: 35.238 triệu đồng), một số dự án do những biến động của môi trường kinh tế xã hội khiến cho dự án thực hiện không đạt hiệu quả như dự án Đầu tư xây dựng nhà máy thức ăn chăn nuôi Ngọc Hồi, dự án Đầu tư dây chuyền sản xuất ván sàn tre, tăm đũa tre và giấy vàng mã… hoặc do CĐT gặp phải khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh như dự án Tăng cường máy móc thiết bị thi công, dự án Xưởng sản xuất bu lông, đai ốc chất lượng cao…
Có thể nói Sở Giao dịch I đã trở thành kênh cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo đúng mục tiêu nhiệm vụ về tổ chức hoạt động của NHPT. Đạt được kết quả này là do Lãnh đạo Sở Giao dịch I đã luôn chỉ đạo sát sao, các phòng tín dụng thực hiện công tác giải ngân được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định và có sự phối hợp thường xuyên giữa các phòng liên quan với CĐT. Cụ thể tình hình cho vay tại Sở Giao dịch I qua thực trạng sau:
- Kết quả cho vay:
Bảng 2.2: Kết quả cho vay các dự án ĐTPT qua các năm
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
A
Dự án có hiệu quả
1.
Số vốn vay đã ký HĐTD
Tỷ đồng
4.928
5.537
6.751
2.
Số dự án
116
79
95
3.
Số vốn đã giải ngân
Tỷ đồng
4.010
3.827
4.417
4.
Dư nợ vay tại thời điểm 31/12
Tỷ đồng
2.822
2.512
2.940
5.
Tỷ lệ nợ gốc quá hạn
%
0,0
0,0
0,0
B
Dự án có hiệu quả thấp
1.
Số vốn vay đã ký HĐTD
Tỷ đồng
436
1.039
923
2.
Số dự án
8
22
15
3.
Số vốn đã giải ngân
Tỷ đồng
422
987
896
4.
Dư nợ vay tại thời điểm 31/12
Tỷ đồng
209
678
536
5.
Quá hạn
Tỷ đổng
49
222
197
6.
Tỷ lệ nợ gốc quá hạn
%
23,4
32,7
36,8
C
Dự án không có hiệu quả
1.
Số vốn vay đã ký HĐTD
Tỷ đồng
15
15
7
2.
Số dự án
8
8
5
3.
Số vốn đã giải ngân
Tỷ đồng
14
14
6
4.
Dư nợ vay tại thời điểm 31/12
Tỷ đồng
11
11
5
5.
Quá hạn
Tỷ đổng
10
11
5
6.
Tỷ lệ nợ gốc quá hạn
%
90,9
100
100
“Nguồn: Sở giao dịch I”
Nhìn một cách tổng quát vào Bảng 2.1 ta thấy tình trạng nợ quá hạn ngày càng gia tăng: năm 2005 nợ quá hạn chiếm 2,01% dư nợ nhưng đến năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên đến 6,69% dư nợ nhưng đến năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn giảm còn 5,83% dư nợ, tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao cho thấy hoạt động tín dụng ĐTPT chưa thật sự hiệu quả.
Nhìn chi tiết vào Bảng 2.2 ta thấy:
Đối với nhóm dự án có hiệu quả thấp: Số dự án năm 2006 có tăng 14 dự án so với năm 2005 và năm 2007 giảm xuống 15 dự án. Đây là con số khá cao. Tuy giảm về số dự án nhưng tỷ lệ nợ quá hạn năm 2007 tăng so với năm 2006 số nợ thu được thấp hơn so với số nợ phải thu trong khi đó số nợ phải trả hàng năm gia tăng làm cho tỷ lệ nợ quá hạn tăng từ 32,7% lên 36,8% dư nợ của các dự án loại này.
Đối với nhóm dự án không có hiệu quả: bao gồm 1 dự án cho vay không đúng đối tượng, 1 dự án Chủ đầu tư trong quá trình thực hiện dự án vi phạm pháp luật, còn lại là do nguyên nhân khách quan như thiên tai, do Nhà nước thay đổi cơ chế, chính sách chế độ. Trong năm 2007, Sở Giao dịch I đã trình NHPT xoá nợ gốc của 2 dự án (xóa 5,8 tỷ đồng) và thu hồi được nợ của 1 dự án (dự án Trung tâm hội chợ triễn lãm do Công ty tiếp thị nông nghiệp và phát triển nông thôn làm CĐT, do Chủ đầu tư vi phạm pháp luật bị bắt mặc khác cho vay không đúng đối tượng nên dự án không hoàn thành dẫn đến không thể trả nợ, sau khi Tổng công ty vật tư nông nghiệp kế thừa toàn bộ nợ của dự án thì Sở Giao dịch I mới thu được nợ) nên số dự án không có hiệu quả đã giảm 3 dự án so với năm 2006. Đối với các dự án còn lại, Sở Giao dịch I đang trình NHPT để đưa ra hướng xử lý thích hợp.
Các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước có nguồn trả nợ vay được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có một số dự án có nguồn trả nợ từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước (đối với các dự án hạ tầng) nên có thể coi đây là nợ của Nhà nước đối với hệ thống NHPT. Vì vậy, việc nhìn nhận thực trạng về hiệu quả tính dụng ĐTPT cần có phân tích cụ thể thông qua phân tích nợ theo ngành kinh tế, cũng như phân loại nợ theo các thành phần kinh tế vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Cho vay theo chương trình kinh tế:
Cho vay đối với các chương trình kinh tế tại Sở Giao dịch I đã góp phần quan trọng đối với sự thành công của các chương trình. Ngoài các chương trình như Chương trình Dệt may, Chương trình cơ khí, Chương trình điện khí hoá, kể từ năm 2005 Sở Giao dịch I tiếp tục thực hiện thêm một số chương trình kinh tế lớn như chương trình giảm tải cho các bệnh viện; chương trình đóng mới 23 tàu biển trong nước và chương trình Hợp tác đầu tư giữa hai nước Việt- Lào góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, hiện đại hoá được dây chuyền công nghệ, tăng cường máy móc, thiết bị hiện đại, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở...
Bảng 2.3 Tình hình cho vay theo chương trình kinh tế đến 31/12/2007
ĐVT : tỷ đồng
Stt
Chương trình kinh tế
Số vốn cho vay theo HĐTD
Số vốn giải ngân
Dư nợ
Nợ quá hạn
1
Dệt may
382
360
198
0
2
Cơ khí
224
169
121
9
3
Đóng mới 32 tàu biển trong nước
341
320
217
0
4
Hợp tác đầu tư giữa hai nước Việt- Lào
1.171
333
333
0
5
Giảm tải cho các bệnh viện công lớn
198
40
40
0
+ Chương trình dệt may :
Chương trình này được triển khai cho vay từ năm 2001 theo quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Sở Giao dịch I đã tiến hành cho vay 18 dự án với số vốn chấp thuận cho vay 382 tỷ đồng. Đến nay các dự án này đều hoàn thành đưa vào sử dụng góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho các doanh nghiệp dệt may, ứng dụng máy móc hiện đại vào sản xuất, giải quyết việc làm cho 10.288 lao động, kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt trung bình 13,1 triệu USD, tăng thu cho ngân sách 9.731 tỷ đồng, tạo thêm 17 triệu m2 vải thành phẩm, 25 triệu sản phẩm may và đã tạo ra được mặt hàng mới là vải không dệt… giảm số vải phải nhập khẩu cho một số ngành, góp phần tăng trưởng kinh tế.
+ Chương trình cơ khí :
Phát triển ngành cơ khí Việt Nam cũng là một trọng tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Đến năm 2007, Sở Giao dịch I đã cho vay 5 dự án với số vốn chấp thuận cho vay 224 tỷ đồng, các dự án đến nay đã hoàn thành đầu tư đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chương trình này có quá nhiều văn bản hướng dẫn nhưng lại chưa có chiến lược phát triển ngành để biết được nhu cầu vốn đầu tư vào đâu thì chiến lược lại chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt nên khó khăn trong quá trình triển khai. Một vài dự án chưa được tính toán kỹ nên công suất không đạt được như tính toán ban đầu vì vậy mặc dù số vốn cam kết cho vay 224 tỷ đồng nhưng chỉ triển khai giải ngân thanh toán được 169 tỷ đồng (75,4% số vốn cho vay). Hầu hết các dự án đều kéo dài thời gian ân hạn. Sản phẩm của dự án chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường như dự án Chế tạo sản phẩm cơ khí xuất khẩu sau khi đầu tư xong chỉ hoạt động với 60% công suất, dự án Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất Công ty cơ khí Hà Nội hoạt động với 65% công suất, sản phẩm chủ yếu là tiêu thụ trong nước, không ký được các hợp đồng xuất khẩu do không có nguyên liệu để sản xuất, sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặc khác do lãi suất cho vay các dự án là 3%/ năm nên các Chủ đầu tư có tư tưởng chây ỳ nên để xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Có thể nói vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước chưa thật sự hiệu quả khi triển khai cho vay chương trình này.
+ Chương trình đóng mới 32 tàu biển trong nước:
Chương trình này thực hiện theo Quyết định số 1419/2001/QĐ-TTg ngày 01/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ, đây là chủ trương quan trọng về phát triển cơ khí nặng và mới nằm trong chương trình phát triển cơ khí trọng điểm, nhằm tăng nhanh năng lực đóng tàu trong nước và trang bị năng lực vận tải biển cho Tổng công ty hàng hải Việt Nam. Đến nay, toàn bộ 32 tàu biển đã được triển khai ký Hợp đồng tín dụng cho vay vốn để đóng mới, trong đó 03 tàu vay vốn tại Sở Giao dịch I (01 tàu trọng tải 6.500 tấn và 02 tàu trọng tải 12.500 tấn) với số vốn chấp thuật cho vay 341 tỷ đồng, giải ngân 320 tỷ đồng. 03 tàu này đều đã được đưa vào khai thác sử dụng từ đó đã giải quyết việc làm cho 500 lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách, thực thu ngoại tệ từ việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu, tiết kiệm chi ngoại tệ do tàu được đóng trong nước thay thế tàu được nhập khẩu từ nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu lưu thông hàng hoá trên thị trường quốc tế và khu vực, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành đóng tàu. Chương trình đóng mới tàu biển trong nước đã tạo nền móng cơ bản ban đầu cho phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ nước ta, tạo ra một năng lực cạnh tranh đáng kể của ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế, chiếm lĩnh được thị trường đóng tàu trong nước, từng bước tham gia thị trường xuất khẩu tàu biển.
._.chọn những cán bộ có phẩm chất, năng lực để đưa ra nước ngoài đào tạo
(4) Hiệu quả của giải pháp: Hiệu quả khi có được một nguồn nhân lực có chất lượng là vô cùng to lớn, giúp cho việc lụa chọn các dự án đầu tư có hiệu quả, chủ đầu tư có năng lực tài chính, tham mưu cho lãnh đạo Sở Giao dịch I xem xét quyết định cho vay được chính xác, hạn chế những rủi ro trong khi thực hiện nhiệm vụ cho vay đầu tư. Việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng trong việc duy trì và đảm bảo sự phát triển bền vững đối với Sở Giao dịch I, góp phần khắc phục các hạn chế trong những năm vừa qua tại Sở Giao dịch I.
3.2.3. Cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa, công khai quy chế, quy trình và thủ tục cho vay đầu tư; thực hiện cơ chế một cửa trong việc tiếp nhận hồ sơ vay vốn.
Thủ tục để vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được nhiều cơ quan, đơn vị đánh giá là phức tạp, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện dự án, làm giảm cơ hội đầu tư và làm cản trở các thành phần kinh tế không phải là thành phần kinh tế nhà nước tham gia vay vốn. Vì vậy, để khuyến khích các chủ đầu tư tham gia thực hiện các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư, cần rà soát lại các quy chế, quy trình cho vay đầu tư, loại bỏ một số thủ tục không cần thiết, hoàn thiện quy trình theo hướng đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện; liệt kê cụ thể tất cả các thủ tục vay vốn, trong đó cần nêu rõ thủ tục nào bắt buộc phải có và thủ tục nào chưa bắt buộc phải có và quy định cụ thể trình tự và thời gian thực hiện các bước của quy trình vay vốn.
- Về hồ sơ vay vốn, hiện nay các quy định của NHPT có một số quy định chung chung, không cụ thể, trong thực tế khi áp dụng thì các quy định trên dẫn đến việc thực hiện tại các đơn vị gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến cảm giác gây phiền hà đối với khách hàng. Ví dụ như theo quy định của quy chế cho vay đầu tư thì chủ đầu tư cần cung cấp:
+ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền về các nội dung liên quan đến dự án theo quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng; Trên thực tế thì những văn bản mà cơ quan cho vay quan tâm nhất là văn bản của cơ quan có thẩm quyền là những văn bản liên đến việc quy hoạch, đất đai, môi trường, cấp phép xây dựng và phê duyệt thiết kế cơ sở, phòng chống cháy nổ.
+ Các văn bản khác do chủ đầu tư gửi kèm liên quan đến việc đầu tư dự án. Trên thực tế là các quyết định, nghị quyết của hội đồng quản trị, đại hội cổ đông về chủ trương đầu tư dự án, về tiến độ góp vốn, về phân công trách nhiệm trong việc tổ chức trong việc thực hiện dự án của chủ đầu tư, trong đó văn bản về chủ trương đầu tư dự án là quan trọng nhất.
- Để phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, NHPT cần nghiên cứu và quy định cụ thể trong quy chế cho vay đầu tư các thủ tục vay vốn theo hướng công khai, quy định cụ thể các thủ tục vay vốn, tránh cảm giác phiền hà đối với các khách hàng vay vốn.
Nghiên cứu, xây dựng quy trình “một cửa” trong hoạt động cho vay, theo quy trình này thì khách hàng từ lúc nộp hồ sơ xin vay cho đến khi giải ngân chỉ cần liên hệ và thực hiện theo sự hướng dẫn của một bộ phận (một nhân viên) duy nhất trong ngân hàng, không phải liên hệ qua nhiều phòng, nhiều bộ phận. Hiện nay Sở Giao dịch I đang thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ vay vốn theo hai trường hợp: Các dự án đầu tư của các doanh nghiệp vay mới: do Phòng Thẩm định tiếp nhận hồ vay vốn, các dự án của các doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng do các Phòng thẩm định tiếp nhận, tuy nhiên đơn vị có quan hệ thuồng xuyên và liên tục đối với khách hàng vay vốn là các phòng tín dụng (từ giai đoạn thẩm định đến giải ngân và thu hồi nợ vay) do vậy nên điều chỉnh thống nhất và phòng tín dụng chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn khách hàng về thủ tục vốn, Phòng thẩm định tập trung chuyên sâu vào việc tổ chức thẩm định dự án và tổng hợp kết quả thẩm định trình duyệt kết quả thẩm định và quyết định cho vay.
3.2.4. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
CNTT đã và đang thâm nhập vào cuộc sống trong mọi lĩnh vực và là một trong những yếu tố tất yếu của sự phát triển. Đối với lĩnh vực ngân hàng, CNTT là một lĩnh vực quan trọng quyết định sự phát triển và hội nhập, đã trở thành công cụ quan trọng trong quản lý, kinh doanh góp phần bảo đảm an toàn và hiệu quả, thông qua việc tập trung hoá tài khoản khách hàng, kiểm soát tốt nguồn vốn, mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ hiện đại. Những thành quả đạt được trong đổi mới về công nghệ thông tin đã tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật thúc đẩy quá trình hội nhập của các ngân hàng Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung với khu vực và thế giới.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam đã và đang đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá ngang tầm khu vực: mọi giao dịch phát sinh tại tất cả các điểm giao dịch đều được cập nhật tức thời về trung tâm dữ liệu; tăng khả năng kiểm soát hoạt động toàn hệ thống; tại trung tâm có đầy đủ dữ liệu hoạt động của toàn hệ thống; quản trị điều hành hệ thống đảm bảo tính thống nhất, an toàn, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro; có điều kiện để áp dụng đầy đủ các sản phẩm ngân hàng hiện đại hiện có và cho phép thiết kế các sản phẩm mới. Do đó Sở giao dịch I cần xây dựng được một hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin với các phần mềm đủ mạnh, sử dụng thống nhất từ trung ương tới địa phương nhằm đáp ứng các yêu cầu xử lý nhanh, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, phục vụ tác nghiệp và chỉ đạo điều hành. Một hệ thống được tin học hoá tốt có nghĩa là đáp ứng được các yêu cầu về lưu trữ, xử lý và truy xuất thông tin kịp thời, đẩy đủ, và chính xác. Đồng thời, hệ thống được tin học hoá còn đòi hỏi có sự kết nối và thông tin với các hệ thống bên ngoài theo những nguyên tắc bảo mật đủ độ tin cậy. Có một hệ thống được tin học hoá cao sẽ là một điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng các mặt công tác khác, đặc biệt là thẩm định dự án và quản lý tín dụng.
3.2.5. Tăng cường công tác Marketing, chủ động tiếp cận các chủ đầu tư, xây dựng hình ảnh của Sở Giao dịch I trong việc thực hiện các dự án, chương trình mục tiêu trong điểm của Nhà nước theo hướng phát triển bền vững.
Hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO nên chính sách Tín dụng đầu tư của Nhà nước cần phải thay đổi để phù hợp với tình hình mới, không chỉ thay đổi về lãi suất, đối tượng cho vay để phù hợp với những quy định của Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng mà WTO đã đề ra mà cần phải thay đổi một cách đồng bộ trong việc điều hành quản lý, đặc biệt là cần phải từng bước triển khai xây dựng chiến lược Marketing của mình để giới thiệu về chính sách Tín dụng đầu tư của Nhà nước nhằm hạn chế rủi ro, bảo toàn được nguồn vốn cho vay.
- Mục đích hoạt động của Tín dụng ĐTPT của Nhà nước không vì lợi nhuận nhưng cũng không thể xem nhẹ công tác Marketing. Mặc dù những ưu thế của Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có nhiều ưu đãi hơn so với tín dụng thương mại nhưng để phát huy tối đa những lợi thế này, đồng thời nâng cao hiệu quả của cho vay đầu tư, thu hút ngày càng nhiều khách hàng có năng lực tài chính triển khai đầu tư các dự án theo chính sách của Nhà nước, hạn chế rủi ro tín dụng thì việc sớm triển khai các công tác Marketing là một đòi hỏi tất yếu.
+ Để giúp cho khách hàng hiểu biết hơn về chính sách Tín dụng đầu tư của Nhà nước, thì ngoài việc tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện đại chúng như TV, radio, báo chí... cần phải thực hiện thêm các các biện pháp sau:
+ Xây dựng website riêng của hệ thống để quảng cáo cũng như cung cấp thông tin về chính sách tín dụng, trả lời hỏi đáp, thông tin về các dự án cho vay đến khách hàng.
+ Tổ chức hội nghị khách hàng để giới thiệu về chính sách Tín dụng đầu tư của Nhà nước và lấy ý kiến đóng góp của khách hàng để hoàn thiện hơn trong việc phục vụ cũng như có những kiến nghị về hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước, hoàn thiện quy chế, quy trình.
+ Phạm vi đối tượng được hưởng chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước rất rộng nên trong quá trình thực hiện chính sách Marketing, Sở Giao dịch I cần hệ thống lại, chọn lọc những đối tượng sao cho phù hợp.
+ Trong quá trình thực hiện chính sách Marketing cần phải làm cho khách hàng nhận thức rõ các vấn đề sau: những lĩnh vực, ngành nghề thuộc đối tượng cho vay đầu tư; ý nghĩa và điểm khác biệt giữa Tín dụng ĐTPT của Nhà nước so với các tín dụng thương mại.
3.2.6. Mở rộng hình thức cho vay thí điểm
Hình thức cho vay ĐTPT của Nhà nước hiện tại còn bó hẹp và mức độ hỗ trợ cho các CĐT còn hạn chế. Nếu CĐT khó huy động được nguồn vốn khác để tham gia đầu tư dự án, hoặc thiếu vốn lưu động để tham gia sản xuất ban đầu sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án, giảm hiệu quả tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Trong khi đó, tính kế hoạch hoá về nguồn vốn chưa cao dẫn đến luôn có sự chênh lệch về thời điểm giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, phát sinh một lượng vốn tạm thời chưa sử dụng. Đối với số vốn tạm thời chưa sử dụng này, NHPT phải tự bù đắp chi phí trả lãi. Chính vì vậy, NHPT đã Quyết định thực hiện cho vay thí điểm với 4 hình thức: Cho vay bù đắp phần vốn tự có thiếu hụt tạm thời để đầu tư dự án; Cho vay bù đắp phần vốn huy động khác; Cho vay để ổn định sản xuất ban đầu đối với các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT; Cho vay các đơn vị thi công các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Việc thực hiện cho vay thí điểm một mặt nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi, tăng thu nhập để góp phần bù đắp chênh lệch lãi suất và chi phí quản lý, mặt khác góp phần nâng cao hiệu quả các dự án đang được Sở Giao dịch I cho vay ĐTPT từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Sở Giao dịch I. Để mở rộng triển khai cho vay thí điểm thành công và đạt kết quả tốt, Sở Giao dịch I cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Mỗi cán bộ, phòng nghiệp vụ rà soát trong số các CĐT đang quản lý nhằm tìm kiếm các đối tượng có thể cho vay thí điểm.
- Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi hình thức này do đây là một hình thức mới.
- Đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện vì cho vay thí điểm là nghiệp vụ hoàn toàn mới (chủ yếu là cho vay ngắn hạn, cho vay hạn mức, cho vay vốn lưu động).
2.3.7. Giải pháp đối với Chủ đầu tư vay vốn.
- Yêu cầu công khai, minh bạch về tình hình tài chính của khách hàng vay vốn:
Công khai và minh bạch là hai yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo việc vận hành thị trường thị trường có hiệu quả. Từ thực tế của Việt nam cho thấy, việc công khai và minh bạch tình hình tài chính và năng lực chủ đầu tư còn yếu và thiếu. Mặc dù các quy định về cho vay đầu tư cũng như hợp đồng tín dụng đều đã quy định về việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính nhưng trên thực tế thì các chủ đầu tư thường không kịp thời, thời gian lập báo cáo kiểm toán doanh nghiệp còn chậm đặc biệt là việc cung cấp thông tin sau khi dự án đã hoàn thành đưa vào hoạt động. Nhiều doanh nghiệp tư nhân mới thành lập, sổ sách và báo cáo tài chính còn chưa chuẩn tác theo quy định. Đây là hạn chế của các doanh nghiệp và cũng là cản trở lớn đối với việc cho vay của Sở giao dịch I. Trong những nắm tới các yêu cầu về cung cấp thông tín của các doanh nghiệp cần có yêu cầu quyết liệt hơn, đặc biệt là việc cung cấp các khoản công nợ, hàng tồn kho của doanh nghiệp để việc phân tích, quyết định cho vay được chính xác và hiệu quả.
- Yêu cầu về vốn tự có tham gia đầu tư dự án:
Vốn tự có của chủ đầu tư tham gia đầu tư dự án có ý nghĩa quan trọng và quyết định đến hiệu quả đầu tư dự án, nó là thước đo thể hiện trách nhiệm của chủ đầu tư khi quyết định đầu tư dự án. Tuy nhiên năng lực tài chính của các chủ đấu tư vay vốn tín dụng đầu tư còn hạn chế, theo quy định hiện hành thì chủ đầu tư phải đảm bảo tối thiểu 15% vốn tự có tham gia đầu tư dự án nhưng trên thực tế nhiều chủ đầu tư không đảm bảo mức vốn này. Hiện nay thị trường tài chính đã mở rộng, doanh nghiệp được tiếp cận nhiều hình thức huy động vốn, đặc biệt là việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Để nâng cao chất lượng cho vay đầu tư và khả năng thu hồi vốn, Sở Giao dịch I cần yêu cầu chủ đầu tư đảm bảo nguồn vốn tự có tham gia đầu tư đầu tư dự án (Theo yêu cầu của WB đối với ngành điện từ năm 1996 thì điều kiện để cho vay thì Tập đoàn điện lực Việt Nam cần có số vốn tự có tham gia đầu tư tối thiểu 30% số vốn đầu tư dự án). Sở giao dịch I có thể xem xét vận dụng các quy định này để yêu cầu chủ đầu tư về nguồn vốn tự có tham gia đầu tư dự án.
- Yêu cầu về kinh nghiệm và khả năng quản lý vận hành dự án: Hiện nay Luật Doanh nghiệp của Việt Nam đã có những quy định khá thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp, trong những năm vừa qua nhiều đơn vị nhà nước và tư nhân đã thành lập nhiều pháp nhân mới, lập dự án đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn vay. Tuy nhiên đây các pháp nhân mới chưa có kinh nghiệp trong việc đầu tư các dự án này, đây là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Để hạn chế rủi ro tổ chức cho vay cần xây dựng tiêu chí quy định về thời gian kinh nghiệm của chủ đầu tư cũng như bộ máy quản lý của doanh nghiệp, đưa ra yêu cầu sản phẩm sau đầu tư phải thuộc về lĩnh vực truyền thống của doanh nghiệp, kiên quyết không xem xét cho vay đối với doanh nghiệp hoặc những người đứng đầu doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức vận hành dự án.
3.2.8 Xây dựng cơ chế phối hợp với các tổ chức tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng chuyển vốn từ các tổ chức, cá nhân sở hữu vốn đến cho các tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu sử dụng vốn. Chức năng của các tổ chức tài chính trong nền kinh tế là chức năng tạo vốn, chức năng cung ứng vốn, chức năng kiểm soát. Các tổ chức tài chính có thể là các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính. Việc xây dựng được cơ chế phố hợp với các chức tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Sở giao dịch I.
Hiện nay các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước đều được thực hiện từ nhiều nguồn vốn, bao gồm: vốn vay (vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và vốn vay thương mại) vốn tự có và nguồn vốn khác (nếu có). Đồng thời hiệu quả đầu tư của các dự án chỉ có thể đảm bảo khi việc huy động các nguồn vốn đầu tư được đầy đủ và giải ngân kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án. Vì vậy khi xây dựng được cơ chế phối hợp với các tổ chức tài chính sẽ giúp cho Sở giao dịch I và các tổ chức tài chính đánh giá được tính khả thi của các nguồn vốn tham gia đầu tư dự án, có thể cùng phối hợp thẩm định đánh giá hiệu quả của dự án, thẩm định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, xây dựng kế hoạch phòng ngừa rủi ro chung và xây dựng cơ chế kiểm soát đối với dự án. Việc phối hợp và bổ sung về kiến thức, kinh nghiệp thẩm định và quản lý tín dụng giúp cho việc nâng cao năng lực của mỗi bên đông thời cũng giúp cho việc lựa chọn được các dự án có hiệu quả, hạn chế được rủi ro từ phía chủ đầu tư cũng như từ các dự án đầu tư.
Trong công tác thanh toán vốn cho các chủ đầu tư: Thanh toán vốn là chức năng cơ bản của các ngân hàng thương mại, việc tổ chức thông suất công tác thanh toán vốn trong quá trình giải ngân vốn tín dụng đầu tư và khi thu hồi nợ vay là nhiệm vụ rất quan trọng đối với bất kỳ tổ chức cho vay nào. Việc xây dựng cơ chế phối hợp với các ngân hàng thương mại giúp cho việc thanh toán vốn cho các đối tượng thụ hưởng khi thực hiện dự án được thuận lợi và cũng như khi thu hồi nợ vay của Sở giao dịch I.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Giao dịch I với các tổ chức tín dụng có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên để thuận lợi trong quá trình thực hiện thì tác giả đề xuất giải pháp thực hiện có thể là:
- Sở Giao dịch I quảng bá hình ảnh của mình đến các tổ chức tín dụng, giới thiệu về chức năng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của Sở.
- Việc xây dựng cơ chế phối hợp phải thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo hai bên cùng có lợi.
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam, bảo lãnh bảo đảm khả năng thanh toán cho Sở Giao dịch I khi huy động vốn của các tổ chức tài chính.
- Việc phối hợp có thể xây dựng thành biên bản khung, quy định các nội dung phối hợp, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên khi tham gia phối hợp và khi phát sinh sự việc cụ thể như huy động vốn thì sẽ thực hiện theo hợp đồng; khi tham gia cho vay đầu tư cùng một dự án sẽ xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể theo từng dự án, bao gồm:
+ Phối hợp thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay, thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay;
+ Phối hợp khi ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay; khi giải ngân cho dự án
+ Phối hợp khi thu hồi nợ vay, kiểm tra tài sản bảo đảm tiền vay, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay;
+ Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện các cam kết…
Việc tăng cường quan hệ và xây dựng cơ chế phối hợp với các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển của Sở Giao dịch I nói chung và trong việc phát triển cho vay đầu tư nói riêng, trong những năm tới nếu cơ chế phối hợp với các tổ chức tài chính tín dụng trên địa bàn chậm được xây dựng thì sẽ có những ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Sở Giao dịch I.
3.3 Kiến nghị
Với mô hình tổ chức là một thể chế tài chính Nhà nước. Do đó, Sở Giao dịch I chỉ có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay ĐTPT nếu được sự phối hợp và ủng hộ của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan. Mặt khác, CĐT có dự án vay vốn tại Sở Giao dịch I cũng đóng vai trò trực tiếp quyết định đến hiệu quả hoạt động của Sở Giao dịch I. Xuất phát từ đặc trưng đó, trên cơ sở nghiên cứu đề tài, em xin đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước và các đơn vị có liên quan.
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
- Quy định cụ thể và chặt chẽ trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc hoàn trả nợ vay
Theo quy định tại Nghị định số 151, việc hoàn trả nợ vay được quy định chung là chủ đầu tư chịu trách nhiệm hoàn trả nợ vay đầy đủ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký. Trong bối cảnh Việt Nam đang áp dụng kinh tế thị trường để thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì việc đưa ra một quy định chung chung và không có những quy định các chế tài cụ thể ràng buộc trách nhiệm chủ đầu tư (nhất là đối tượng chây ỳ, chiếm dụng vốn chấp nhận mức lãi suất phạt nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với lãi suất thị trường) thì quy định nêu trên chưa đủ để ràng buộc trách nhiệm của chủ đầu tư trả nợ vay. Nghị định cần sửa đổi và bổ sung thêm một số điều khoản mang tính pháp lý cao hơn để đảm bảo việc thu hồi vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thì cần bổ sung thêm một số quy định trong Nghị định với nội dung như sau:
+ Các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính nơi chủ đầu tư mở tài khoản giao dịch có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư để thu hồi nợ vốn vay Tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo yêu cầu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
+ Nguồn trả nợ vay của chủ đầu tư ngoài khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận của dự án thì bao gồm toàn bộ các nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp.
- Sửa đổi quy định về bảo đảm tiền vay, ràng buộc trách nhiệm của chủ đầu tư hạn chế rủi ro tín dụng.
Theo nguyên lý tín dụng thì các tổ chức cho vay đều không mong muốn việc thu hồi nợ vay từ việc bán tài sản bảo đảm. Việc đưa ra yêu cầu về tài sản bảo đảm là nhằm mục đích nâng cao tinh thần trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc sử dụng vốn vay. Tuy nhiên theo quy định của Nghị định số 151 thì yêu cầu về bảo đảm tiền vay là “chủ đầu tư được bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay, trong trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay không đủ điều kiện làm tài sản thì chủ đầu tư phải có tài sản khác để bảo đảm hoặc bảo lãnh tương đương 15% tổng số vốn vay” quy định này tương đối đơn giản và thuận lợi cho chủ đầu tư nhưng đẩy những bất lợi về phía tổ chức cho vay, trong trường hợp chủ đầu tư chây ỳ trong việc trả nợ thì việc thanh lý tài sản bảo đảm không thể thu hồi đủ số nợ vay. Vì vậy để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư và lựa chọn được các chủ đầu tư có năng lực tài chính thì cần sửa đổi lại điều khoản này theo hướng nâng cao tỷ lệ tài sản bảo đảm so với số vốn vay với các quy định cụ thể như sau:
+ Ngoài tài sản hình thành từ vốn vay được dùng làm tài sản bảo đảm thì chủ đầu tư cần bổ sung tài sản bảo đảm khác tương đương 30% giá trị vốn vay, trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay không hoặc chưa đủ điều kiện làm tài sản bảo đảm tiền vay thì phải sử dụng các tài sản khác làm tài sản bảo đảm với giá trị tối thiểu 50% giá trị vốn vay, sau khi tài sản hình thành từ vốn vay đủ điều kiện bảo đảm tiền vay thì việc trả lại các tài sản khác làm tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện theo thỏa thuận giữa khách hàng vay vốn với tổ chức cho vay.
+ Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là quá trình hết sức phức tạp vì người vay vốn là chủ sở hữu của tài sản do vậy muốn bán được tài sản cần có sự đồng ý của chủ sở hữu do vậy cần bổ sung thêm quy định “Trong trường hợp khách hàng vay vốn có nợ quá hạn kéo dài trên 6 tháng thì tổ chức cho vay có quyền đấu giá tài sản bảo đảm tiền vay mà không cần ý kiến chập thuận của khách hàng vay vốn”.
- Quy định đối tượng vay vốn được áp dụng ổn định trong một kỳ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước (5 năm).
Việc quy định đối tượng vay vốn với thời hạn ổn định giúp cho chủ đầu tư yên tâm về đối tượng vay vốn, có thời gian để làm tốt công tác khảo sát và chuẩn bị đầu tư, hạn chế tối đa tình trạng chạy đối tượng cũng như thời hạn vay vốn mỗi khi nhà nước điều chỉnh cơ chế chính sách. Đối tượng vay vốn phù hợp với một kỳ kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước thì việc góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước cao hơn. Ngoài ra đối tượng vay vốn có thể lồng ghép luôn khi ban hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm của đất nước. Điều này cũng thuận lợi cho việc đánh giá, tổng kết hiệu quả khi triển khai kỳ kế hoạch tiếp theo.
- Lãi suất vay vốn được điều chỉnh linh hoạt, hạn chế tính bao cấp qua tín dụng và hạn chế cấp bù ngân sách Nhà nước hàng năm.
Theo quy định hiện hành về Tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đối với một dự án, lãi suất vay vốn được xác định tại thời điểm vay vốn và giữ nguyên trong suốt thời hạn vay vốn. Tuy nhiên lãi suất vay vốn trên thị trường trong những năm vừa qua thường xuyên thay đổi (đặc biệt trong giai đoạn hiện nay) và có xu hướng tăng cao, việc lãi suất cho vay đầu tư của Nhà nước được giữ cố định đã tạo nên môi trường bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp vay vốn trong các thời kỳ, gia tăng mức cấp bù lãi suất từ NSNN hàng năm, không khuyến khích chủ đầu tư tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh, tiết giảm chi phí. Theo lãi suất vay vốn mà tác giả đề xuất thì lãi suất cho vay được tính theo lãi suất huy động trái phiếu Chính phủ 5 năm cùng thời kỳ, một năm xác định lãi suất 2 lần (tháng 1 và tháng 7) trên cơ sở lãi suất trái phiếu Chính phủ tổ chức cho vay huy động. Việc áp dụng hình thức lãi suất này sẽ hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn của tổ chức cho vay, đặc biệt là những mức lãi suất cho vay rất thấp (3%/năm, 4,2%/năm, 5,4%/năm, 6,6%/năm), các chủ đầu tư sẵn sàng chấp nhận mức lãi suất phát quán hạn (150% lãi suất trong hạn) vì mức lãi suất này vẫn thấp hơn rất nhiều so với lãi suất thị trường. Vì vậy cần áp dụng “lãi suất vay vốn tính trên số dư nợ và áp dụng theo cơ chế lãi suất hàng năm do Bộ Tài chính quy định dựa trên cơ sở lãi suất trái phiếu Chính phủ thời hạn 5 năm cộng thêm phí quản lý của tổ chức cho vay theo quy định của nhà nước.
- Trao thêm quyền chủ động cho NHPT trong việc xử lý nợ để đảm bảo trong sạch tình hình tài chính của hệ thống NHPT nói chung và Sở Giao dịch I nói riêng.
Xử lý nợ xấu làm trong sạch tình hình tài chính là khó khăn chung đối với các tổ chức tín dụng nói chung và hệ thống NHPT nói riêng, theo quy định hiện hành thì NHPT chỉ có thẩm quyền gia hạn nợ đối với các dự án đầu tư gặp khó khăn do yếu tố khách quan mang lại. Thẩm quyền trong việc khoanh nợ và xóa lãi thuộc Bộ Tài chính, thẩm quyền xóa nợ gốc thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở báo cáo của liên bộ. Cơ chế xử lý nợ hiện nay chỉ hướng dẫn đối với các dự án vay từ năm 1996 trở lại đây, các dự án trước đó chưa có cơ chế hướng dẫn đã dẫn đến một lượng nợ tồn đọng kéo dài qua nhiều năm đã gây nên tình trạng nợ xấu kéo dài đối với Sở Giao dịch I.
Hiện nay bộ máy chỉ đạo hoạt động Ngân hàng Phát triển là Hội đồng quản lý trong đó có đại diện là thứ trưởng các Bộ, ngành như Thứ trưởng Bộ Tài chính, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, giúp việc Hội đồng quản lý là Ban kiểm soát do vậy việc xử lý nợ vay nên trao quyền cho hội đồng quản lý Ngân hàng phát triển, theo đó có thể sửa đổi Nghị định 151 theo hướng:
Việc khoanh nợ và xóa lãi vay Tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Hội đồng quản lý quyết định trên cơ sở báo cáo đề xuất của Ban Kiểm soát NHPT và ý kiến đồng thuận của các thành viên hội đồng quản lý.
Việc xóa nợ gốc vốn vay Tín dụng đầu tư của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Hội đồng quản lý NHPT và ý kiến của các Bộ ngành có liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước).
- Các Bộ ngành và NHPT cần phối hợp hoạt động với nhau để sớm đưa ra văn bản thống nhất hướng dẫn thực hiện các nghị định của Chính phủ và các quyết định của thủ tướng Chính phủ.
Việc hướng dẫn thi hành các nghị quyết, nghị định của Chính phủ và thủ tướng Chính phủ của các Bộ, ngành thường chậm và đôi khi không thống nhất không những đã làm cho chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng chậm đi vào cuộc sống mà còn gây lúng túng cho Sở Giao dịch I trong việc thực hiện. Mặt khác, giữa các cơ quan này nên có một sự phối hợp nhất định trên cơ sở các quy định của Nhà nước để tránh việc các văn bản hướng dẫn không thống nhất hoặc khác về cơ bản so với văn bản quy định của Chính phủ gây khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ tại Sở Giao dịch I.
3.3.2 Kiến nghị về phía CĐT
a. CĐT phải có ý thức sử dụng vốn đúng mục đích, thực hiện tốt cam nghĩa vụ đã cam kết trong Hợp đồng tín dụng
Ý thức của CĐT đóng vai trò quyết định đối với kết quả hoạt động của Sở Giao dịch I. Vì vậy, khi đã được Sở Giao dịch I chấp thuận vay vốn tín dụng ĐTPT, CĐT phải có ý thức sử dụng vốn vay đúng mục đích, theo đúng kế hoạch đã đăng ký, tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động của đơn vị trên nguyên tắc đảm bảo khả năng sinh lợi của đồng vốn. Đồng thời cần có ý thức thực hiện các điều kiện về trả lãi và trả gốc theo đúng cam kết tại hợp đồng tín dụng, tránh tình trạng chiếm dụng vốn cũng như tâm lý ỷ lại vào Nhà nước gây ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Điều này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Sở Giao dịch I mà còn mang lại lợi ích cho chính CĐT. Dự án đầu tư có hiệu quả cao và quan hệ tín dụng tốt sẽ là cơ sở để CĐT dễ dàng được vay vốn cho các dự án tiếp theo.
b. Nâng cao năng lực thiết kế và thực hiện quản lý dự án
Trong quá trình sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hiện nay, việc thiếu kinh nghiệm của CĐT về thủ tục đầu tư, đấu thầu và giải phóng mặt bằng, ký kết các hợp đồng hay thiết kế xây dựng dự án, tính toán tổng vốn đầu tư đã gây chậm trễ trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay làm giảm hiệu quả hoạt động của Sở Giao dịch I rất nhiều. Để giải quyết vấn đề này, CĐT cần xây dựng một đội ngũ những cán bộ có kiến thức và am hiểu về các lĩnh vực trên hoặc thuê chuyên gia tư vấn để giải quyết tốt các vấn đề còn vướng mắc. Về phía Sở Giao dịch I, điều này góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân để hoàn thành kế hoạch được giao. Thực hiện được điều này sẽ giúp CĐT thực hiện dự án một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất.
c. Cần nhanh chóng hoàn tất mọi thủ tục để giải ngân vốn vay tránh tình trạng cố tình trì hoãn để không phải nhận nợ sớm.
CĐT chỉ đăng ký vay vốn và ký hợp đồng tín dụng khi thực sự có nhu cầu, tránh tình trạng vay “để dành” nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đồng thời nhanh chóng hoàn tất thủ tục hoặc bổ sung kịp thời những giấy tờ, khoản mục được yêu cầu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Đề xuất kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phối hợp tìm hiểu nguyên nhân và nhanh chóng tìm biện pháp tháo gỡ.
KẾT LUẬN
Với nỗ lực phấn đấu và được sự chỉ đạo sát sao, quan tâm giúp đỡ của NHPT, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, các ngành, NHPT nối chung trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Sở Giao dịch I đã khẳng định được là công cụ của Nhà nước trong việc điều hành kinh tế vĩ mô, thực hiện có chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước, góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo vốn mồi để huy động thêm nhiều nguồn vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển, đa dạng hoá các công cụ nợ trên thị trường vốn, từng bước lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT của nhà nước đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế làm hiệu quả của hoạt động tín dụng ĐTPT của nhà nước phát huy chưa cao, chưa đáp ứng được nhiều nhất cho yêu cầu đầu tư phát triển của các doanh nghiệp, của đất nước và xã hội. Với mong muốn nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT của Nhà nước, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của Sở Giao dịch I trong thời gian qua, đánh giá mà rút ra những mặt đạt được, những mặt hạn chế và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm đề xuất một số giải pháp phù hợp với thực tiễn của đất nước, xu hướng phát triển kinh tế. Các kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT của nhà nước qua NHPT trong nền kinh tế. Song do thời gian có hạn, khả năng và trình độ còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, thầy cô và các bạn quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Phan Thị Thu Hà đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-90.doc