Mục lục
Mở đầu.....................................................................................................................3
Chương I: Một số vấn đề lý luận về việc làm-giải quyết việc làm, sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm..............................................................................................................................6
1.1. Một số khái niệm về việc làm – giải quyết việc làm 6
1.1.1. Việc làm: 6
1.1.2.Thất nghiệp: 1
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
1.1.3.Tạo việc làm 12
1.2. Sự cần thiết và vai trò Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 14
1.2.1 Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. 14
1.2.2.Vai trò nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đối với vấn đề giải quyết việc làm 15
1.3.1. Các quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả 17
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 19
Chương II: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Việt Nam .........................................................................................21
2.1 Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hỗ trợ việc làm cho người lao động và việc thành lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 21
2.1.1 Chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư hỗ trợ việc làm cho người lao động 21
2.1.2. Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm 24
2.2. Thực trạng giải quyết việc làm thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 33
2.3. hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 35
2.2.1. Hiệu quả kinh tế: 35
2.3.2. Hiệu quả xã hội: 42
2.4. Thực trạng và Những vấn đề đặt ra trong quá trình sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 46
2.3.1. Về cơ chế cho vay 46
2.3.2. Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh tạo việc làm lớn song nguồn vốn của Quỹ còn hạn chế 51
2.3.3. Quy trình, thủ tục vay vốn còn phức tạp 52
2.3.4.Nguồn vốn ứ đọng còn lớn và có xu thế ngày ngày càng tăng 56
2.3.5. Cơ chế sử dụng tiền lãi còn chưa hợp lý: 59
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ...........................................................................................................64
3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội liên quan đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ 64
3.2.Quan điểm về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ 65
3.2.1. Tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận được nguồn vốn của Quỹ 65
3.2.2. Phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá và hiện đại hoá 66
3.2.3. Gắn hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội 67
3.2.4. Phải đặt quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm trong tổng các nguồn lực tài chính. 68
3.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. 69
3.3.1. Căn cứ xác định phương hướng 69
3.3.2. Phương hướng chung 72
3.3.3. Phương hướng cụ thể 73
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 77
3.4.1. Giải pháp chung 77
3.4.2. Giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ: 82
Kết luận ...............................................................................................................97
Danh Mục tài liệu tham khảo .................................................................100Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ Quỹ quốc gia
hỗ trợ việc làm ở Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong các chỉ tiêu kinh tế – xã hội quan trọng đã có được thành tựu rất ấn tượng sau hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam. Từ năm 2000 trở lại đây, bình quân mỗi năm nước ta giải quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động trong đó có khoảng 7% là việc làm ngoài nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như: dân số vào độ tuổi lao động hàng năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp thành thị cao, lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, do điều chỉnh quy hoạch một số ngành và vùng sản xuất,..., bình quân khoảng trên 20% lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn thiếu việc làm cho nên vấn đề giải quyết việc làm vẫn là một bức xúc lớn với toàn xã hội.
Tạo việc làm cho người lao động là thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng và Nhà nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một trong những giải pháp được đánh giá là hết sức quan trọng trong thời gian qua là việc thành lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm theo Nghị quyết 120/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Qua hơn 15 năm hoạt động (từ 1992 đến nay) ngân sách Nhà nước đã dành cho Quỹ khoảng 1.900 tỷ đồng, thực hiện cho vay 174.875 dự án, hỗ trợ tạo việc làm cho 3.675.297 người, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động.
Bên cạnh những kết quả to lớn không thể phủ nhận thì hiệu quả của việc sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm chưa cao, cũng như trước sức ép ngày một tăng của vấn đề giải quyết việc làm, cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngân sách nhà nước hiện nay, tác giả chọn nghiên cứu "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm các mục đích sau:
Hệ thống hoá những vấn đề có tính lý luận về: Việc làm, thất nghiệp và giải quyết việc làm, tính hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Phân tích và đánh giá thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn, những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý, sử dụng nguồn vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm hàng năm do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý, điều hành.
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng, luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp chuyên gia.
Các số liệu sử dụng trong luận văn được lấy từ các nguồn báo cáo thống kê chính thức của các cơ quan quản lý nhà nước, các cuộc điều tra, nghiên cứu đã được công bố và được xử lý với sự trợ giúp của một số phần mềm chuyên dụng hiện nay.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đã hệ thống hoá và làm sáng tỏ luận cứ khoa học về việc làm -tạo việc làm, nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả vốn nguồn vốn để tạo việc làm. Vì vậy, đã có đóng góp về lý luận nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm hiện nay ở Việt Nam.
Đã đánh giá đúng thực trạng quản lý và sử dụng vốn của Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm; đã tổng kết được những thành tựu và tìm ra được những tồn tại nhằm giải quyết. Vì vậy, đã có đóng góp về cơ sở thực tiễn cho nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Đã đưa ra các quan điểm phù hợp, đề xuất phương hướng và các giải pháp có căn cứ và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm nhằm tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong những năm tới.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về việc làm-giải quyết việc làm, sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm trong thời gian tới.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về việc làm - giải quyết việc làm,
sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ quốc gia
hỗ trợ việc làm
1.1. Một số khái niệm về việc làm – giải quyết việc làm
1.1.1. Việc làm:
Có thể khẳng định, việc làm là nhu cầu thiết yếu của con người. Trong cuộc sống, chúng ta thường hay nói đến việc làm, tuy nhiên để hiểu và có một sự thống nhất về khái niệm việc làm thì còn rất nhiều quan điểm khác nhau. Khi nghiên cứu về lĩnh vực lao động và việc làm, các nhà khoa học ở các nước đã đưa ra một số khái niệm về việc làm như sau:
- Việc làm là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
- Hai tác giả Liên xô là tiến sỹ Sô-nhin và PTS.G.Rin-xốp đưa ra khái niệm: "Việc làm là sự tham gia của con người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên". [11; Tr.7]
- Ghi-hân-tơn thuộc Viện Phát triển Hải ngoại Luân Đôn thì cho rằng: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì có quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả quan hệ xã hội và các hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế". [11;Tr.8]
- Theo Phó cố vấn kinh tế của Tổ chức lao động quốc tế, Giăng-mu-li thì: "Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật do có sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất". [11; Tr.8]
- Theo từ điển tiếng Việt thì: "Việc làm là hành động cụ thể, công việc được giao cho làm và được trả công."
- Theo Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam thì "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm." [3; Tr.118]
Theo những quan điểm trên, chúng ta thấy mỗi khái niệm về việc làm đều có một quan niệm khác nhau. Song tựu chung lại chúng đều bao gồm một số nội dung sau:
+ Là hoạt động có mục đích của con người;
+ Mục đích của hoạt động lao động là nhằm tạo ra nguồn thu nhập hoặc một mục đích nào đó;
+ Hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm. [4; Tr.4]
Tuy nhiên, sự thay đổi về quan niệm theo từng thời kỳ khác nhau, cũng dẫn đến nhận thức về việc làm khác nhau. Thực tế, nếu chúng ta căn cứ vào khái niệm để xác định việc làm, thì có nhiều hoạt động khó có thể xác định được. Nếu căn cứ vào tính hợp pháp của hoạt động thì tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi nước. Nếu căn cứ vào thu nhập đem lại cho người lao động thì có nhiều hoạt động có ích cho xã hội, gia đình,… nhưng lại không tạo ra thu nhập hoặc góp phần tạo ra thu nhập. Mặt khác, có trường hợp người lao động có sức lao động nhưng không có việc làm, cần phải giải quyết việc làm. Ngược lại, có trường hợp người lao động có sức lao động, có việc làm nhưng không làm việc vì những lý do khác nhau…
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chung về việc làm với nội dung: Là một phạm trù kinh tế của xã hội, biểu hiện sự kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo những mục đích nhất định của con người, tạo ra thu nhập hay của cải vật chất nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người, mà phù hợp với quy định của pháp luật, không bị pháp luật ngăn cấm.
* Người có việc làm:
Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, mang lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
Theo tài liệu "Phân tích kết quả điều tra tình trạng việc làm 2006" [28; Tr.25]: Người có việc làm là những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần lễ trước khi điều tra người đó:
+ Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật.
+ Đang làm công việc kinh doanh hay sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình không nhận tiền công, tiền lương hay lợi nhuận.
+ Đã có việc làm trước đó song trong thời gian điều tra tạm thời không có việc làm sau thời gian tạm nghỉ. Đó là những người:
. Tạm thời nghỉ việc có hưởng lương, hoặc không hưởng lương trong thời gian chưa đến 4 tuần tính cho đến thời điểm điều tra.
. Tạm thời nghỉ việc trên 4 tuần và được hưởng lương suốt thời gian nghỉ việc hoặc được hưởng một phần lương trong thời gian nghỉ việc và sẽ trở lại làm việc sau thời gian đó.
Theo tài liệu dùng để hướng dẫn điều tra tình trạng việc làm 2006 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục thống kê quy định về người có việc làm như sau:
+ Về giới hạn độ tuổi: chỉ tính cho những người từ 15 tuổi trở lên, không giới hạn tuổi tối đa.
+ Về giới hạn thời gian làm việc: Người có việc làm là những người đang làm việc để hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận hoặc đang tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho gia đình mình không nhận tiền công hay lợi nhuận. Người có số giờ làm việc trong tuần điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ, nếu dưới 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm thì coi là người đủ việc làm; người có việc nhưng không dưới 40 giờ, có nhu cầu làm thêm giờ nhưng không có việc để làm thì coi là người thiếu việc làm.
ở Việt Nam hiện nay, một người có việc làm bình thường trong một năm là 260 ngày công, và tiền lương tối thiểu 1 tháng là 540.000 đồng. Theo kết quả điều tra lao động việc gần đây, thu nhập bình quân của người lao động khu vực thành thị là khoảng 55.000đ/ 1 ngày công. Do đó, muốn đảm bảo đủ mức sống tối thiểu, thì một lao động thành thị ít nhất phải làm 10 công trong một tháng hoặc 120 công trong 1 năm, tương đương với khoảng 1/3 thời gian làm việc của người lao động bình thường. Điều đó cũng có nghĩa là ít nhất trong tuần lễ tham khảo họ phải làm việc được 2 ngày công (tương đương với 16 giờ). Từ đó có thể lấy mức chuẩn về thời gian làm việc trong tuần tham khảo của người được coi là có việc làm ít nhất là 16 giờ (2 ngày công).
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về người có việc làm là người có đủ 15 tuổi trở lên, đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, các lĩnh vực kinh tế với thời gian làm tối thiểu bằng 1/3 thời gian làm việc của người lao động bình thường (không ít hơn mức chuẩn quy định trong tuần lễ tham khảo là 16 giờ hoặc 2 ngày công).
* Người đủ việc làm:
Người có đủ việc làm là những người có việc làm và thời gian làm việc không ít hơn chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham khảo hoặc làm dưới giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm nhưng không có nhu cầu làm thêm. Căn cứ để xác định mức chuẩn về thời gian được coi là đủ việc làm cũng tương tự như xác định mức chuẩn về thời gian làm việc của người được coi là thiếu việc làm. Với khu vực thành thị ở Việt Nam hiện nay mức chuẩn cho người đủ việc làm là làm việc 40 giờ (5 ngày công) trở lên trong tuần lễ tham khảo hoặc 160 giờ (20 ngày công) trở lên trong 4 tuần lễ trước đó, hoặc làm ít hơn mức này nhưng không có nhu cầu làm thêm.
* Người thiếu việc làm:
Người thiếu việc làm là những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm, nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham khảo hoặc trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước đó có thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
1.1.2.Thất nghiệp:
Thất nghiệp theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: Thất nghiệp là không có việc làm để sinh sống.
Thất nghiệp đồng nghĩa với sự cùng quẫn của con người ngay trong lòng xã hội giàu có. Đây là nghịch lý lớn nhất của một xã hội hiện đại (Henry Wallace) [11; Tr.13]
Sự phát triển của thị trường lao động ở nhiều nước đã chỉ ra tình trạng thất nghiệp có ở nhiều dạng khác nhau. Với mục đích phân tích hợp lý và sâu sắc hơn thực trạng thất nghiệp để từ đó tìm ra hướng giải quyết giảm thất nghiệp, tăng việc làm, căn cứ vào nguồn gốc của thất nghiệp các nhà kinh tế chia thất nghiệp thành 4 loại:
- Thất nghiệp tạm thời: Mọi xã hội trong mọi thời kỳ đều tồn tại loại thất nghiệp này, chỉ có quy mô và thời gian thất nghiệp là khác nhau. Nó được nảy sinh khi người lao động luôn không hài lòng với công việc mình đang làm mà muốn tìm kiếm một công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn.
- Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi cơ cấu sản xuất có sự thay đổi, sự mất cân đối cung cầu giữa các loại lao động, khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động không theo kịp nhu cầu. Loại thất nghiệp này trở nên trầm trọng khi nó biến động mạnh và kéo dài.
- Thất nghiệp thiếu cầu (thất nghiệp kiểu Keynes): Do sự suy giảm của tổng cầu (AD) kéo theo mức cầu chung về lao động giảm xuống, tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh để phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần, khoảng cách giữa đường cầu lao động mới và đường cầu lao động cũ là thất nghiệp thiếu cầu. Nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại thất nghiệp này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành.
- Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển: Loại thất nghiệp này xảy ra khi có sự tác động của yếu tố ngoài thị trường (ví dụ: Luật về tiền lương tối thiểu), làm cho thị trường lao động không cân bằng. Khi tiền lương tối thiểu quy định cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động, khoảng cách từ đường cầu lao động tới đường cung lao động là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển.
Để hiểu rõ các loại thất nghiệp này ta có thể minh họa qua mô hình sau:
DL0
DL1
A
B
F
LF
C
D
E
SL
W1
W0
WF
L0
L*
L
Đồ thị 1.1. Phân tích thất nghiệp
Giả sử:SL: đường cung về lao động,
DL0: đường cầu lao động ban đầu,
DL1: đường cầu lao động suy giảm khi tổng cầu (AD) của nền kinh tế giảm,
LF: đường biểu diễn lực lượng lao động,
w = (W/P) tiền lương thực tế.
Giả sử thị trường lao động ban đầu cân bằng tại A, mức lao động được sử dụng là L0 và tiền lương cân bằng tại w0. Toàn bộ thất nghiệp trong mô hình là AB.
Do mức lương cứng nhắc, cùng với sự suy giảm của cầu lao động, toàn bộ thất nghiệp là đoạn CF. Trong đó EF là thất nghiệp tạm thời và thất nhiệp cơ cấu, DE là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển và CD là thất nghiệp thiếu cầu. [11; Tr.16-17]
* Người thất nghiệp:
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, có khả năng lao động, không có việc làm, đang có nhu cầu tìm việc làm hoặc đã đi tìm việc làm trong 4 tuần lễ qua nhưng không tìm được việc làm.
1.1.3.Tạo việc làm
Thực chất của việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là điều kiện cần để có được việc làm. Hay nói cách khác những điều kiện về sức lao động và tư liệu sản xuất mới tồn tại như là một khả năng để tạo việc làm, muốn biến khả năng này thành hiện thực phải cần có môi trường thuận lợi cho sự kết hợp của hai yếu tố này. Tuy sức lao động và tư liệu sản xuất kết hợp với nhau trong điều kiện nhất định mới tạo ra việc làm song việc làm đó có được duy trì hay không thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố quan trọng khác như khả năng quản lý, thị trường, v.v. Thực tế cho thấy khi không có thị trường hoặc trình độ quản lý yếu kém thì nhiều việc làm được tạo ra nhưng không duy trì được. Do vậy tạo việc làm là một quá trình trong đó việc tạo ra chỗ làm việc và thu hút lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình đó. Chính vì vậy, để có thể khái quát một cách đầy đủ về tạo việc làm cần phải hiểu tạo việc làm là một quá trình làm sao để kết hợp được hai yếu tố về sức lao động và tư liệu sản xuất, tức là phải tạo ra được những điều kiện cần thiết để hai yếu tố này phù hợp với nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển, ở đây bao hàm các hoạt động:
Thứ nhất là tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất: số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư và tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
Thứ hai là tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động: Số lượng của lao động phụ thuộc vào quy mô của dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển của lao động. Chất lượng của lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục đào tạo và sự phát triển về y tế, thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Thứ ba là hình thành môi trường cho sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách về khuyến khích và thu hút lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, trợ cấp thất nghiệp, thu hút và khuyến khích đầu tư, v.v.
Thứ tư là thực hiện các giải pháp nhằm duy trì việc làm ổn định và có hiệu quả cao: các giải pháp có thể kể tới trong nhóm này là các giải pháp về quản lý điều hành, về thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, các biện pháp khai thác có hiệu quả các nguồn lực, duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiệm quản lý của người sử dụng lao động, v.v.
Như vậy, hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động chính là hoạt động tác động vào một hoặc hơn một trong số các khâu trên. Các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là các chương trình dự án có mục tiêu tạo việc làm đều không nằm ngoài các hoạt động này.
Một số kết luận từ nghiên cứu mô hình tạo việc làm ở một số nước:
- Một là: Tạo việc làm phụ thuộc vào mức đầu tư của Nhà nước và tư nhân (trong và ngoài nước). Khi mức đầu tư tăng sẽ có nhiều cơ hội có việc làm. Các nước đang phát triển có mức đầu tư từ Nhà nước thấp, do vậy phải cực kỳ chú trọng khuyến khích đầu tư của tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài.
- Hai là: Các nước đang phát triển đầu tư chủ yếu vào khu vực thành thị vì lý do tỷ lệ lợi nhuận/đầu tư cao. Việc này dẫn đến cơ hội có việc làm nhiều hơn ở đô thị song chưa chắc đã dẫn đến giảm được tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị.
- Ba là: Có sự di cư dân số nên chính sách tạo việc làm phải chú ý đến cả hai khu vực đô thị và nông thôn, công nghiệp và nông nghiệp. Không chú ý đầu tư khu vực nông thôn có thể dẫn đến tăng tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị.
- Bốn là: Tạo việc làm liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng lao động. Khi các nhân tố khác không thay đổi, cầu lao động phụ thuộc vào giá cả sức lao động so với giá cả của công nghệ và vốn. Khi giá công nghệ cao, người chủ có xu hướng sử dụng nhiều lao động hơn.
- Năm là: Các nước đang phát triển tạo việc làm, giảm thất nghiệp phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế, các thể chế và chính sách của Nhà nước tác động tới cung, cầu lao động. [7; Tr.28-29]
1.2. Sự cần thiết và vai trò Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
1.2.1 Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn chuyển đổi, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trình độ dân trí thấp, dẫn tới năng lực và trình độ chuyên môn thấp. Nhận thức của người dân về việc sử dụng nguồn vốn hiệu quả chưa cao, chủ yếu là tích trữ chứ chưa chú trọng tới vấn đề đưa vào lưu thông, quay vòng vốn để có mức sinh lời cao và đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Theo như công bố của Tổng Cục Thống kê, nguồn vốn nhàn dỗi trong dân là rất lớn và chưa được sử dụng, phát huy đúng mức để giải quyết những vấn đề chung của đất nước và làm lợi cho chính người dân chủ sở hữu nguồn vốn. Từ trước đến nay, Nhà nước đã có nhiều chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư trong dân, nhưng vẫn chưa thực sự khuyến khích dân bỏ vốn tham gia hoạt động với Nhà nước. Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm không chỉ là một giải pháp cơ bản mang tính đột phá trong lĩnh vực giải quyết việc làm, mà còn là một chính sách xã hội lớn đã có tác dụng thiết thực khuyến khích phát huy tiềm năng vốn trong dân. Thực tế cho thấy Nhà nước đầu tư 1 phần, dân tự nguyện đóng góp 2 đến 3 phần đầu tư trong dự án. Để Quỹ hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, trong tương lai cần được huy động bổ sung thêm nguồn lực đủ mạnh để có thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế như một công cụ hữu hiệu giải quyết việc làm và trở thành động lực chính trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ này là hết sức quan trọng và cần thiết một mặt nó tạo nhiều cơ hội giải quyết việc làm cho đối tượng xã hội, mặt khác nó tạo ra lượng hàng hoá tham gia thị trường hàng hoá đa dạng của nền kinh tế, đặc biệt nó được coi là chính sách xã hội căn bản của chế độ XHCN gắn phát triển kinh tế với công bằng xã hội qua một công cụ kinh tế - xã hội.
1.2.2.Vai trò nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đối với vấn đề giải quyết việc làm
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm có những vai trò quan trọng cần phải kể tới là:
- Thứ nhất là, đánh giá được hiệu quả thực của các chương trình dự án được vay vốn hỗ trợ việc làm, trong đó khẳng định hiệu quả giải quyết việc làm như là một nội dung không thể thiếu. Đây vừa là nguyên nhân (vai trò nguồn lực) đồng thời vừa là kết quả (tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động) của Quỹ. Qua đó nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của Quỹ trong phát triển kinh tế xã hội.
- Thứ hai là, góp phần hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội gắn với vấn đề giải quyết việc làm: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm góp phần tác động đến các chính sách phát triển kinh tế xã hội và việc làm, sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô và chính sách ngành có liên quan hiểu rõ hơn tình trạng việc làm và mối liên hệ giữa việc làm với các yếu tố khác (ví dụ như tăng trưởng kinh tế, tình trạng môi trường, ... ) qua đó hoạch định chính sách về tăng trưởng gắn với vấn đề giải quyết việc làm, giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, v.v.
-Thứ ba là, định hướng các chi tiêu của Chính phủ trong vấn đề giải quyết việc làm: Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ có vai trò nâng cao các nguồn lực đầu vào dành cho các mục tiêu tạo việc làm, đối tượng hưởng thụ và kết quả đạt được của các chương trình, dự án được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ, qua đó bảo đảm nguồn lực được phân phối có lợi hơn và sử dụng có hiệu quả hơn cho mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ.
-Thứ tư là, định hướng sự can thiệp, trợ giúp của Chính phủ trong vấn đề giải quyết việc làm: Qua vai trò của Quỹ có thể giúp cho Chính phủ xác định được các ưu tiên để can thiệp (loại dự án nào? vùng nào? ..., can thiệp như thế nào: tài chính, giáo dục, đào tạo?, …) những vấn đề này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nguồn lực tài chính hạn hẹp.
Tóm lại, Lao động và việc làm là một trong các vấn đề có tính toàn cầu. Để giải quyết vấn đề việc làm cần phải thấy rõ vai trò của vấn đề việc làm đối với phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Để giải quyết vấn đề việc làm, cần phải có những điều kiện nhất định, trong đó vốn bằng tiền là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Bởi vì, ở những nước kinh tế kém phát triển nguồn lao động dồi dào, trong khi đó, vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất thường thiếu do năng suất lao động thấp, khả năng tích luỹ kém. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế và giải quyết việc làm lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã trở thành nhu cầu cấp thiết.
Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao, trình độ kinh tế kém phát triển là một trong những nguyên nhân làm cho những vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam có những mâu thuẫn và thử thách lớn. Đó là lý do chủ yếu của việc ra đời Nghị quyết 120/HĐBT nhằm xây dựng chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm cho lao động xã hội, làm tiền đề cho quá trình thành lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
1.3. Hiệu quả sử dụng vốn quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
1.3.1. Các quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả
- Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm là giải pháp mang tính kinh tế - xã hội, trong đó nhấn mạnh khía cạnh xã hội, tác động trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội của người lao động trong phạm vi rộng lớn của cả nước. Bộ máy tham gia quản lý điều hành Quỹ vừa mang tính hành chính vừa mang tính xã hội, tự nguyện, kết hợp giữa quản lý Nhà nước về mặt kinh tế-xã hội, quản lý nhân lực, nguồn lực trong từng phạm vi, đối tượng cụ thể, do đó cần phải có quan điểm đánh giá vừa mang tính khái quát vừa mang tính cụ thể.
- Tính khái quát thể hiện ở chỗ phải xem xét hiệu quả sử dụng vốn trong tổng thể hoạt động nền kinh tế, trong đó tác động trực tiếp tới một bộ phận yếu thế trong xã hội, có khả năng lao động nhưng lại không có cơ hội tìm kiếm việc làm, có một phần tư liệu sản xuất nhưng chưa đủ để cấu thành sản xuất. Hoạt động của nguồn vốn tạo việc làm là tạo ra cơ hội cho tất cả mọi người trong các điều kiện khác nhau có thể tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng của mình. Do vậy đánh giá hiệu quả nguồn vốn tạo việc làm là đánh giá đúng hoạt động của nguồn vốn trong tổng thể các mối quan hệ kinh tế-xã hội gắn bó chặt chẽ và khăng khít, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau trong nền kinh tế. Phải xem xét các yếu tố trong một thể thống nhất với các mặt kinh tế-xã hội rộng lớn.
- Tính cụ thể trong đánh giá hiệu quả nguồn vốn tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm là dựa vào kết quả hoạt động của các dự án tạo việc làm trực tiếp, kết quả sử dụng vốn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, ngành nghề đầu tư, mức vốn đầu tư và khả năng tích luỹ của người lao động sau chu kỳ vay vốn, khả năng tạo việc làm ổn định của vốn đầu tư. Đối với mỗi người vay khác nhau hiệu quả sử dụng vốn cũng khác nhau đó chính là tính đa dạng phong phú trong hiệu quả sử dụng vốn của các con người cụ thể.
- Phương pháp đánh giá cần dựa trên các yếu tố khách quan về mặt xã hội, trình độ năng lực sản xuất của nhân dân, trong đó có yếu tố chủ quan của bộ máy quản lý điều hành, cơ quan quản lý và trực tiếp tổ chức thực hiện. Cần so sánh giữa các chỉ tiêu tổng hợp với chỉ tiêu cụ thể trong quá trình đánh giá, tuy nhiên không thể nhìn nhận một cách đơn thuần về khía cạnh nào đó của nguồn vốn dẫn đến sự phiến diện trong phương pháp đánh giá. Trong các trường hợp cụ thể để thực hiện chỉ tiêu xã hội, có thể phải bỏ qua chỉ tiêu kinh tế, trường hợp khác cần gắn chặt chỉ tiêu xã hội với chỉ tiêu kinh tế coi đó như 2 mặt không thể tách rời của một vấn đề. Hiệu quả sử dụng vốn tạo việc làm có thể xem xét trên phương diện xã hội trong bối cảnh cần tạo nhiều chỗ làm việc mới, nhưng cũng không thể đặt ngoài các chỉ tiêu kinh tế trong bối cảnh không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả được xem xét từ mặt lượng là tạo ra nhiều chỗ làm việc mới ở giai đoạn đầu, sau đó chuyển sang xem xét ở mặt chất tức là tạo ra chỗ ._.làm việc phải có chất lượng cao và không ngừng nâng cao chất lượng việc làm ở giai đoạn sau.
- Đánh giá hiệu quả của Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm là đánh giá về mặt định lượng đối với các chỉ tiêu về vốn, về lao động, về thu nhập của người lao động, đánh giá về mặt định tính đối với các chỉ tiêu xã hội như tăng cường năng lực hợp tác của các thành phần kinh tế, khuyến khích nhân dân tham gia bỏ vốn đầu tư, khuyến khích các đơn vị cá nhân cùng tham gia giải quyết việc làm cho lao động, tạo ra một hiệu ứng kép giữa phát triển kinh tế gắn với giải quyết việc làm, tiến tới xã hội hoá về giải quyết việc làm, trong đó nguồn lực Nhà nước chỉ đóng vai trò điều hành và giám sát.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
Hiệu quả của Quỹ được đánh giá dựa vào 2 nhóm chỉ tiêu cơ bản sau:
* Nhóm chỉ tiêu kinh tế (chỉ tiêu định lượng):
- Chỉ tiêu doanh số cho vay vốn, chỉ tiêu này tác động trực tiếp tới chỉ tiêu thu hút lao động, tạo việc làm trong các dự án. Doanh số cho vay hàng năm được thực hiện trên cơ sở vốn thu hồi đến hạn và nguồn vốn bổ sung mới. Doanh số cho vay là tổng nguồn vốn được thực hiện trong 1 khoảng thời gian nhất định, doanh số cho vay trong quý, trong năm, trong giai đoạn 3 năm hoặc 5 năm. Đây là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả hoạt động của cả một quá trình từ tổ chức xây dựng dự án, thẩm định, xét duyệt, giải ngân. Doanh số cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ quan. Về mặt khách quan có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, môi trường sản xuất kinh doanh, thị trường vốn, thị trường sản phẩm. Về mặt chủ quan có vai trò của người vay vốn, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thẩm định, xét duyệt, quyết định và giải ngân nguồn vốn. Doanh số cho vay thể hiện kết quả đầu vào của các dự án, bao gồm sử dụng vốn đầu tư, mức đầu tư, kế hoạch đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Chỉ tiêu lao động được thu hút, tạo việc làm là chỉ tiêu quan trọng nhất của Quỹ. Đây là mục tiêu hoạt động chính của Quỹ việc làm, chỉ tiêu này vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Trong các dự án đều đề cập tới số lao động được thu hút tạo việc làm. Đây là chỉ tiêu bao gồm lao động được thu hút mới trong các dự án, lao động được tạo thêm việc làm trong dự án, chỉ tiêu này vừa thể hiện kết quả cho vay vốn, vừa là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay. Tổng số lao động tham gia dự án là số lao động được bảo đảm việc làm, duy trì và ổn định việc làm, trong đó có tính đến chỗ làm việc mới. Chỉ tiêu lao động trong các dự án chưa được phân biệt rõ do vậy gây không ít khó khăn cho việc đánh giá hiệu quả thu hút lao động, tạo việc làm. Thông thường các dự án cho vay hộ gia đình chủ yếu tạo thêm việc làm cho lao động trong hộ, nhờ đó tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp. Các dự án cho doanh nghiệp vay bắt buộc phải thu hút tạo việc làm mới, đối tượng thu hút là người thất nghiệp, chưa có việc làm, hoặc có nhu cầu thay đổi việc làm cho phù hợp với khả năng lao động và nhu cầu thu nhập. Tuy nhiên dù tạo thêm việc làm hay tạo việc làm mới đều có thể quy đổi ra số lượng lao động cần thiết để đầu tư cho phù hợp.
- Chỉ tiêu thu hồi vốn đối với các dự án đến hạn thu hồi; vốn đến hạn thu hồi là một trong những kết quả đầu ra của dự án thể hiện xong một chu kỳ thực hiện của dự án; nợ quá hạn và vốn rủi ro bất khả kháng.
- Chỉ tiêu phản ánh thu nhập, tăng doanh số, lợi nhuận của các dự án.
* Nhóm chỉ tiêu xã hội (chỉ tiêu định tính):
- Các chỉ tiêu phản ánh nhận thức của nhân dân trong lĩnh vực giải quyết việc làm.
- Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong lĩnh vực giải quyết việc làm.
- Các chỉ tiêu phản ánh tác động của giải quyết việc làm tới chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn.
- Các chỉ tiêu phản ánh tác động của giải quyết việc làm tới giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị, tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn.
Chương 2
Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn
của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Việt NAm
2.1 Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hỗ trợ việc làm cho người lao động và việc thành lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
2.1.1 Chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư hỗ trợ việc làm cho người lao động
Một là, đổi mới tư duy, nhận thức đúng đắn về giải quyết việc làm.
- Việc làm là một nhu cầu chính đáng của con người ở độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Bởi vì, có qua lao động con người mới có thể tồn tại và phát triển được. Giải quyết việc làm là một trong những nội dung của thực hiện công bằng xã hội trong chế độ xã hội ta, nó không chỉ là động lực phát triển kinh tế mà nó còn bao hàm chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, đặc biệt là đối tượng lao động yếu thế. Điều đó đã được pháp luật hoá. Tại Điều 13 Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” và “giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội” [3; Tr.48]
- Thất nghiệp là một vấn đề đối với mỗi quốc gia. Mức độ thất nghiệp cao có nghĩa là ở nơi đó đã không tận dụng hết tiềm năng và nguồn lực của xã hội ảnh hưởng đến năng suất lao động, thu nhập của người lao động kéo theo nó là hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh như trộm cắp, cờ bạc, mãi dâm, ma tuý v.v. gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của đất nước.
- Việc làm và thất nghiệp là hai vấn đề kinh tế xã hội phức tạp có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau, do đó để hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp không còn biện pháp nào hữu hiệu hơn bằng biện pháp Nhà nước tạo mọi điều kiện để khuyến khích tạo việc làm
- Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô, muốn có một nền kinh tế thị trường phát triển ổn định nhất thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế chung.
Hai là, coi giải quyết việc làm là động lực phát triển xã hội là công cụ quản lý hoạt động kinh tế đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện điều chỉnh nền kinh tế không phải lúc nào các mục tiêu cơ bản nói trên đều có thể tiến hành một cách đồng bộ và suôn sẻ được. Trái lại, có thể xảy ra xung đột trong quá trình thực hiện các mục tiêu đó như giữa tăng trưởng và ổn định, giữa tăng trưởng và lạm phát, giữa lạm phát và việc làm. Nguyên nhân gây ra các xung đột đó là do tính chu kỳ của hoạt động sản xuất kinh doanh từng thời kỳ có thể cho phép tiến hành thực hiện đồng bộ các mục tiêu ở mức độ nào, song dù thế nào chăng nữa thì giải quyết việc làm vẫn được coi là mục tiêu ưu tiên hàng đầu bởi vì:
- Giải quyết việc làm tạo điều kiện để người lao động thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình vì đặc trưng cơ bản của việc làm là đem lại thu nhập. Trong cuộc sống con người cần có thu nhập để phục vụ nhu cầu của mình để tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động. Có việc làm hay thu nhập là điều kiện cơ bản để con người tồn tại, từ đó có điều kiện thực hiện các công việc khác của mình và trên giác độ Nhà nước thì đó là quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Giải quyết việc làm cho người lao động là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, bởi nó khai thác và sử dụng một cách triệt để hơn tiềm năng nhân lực của đất nước, phát huy nội lực cho phát triển xã hội.
- Tạo việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng nhằm phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, bảo đảm cho sự phát triển nhân tố con người, nguồn gốc của sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Mức gia tăng về lao động làm căng thẳng thêm tình trạng thiếu việc làm trên phạm vi cả nước, dẫn tới lao động có hành vi tiêu cực gây nên các tệ nạn xã hội, tác động xấu tới nền kinh tế. Để giải quyết một hành vi tiêu cực chắc chắn sẽ tốn kém hơn nhiều so với ngăn chặn hành vi đó thông qua sự hỗ trợ tạo công ăn việc làm.
Ba là, để giải quyết tốt mục tiêu tạo việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo thực hiện theo hướng: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường để phát triển kinh tế lành mạnh. Tập trung phát triển khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ sử dụng nhiều lao động. Phát triển toàn diện kinh tế-xã hội nông thôn, nông nghiệp để thu hút nhiều lao động. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ xây dựng và kiểm soát chỉ tiêu sử dụng lao động, chỉ tiêu tạo việc làm mới đối với các đơn vị sử dụng lao động. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm. Khuyến khích tăng sản lượng tức là mở rộng nông công thương nghiệp, thu hút thêm nhân lực làm tăng thêm sản phẩm và dịch vụ cho xã hội.
Trong công cuộc cải cách ở Việt nam, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một trong những yêu cầu tất yếu khách quan để phát triển kinh tế đất nước. Một trong những nội dung quan trọng của đổi mới cơ chế quản lý đó là đổi mới về nhận thức và phương pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Nghị quyết 120/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 11/04/1992 đã thể hiện quan điểm, phương hướng và giải pháp mới về lĩnh vực lao động- việc làm. Coi giải quyết việc làm cho lao động xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình, bản thân người lao động cũng như toàn xã hội. [19; Tr.5]
Nghị quyết 120 đã tạo ra một bước đột phá trong các chính sách tạo việc làm. Nghị quyết khẳng định vai trò chủ đạo của các chính sách việc làm trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự ổn định chính trị-xã hội và phát triển đất nước.
Nghị quyết đã chỉ rõ các phương hướng cơ bản là gắn việc giải quyết việc làm với nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, gắn lao động với đất đai và tài nguyên của đất nước; kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ là chính với mở rộng để phát triển việc làm ngoài nước. Một trong các giải pháp chính để thực hiện Nghị quyết là lập Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng yếu thế tăng cơ hội giải quyết việc làm, thông qua việc cho vay các dự án có mục tiêu tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời hình thành và phát triển hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, tăng cơ hội tìm việc làm cho người lao động góp phần thúc đẩy quá trình hình thành và hoàn thiện thị trường lao động.
2.1.2. Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm
2.1.2.1 Giải pháp cho vay tạo việc làm và việc thành lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
Từ những chủ trương, phương hướng giải quyết việc làm đúng đắn, kết hợp với thực tiễn cuộc sống, Nhà nước đã thành lập Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, xây dựng một hệ thống chính sách, cơ chế quản lý nguồn vốn, nguyên tắc, thủ tục xét duyệt, thẩm định cho vay vốn theo dự án nhỏ giải quyết việc làm với những đặc thù xã hội- kinh tế riêng của Chương trình.
Trong những năm đầu thập kỷ 90, do tác động xấu của nền kinh tế đình trệ lạm phát, kém phát triển, khủng hoảng trầm trọng, lao động- việc làm ở nước ta đã trở thành vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội bức xúc. Nó ảnh hưởng tới từng người, từng gia đình ở thành phố cũng như ở nông thôn. Năm 1992 tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam vào khoảng trên 8,3% so với tổng số lao động; ở một số thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung tỷ lệ này còn cao hơn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của Việt nam những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 còn ở mức quá cao, dẫn đến tỷ lệ tăng lao động hàng năm giai đoạn 1990-2000 vẫn trên 2,5%; hàng năm có khoảng 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động; cộng với số lao động chưa có việc làm những năm trước chuyển sang thì trong giai đoạn này hằng năm có trên 1,5 triệu người có nhu cầu giải quyết việc làm. [17; Tr.12]
Chuyển từ cơ chế tập trung sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giải quyết việc làm cần được thực hiện theo cơ chế mới, năng động, thông thoáng, đa dạng theo phương châm: xã hội hoá việc làm. Nhà nước tạo điều kiện pháp lý, môi trường, nhân dân tự tạo việc làm là chính. Nhà nước có trách nhiệm tạo ra môi trường kinh tế-xã hội-pháp lý (cơ chế và chính sách) thuận lợi và hỗ trợ một phần kinh phí để khuyến khích nhân dân huy động tiền của và sức lực nhằm phát triển sản xuất, tạo nhiều chỗ làm việc mới.
Đặc biệt, trong quá trình chuyển bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề việc làm cho lao động xã hội vẫn đứng trước những mâu thuẫn và thử thách lớn. Mâu thuẫn giữa cung và cầu về việc làm còn gay gắt. Mỗi năm chúng ta mới giải quyết được từ 50-60% nhu cầu chỗ làm việc mới. Mâu thuẫn giữa nhu cầu về vốn phát triển sản xuất lớn với khả năng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước còn hạn hẹp. Mâu thuẫn giữa khả năng huy động vốn trong dân cho đầu tư sản xuất còn hạn chế so với số vốn nhàn rỗi trong dân còn lớn.
Người lao động gặp khó khăn trong việc vay vốn theo các kênh ngân hàng thương mại (ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng công thương,...). Mặt khác, nếu vay được vốn ngân hàng thì với trình độ sản xuất thấp, lợi nhuận thu được khó có thể vượt qua được lãi suất vay, cho nên họ không có điều kiện tích luỹ, duy trì phát triển sản xuất sau khi trả vốn.
Thực hiện Nghị quyết 120/HĐBT, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn hoạt động tín dụng nâng đỡ ở một số địa phương, đoàn thể quần chúng và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính, Kế hoạch (nay là Kế hoạch và Đầu tư) đã nghiên cứu xây dựng đề án lập Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho nhân dân vay với lãi suất thấp, phù hợp với trình độ sản xuất của nhân dân một bước tháo gỡ khó khăn về vốn, tăng cầu về việc làm trong nhân dân, nâng cao chất lượng lao động trong các tầng lớp nhân dân cũ, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác và tư bản tư nhân, và được Chính phủ phê duyệt cho thực hiện, các tổ chức đoàn thể, quần chúng được chọn là những kênh cho vay trực tiếp.
2.1.2.2. Nguồn hình thành Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm:
Quỹ được hình thành từ hai nguồn:
- Trích từ ngân sách Quốc gia. Hàng năm ngân sách nhà nước dành một khoản ngân sách do Quốc hội thông qua, bình quân mỗi năm đầu tư khoảng 130 tỷ bổ sung vào Quỹ này. Đến năm 2007 tổng nguồn quỹ trên 1.900 tỷ đồng. Từ năm 2000 các tỉnh trích Ngân sách địa phương lập Quỹ giải quyết việc làm địa phương để bổ sung nguồn cho Quỹ.
- Viện trợ của các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế cho Việt Nam về lĩnh vực lao động việc làm. Từ năm 1992, từ nguồn này đã có gần 200 tỷ đồng từ nguồn viện trợ nhân đạo của Chính phủ Tiệp Khắc cũ. Nguồn này, giai đoạn 1 cho vay chủ yếu đối với các đối tượng do nước viện trợ đề ra, giai đoạn 2 nguồn vốn được hoà vào Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm để quản lý và sử dụng thống nhất theo cơ chế chung.
2.1.3. Mục tiêu của chính sách cho vay hỗ trợ việc làm của Quỹ:
- Mục tiêu chung của chương trình cho vay giải quyết việc làm từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm là nhằm tạo mở việc làm mới và bảo đảm việc làm cho người lao động có khả năng lao động, có yêu cầu làm việc. Thực hiện các biện pháp để giúp người chưa có việc làm sẽ nhanh chóng có được việc làm, người thiếu việc làm hoặc việc làm hiệu quả thấp sẽ có được việc làm đầy đủ hơn và việc làm có hiệu quả cao hơn; tiến tới mục tiêu việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả và tự do lựa chọn việc làm. Từng bước giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Điều chỉnh, cân đối cung cầu lao động, ổn định việc làm, tiến tới bảo đảm đầy đủ việc làm cho người lao động, việc làm hợp lý với chất lượng đào tạo, năng suất lao động cao, phân bố lao động hợp lý. Quỹ thực hiện cho vay nhằm mục tiêu xúc tiến việc làm thông qua cung cấp các khoản vay lãi suất thấp để người lao động tự tạo việc làm mới và hỗ trợ các cơ sở sản xuất tạo việc làm. Đối với khu vực nông thôn, chương trình 120 hướng vào việc cho vay phát triển nông-lâm-ngư nghiệp; Khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền, hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Điểm khác biệt lớn nhất của chương trình Quốc gia hỗ trợ việc làm so với hầu hết các chương trình dự án khác là gắn với giải quyết việc làm. Hay nói cách khác là các dự án được lập, được phê duyệt và giải ngân khi và chỉ khi có mục tiêu trực tiếp là giải quyết được một số việc làm nhất định. Nghĩa là tạo thêm được việc làm mới hay ổn định, tạo thêm việc làm cho những người thiếu việc làm. Vì vậy mục tiêu số chỗ làm việc luôn được khẳng định và là tiêu chí được giám sát trong mỗi dự án vay vốn.
- Mục tiêu cụ thể: Giải quyết việc làm cho khoảng 25-30 % trong tổng số lao động được giải quyết việc làm, trong đó cần tạo mở khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tạo việc làm hàng năm cho 35-45 vạn lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp mỗi năm từ 0,2-0,5%; góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 85% vào năm 2010. [7; Tr.12]
2.1.2.4. Bộ máy quản lý, cơ chế điều hành, vận hành Quỹ:
Bộ máy quản lý điều hành Quỹ được thống nhất từ trung ương đến địa phương, song trùng nhiều hệ thống, bao gồm:
- Cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương có Bộ LĐTB-XH (giữ vai trò chủ trì) giúp việc là văn phòng Chương trình Quốc gia về Việc làm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ lao động - văn xã), Bộ Tài chính (Vụ tài chính - hành chính sự nghiệp), đặc biệt có sự tham gia của Kho bạc nhà nước Trung ương (Từ ngày 1/4/2003 là Ngân hàng Chính sách xã hội) là cơ quan quản lý trực tiếp nguồn vốn.
- Cơ quan Trung ương được uỷ quyền quản lý vốn là các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng và Bộ quốc phòng, chỉ đạo điều hành theo ngành dọc từ Trung ương hội đến huyện hội.
- Cơ quan quản lý điều hành vốn ở Địa phương từ cấp tỉnh đến huyện thành lập Ban chỉ đạo giải quyết việc làm. Các thành viên tham gia là các ngành tương ứng với hệ thống quản lý ở cấp trung ương.
Cơ chế vận hành Quỹ theo các nguyên tắc sau:
Một là, cho vay thông qua các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo chỗ làm việc mới thu hút thêm lao động. Chủ dự án có nhu cầu vay vốn tổ chức sản xuất phải xây dựng dự án vay vốn tạo việc làm.Trong dự án chỉ tiêu quan trọng là số lao động được thu hút, tạo việc làm qua dự án.
Hai là, đối tượng vay vốn từ Quỹ được hưởng trực tiếp lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất ngân hàng thương mại. Thời hạn cho vay được căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, mức vay tuỳ thuộc vào dự án song không vượt quá mức tối đa quy định.
Ba là, Quỹ được bảo toàn vốn và hàng năm bổ sung thêm từ ngân sách. Các trường hợp vay vốn bị rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng được Nhà nước xem xét miễn giảm lãi, khoanh nợ, xoá nợ. Việc xóa nợ được bù đắp từ quỹ dự phòng rủi ro.
Bốn là, việc xem xét cho vay được các cơ quan chức năng trong bộ máy hành chính thực hiện, coi đó là hoạt động gắn với quản lý nhà nước. Cơ quan chính quyền được Nhà nước giao quản lý điều hành vốn một mặt quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, mặt khác coi đó là phương tiện hữu hiệu trong công tác quản lý xã hội.
Quỹ được điều hành từ Trung ương đến cơ sở theo mô hình:
Ban quản lý điều hành quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm Trung ương
Ban chỉ đạo giải quyết việc làm cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc
Ban chỉ đạo giải quyết việc làm thuộc TƯ hội đoàn thể quần chúng
Ban chỉ đạo giải quyết việc làm cấp quận, huyện
Ban chỉ đạo giải quyết việc làm đoàn thể cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Sơ đồ 1.2. Hệ thống điều hành Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
Nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm
(Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
Hàng năm liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và đầu tư lập kế hoạch phân bổ dự toán ngân sách cấp mới và kế hoạch sử dụng vốn thu hồi cho địa phương và từng cơ quan tổ chức đoàn thể, hội quần chúng để bộ Kế hoạch và đầu tư tổng hợp trình Chính phủ xem xét, quyết định. Liên bộ có nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý, sử dụng, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết qủa sử dụng quỹ, mà không tham gia vào quá trình thẩm định, xét duyệt dự án.
Quy trình, thủ tục vay vốn được tiến hành theo các bước:
Ngân hàng Chính sách xã hội (trước đây là KBNN) căn cứ quyết định đã được phê duyệt, hướng dẫn người vay làm thủ tục ký hợp đồng tín dụng theo quy định
UBND tỉnh/ thành phố quyết định phê duyệt dự án
Trung ương hội, đoàn thể quyết định phê duyệt dự án
Sở LĐTBXH và Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh/thành phố (trước đây là KBNN tỉnh) kiểm tra, thẩm định và tổng hợp trình UBND tỉnh
Tổ chức hội, đoàn thể và Sở LĐTBXH, Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh (trước đây là KBNN tỉnh) kiểm tra thẩm định
Phòng LĐTBXH và Ngân hàng chính sách xã hội huyện (KBNN huyện) thẩm định trình UBND uyện có ý kiến đề nghị
Tổ chức hội đoàn thể cấp huyện kiểm tra, thẩm định
Dự án, người kinh doanh
Dự án vùng
của UBND huyện
Dự án của tổ chức hội, đoàn thể
Sơ đồ 1.3. Quy trình thủ tục vay vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
giai đoạn 1996 đến nay
Nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm
(Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
Bước một là: người kinh doanh, hội đoàn thể và UBND cấp huyện, xã lập dự án vay vốn giải quyết việc làm theo mẫu quy định.
Bước hai là, dự án được gửi về phòng LĐTBXH và Ngân hàng chính sách xã hội (trước đây là Kho bạc Nhà nước) quận, huyện để tổ chức thẩm định và ghi vào phiếu thẩm định, sau đó tổng hợp trình UBND quận huyện xem xét và ghi ý kiến đề nghị cho vay. Thời gian kể từ ngày nhận hồ sơ đến khi thẩm định xong dự án tối đa không quá 15 ngày.
Bước ba là, Sở LĐTBXH phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội (trước đây là Kho bạc nhà nước) tỉnh, thành phố xem xét từng hồ sơ dự án và thẩm định lại dự án nếu cần thiết, sau đó tổng hợp trình UBND tỉnh, thành phố quyết định. Thời gian xét và quyết định cho vay tối đa không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
Bước bốn là, căn cứ vào quyết định cho vay, Ngân hàng chính sách xã hội ( trước đây là Kho bạc Nhà nước) nơi phát tiền vay có trách nhiệm hướng dẫn người vay làm thủ tục để ký hợp đồng tín dụng theo quy định tại thể lệ cho vay của Bộ Tài chính. Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (quyết định, văn bản thế chấp tài sản hoặc tín chấp) Ngân hàng chính sách xã hội (Trước đây là Kho bạc nhà nước) trực tiếp phát tiền đến người vay.
Như vậy đối với một dự án vay vốn từ quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm thời gian quy định tối đa không quá 45 ngày.
Bên cạnh đó, việc vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cũng có một số quy định cụ thể đối với khối lượng các khoản vay và thời hạn vay, đó là:
Định mức vay trên một chỗ làm việc được tạo ra là 15 triệu đồng/ 1 chỗ làm việc.
Thời hạn vay dài nhất là 60 tháng (5 năm )
Món vay tối đa là 200 triệu đồng.
Điều kiện vay vốn từ Quỹ: được quy định là các đối tượng được vay phải có dự án tạo chỗ làm việc mới, thu hút thêm lao động vào làm việc thường xuyên; Dự án phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi thực hiện dự án. Có nghĩa là, trong nội dung của dự án, bên cạnh việc trình bày và cam kết về các vấn đề kinh tế - kỹ thuật phải đề cập đến số lao động đã và đang làm việc và dự kiến thu hút hoặc tuyển mới theo dự án, bao gồm cả vấn đề tiền lương, thu nhập của người lao động (giá cả sức lao động). Tuy nhiên, trong các dự án loại này cũng chưa đề cập đến sự ổn định của việc làm được tạo ra theo dự án (thời gian tối thiểu cho một chỗ làm việc được tạo ra).
Đối tượng vay vốn được quy định tại thông tư liên bộ số: 06/2002/TT-LT BLĐTBXH-BTC-BKHĐT, ngày 10/4/2002 của liên Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là:
- Hộ gia đình
- Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại và dịch vụ; Cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật, tổ hợp sản xuất, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ (theo quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ) hoạt động theo luật doanh nghiệp; Hộ gia đình và cá nhân làm kinh tế trang trại như quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại.
Trong các đối tượng trên ưu tiên cho các dự án có đối tượng là người tàn tật, sử dụng nhiều lao động nữ, giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực đang đô thị hoá.
So với những quy định trước đây tại thông tư liên bộ số:13/1999/TT-LT BLĐTBXH-BTC-BKHĐT, ngày 8/5/1999 của liên Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về mặt cơ bản đối tượng được vay không thay đổi loại trừ có bổ sung thêm các đối tượng làm kinh tế trang trại. Nhìn chung, nhóm đối tượng được vay nêu trên là nhóm có nhiều lợi thế trong vấn đề tạo việc làm hiện nay bởi yêu cầu về vốn đầu tư ban đầu thấp, khả năng thu hồi vốn nhanh, suất đầu tư trên một chỗ làm việc thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn; tạo ra số lượng việc làm lớn cho lao động xã hội, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang là vấn đề bức xúc hiện nay.
Các ưu đãi đối với vốn vay: Để tạo điều kiện đảm cho các chủ dự án thực hiện được cam kết về tạo việc làm cho người lao động các dự án này được vay vốn với lãi suất và một số điều kiện ưu đãi như:
-Về lãi suất: luôn thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại.
-Về thế chấp: đối tượng vay dưới định mức cho một chỗ làm việc thì không phải thế chấp mà chỉ cần tín chấp.
- Về giải ngân và thu hồi vốn: ngay sau khi dự án được duyệt sẽ được giải ngân trọn gói ngay một lần (không chia theo tiến độ như các loại dự án khác) và thu hồi cả vốn gốc và lãi khi kết thúc thời hạn vay.
2.2. Thực trạng giải quyết việc làm thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm được thành lập từ năm 1992 đến nay đã được ngân sách cấp hỗ trợ trên 2.500 tỷ đồng. Nguồn vốn hình thành Quỹ chủ yếu là vốn ngân sách cấp và được phân thành các nguồn như: vốn ngân sách bổ sung hàng năm, vốn của chương trình Tiệp hỗ trợ cho những người lao động ở Tiệp về nước.
Hoạt động của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm được xem xét trên phương diện chính là cho vay tạo các điều kiện tạo mở việc làm. Trên thực tế, Quỹ cho vay đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp giải quyết việc làm, hàng năm riêng nguồn Quỹ này đã tạo việc làm cho từ 25-30 vạn lao động. Sau hơn 15 năm thực hiện, Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm đã thực hiện cho vay trên 270 nghìn dự án với số tiền trên 10.900 tỷ đồng, thu hút, bảo đảm việc làm cho gần 4.700 nghìn lao động, trong đó có 45% lao động có việc làm mới, 55% vượt khỏi tình trạng thiếu việc làm (xem Bảng 2.1.)
Cụ thể: Với trên 87.000 dự án sử dụng tổng số vốn cấp phát trên 2.500 tỷ đồng, thu hút 2 triệu lao động; trên 183.000 dự án sử dụng gần 8.400 tỷ đồng từ nguồn vốn thu hồi cho vay quay vòng, thu hút gần 2,7 triệu lao động. Trong các đối tượng vay, các địa phương đều ưu tiên cho vay, tạo việc làm đối với diện chính sách xã hội. Trong đó 8 tổ chức đoàn thể, quần chúng và Bộ Quốc phòng đã trực tiếp cho vay 20.269 dự án, với số vốn trên 900 tỷ đồng, thu hút hơn 65 vạn lao động, tính cả các dự án, chủ dự án là thành viên các tổ chức đoàn thể quần chúng vay theo kênh địa phương là hơn 50.000 dự án với số vốn vay trên 2.000 tỷ đồng, thu hút hơn 119.000 lao động, chiếm gần 1/5 trong tổng số dự án, vốn, lao động chương trình đã thực hiện, Hội Cựu Chiến binh, Bộ Quốc phòng, Hội người mù 100% số đối tượng vay là diện chính sách xã hội.
Mỗi năm khả năng tạo việc làm của chương trình tăng từ 15-20% so với năm trước đó. Riêng năm 1997 năm 1998 và 1999 do vốn bổ sung cho Quỹ thấp (1997: 77,5 tỷ đồng, 1998:32,8 tỷ đồng, 1999: 85 tỷ đồng ) nên số lao động thu hút bình quân thấp hơn so với các năm trước (xem Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Kết quả tạo việc làm của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
Năm
Số dự án (dự án)
Tổng số vốn vay (triệu đồng)
Lao động được thu hút (người)
Lao động tăng so với năm trước (người)
1992
2.215
218.632
171.742
-
1993
7.127
212.210
235.168
56.424
1994
9.910
316.713
315.279
57.573
1995
15.195
581.337
434.280
53.205
1996
16.217
549.241
418.833
34.139
1997
10.153
548.072
344.420
-
1998
15.839
621.050
404.901
60.481
1999
16.114
683.789
314.179
-
2000
19.905
712.560
310.000
-
2001
21.000
752.000
320.000
10.000
2002
20.200
900.000
320.000
-
2003
21.000
880.000
330.000
10.000
2004
21.900
912.560
340.700
10.700
2005
22.300
952.000
350.500
9.800
2006
22.700
900.000
362.900
12.400
2007
22.900
880.000
375.000
12.100
Tổng số
274.875
10.975.604
4.675.297
-
Nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm
(Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
Ngoài ra, Quỹ quốc gia còn có các hoạt động hỗ trợ các Trung tâm đào tạo nghề, nâng cao trình độ nghề cho người lao động, tạo mở cho họ có khả năng tốt hơn để tìm kiếm việc làm. Những tác động này của Quỹ chưa có điều kiện lượng hoá bằng các con số cụ thể, nhưng cũng có thể đánh giá về sự tác động tích cực rất lớn của nó không chỉ đến việc tạo việc làm đáp ứng nhu cầu việc làm trước mắt, mà còn là hướng đúng đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.3. hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
2.2.1. Hiệu quả kinh tế:
- Hiệu quả tạo việc làm và thu hút lao động:
Số lượng việc làm được tạo ra trong quá trình cho vay là kết quả sử dụng vốn, nhưng để cho vay được nhiều đối tượng hơn, tạo được nhiều việc làm hơn trên cơ sở tổng nguồn vốn có hạn, thì số lượng giải quyết việc làm có thể được xem xét như là hiệu quả của quá trình đầu tư cho vay vốn. Có thể xem xét hiệu quả tạo mở việc làm trên cơ sở tính số lượng việc làm được tạo ra trên 1 triệu đồng vốn. Tính đến năm 2007 tổng nguồn vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đạt trên 2.500 tỷ đồng, mỗi năm cho vay bình quân 726 tỷ đồng tạo việc làm cho khoảng 25-30 vạn lao động, mức hỗ trợ bình quân cho một đối tượng vay vốn tạo mở việc làm là 1,6 - 3 triệu đồng, thực tế để tạo ra 1 chỗ làm việc cần đầu tư từ 5-6 tri._.TBXH, thẩm quyền xét duyệt do UBND tỉnh đảm nhiệm. So với thời kỳ chương trình mới đi vào hoạt động thì quy trình thẩm định, xét duyệt đã đơn giản, hợp lý hơn do có sự tham gia của ít cơ quan hơn. Tuy nhiên, quá trình thẩm định đôi khi bị kéo dài do chưa có sự phối hợp đồng bộ kịp thời giữa các bên liên quan. Sau khi dự án được cấp huyện thẩm định, việc xét duyệt để ra quyết định cho vay do UBND tỉnh đảm nhiệm. Đây chính là điểm hạn chế, gây nhiều phản ứng tiêu cực từ phía các đối tượng vay vốn. Vì thực chất việc xét duyệt theo qui định hiện hành còn mang tính chất thủ tục hành chính, chưa linh hoạt. Do đó, để rút ngắn thời gian thẩm định xét duyệt, phải quy định lại trách nhiệm của các cơ quan tham gia, có sự phân công hợp lý hơn thẩm quyền xét duyệt trên cơ sở tính chất và tầm quan trọng của các dự án. Để tháo gỡ vấn đề này Thông tư liên tịch số 06 ngày 10/4/2002 đã quy định tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và tình hình chỉ đạo ở địa phương Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thể uỷ quyền ra quyết định phê duyệt dự án cho chủ tịch UBND cấp huyện. Tuy nhiên, cần phải có những quy định cụ thể hơn về điều kiện này đặc biệt là những quy định căn cứ vào tính chất và tầm quan trọng của các dự án. Có như vậy việc uỷ quyền này mới được thực hiện một cách đầy đủ rõ ràng, đúng trách nhiệm, tránh lại rơi vào các thủ tục hành chính không cần thiết ảnh hưởng đến việc phê duyệt dự án và chậm giải ngân vốn vay.
Kiện toàn thêm một bước nữa công tác xét duyệt dự án: trước mắt có thể giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội chịu trách nhiệm chính về công tác thẩm định, đảm bảo đúng mục đích, có hiệu quả và khả năng thu hồi vốn trên cơ sở giải quyết việc làm và định hướng đầu tư phát triển của địa phương. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hành chính sách xã hội chủ động hơn trong việc xét duyệt cho vay, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các đối tượng. Tính khả thi của giải pháp này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trách nhiệm phê duyệt dự án phải được phân cấp giữa Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh (thành phố) và Ngân hàng chính sách xã hội huyện (quận) nhằm nâng cao vai trò của cấp huyện trong việc xét duyệt, triển khai công tác cho vay. Bởi Ngân hàng chính sách xã hội huyện (quận) là cấp cơ sở có điều kiện đi sâu, đi sát, theo dõi, kiểm tra các dự án về tính khả thi, hiệu quả hoạt động của các dự án. Nên giao cho giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội cấp huyện thẩm quyền quyết định cho vay đối với những dự án có mức vay nhỏ (dưới 15 triệu đồng), những dự án vay theo phương thức tín chấp, bảo lãnh. Trong trường hợp giám đốc Ngân hàng đi công tác mà các dự án đã hoàn thành thủ tục thẩm định, chờ xét duyệt thì có thể uỷ quyền cho người giữ trọng trách tương đương, tránh tình trạng kéo dài thời gian, mất cơ hội sản xuất kinh doanh của chủ dự án. Đối với những dự án có mức vay vốn lớn, có tầm quan trọng, ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển của địa phương thì giao cho giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh (thành phố) ra quyết định sau khi đã được thẩm định ở cấp huyện và kiểm tra xem xét lại tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh (thành phố), đồng thời có cơ chế uỷ quyền giống như các Ngân hàng chính sách xã hội cấp dưới
Cùng với việc phân cấp xét duyệt, cần có kế hoạch chuyển vốn kịp thời để giảm thiểu thời gian đợi vốn của các dự án. Hàng năm, trên cơ sở nguồn vốn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ, các địa phương sẽ lên biểu dự toán tổng hợp số lượng dự án cần vay vốn, dự kiến số vốn thực hiện và tiến hành phân định mức độ tính chất của các dự án để Ngân hàng chính sách xã hội trung ương có kế hoạch chuyển vốn xuống các Ngân hàng chính sách xã hội huyện (quận) theo từng quý. Như vậy, các Ngân hàng sẽ luôn luôn đảm bảo khả năng giải ngân bất cứ lúc nào khi dự án có quyết định duyệt vay.
Đơn giản hoá hồ sơ vay vốn cũng là một biện pháp khá hữu hiệu có tác dụng rút ngắn thời gian thẩm định. Đối với dự án của hộ, nhóm hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ... nên lược hết một số tiêu thức: bối cảnh thực hiện dự án, phương án kinh doanh, vì trên thực tế, những đối tượng này chưa đủ trình độ để thực hiện hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức do còn ít kinh nghiệm hoặc chưa được cán bộ ngân hàng, tổ chức đoàn thể hướng dẫn cụ thể. Từ đó, thẩm định viên sẽ chú trọng hơn vào các tiêu thức cơ bản như mục tiêu hoạt động, số lao động thu hút, hiệu quả sản xuất... giảm thời gian thẩm định.
Tất cả đầu mối vay vốn nên giao cho kênh địa phương thực hiện, không nên giao cho các tổ chức đoàn thể ở Trung ương để tránh trùng lặp, kéo dài thời gian thẩm định do phải bố trí thời gian xác minh xem chủ dự án đã vay vốn theo kênh địa phương hay đoàn thể hay chưa. Vì hiện nay, đang tồn tại tình trạng mạo danh, vay vốn cả 2 kênh để lợi dụng sử dụng sai mục đích vốn vay, hạn chế hiệu quả hoạt động của chương trình.
Cơ cấu lại quy trình thẩm định xét duyệt như trên, thời gian nằm chờ của dự án sẽ được cắt giảm, có thể chỉ còn tối đa từ 10 - 15 ngày. So với mức thời gian tối đa 30 - 45 ngày như qui định hiện nay thì đó thực sự là một đòn bẩy, kích thích các dự án lập phương án sản xuất kinh doanh, nâng mức vốn cho vay trong thời kỳ tới. Trong điều kiện nền kinh tế vận động với nhịp độ nhanh chóng, nhiều biến cố và cơ hội xuất hiện không lường trước thì sự đơn giản hoá thủ tục thẩm định, rút ngắn thời gian xét duyệt sẽ góp phần giảm chi phí cơ hội cho các đối tượng sử dụng vốn vay.
* Thứ hai, nâng cao chất lượng các dự án được thẩm định, xét duyệt.
Đây là một vấn đề khá phức tạp, bởi vì nếu chỉ dựa trên những thông tin được nêu trong hồ sơ dự án thì sẽ rất dễ đưa ra những kết luận thiếu chính xác. Theo báo cáo của các đoàn kiểm tra liên bộ về tình hình sử dụng vốn vay giải quyết việc làm ở một số địa phương thì có rất nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả do sử dụng vốn sai mục đích. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do phía các thẩm định viên.
Xét về trình độ chuyên môn, các thành viên trong đoàn thẩm định là cán bộ của cơ quan tham gia (Ngân hàng chính sách xã hội, Bộ Lao động TBXH, cơ quan đoàn thể hội quần chúng) - những người này phần lớn không được đào tạo cơ bản về lĩnh vực hoạt động dự án. Do đó, khi đánh giá hiệu quả hoạt động của dự án còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, nhiều dự án chưa được đánh giá đúng thực tế nên khi đi vào hoạt động thường lâm vào tình trạng thua lỗ hoặc hiệu quả chưa cao.
Bên cạnh đó, do một số cán bộ thẩm định làm việc thiếu trách nhiệm, tạo điều kiện cho chủ dự án thực hiện những hành vi vi phạm quy chế cho vay.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dự án được duyệt cần có biện pháp tăng cường, chấn chỉnh lại đội ngũ thẩm định viên thông qua việc mở các lớp tập huấn ngắn hạn về công tác thẩm định, ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm và hình thức xử lý đối với những cán bộ làm sai quy chế để gắn trách nhiệm của họ với những kết luận đưa ra khi thẩm định. Đồng thời, ở một số địa phương có địa hình phức tạp, cần có chế độ bồi dưỡng nhất định đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm tra xác minh tính trung thực và khả thi của dự án. Có như vậy mới khuyến khích họ làm tốt công tác của mình.
Quy trình thẩm định, xét duyệt dự án là khâu đầu tiên và quan trọng nhất của chu trình cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm. Việc đề ra giải pháp đổi mới quy trình trên không chỉ có tác dụng rút ngắn về thời gian mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với công tác thu hồi vốn sau này. Tuy nhiên, nếu giao cho Ngân hàng chính sách xã hội chịu trách nhiệm xét duyệt thì có khả năng cán bộ ngân hàng sẽ lợi dụng lập hồ sơ khống để rút vốn vay. Để giải quyết vướng mắc này, trong quá trình tiến hành thủ tục thẩm định, xét duyệt cần có sự giám sát của cơ quan lao động xã hội. Cụ thể, người vay sẽ lập dự án gửi về cơ quan LĐTBXH để xác nhận đối tượng, mục tiêu tạo việc làm, tổng hợp số liệu cho quản lý. Ngân hàng chính sách xã hội căn cứ vào dự án đã được xác nhận tiến hành thẩm định. Trong phạm vi 10 - 15 ngày Ngân hàng chính sách xã hội phải thông báo bằng văn bản và ghi rõ lý do không cho vay để chủ dự án có kế hoạch triển khai theo hướng khác. Nếu dự án được duyệt, Ngân hàng chính sách xã hội hướng dẫn người vay làm thủ tục và báo cáo bằng văn bản cho cơ quan LĐTBXH để tổng hợp và quản lý. Định kỳ, cơ quan LĐXH có thể kiểm tra tình hình triển khai các dự án để xác nhận việc thẩm định và ra quyết định cho vay của Ngân hàng.
Để giải pháp có điều kiện thực hiện, Liên Bộ cần sớm ban hành thông tư sửa đổi, quy định cụ thể về thủ tục thẩm định, xét duyệt, đồng thời có kế hoạch xây dựng đội ngũ thẩm định viên đủ trình độ và năng lực đảm nhận công tác này.
3.4.2.2. Điều chỉnh một số chỉ tiêu cho vay vốn.
Cho vay hỗ trợ việc làm từ Quỹ quốc gia chính là hình thức tín dụng tài trợ của Nhà nước nhằm khuyến khích các tổ chức cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình vay vốn giải quyết việc làm. Mức độ khuyến khích, ưu đãi ra sao phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế xác định lãi suất, thời hạn mức vay và một số tiêu chí khác. Để hoạt động cho vay và sử dụng vốn vay đạt kết quả cao hơn trong giai đoạn 2005 - 2010, cần phải điều chỉnh một số chỉ tiêu trên theo hướng hợp lý và linh hoạt hơn. Cụ thể:
+ Về đối tượng được vay vốn:
Trong thời kỳ tới, đối tượng vay vốn cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với tính chất, mục đích giải quyết việc làm, khuyến khích cho vay các dự án có mục tiêu chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, nuôi trồng cây con có giá trị kinh tế cao thu hút giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Tập trung chỉ đạo thí điểm một số dự án vùng, làng nghề nuôi trồng một số loại cây con có giá trị kinh tế cao, chuyển đổi vùng dự án theo hướng sản xuất hàng hoá.
Bên cạnh đó, cần xây dựng những quy định chặt chẽ đối với đối tượng vay là hộ kinh doanh, có biện pháp giám sát số lượng lao động thu hút thêm của đối tượng này.
+ Về thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay vốn trước đây là 12, 24 và 36 tháng nay đã được mở rộng đến 60 tháng (5 năm). Như vậy là thời hạn vay vốn đã được mở rộng hơn trước. Việc xác định thời hạn vay căn cứ vào chu kì sinh trưởng của từng loại cây con, đặc điểm sản xuất của từng ngành. Thực tế hoạt động cho vay vốn thời gian qua đã kiểm chứng tính thích hợp của thời hạn cho vay: phần lớn chủ dự án hoàn được vốn do thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất
Xét về tính hiệu quả lâu dài thì thời hạn vay quá ngắn sẽ làm giảm khả năng tái sản xuất mở rộng, tăng chi phí thu hồi vốn. Bởi vì, sau khi kết thúc thời hạn vay vốn, người vay phải làm thủ tục hoàn vốn và xin vay lại nếu có nhu cầu. Trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng chính sách xã hội phải liên tục vừa thẩm định, cấp phát vốn vay và thu hồi vốn thì với thời hạn cho vay ngắn sẽ không tạo điều kiện thúc đẩy nhanh tiến độ cho vay, tăng chi phí giao dịch.
Có ý kiến cho rằng, nếu tăng thời hạn vay lên như vậy sẽ làm có khả năng quay vòng vốn lại bị giảm sút. Điều này chỉ đúng về mặt lý thuyết: Nếu làm phép cộng đơn giản, thời gian quay vòng vốn bằng thời gian kể từ khi vốn được phát ra đến khi được thu hồi và cho vay lại thì với thời gian vay ngắn sẽ làm giảm thời gian quay vòng, tăng khả năng hoạt động của vốn. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay số vốn còn tồn đọng khá cao, việc thu hồi vốn vay (cả gốc và lãi) sau thời hạn cho vay là chưa cần thiết đối với những dự án mới bắt đầu đi vào hoạt động hoặc những dự án có mức vay nhỏ. Vì vậy, thực chất của việc quy định thời hạn vay dài cho một số loại hình sản xuất sẽ có tác dụng phát huy hiệu quả của vốn vay, tạo điều kiện để người vay vốn tái sản xuất, duy trì việc làm cho người lao động.
+ Về lãi suất cho vay:
Sau nhiều lần điều chỉnh, hiện nay lãi suất cho vay đang ở mức 0,5%/tháng đối với các loại thời hạn, 0,35%/tháng đối với dự án của cơ sở sản xuất của thương bệnh binh và người tàn tật. So với thời kỳ trước, đây là mức lãi suất thấp nhất được điều chỉnh trên cơ sở lãi suất của các ngân hàng thương mại.
Xét về tính chất ưu đãi thì mức lãi suất như vậy khá phù hợp, nhưng nếu đánh giá về tính linh hoạt và khả năng đảm bảo công bằng cho các đối tượng vay vốn ở các thời điểm khác nhau thì cơ chế lãi suất thỏa thuận của các NHTM thay đổi thường xuyên (năm 2002, có 5 lần điều chỉnh lãi suất), mà việc quy định lãi suất cho vay vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm lại được ban hành dưới dạng văn bản, sau khi có sự thảo luận, nhất trí của liên Bộ. Do đó, khi mức lãi suất mới có hiệu lực thi hành thì lãi suất thị trường đã thay đổi làm ảnh hưởng đến tính chất ưu đãi của chương trình, đẩy một bộ phận dự án sang vay vốn theo kênh ngân hàng. Mặt khác, cùng một thời hạn vay hoặc đối tượng ưu tiên nhưng tại các thời điểm khác nhau, vốn vay phải chịu mức lãi suất chênh lệch cao thấp khác nhau, tạo sự hoang mang hoặc trông chờ vào sự sụt giảm lãi suất ở các chủ dự án, không khuyến khích họ tích cực chủ động lập phương án sản xuất kinh doanh. Vì vậy, sau khi vốn được thu hồi, các Ngân hàng chính sách xã hội rất khó tập hợp được dự án gối đầu, giảm khả năng quay vòng của vốn.
Một vấn đề cần bàn nữa là việc đánh giá lãi suất thực tế của vốn vay. Thực chất, lãi suất cho vay là một loại chi phí cho việc vay vốn. Nếu lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của NHTM nhưng thời gian vốn đến tay người sử dụng kéo dài sẽ làm tăng chi phí cơ hội của các dự án, thậm chí mức chi phí này khi tổng hợp với tiền lãi phải trả có thể cao hơn chi phí cho việc vay vốn của các NHTM.
Từ phân tích nêu trên, giải pháp đặt ra là nên xác định lãi suất cho vay giải quyết việc làm theo hướng: quy định một tỷ lệ nhất định giữa lãi suất thị trường với lãi suất ưu đãi cho vay vốn, chẳng hạn quy định lãi suất ưu đãi bằng 40 - 50% lãi suất tham khảo của Liên ngân hàng. Như vậy, việc nghiên cứu để đưa ra một mức lãi suất cho thời kỳ nào đó sẽ bớt phức tạp, tạo sự chủ động cho người vay vốn khi tính toán khả năng sản xuất kinh doanh do có thể ước tính được mức lãi suất vay vốn trên cơ sở theo dõi sự biến động của lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, cần có một cơ chế linh hoạt hơn về mức lãi suất quá hạn. Việc đưa ra một mức lãi suất quá hạn phải có tác dụng kích thích chủ dự án đã quá hạn nhanh chóng tìm biện pháp trả nợ vốn vay.
+ Về mức vốn vay:
Thực tế hiện nay mức vốn cho vay bình quân trên một chỗ làm việc hiện nay là 1,6 - 3 triệu đồng, trong khi mức tối đa quy định không quá 15 triệu đồng cho một chỗ làm việc. Trong những năm tới, khoa học công nghệ phát triển, các dự án muốn tồn tại được hoặc mở rộng quy mô, thu hút thêm lao động thì cần phải đầu tư nhiều hơn vào việc mua sắm máy móc thiết bị. Khoản đầu tư vào hoạt động này khá lớn, nhất là đối với hộ kinh doanh. Do đó, trong tương lai cần nâng dần mức vốn cho vay tối đa trên một chỗ làm việc, cộng với vốn đối ứng của người vay vốn sẽ được một khoản đầu tư hợp lý đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Để làm được điều này, ngoài số vốn do Ngân sách nhà nước cấp mới hàng năm cần tranh thủ thêm các nguồn viện trợ của tổ chức quốc tế và một số nguồn thu khác để bổ sung vốn hoạt động của Quỹ quốc gia. Trong những năm tới, liên Bộ xây dựng căn cứ để trình Chính phủ phê duyệt, Quốc hội thông qua về mức vốn bổ sung từ NSNN cho Quỹ. Ngoài nguồn vốn được phân bổ mới, các địa phương, TW Hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc Phòng cần tận dụng nguồn vốn thu hồi để sử dụng cho vay quay vòng đối với các dự án khác, đồng thời có chính sách huy động vốn trong tỉnh, huyện và các thành viên để hỗ trợ thêm cho chương trình, người giàu hỗ trợ vốn cho người nghèo để cùng nhau phát triển sản xuất. Tập trung đầu tư vốn cho các dự án có hiệu quả cao.
Đầu tư cho việc làm, về lâu dài, thực chất là đầu tư cho phát triển. Vì vậy, cần có cơ chế huy động vốn cho vay hỗ trợ việc làm thông qua việc phát hành trái phiếu đầu tư với mức thời hạn, lãi suất và mệnh giá phù hợp với mức vốn, lãi suất và thời hạn cho vay từ Quỹ. Đây là một ý tưởng mới, để thực hiện được phải lên chương trình kế hoạch cụ thể, nghiên cứu xây dựng một cơ chế huy động và hoàn trả vốn kịp thời, tạo niềm tin cho người đầu tư trái phiếu.
3.4.2.3. Thúc đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ và xử lý nợ quá hạn.
Thực tế những năm qua, công tác thu hồi nợ được triển khai rất chậm, nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng. Nguyên nhân có thể do cơ chế chưa phù hợp, sự tắc trách và thiếu nhiệt tình của phía thu nợ hoặc do ý thức của người vay chưa cao.
Để khắc phục tình trạng này, những năm tới cần triển khai một số hoạt động theo hướng:
- Thành lập tổ thu hồi nợ với thành phần đầy đủ các ngành chức năng theo công văn hướng dẫn của liên Bộ và UBND tỉnh phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành này để thu hồi vốn đúng hạn, thường xuyên đôn đốc thu hồi nợ.
- Ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm và biện pháp xử lý đối với những thành viên không thực hiện tốt công tác thu hồi vốn cũng như một số chủ dự án cố tình dây dưa không hoàn nợ. Gắn trách nhiệm của bên bảo lãnh, tín chấp với việc thu hồi nợ đối với các dự án đã được xác nhận. Đồng thời trích một tỷ lệ nhất định trên khoản lãi thu được để thưởng cho các đơn vị có kết quả thu nợ tốt.
- Các địa phương cần rà soát lại những dự án có nợ quá hạn để tiến hành phân loại và tìm các biện pháp thu hồi nợ thích hợp. Hiện nay, biện pháp này đã được áp dụng đối với các dự án do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quản lý và đã đạt được một số kết quả nhất định.
- Liên Bộ nên ủy quyền cho địa phương ra quyết định xóa nợ cho các dự án có mức vay từ 5 triệu đồng trở xuống để đẩy nhanh tiến độ xóa nợ, giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Cùng với việc thực hiện các hoạt động trên, nên có chính sách cởi mở hơn, tạo điều kiện để người vay vốn có khả năng trả nợ trong hoàn cảnh khó khăn. Đối với trường hợp người vay thực sự khó khăn, chỉ có khả năng hoàn trả được tiền gốc mà chưa có điều kiện trả lãi, nếu có đơn đề nghị thì Ngân hàng chính sách xã hội được phép thu nợ gốc trước, thu lãi sau. Như vậy sẽ tạo tâm lý thoải mái, khuyến khích người vay trả nợ đúng hạn.
Trên đây là những biện pháp trực tiếp tác động đến công tác thu hồi nợ và xử lý nợ quá hạn. Trong tương lai, nếu quy trình thẩm định, xét duyệt dự án hoàn thiện hơn, đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích, tăng khả năng hoàn nợ thì nhất định tiến độ thu hồi vốn sẽ nhanh hơn, giảm bớt tình trạng nợ quá hạn.
3.4.2.4. Hoàn thiện cơ chế xử lý các dự án rủi ro
Khắc phục tình trạng quy chế xử lý rủi ro ban hành chậm hơn so với thực tế dẫn đến những vướng mắc về thủ tục, Ngân hàng chính sách xã hội TW cần chỉ đạo các Ngân hàng chính sách xã hội phối hợp chặt chẽ với cơ quan LĐTBXH hướng dẫn người vay làm đơn nêu rõ nguyên nhân không trả được nợ, có xác nhận của chính quyền địa phương, sau đó tổng hợp trình Chủ tịch UBND tỉnh xem xét, quyết định hoặc có văn bản gửi về Bộ LĐTBXH để giải quyết từng trường hợp cụ thể.
Đồng thời, để công tác xử lý rủi ro đối với những dự án bị rủi ro bất khả kháng, liên Bộ cần có văn bản quy định rõ thời gian chủ dự án phải báo cáo với Ngân hàng, cơ quan LĐTBXH, chính quyền địa phương về tình trạng của dự án khi gặp rủi ro bất khả kháng, có thể từ 5 - 10 ngày. Trên cơ sở đó, các cơ quan này kiểm tra, phối hợp với chủ dự án lập biên bản xác minh thiệt hại làm căn cứ xem xét các hình thức xử lý (xóa nợ, khoanh nợ, giảm miễn lãi).
Việc quy định cơ cấu nhân sự cho hội đồng thẩm định hiện nay còn chưa hợp lý. Đó là việc làm cần có đủ 3 bên tham gia, gồm:
- Đại diện của đoàn thể hoặc chính quyền địa phương.
- Đại diện của cơ quan LĐTBXH.
- Đại diện Ngân hàng chính sách xã hội.
Trong thực tế, để tập hợp được 3 thành viên này rất khó khăn do điều kiện công tác ở mỗi đơn vị khác nhau. Vì vậy, thời gian xác định mức độ thiệt hại của dự án bị kéo dài, gây khó khăn cho chủ dự án, hoặc làm thay đổi tính chất, mức độ thiệt hại do dự án chịu tác động của nhiều yếu tố trong thời gian nằm chờ.
Khắc phục tồn tại này, nên giảm bớt nhân sự Hội đồng thẩm định ở địa phương để khi có báo cáo của chủ dự án thì lập tức tiến hành thẩm tra, xác minh, lập biên bản xác nhận mức độ thiệt hại gửi về cơ quan có thẩm quyền giải quyết
3.4.2.5. Điều chỉnh cơ chế phân phối và sử dụng tiền lãi.
Như trong phần thực trạng đã đề cập, cơ chế phân phối và sử dụng tiền lãi hiện nay vẫn còn không ít những vướng mắc chưa thực sự làm đòn bẩy cho công tác quản lý và triển khai hoạt động cho vay. Trên cơ sở nghiên cứu những tồn tại và tham khảo ý kiến đề nghị của các địa phương, trong giai đoạn tới, cơ chế phân phối lãi và sử dụng tiền lãi có thể được điều chỉnh theo một số hướng cơ bản sau:
+ Xem xét tỷ lệ phân phối tiền lãi theo hướng ưu tiên cho các tỉnh miền núi, đồng bào dân tộc khó khăn, không quy định tỷ lệ như nhau cho tất cả các địa phương.
+ Tăng tỷ lệ phân phối tiền lãi cho địa phương từ 26% lên mức cao hơn.
+ Đối với hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội vẫn giữ mức 40% (như đối với KBNN) nhưng cần quy định rõ trong đó dành mức chi bồi dưỡng cho cán bộ trực tiếp làm công tác cho vay, chi khen thưởng cho cán bộ thu hồi vốn tốt, không có nợ quá hạn để khuyến khích họ tích cực hoạt động.
+ Bổ sung khoản chi tiền thu nợ quá hạn do các cơ quan Pháp luật đi thu nợ (Hiện nay nếu không đòi được nợ gốc sẽ không được quyết toán 5% chi phí đòi nợ) từ Quỹ dự phòng rủi ro TW cấp. Đồng thời, cần hướng dẫn chi và quyết toán cụ thể để tiện cho việc quản lý chi ở các địa phương.
+ Sửa đổi quy định lập dự toán theo năm hoặc đợt phân phối lãi và báo cáo quyết toán năm cho phù hợp.
Việc điều chỉnh lại cơ cấu phân phối lãi như trên rất khó khăn vì nếu tăng tỷ lệ này thì sẽ giảm tỷ lệ khác. Số 30% dành cho Quỹ dự phòng rủi ro sẽ bị cắt giảm. Tuy nhiên, trong điều kiện số vốn của Quỹ dự phòng còn lớn, chưa phải sử dụng nhiều thì việc điều chỉnh tăng lên một số khoản dành cho địa phương và cơ quan tham gia thu hồi nợ là hợp lý và cần thiết.
3.4.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả Quỹ
Cần thiết phải tiến hành đánh giá các dự án vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, đặc biệt nhấn mạnh các phương pháp đánh giá độc lập, phương pháp đánh giá có sự tham gia của đối tượng thụ hưởng là các chủ dự án và các lao động được thu hút vào các dự án, tiến tới đánh giá toàn bộ chương trình. Để thực hiện được công việc này trước hết cần kiện toàn chế báo cáo hiện tại, tiến hành một cuộc tổng điều tra đánh giá các dự án vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
3.4.2.7. Một số biện pháp hỗ trợ khác.
Song song với việc thực hiện các giải pháp trên, để phát huy hơn nữa hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay, chúng ta cần kết hợp thực hiện một số biện pháp bổ sung hỗ trợ, đó là:
- Thực hiện lồng ghép chương trình cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình 135, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, v.v. Việc cho vay vốn tạo việc làm giúp cho người lao động có việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, do yêu cầu của công tác xóa đói giảm nghèo, các tổ chức đoàn thể, cá nhân người lao động sẽ tích cực chủ động tìm biện pháp cải thiện tình hình, nghiên cứu lập kế hoạch sản xuất để lên dự án vay vốn.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm, tạo cầu nối giữa cung và cầu lao động. Trên thực tế, đối với những dự án thiên về trồng trọt, chăn nuôi hay tiểu thủ công nghiệp ở địa phương, vấn đề huy động lực lượng rất dễ dàng, do thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn còn thiếu, nhưng đối với một số dự án đầu tư nhiều về máy móc thiết bị thì vấn đề huy động nhân lực gặp khó khăn do trên thị trường lao động, cung về lực lượng này còn hạn chế. Do đó, thông qua hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm, cụ thể là hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, tổ chức các lớp dạy nghề theo nhu cầu của thị trường lao động sẽ giúp các chủ dự án có được đội ngũ nhân lực phù hợp, có khả năng vận hành tốt.
- Tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan TW, Liên bộ với các ngành chức năng địa phương để có biện pháp giám sát quản lý hiệu quả vốn Quỹ. Việc ban hành các văn bản, quy chế liên quan đến công tác cho vay vốn phải được liên Bộ nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng trên cơ sở những vấn đề phát sinh trong thực tiễn và kết quả đánh giá khả năng diễn biến trong tương lai, góp phần hạn chế việc sửa đổi bổ sung khi các văn bản, quy chế này đã có hiệu lực thi hành, tạo môi trường về cơ chế chính sách ổn định để các cấp, các ngành và đối tượng vay vốn yên tâm hơn trong quá trình thực hiện.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cho đối tượng vay vốn về mục đích, ý nghĩa của việc cho vay vốn tạo mở việc làm, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giải quyết việc làm ở nước ta.
Tóm lại, Đối với Việt Nam, vấn đề lao động và việc làm đã, đang và sẽ vẫn là những vấn đề cấp bách trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Để nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm, nhất là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm cần phải có những quan điểm và phương hướng đúng, phù hợp với các điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của những năm tới; cần phải có hệ thống các giải pháp đồng bộ và có tính khả thi. Cụ thể cần chú trọng và tập trung vào các vấn đề như:
- Thực hiện tốt các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội tạo mở việc làm để vừa thu hút thêm việc làm, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay tạo việc làm.
- Hoàn thiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh và thu hút lao động, trong đó tập trung vào một số chính sách có tác động trực tiếp như:
+ Chính sách thuế.
+ Chính sách đất đai.
+ Chính sách khuyến khích sự phát triển của các hội nghề.
+ Chính sách trợ giá các sản phẩm nông nghiệp.
- Tập trung vào các giải pháp tài chính chủ yếu nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành hoạt động của Quỹ như:
+ Đổi mới cơ chế thẩm định, xét duyệt dự án.
+ Điều chỉnh một số chỉ tiêu cho vay vốn.
+ Thúc đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ và xử lý nợ quá hạn.
+ Hoàn thiện cơ chế xử lý các dự án rủi ro.
+ Điều chỉnh cơ chế phân phối và sử dụng tiền lãi.
+Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá dự án vay vốn.
+ Các giải pháp hỗ trợ khác.
Những vấn đề trên là những vấn đề hết sức cơ bản và cấp bách. Giải quyết tốt những vấn đề trên sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Kết luận
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay của nước ta đang đối mặt với thách thức lớn về việc làm. Tỷ lệ tăng cung lao động tự nhiên cao, lao động không có việc làm ở thành thị và tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn rất trầm trọng đòi hỏi Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cần được duy trì và phát triển hơn nữa, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay để tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, tránh tình trạng gây bất ổn định an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
Thông qua đề tài:"Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Việt Nam", luận văn đã rút ra những kết luận cơ bản sau:
1.Phân tích những quan niệm của các nhà kinh tế lao động thế giới và Việt Nam, luận văn góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ và thống nhất quan niệm về việc làm, tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tạo việc làm phục vụ cho mục tiêu, chiến lược, chính sách việc làm quốc gia. Do đó, đã có đóng góp về lý luận nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm hiện nay ở Việt Nam.
2. Qua đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng vốn của Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm đã tổng kết được những thành tựu và tìm ra được những tồn tại nhằm giải quyết. Vì vậy, đã có đóng góp về cơ sở thực tiễn cho nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
3. Luận văn nghiên cứu, đã đưa ra các quan điểm phù hợp, đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu có căn cứ khoa học và có tính khả thi cao nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm nhằm giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam tốt hơn nữa trong những năm tới. Các giải pháp chủ yếu bao gồm:
- Đổi mới cơ chế thẩm định, xét duyệt dự án để giải quyết tình trạng vốn tồn đọng và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn cũng như giảm bớt chi phí giao dịch về cho vay vốn.
- Điều chỉnh một số chỉ tiêu cho vay vốn từ Quỹ như: đối tượng được vay vốn, thời hạn cho vay, lãi suất vốn vay, mức vốn cho vay… để thực hiện mục đích tín dụng tài trợ của Nhà nước nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình vay vốn tạo việc làm có hiệu quả.
- Thúc đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ và xử lý nợ quá hạn: thành lập tổ thu hồi nợ, ban hành quy định cụ thể về trách nhiệm và biện pháp xử lý... giảm bớt tình trạng nợ quá hạn.
- Hoàn thiện cơ chế xử lý các dự án rủi ro: có văn bản quy định về hướng dẫn người vay làm thủ tục xác nhận nguyên nhân không trả được nợ, cơ cấu nhân sự cho hội đồng thẩm định, thời hạn xử lý đối với dự án rủi ro.
- Điều chỉnh cơ chế phân phối và sử dụng tiền lãi: tăng tỷ lệ phân phối tiền lãi cho địa phương tuy nhiên không quy định tỷ lệ như nhau cho tất cả các địa phương, bổ sung khoản chi tiền thu nợ quá hạn cho các cơ quan pháp luật từ Quỹ dự phòng rủi ro TW, sửa đổi quy định lập dự toán theo năm hoặc đợt phân phối lãi…để khuyến khích các địa phương, đơn vị quản lý, điều hành Quỹ tốt.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá dự án vay vốn theo phương pháp đánh giá độc lập, đánh giá có sự tham gia của đối tượng thụ hưởng để nâng cao chất lượng dự án vay vốn.
- Các giải pháp hỗ trợ khác: Lồng ghép với các chương trình khác như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình 135, chương trình 5 triệu hecta rừng…, tăng cường sự phối hợp giữa các ngành chức năng địa phương để có biện pháp giám sát, quản lý hiệu quả vốn của Quỹ.
Trên đây là toàn bộ nội dung của luận văn, những vấn đề này mang tính khái quát cả về lý luận và thực tiễn, việc không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn như tăng nhanh vòng vay vốn cho nhiều đối tượng có cơ hội vay vốn tạo việc làm, giảm bớt các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người vay vốn nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc quản lý vốn và tài sản của Nhà nước, có chính sách khuyến khích nhân dân sử dụng vốn vào các lĩnh vực kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội địa phương, sản xuất hàng xuất khẩu là quan điểm chủ đạo xuyên suốt trong quá trình quản lý điều hành hoạt động của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-33.doc