LỜI NÓI ĐẦU
Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Nó cũng như các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khác, luôn có mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận.Có thể nói rằng lợi nhuận là yếu tố cụ thể nhất nói lên kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó là hiệu số giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Để gia tăng lợi nhuận, ngân hàng cần quản lý tốt các khoản mục tài sản có nhất là các khoản mục cho vay và đầu tư, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân h
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) - Chi nhánh Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng, tiết kiệm chi phí. Khi lợi nhuận tăng, ngân hàng có điều kiện trích dự phòng rủi ro, mở rộng tín dụng, bổ sung nguồn vốn tự có.
Vấn đề nổi bật trong hoạt động Ngân hàng là công tác huy động vốn và sử dụng vốn. Mục tiêu đặt ra là làm sao cho công tác sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất.
Và trong bài viết này, em sẽ đề cập đến vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – Chi nhánh Láng Hạ. Với mục tiêu đặt ra là gắn liền lý luận khoa học với hoạt động thực tiễn, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – Chi nhánh Láng Hạ, em đã nhận thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng vốn đối với sự tồn tại của Ngân hàng. Di đó em đã chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu VIệt Nam – Chi nhánh Láng Hạ” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm 3 chương :
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM (EXIMBANK) – CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM(EXIMBANK) – LÁNG HẠ.
Do thời gian tìm hiểu và khả năng còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót.Em rất mong nhận được sự nhận xét góp ý của các thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện.
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM.
1. Khái niệm chung về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lương các Ngân hàng.
Bản chất của Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là một cơ quan nhận một bộ phận tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển. Trong quá trình đó, Ngân hàng thương mại tạo ra cho mình những công cụ tài chính thay thế tiền làm phương tiện thanh toán trong đó công cụ quan trọng nhất là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát séc. Nhờ các công cụ này mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông qua Ngân hàng, gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ, thanh toán trong nước và quốc tế lại với nhau.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, là doanh nghiệp thường xuyên tiến hành các nghiệp vụ huy động vốn và làm công tác tín dụng , cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ tài chính khác.
Bên cạnh các Ngân hàng thương mại, trong nền kinh tế cũng còn tồn tại các trung gian tài chính khác, đó là các tổ chức phi Ngân hàngl như công ty Bảo Hiểm… làm nhiệm vụ nhận tiền gửi của khách hang. Nhưng điểm khác biệt của Ngân hàngl thương mại và các trung gian tài chính là sự chuyên môn hoá của các tổ chức tài chính. Nó chỉ thực hiện một trong hai vai trò là nhận tiền gửi không cho vay hoặc là chuyên cấp phát.
Tóm lại, Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hang với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện chiết khấu làm phương tiện thanh toán.
2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
2.1. Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu , tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ xung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với Ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Lấy quan hệ tín dụng làm ví dụ. Người có tiền tiết kiệm đòi 1% chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng. Tổng cộng anh ta đòi 6% trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% chi phí giao dịch, 6% trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn tín dụng là 7%. Nếu sử dụng tiền vay có thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% ( giả sử 10%) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Ví dụ, từ 2% xuống còn 1% ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% xuống 1%. Trung gian có thể trả cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro lớn (lớn hơn 3% thu nhập trước đó), và đòi hỏi người sử dụng 6,5% ( nhỏ hơn 7% trước đó). Chênh lệch 6,5% - 3,5% =3% chính là thu nhập của trung gian. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phỉ tổn tín dụng cho người đầu tư ( tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giả quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của Ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn, các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ ( dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các Ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa, làm cho Ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “ thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho Ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất.
2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các Ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các Ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do Ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung Ương. Từ đó chấm dứt việc các Ngân hàng Thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các Ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó , bằng việc cho vay các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán( tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi ( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay ( tạo tín dụng)
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống Ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua Ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
2.3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền gửi khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua Ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các Ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3. Các hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
3.1. Mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán) ngoại tệ - một Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lẫy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hịên nay, mua bán ngoại tệ chỉ do các Ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
3.2. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi( thanh toán, tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
3.3. Cho vay.
3.3.1. Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu cho Ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
3.3.2. Cho vay tiêu dùng.
Trong giai đoạn đầu hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay buộc các Ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
3.3.3. Tài trợ dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các Ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong nghành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số Ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
3.4. Bảo quản vật có giá.
Các Ngân hàng thực hiện và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ hàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do Ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của Ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của Ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc Ngân hàng. Ngày nay. vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách ( còn được gọi là sec), khách hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi Ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
3.6. Quản lý Ngân quỹ.
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý Ngân quỹ, trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi của một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Trong điều kiện các Ngân hàng tư nhân không muốn tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những Ngân hàng lớn. Khi Ngân hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các Ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
3.8. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của Ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do Ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên Ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng…
3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn ( Leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê ( thay vì bán ) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua ( do vậy còn được gọi là hợp đồng thuê mua ). Rất nhiều Ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chon thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó Ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của Ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành , uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các Ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều Ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các Ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều Ngân hàng ( thường Ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
4. Các loại hình Ngân hàng Thương mại.
Có thể phân chia Ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của người quản lý.
4.1. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu.
4.1.1. Ngân hàng sở hữu tư nhân.
Là Ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại Ngân hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương. Các Ngân hàng này thường gắn liền với doanh nghiệp vá cá nhân ở địa phương. Chủ Ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng nên khi địa phương đó gặp rủi ro ( ví dụ thiên tai, mất mùa… ) ngân hàng thường không tránh được tổn thất.
4.1.2. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( Ngân hàng cổ phần) :
Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của Ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của Ngân hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua tập trung, các Ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các Ngân hàng lớn. Các tổ hợp Ngân hàng lớn nhất trên thế giới hiện nay là các ngân hàng cổ phần. Các ngân hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hoá cao nên các Ngân hàng cổ phần có thể giảm được rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn hoá ( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một nghành hoặc một quốc gia… ), song chúng thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền ( nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với trụ sở Ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho Ngân hàng).
4.1.3. Ngân hàng sở hữu Nhà nước.
Đây là loại hình Ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh, Thành phố. Các Ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của các chính quyền Trung ương hoặc địa phương quy định. Tại các nước đi theo con đường phát triển Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hoá các Ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các Ngân hàng.Những Ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các ngân hàng này phải thực hiện các chính sách của Nhà nước có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh.
4.1.4. Ngân hàng liên doanh.
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau.
4.2. Các loại hình Ngân hàng Thương mại chia theo tính chất hoạt động.
4.2.1. Hoạt động chuyên doanh và đa năng.
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh.
Loại Ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê)… Tính chuyên môn hoá cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên, loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục vụ sa sút.
Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức ngân hàng để phục vụ cho các thành viên của tập đoàn).
Ngân hàng đa năng: là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
4.2.2. Hoạt động bán buôn và Ngân hàng bán lẻ.
Hoạt động Ngân hàng bán buôn: cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn. Những ngân hàng có hoạt động bán buôn phát triển thường là ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
Hoạt động của Ngân hàng bán lẻ: cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ. Dịch vụ bán lẻ thường kết hợp đa tiện ích, được xây dựng trên cơ sở công nghệ hiện đại. Ví dụ thẻ tín dụng vừa là phương tiện để cung cấp khoản vay vừa là phương tiện để thanh toán, truy vấn tin trên tài khoản… cung cấp dịch vụ ngân hàng 24h/ngày.
Xu hướng hiện nay là các ngân hàng cung cấp kết hợp cả dịch vụ bán lẻ và bán buôn.
4.3. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức.
Ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu Ngân hàng. Ngân hàng sở hữu công ty là Ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế Ngân hàng Thương mại tham gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất động sản… nên các Ngân hàng lớn đã thành lập hoặc mua lại một số công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… nhằm mở rộng hoạt động trên một số lĩnh vực liên quan mật thiết với kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng thuộc sở hữu công ty: các tập đoàn kinh tế ( công nghiệp, thương mại , dịch vụ) thường tổ chức thành lập Ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn.
Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh. Ngân hàng đơn nhất được hiểu là một ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng trong vùng…
II. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI NHTM.
1. Vốn của Ngân hàng Thương mại và kết cấu.
1.1. Vốn chủ sở hữu.
Để bắt đầu hoạt động Ngân hàng thì chủ Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.Đây là loại vốn Ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho Ngân hàng.Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu , năng lực tài chính của chủ Ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
1.1.1.Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Tùy theo tính chất của mỗi Ngân Hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu khác nhau.Nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước do NSNN cấp, còn nếu là Ngân hàng cổ phần thì các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.2.Nguồn vốn bổ xung trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn chủ theo phương thức khác nhau tùy vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư.Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ Ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.Những Ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho Ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.3. Các Quỹ.
Ngân hàng có nhiều quỹ.Mỗi quỹ có một mục đích riêng.Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất.Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy đinh cụ thể của từng nước, các Ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng , quỹ giám đốc…
Các quỹ của Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là tư thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
1.1.4.Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của Ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể không hoàn trả khi đáo hạn.
1.2.Nguồn tiền gửi.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM.Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó Ngân hàng huy động tiền gửi của các thành phần trong nền kinh tế.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng.Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng càng cao, các Ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau.
1.2.1. Tiền gửi thanh toán.
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ giữ và thanh toán hộ.Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của Ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán ( tài khoản có thể phát sec )cho khách hàng.Thủ tục mở rất đơn giản.Yêu cầu của Ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số Ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
1.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Các khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp, tổ chức sẽ được Ngân hàng chi trả sau một thời gian xác định.Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán nhưng lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăn._.g thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sủ dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến và họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng thường cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi nguời tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm( hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
1.2.4.Tiền gửi của các Ngân hàng khác.
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, Ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác.Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
1.3. Nguồn vốn vay.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân Hàng Thương Mại.Tuy nhiên khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm.Tại nhiều nước, Ngân hàng Trung Ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ.Do vậy, nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu khi khă năng huy động bị hạn chế.
1.3.1. Vay Ngân Hàng Nhà Nước.
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM.Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, bắt buộc thanh toán) NHTM thường vay NHNN.
Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu( hoặc tái cấp vốn).Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu(hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ.Khi cần tiền, các NHTM mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ( tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên.Ngân hàng nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( Thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
1.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn các Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng.Các Ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các Ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.Ngược lại, các Ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo các khoản thanh khoản.
Như vậy , nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ xung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với Ngân hàng cho vay hoặc thông qua Ngân hàng đại lý ( hoặc Ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán kho bạc. Kết quả là dự trữ của Ngân hàng cho vay giảm đi và của Ngân hàng đi vay tăng lên.
1.3.3. Vay trên thị trường vốn.
Giống như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.Thông thường, đây là khoản vay không có đảm bảo. Những Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các Ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các Ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đôỉ cho các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng.
1.4. Các nguồn vốn khác.
1.4.1. Nguồn uỷ thác.
NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại Ngân hàng.Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương , rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của Ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng.
1.4.2. Nguồn trong thanh toán.
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán( séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C…). Những Ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các Ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
1.4.3. Nguồn khác :
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả …
2. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn của NHTM.
2.1. Đặc điểm nguồn tiền gửi và các nhân tố ảnh hưởng.
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của Ngân hàng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của Ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm Ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng… đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp tết nguồn tiền tiết kiệm cũng như nguồn tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm.
Ngân hàng cân nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi thông qua nghiên cứu đặc điểm nguồn tiền của ngân hàng để có biện pháp và quản lý thích ứng. Tuy nhiên Ngân hàng thường khó biết được chính xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi.
2.2. Đặc điểm nguồn đi vay và các nhân tố ảnh hưởng.
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn tiền gửi, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. Các khoản đi vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên : Ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay NHNN và vay Ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. Việc cho vay của NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà NHNN theo đuổi trong từng thời kỳ. Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay các dự án, tài trợ trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập dân cư và ổn định vĩ mô, sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng nhằm tạo ra tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù, lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được những yêu cầu như ổn định, quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
2.3. Đặc điểm các nguồn khác.
Phần lớn các nguồn khác của Ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Ví dụ, để có các nguồn uỷ thác Ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ… Nhìn chung, các nguồn khác trong Ngân hàng thường không lớn ( trừ một số ngân hàng có dịch vụ uỷ thác cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
3. Hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại.
3.1. Khái niệm và vai trò của vốn trong kinh doanh Ngân hàng
3.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn của Ngân hàng Thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng Thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động kinh doanh và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của Ngân hàng thương mại.
3.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng
Vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Với đặc trưng của hoạt động Ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh, chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Những Ngân hàng trường vốn là ngân hàng sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Do đó các Ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của Ngân hàng.
Vốn của Ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường nếu so với các Ngân hàng lớn thì các Ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các Ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các Ngân hàng lớn cho vay được tại thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế thì các Ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, từng khu vực nhỏ, thêm vào đó do khả năng vốn hạn hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản ứng nhậy bén được với sự biến động về lối sống, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.
Nếu khả năng vốn của Ngân hàng dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng.
Chính vì vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Vốn quyết định năng lực thị trường và đảm bảo uy tín của Ngân hàng trên thương trường.
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quymô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường.
Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn.
Vì vậy loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung và với vốn khả dungj của ngân hàng nói riêng.
Với tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao uy tín trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Thực tế đã chứng minh : quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của Ngân hàng là tiên đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động thời gian, thời hạn cho vay, quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời, vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường. Không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh, tạo thêm vốn cho Ngân hàng, đồng thời tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thương trường.
3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn huy động.
3.2.1. Sự gia tăng và tính ổn định của vốn huy động.
Khối lượng và cơ cấu hiện tại:
Không thể nói đến hiệu quả huy động vốn cao nếu việc huy động vốn không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kế hoạch khối lượng vốn phải đạt quy mô nhất định theo kế hoạch hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời cơ cấu vốn cần hợp lệ, thể hiện giưa vốn huy động ngắn hạn với dài hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ.
Sự tăng trưởng vốn huy động về số lượng và thời gian:
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng về số lượng để có thể thoả mãn các nhu cầu về khối lượng vốn tín dụng, thanh toán, cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng gia tăng của Ngân hàng. Đồng thời vốn huy động phải có sự ổn định về thời gian. Nếu Ngân hàng có huy động được một khối lượng vốn lớn nhưng không ổn định thì thường xuyên có khả năng một dòng tiền lớn bị rút ra. Ngân hàng luôn phải đối đầu với vấn đề thanh toán thì lượng vốn lớn cho vay và đầu tư sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn sẽ là không cao, ngược lại nếu nguồn vốn huy động ổn định Ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần số vốn đó và hoạt động kinh doanh có thu nhập cao.
Nguồn vốn tăng đều qua các năm đạt mục tiêu đề ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
Xu hướng biến đổi cơ cấu theo hướng tích cực:
Sự biến đổi về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư … và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh. Xu hướng biến đổi cơ cấu huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong tương lai về cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay nội tệ và ngoại tệ.
3.2.2. Khả năng điều hành lãi suất và tiết kiệm chi phí huy động.
Lãi suất huy động:
Lãi suất luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các chủ thể kinh tế. Người gửi tiền muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn có lãi suất thấp. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, Ngân hàng phải tìm cách đa dạng hoá lợi ích của các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của Ngân hàng. Vì vậy trong huy động vốn mỗi Ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng vốn đó để cho vay với một lãi suất được chấp nhận trên thị trường. Chi phí huy động thường được đánh giá chủ yếu bởi mức lãi suất huy động từ nguồn, lãi suất huy động bình quân, tính bằng bình quân giữa gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn, chênh lệch đầu vào đầu ra. Các nguồn huy động cảu Ngân hàng có mức lãi suất, kỳ hạn, quy mô khác nhau. Mà trong thực tế khi cho vay không phân biệt rạch ròi là từ nguồn nào. Do đó Ngân hàng phải tính mức lãi suất bình quân đầu ra và đầu vào là dương.
Mặt khác, cũng với một mức chi phí trả lãi bìnhquân, sự đa dạng hoa trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hoá lãi suất làm tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà Ngân hàng đưa ra. Nếu có chính sách lãi suất phù hợp, hiệu quả Ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch về nguồn vốn.
Chi phí khác:
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất, trong quá trình huy động vốn Ngân hàng còn phải chịu một số chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động vốn, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo …
Nếu Ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn vì không cạnh tranh được với các Ngân hàng khác. Do đó Ngân hàng cần phải giảm thiểu chi phí khác.
3.2.3. Độ đa dạng hoá các hình thức huy động.
Số lượng các công cụ huy động:
Tuỳ theo đặc điểm kinh doanh mà mỗi Ngân hàng áp dụng một hệ thống các công cụ khác nhau trong quá trình huy động vốn. Số lượng các công cụ này tuỳ thuộc và cũng là một yếu tốt phản ánh năng lực của một Ngân hàng. Chỉ những Ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú, có trình độ nhân viên cao, năng lực quản lý tốt mới có đủ điều kiện phát triển nhiều loại công cụ huy động vốn khác nhau.
Sự đa dạng về kỳ hạn và các loại tiền tệ được sử dụng:
Đó là khả năng huy động các nguồn vốn với các kỳ hạn khác nhau trong đó có cả ngoại tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Nhờ đó Ngân hàng đạt được cơ cấu về kỳ hạn và loại tền mong muốn để đáp ứng được tối đa các nhu cầu sử dụng vốn tránh tình trạng thừa vốn ngắn hạn trong khi thiếu vốn trung dài hạn, thừa vốn nội tệ thiếu vốn ngoại tệ.
3.2.4. Một số chỉ tiêu khác.
Ngoài các chỉ tiêu chính trên ,hiệu quả công tác huy động vốn còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau:
Mức độ hoạt động của vốn huy động:
Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn .Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt (trong điều kiện vẫn đảm bao các giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh) điều này được thể hiện nguồn vốn huy động được sử dụng tối đa.
Mức độ thuận tiện khách hàng:
Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền ,rút tiền,cá dịch vụ kèm theo của NH.Tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng .
Thời gian để huy động một lượng vốn nhất định .
Một số chi tiêu khác như số lượng vốn bị rút ra trước hạn ,kỳ hạn thực tế của nguồn vốn .
Trên đây là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn .Tuy nhiên,sử dụng một chỉ tiêu thì không thể phản ánh đầy đủ được ,mà cần phải kết hợp nhiều chỉ tiêu thì mới đánh giá đúng và thực chất hiệu quả công tác huy động vốn tại một NHTM.
3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cho vay.
Trong hoạt động của NHTM thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
3.3.1. Vốn huy động / Tổng nguồn vốn
TỔNG VỐN HUY ĐỘNG
VHĐ/TNV = –—–—–—–—–—–—–—–—– × 100%
TỔNG NGUỒN VỐN
Tỷ số này nhằm đánh giá khả năng huy động vốn của ngân hàng. Đối với NHTM nếu tỷ số này càng cao thì khả năng chủ động của Ngân hàng càng lớn.
3.3.2. Vốn huy động có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn
VHĐ CÓ KỲ HẠN
VHĐCKH/TNV = –—–———————— × 100%
TỔNG NGUỒN VỐN
Tỷ số này cho biết tính ổn định vững chắc của nguồn vốn huy động tại môt tổ chức tín dụng.Tỷ số này càng lớn thì nguồn vốn huy động càng ổn định.
3.3.3 Dư nợ / Tổng nguồn vốn
DƯ NỢ
DN/TNV = –————————— × 100%
TỔNG NGUỒN VỐN
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá mức độ tập trung vốn tín dụng của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động của ngân hàng ổn định và có hiệu quả. Ngược lại ngân hàng đang gặp khó khăn nhất là khâu tìm kiếm khách hàng.
3.3.4. Dư nợ / Tổng vốn huy động
DƯ NỢ
DN/TVHĐ = ———————————— × 100%
TỔNG VỐN HUY ĐỘNG
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng vốn huy động tham gia vào dư nợ. Nó còn cho biết khả năng huy động vốn tại địa phương của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này lớn thì vốn huy động tham gia vào dư nợ ít, khả năng huy động vốn của ngân hàng chưa cao.
3.3.5. Nợ quá hạn / Dư nợ
NỢ QUÁ HẠN
NQH/DN = ———————— × 100%
DƯ NỢ
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả tín dụng và chất lượng tín dụng. Nếu tỷ lệ này thấp thì chất lượng tín dụng cao và ngược lại.
4.Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn.
4.1. Ảnh hưởng của thẩm định tín dụng :
Khi quyết định cung cấp một khoản vay, các ngân hàng bắt buộc phải có sự thẩm định, thông qua đó, có thể đánh giá được tính hợp lý hiệu quả của dự án đầu tư và đó cũng chính là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng các khoản vay. Đặc biệt, những khoản vay trung và dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro, khả năng linh hoạt kém nên thông qua công tác thẩm định, có thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho vay khối lượng bao nhiêu, thời gian bao lâu, từ đó bảo đảm tính ổn định của cho vay.
4.2.Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng :
Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong ngân hàng cung cấp những khoản vay. Hơn nữa đánh giá rủi ro là công việc hết sức khó khăn do tính biến động và những yếu tố chủ quan từ nhiêu phía.
4.3. Ảnh hưởng của lãi suất cho vay:
Từ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường, chính sách cho vay và các hoạt động cho vay là những vấn đề phức tạp. chính sách lãi suất phải thực sự là đòn bẩy kinh tế khuyến khích sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng thời phải là công cụ đấu tranh chống cho vay nặng lãi và hạn chế những tiêu cực trong hoạt động cho vay. Chúng ta biết hai chức năng cơ bản của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn mặc dù các dịch vụ kinh doanh mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng nhưng rõ ràng hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng vẫn là những hoạt động với vai trò như một trung gian tài chính, thanh toán lãi suất cho phần tiền gửi của khách hàng và tính lãi suất đối với những khoản tiền cho khách hàng vay.
Với lãi suất cho vay quá cao : Tạo ra sự ngưng đọng vốn do doanh nghiệp không chịu được mức chi phí cao đó nên họ ngừng xin việc vay vốn. Trong một khoản thời gian tương đối dài như vậy những biến động tiêu cực lẫn tích cực, ngân hàng không thể dự đoán trước chắc chắn về khả năng sinh lời của mình trong tương lai. Do đó, sẽ phát sinh hiện tượng vốn vẫn đọng trong két của ngân hàng trong khi đó ở bên ngoài, các doanh nghiệp, hộ gia đình vẫn đang cố tìm kiến những khoản vốn vay với mức chi phí tối thiểu. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải thường xuyên phải trả lãi cho những khoản tiền gửi, những khoản đi vay của mình. Vì vậy, lãi suất cho vay quá cao sẽ gây “ ách tắc” trong hoạt động cho vay.
Lãi suất cho vay quá thấp : Xảy ra hiện tượng nhu cầu về các khoản vay của các doanh nghiệp, hộ gia đình trở nên tăng. Với điều kiện nền kinh tế còn nhiều biến động, tỷ trọng tiền gửi trung và dài hạn / Tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng là thấp, ngân hàng phải tăng cường các hình thức huy động vốn, “ đi vay để cho vay ” để có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu vay vốn trên. Chính vì vậy, hoạt động cho vay sẽ trở nên khó khăn nếu một mắt xích nào đó trong qú trình lưu chuyển vốn bị đứt hay đột ngột chững lại. Lúc đó khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ không thể đáp ứng, gây lên phản ứng lan truyền “ khủng hoảng ngân hàng” và mất đi độ tín nhiệm của khách hàng đối vớí ngân hàng đó.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM (EXIMBANK) – CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
I. Khái quát tình hình KT-XH Tp.Hà Nội và giới thiệu khái quát về Eximbank – Láng Hạ.
1. Khái quát tình hình KT-XH của TP Hà Nội năm 2007.
Dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ, HĐND và UBND, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội trong năm qua.
GDP của Hà Nội ước tính 12,1% cao nhất trong 10 năm nay. Khu vực đầu tư nước ngoài và kinh tế nhà nước ở lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng cao : trên dưới 30%.
HN đã hoàn thành trong năm nay việc sắp xếp, cổ phần hóa 20 doanh nghiệp, xuất khẩu trên địa bàn tăng đến 20%, đạt trên 4 tỷ USD. Thành phố đã đón trên 1,2 triệu khách du lịch, giá trị tăng thêm của dịch vụ tài chính ngân hàng cũng ở mức kỷ lục: hơn 20%.
HN là một trong 2 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với 290 dự án và tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Hiện trên 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài có trụ sở ở HN.
Thành phố thu ngân sách khoảng 45.709 tỷ đồng, tương đương 102% dự toán giao đầu năm.
Về quản lý và xây dựng đô thị: "Hiện tượng lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép đã giảm".
Về giao thông, UBND thành phố báo cáo nhiều thành tích: ban hành và thực hiện đề án nhằm giảm ùn tắc, đưa vào sử dụng 2 cầu vượt cho người đi bộ, kiểm soát được tai nạn, duy trì tốt hoạt động của các tuyến xe buýt...
Thành phố cũng cho rằng, đã tập trung giải quyết các vấn đề dân sinh bức xúc. Các chỉ tiêu về giáo dục, y tế đều đạt và vượt kế hoạch, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật phòng chống tham nhũng đều được thực hiện nghiêm ở "tất cả các cấp, các ngành".
Về hạn chế, yếu kém cần khắc phục: Ngành dịch vụ phát triển chưa tương xứng tiềm năng, công tác quy hoạch cũng như tiến độ xây dựng cơ bản còn chậm, hiệu quả phối hợp trong cải cách hành chính chưa cao...
Năm 2008, thành phố đặt mức phấn đấu tăng trưởng kinh tế từ 12,5-13%.
2. Tình hình tổ chức và mạng lưới hoạt động của Eximbank – Láng Hạ.
2.1. Tình hình tổ chức.
(Bảng 1)
2.2. Mạng lưới hoạt động :
- Trụ sở chi nhánh : 60 Láng Hạ - Q.Đống Đa – TP.Hà Nội.
- Phòng giao dịch trực thuộc :
+ Phòng giao dịch Hàng Bông : 169,171 Hàng Bông, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
+ Phòng giao dịch Mỹ Đình : Tòa nhà The Manor.
2.3. Chức năng và nhiệm vụ chính của các đơn vị thuộc chi nhánh.
- Ban giám đốc.
Gồm 1 Giám Đốc và 1 Phó Giám Đốc.
+ Đây là trung tâm quản lý mọi hoạt động của chi nhánh. Hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của cấp trên giao.
+ Quyết định những vấn đề liên quan đến tổ chức, bãi nhiệm, khen thưởng và kỷ luật … của cán bộ công nhân viên đơn vị
+ Đại diện chi nhánh ký kết hợp đồng với khách hàng.
+ Nơi xét duyệt, thiết lập các chính sách và đề ra các chiến lược hoạt động phát triển kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
+ Xử lý và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xử lý các tổ chức và cá nhân vi phạm chế độ tiền tệ, tín dụng, thanh toán của chi nhánh.
Phòng Hành Chính – Ngân Quỹ.
+Là tham mưu cho Ban Giám đốctrong công tác quy hoạch đào tạo cán bộ của chi nhánh, đề xuất các vấn đề có liên quan đến công tác nhân sự của chi nhánh,ngoài ra còn là bộ phận thực hiện các chế độ lao động, tiền lương, thi đua khen thưởng và kỷ luật.
+Thực hiện nhiệm vụ soạn thảo các văn bản về nội quy cơ quan, chế độ thời gian làm việc, thực hiện các chế độ an toàn lao động, qui định phân phối quỹ tiền lương, xây dựng chương trình nội dung thi đua nhằm nâng cao năng suất lao động.
+Ngoài ra, ở đây còn thực hiện công tác mua sắm tài sản và công cụ hoạt động kinh doanh của chi nhánh, quản lý tài sản, đảm bảo trang thiết bị, dụng cụ làm việc, và chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên.
+Là nơi thực hiện việc thu chi tiền mặt trên cơ sở có chứng từ phát sinh, đảm bảo thực hiện chính xác kịp thời đúng chế độ kho quỹ. Phát hiện và ngăn chặn tiền giả, xác định tiền đúng tiêu chuẩn lưu thông, là nơi bảo quản tiền mặt, các giấy tờ, chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp.
- Phòng Kinh Doanh – Dịch Vụ.
Tham gia xây dựng chiến lược kinh doanh, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của các đơn vị vay vốn. Là nơi lập, thẩm định hồ sơ quay vốn và đề xuất cho vay hay không cho vay trước khi trình Ban Giám đốc phê duyệt, thực hiện nghiệp vụ có liên quan đến quá trình xuất nhập khẩu của các đơn vị quốc doanh, ngoài quốc doanh với các doanh ngiệp nước ngoài. Đây là bộ phận quan trọng quyết định đầu ra cho chi nhánh và chịu trách nhiệm về các khoản đầu tư đó.
II.Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Eximbank – Chi nhánh Láng Hạ.
1. Cơ cấu nguồn vốn.
Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, nên bất kỳ một tổ chức nào muốn hoạt động tốt đem lại hiệu quả kinh tế cao thì trước tiên phải có nguồn vốn dồi dào. Khi các thành phần kinh tế bị thiếu vốn hoạt động, họ đến ngân hàng xin vay và ngân hàng hoạt động chủ yếu là cung cấp vốn tín dụng cho các tổ chức kinh tế khi có nhu cầu về vốn. Vì vậy, một ngân hàng muốn đứng vững trên thương trường trước tiên là nguồn vốn của ngân hàng phải đủ lớn mới đảm bảo hoạt động tín dụng được thuận lợi nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế. Trong quá trình hoạt động ngân hàng phải mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá các hình thức huy động để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, hay các doanh nghiệp để phân phối lại những nơi cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn hoạt động của ngân hàng tăng trưởng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng vừa đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế và dân cư.
E._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30448.doc