Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn

Lời nói đầu Mục tiêu hàng đầu của bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nào cũng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Để đạt được điều này thì doanh nghiệp cần phải có nhiều nhân tố khác nhau.Trong đó việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng để làm nên điều đó. Đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, quá trình quản lý và sử dụng vốn ở các doanh nghiệp này đã có nhiều thay đổi kể từ khi chúng ta chuyển đổi cơ chế từ tập trung quan liêu

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong thời kỳ bao cấp các doanh nghiệp hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Nhà nước , vốn do Nhà nước bao cấp, cấp phát hầu như toàn bộ. Vì thế vai trò khai thác , thu hồi vốn, sử dụng vốn như thế nào đã không được đặt ra như một nhu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp . Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, do không được bao cấp như trước nữa nên vấn đề nóng bỏng đặt ra cho các doanh nghiệp thời kỳ này là vốn và sử dụng vốn. Một doanh nghiệp muốn phát triển và có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thì cần phải có đủ vốn và phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có hiệu quả. Do đó, doanh nghiệp phải đổi mới cơ chế quản lý vốn và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn . Qua những chỉ tiêu này, doanh nghiệp có thể đánh giá được mình về phương diện sử dụng vốn , khả năng khai thác các tiềm năng có sẵn để biết mình đang ở cung đoạn nào trong quá trình sản xuất, đứng ở vị trí nào trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ... Xuất phát từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại Công ty xi măng Bỉm Sơn thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam , được sự giúp đỡ trực tiếp của anh LÊ HUY QUÂN và các cán bộ khác trong phòng kế toán - thống kê -tài chính của Công ty, cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo_ tiến sĩ Vũ Duy Hào, tôi đã tiến hành phân tích những số liệu tài chính của công ty trong những năm gần đây để đánh giá những mặt đã đạt được cũng như những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn của công ty. Trên cơ sở đó tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với hy vọng có thể góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm Sơn trong thời gian tới, thông qua đề tài: “ Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm sơn” Bố cục đề tài gồm 3 phần chính : Phần 1: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Phần 2: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm Sơn. Phần 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xi măng Bỉm Sơn. Phần I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp I. Vốn và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm : Trước khi một hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thì các doanh nghiệp phải tìm kiếm, huy động các yếu tố, các nguồn lực đầu vào cho hoạt động đó. Một trong những nguồn lực quan trọng mà mọi doanh nghiệp đều phải huy động đó là nguồn vốn. Theo Marx, vốn là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Quan điểm này của Marx có tính chất khái quát lớn nhưng nó cũng có chỗ hạn chế đó là cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị thặng dư và chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau cũng có những quan điểm khác nhau về vốn.Theo P.Samuelson thì vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một trong ba yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (vốn, lao động, đất đai). Như vậy vốn ở đây được xem xét ở hình thái hiện vật, là tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong cuốn "Kinh tế học " của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các loại giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp. Các quan điểm về vốn ở trên tuy đã thể hiện được vai trò, tác dụng của vốn trong những điều kiện lịch sử cụ thể phù hợp với yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự đồng nhất giữa vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được quan niệm là một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là của cả quá trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp . Theo đó vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật tư, hàng hoá, tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là một yếu tố rất quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nhận thức đúng đắn về vốn cũng như những đặc trưng của vốn từ đó mà làm cho công tác quản lý sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm giúp doanh nghiệp có được một cơ sở vững chắc để đạt được nhiều thành công hơn trên thương trường. Căn cứ vào khái niệm trên ta có thể thấy vốn có những đặc trưng cơ bản sau: Vốn được biểu hiện bằng các tài sản của doanh nghiệp, nó có thể ở dưới dạng hữu hình hoặc vô hình. Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh là nhằm mục tiêu sinh lời, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mà để doanh nghiệp đạt được mục tiêu sinh lợi và lợi nhuận thì đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động được một số vốn đạt đến một mức độ nhất định tuỳ theo quy mô, đặc điểm và loại hình doanh nghiệp. Vốn có giá trị về mặt thời gian. ở các thời điểm khác nhau thì giá trị của một đồng vốn cũng khác nhau. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tính toán, lựa chọn phương án đầu tư và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ. Vì vậy đòi hỏi phải xác định được ai là chủ sở hữu đích thực của vốn và phải thực hiện công tác quản lý vốn một cách chặt chẽ hơn . Vốn là một hàng hoá đặc biệt, nó có thể được đem trao đổi trên thị trường, tạo nên sự sôi động hơn trên thị trường vốn nói riêng và thị trường tài chính nói chung. 2. Phân loại vốn: Để tiến hành phân loại vốn thì có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại như theo phương thức chu chuyển, theo nguồn hình thành, theo thời gian huy động và sử dụng vốn ,...Tuỳ theo mục đích của việc nghiên cứu mà ta lựa chọn tiêu thức phân loại sao cho phù hợp nhất. Chẳng hạn để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, người ta thường phân loại vốn theo phương thức chu chuyển , tức là phân chia vốn làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. 2.1. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển : 2.1.1. Vốn cố định : Vốn cố định có hình thái biểu hiện vật chất là các tài sản cố định của doanh nghiệp, vì vậy việc nghiên cứu vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định. a)Tài sản cố định: Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải cần có tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó giá trị của tư liệu lao động bị giảm đi (do giá trị của chúng được dịch chuyển dần từng phần vào giá trị của sản phẩm) nhưng giá trị sử dụng vẫn như ban đầu. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu của doanh nghiệp, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nó không thay đổi hình thái vật chất ban đầu, nó có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm. Bộ phận chuyển dịch vào trong giá trị của sản phẩm mới tạo nên một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm và được thu hồi sau khi sản phẩm được tiêu thụ và dưới hình thức trích khấu hao tài sản cố định. Nhà nước ta quy định tài sản cố định là những tư liệu lao động có đủ hai điều kiện sau đây: -Thời gian sử dụng tối thiểu là một năm. -Giá trị phải đạt đến một độ lớn nhất định. Để cho công tác quản lý sử dụng tài sản cố định có hiệu quả hơn, người ta tiến hành phân loại tài sản cố định ra làm hai loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. -Tài sản cố định hữu hình : Bao gồm các loại sau: Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc. Loại 2: Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý Loại 5: Cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm. Loại 6: Tài sản cố định khác -Tài sản cố định vô hình: Là những tư liệu lao động không có hình thái vật chất cụ thể nhưng có đủ hai điều kiện của tài sản cố định. Chẳng hạn như: Lợi thế thương mại, uy tín công ty , nhãn hiệu sản phẩm... b) Vốn cố định: Vốn cố định là bộ phận vốn ứng ra để hình thành tài sản cố định. Nói cách khác vốn cố định là giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đầu tư vào tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế quy mô của vốn cố định sẽ quyết định đến quy mô của tài sản cố định, song chính sự vận động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Vốn cố định tham gia vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh , sở dĩ nó có đặc điểm này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào sản xuất, tài sản cố định không bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu, nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng bị giảm đi, mặt khác giá trị của tài sản cố định bị giảm đi còn do sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra các tài sản cố định cùng loại rẻ hơn hoặc tốt hơn, hiện đại hơn. Bộ phận giá trị hao mòn này chuyển vào giá trị của sản phẩm, điều đó quyết định đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ: Vốn dưới hình thái hiện vật và vốn bằng tiền. Phần giá trị tài sản cố định ứng với mức hao mòn được chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm gọi là khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Bộ phận giá trị này là yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành lên giá thành của sản phẩm. Hình thái tiền tệ của phần giá trị này được gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Tiền khấu hao tài sản cố định được tích luỹ lại qua nhiều quá trình sản xuất kinh doanh và được gọi là vốn tiền tệ của doanh nghiệp. Bộ phận này dùng để tái đầu tư vào tài sản cố định nhằm duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, và vốn tiền tệ của doanh nghiệp được tăng dần lên qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Phần giá trị còn lại của tài sản cố định được "cố định " lại trong hình thái hiện vật của tài sản cố định. Phần giá trị này giảm dần qua các chu kỳ cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn tiền tệ đạt đến giá trị ứng ra ban đầu về tài sản cố định. Vốn cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển. Thông thường vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo quy luật riêng. Do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2.1.2 Vốn lưu động: a)Tài sản lưu động: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh tài sản cố định thì doanh nghiệp còn có một lượng tài sản nhất định nằm trong các khâu của quá trình kinh doanh: dự trữ vật tư hàng hoá chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm,...đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu là đối tượng lao động, ngoài ra còn có các tư liệu lao động nhưng không đủ điều kiện để trở thành tài sản cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động này không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu của nó. Bộ phận chủ yếu của tài sản lưu động sẽ thông qua quá trình sản xuất để trở thành thực thể của sản phẩm, bộ phận ít khác thì sẽ mất đi trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh , do đó giá trị của chúng được chuyển toàn bộ vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá. Để cho quá trình sản xuất kinh doanh là liên tục thì tài sản lưu động phải không ngừng vận động. ở các khâu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động cũng được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau và được phân thành ba loại : -Tài sản lưu động trong khâu dự trữ: là bộ phận tài sản lưu động dùng để chuẩn bị , dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh như: nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng dùng để thay thế sửa chữa...nhằm để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. -Tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất: là những tài sản lưu động tham gia vào quá trình sản xuất. Dưới tác động của tư liệu lao động và sức lao động, thì hình thái vật chất của những tài sản lưu động này sẽ bị thay đổi và chuyển vào sản phẩm hay bị mất đi. -Tài sản lưu động trong khâu lưu thông: là các tài sản lưu động đang được hoàn thiện ở khâu cuối cùng. Kết thúc quá trình này thì giá trị của tài sản lưu động được thực hiện. b)Vốn lưu động của doanh nghiệp: Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên liên tục. Trong quá trình sản xuất , vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và sau đó quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục do đó vốn lưu động cũng vận động tuần hoàn không ngừng theo chu kỳ. Đó là sự chu chuyển của vốn lưu động. Căn cứ vào công dụng của tài sản lưu động, người ta tiến hành phân chia vốn lưu động thành ba loại là: -Vốn lưu động trong khâu dự trữ: đó là giá trị nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng... -Vốn lưu động trong khâu sản xuất: đó là giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các phí tổn được phân bổ,… -Vốn lưu động trong khâu lưu thông: là giá trị thành phẩm, hàng hoá mua ngoài... 2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành: 2.2.1. Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là số vốn do những người sở hữu doanh nghiệp, những nhà đầu tư ứng ra để thành lập và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những người chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể là Nhà nước hay chủ doanh nghiệp, các tổ chức hay cá nhân... Có thể chia vốn chủ sở hữu làm ba loại là: Vốn góp: là số vốn do các tổ chức, cá nhân ( chủ doanh nghiệp) đóng góp và được ghi vào vốn điều lệ của doanh nghiệp (số vốn điều lệ này phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định- là mức vốn tối thiểu để doanh nghiệp được thành lập do Nhà nước quy định ). Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì phần lớn vốn góp là do Nhà nước đầu tư. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, vốn góp là do các thành viên hoặc cổ đông đóng góp được ghi trong điều lệ của công ty. Lợi nhuận không chia: là phần lợi nhuận không chia cho các chủ sở hữu mà được dùng để tái đầu tư vào doanh nghiệp, do đó làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây là một nguồn vốn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là ở các công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn chủ sở hữu khác: là vốn lấy từ các quỹ của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính,... để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh . Ngoài ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước còn có phần khấu hao tài sản cố định được để lại doanh nghiệp để đầu tư, thay thế , đổi mới tài sản cố định. 2.2.2. Vốn huy động của doanh nghiệp: Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì vốn chủ sở hữu đóng vai trò rất quan trọng nhưng không phải là tất cả nguồn vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều là vốn chủ sở hữu. Để đáp ứng nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể huy động dưới nhiều hình thức khác nhau như: vay nợ, liên doanh liên kết, đi thuê và các hình thức khác. Vốn vay: là vốn mà doanh nghiệp huy động được bằng cách đi vay các cá nhân, đơn vị kinh tế hoặc đi vay trên thị trường tài chính. Trong vốn vay thì vay của ngân hàng và các tổ chức tính dụng là rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nguồn vốn này rất linh hoạt, nó có thể là vốn vay ngắn hạn, trung hoặc dài hạn tuỳ theo nhu cầu của doanh nghiệp và sự thoả thuận giữa doanh nghiệp với ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu về vốn dài hạn thì doanh nghiệp có thể đi vay thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu của công ty. Vốn liên doanh liên kết: là vốn do các bên tham gia liên doanh, liên kết hợp tác sản xuất với doanh nghiệp đóng góp. Đây là hình thức huy động quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh liên kết thường gắn liền với việc chuyển giao công nghệ thiết bị giữa các bên tham gia nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, đổi mới sản phẩm,..tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vốn tín dụng thương mại: là các vốn có nguồn gốc từ các khoản mua chịu từ người cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp hay là các khoản ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại là hình thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Vốn tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp có cách quản lý một cách khoa học thì nó có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu về vốn lưu động cho doanh nghiệp, và khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hình thức tín dụng thương mại này cũng phát triển theo. Vốn tín dụng thuê mua: là phần giá trị tài sản có được do đi thuê trên thị trường.Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức giúp cho doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết để sử dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là phương thức huy động thông qua hợp đồng thuê giữa người đi thuê và người cho thuê. Người đi thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho thuê, người cho thuê là người chủ sở hữu tài sản và nhận được tiền cho thuê tài sản. 2.3. Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng: Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn, người ta phân chia vốn của doanh nghiệp thành hai loại: vốn thường xuyên và vốn tạm thời 2.3.1 Vốn thường xuyên: Vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp, đây là nguồn vốn ổn định và lâu dài. Doanh nghiệp có thể sử dụng nó để mua sắm tài sản cố định và một phần tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Vốn tạm thời Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động Vốn thường xuyên Nợ dài hạn Tài sản cố định Vốn chủ sở hữu 2.3.2. Vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Việc phân loại vốn thành vốn thường xuyên và vốn tạm thời giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian và mục đích sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cách phân loại này còn giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô , lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó để tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. Trên đây là một số cách phân loại vốn cơ bản thường được sử dụng trong các doanh nghiệp, ngoài ra còn tùy thuộc vào các mục đích nghiên cứu và mục tiêu quản lý vốn mà sẽ có các cách phân loại vốn khác nữa. 3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp: Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dù ở bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và là cơ sở để mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì một trong những điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định, khi đó thì về mặt pháp lý doanh nghiệp mới được công nhận. Ngược lại thì việc thành lập doanh nghiệp là không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đủ điều kiện mà pháp luật quy định thì doanh nghiệp sẽ bị dừng hoạt động. Như vậy, vốn có thể được xem như là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại về tư cách pháp lý của doanh nghiệp trước pháp luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo cho khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp được diễn ra thường xuyên liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ hơn trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được thường xuyên liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và có lợi thế hơn trong cạnh tranh. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng quy mô của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư để mở rộng quy mô, phạm vi sản xuất và thâm nhập được vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các doanh nghiệp đều sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh bởi vậy vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để tồn tại và phát triển, tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và tìm cách hạ giá thành hợp lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Muốn vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn, nhu cầu về vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang còn là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. II. Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp: Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn: Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn ... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong công tác quản lý và sử dụng vốn. Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính ( thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán... ) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong thời gian tới; so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp; so sánh số thực hiện của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được... Phương pháp tỷ lệ: trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào từng giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các hoạt động bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì một số lý do chủ yếu sau: Tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở bất cứ quy mô, lĩnh vực nào đều cần thiết có một lượng vốn nhất định. Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đầy đủ và kịp thời. Do đó việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho các doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh. Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giúp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt ở các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay lớn. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm cách để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Trước đây trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp coi nguồn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với " cho không " nên khi sử dụng vốn, nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả của nó, kinh doanh thua lỗ thì đã có nhà nước bù đắp gây nên tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn và hiệu quả kinh tế thấp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng vốn một cách chặt chẽ hơn. Mặt khác việc quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn khác trước là doanh nghiệp phải bảo toàn vốn kể cả khi trượt giá và phải đầu tư để mở rộng, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh là một quy luật của kinh tế thị trường, để tăng khả năng cạnh tranh của mình thì đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn vốn để đảm bảo đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ... nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Chỉ có như vậy do._.anh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy vốn trở thành động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và việc huy động, quản lý sử dụng hiệu quả vốn đã trở thành yêu cầu bức bách. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, đây là một vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp huy động các nguồn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp có đủ tiềm lực để khắc phục những khó khăn và hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, ... đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đủ lớn, trong khi vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì thế việc tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục đích khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động ... Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: Mục đích của doanh nghiệp là làm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải khai thác tối đa và sử dụng triệt để các nguồn lực có sẵn , nên việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đảm bảo phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: 3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: -Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Trong đó vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ.Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. -Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng trong kỳ và lượng vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đối với doanh nghiệp thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Hai chỉ tiêu trên dùng để đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn cố định, ngoài ra chúng ta có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định gián tiếp thông qua đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định do tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định như ta đã trình bày ở phần trước. -Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng Tài sản cố định = Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Trong đó nguyên giá tài sản cố định bình quân trong kỳ là bình quân nguyên giá của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ và chỉ tiêu này càng lớn thì càng tốt. -Sức sinh lời của tài sản cố định: Sức sinh lời của tài sản cố định = Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là có hiệu quả. 3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, càng tiết kiệm được vốn cho doanh nghiệp và ngược lại. -Sức sinh lợi của vốn lưu động: Sức sinh lợi của vốn lưu động = Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Đồng thời để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn vì trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Do đó nếu đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển người ta dùng các chỉ tiêu sau: Số vòng quay của vốn lưu động: Số vòng quay của vốn lưu động = Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Thời gian của một vòng luân chuyển: Thời gian của một vòng luân chuyển = Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay được nhiều vòng hơn. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn: 1. Các nhân tố khách quan: 1.1 Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến doanh nghiệp, như khí hậu thời tiết, môi trường...Ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng ít hơn. Tuy nhiên nếu được hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường tự nhiên phù hợp thì năng suất lao động sẽ được tăng lên, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn cũng được nâng lên. 1.2. Môi trường pháp lý: Là hệ thống các chủ trương chính sách, luật pháp ... liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của nhà nước chỉ thực hiện thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, các điều luật chứ không can thiệp trực tiếp mà giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp. 1.3. Môi trường kinh tế: Là tổng thể của các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá...các yếu tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.4. Môi trường chính trị văn hoá xã hội: Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp là đều nhằm tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Do đó phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu như hoạt động trong môi trường văn hoá lành mạnh, chính trị ổn định thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được nâng cao. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của yếu tố này. 1.5.Môi trường kỹ thuật công nghệ: Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức mới. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng phải có sự điều chỉnh tính toán sao cho có hiệu quả để phù hợp với xu thế này. 2. Các nhân tố chủ quan: 2.1. Trình độ của lực lượng lao động: Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo: vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Sự điều hành và quản lý sử dụng vốn hiệu quả thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển. Trình độ tay nghề của người lao động: Nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề cao phù hợp với trình độ công nghệ của dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng mày móc thiết bị sẽ tốt hơn, sẽ khai thác được tối đa công suất của máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh: Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trải qua ba giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ: -Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cũng như nguyên vật liệu, lao động...nó bao gồm hoạt động mua và dự trữ. Một doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là doanh nghiệp đó đã xác định được lượng phù hợp của từng loại nguyên nhiên vật liệu, số lượng lao động cần thiết và doanh nghiệp đã biết kết hợp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra để đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá đầu vào phải được đảm bảo, chi phí mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ làđảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh nên đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì phải xác định được mức dự trữ hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản. -Khâu sản xuất ( đối với các doanh nghiệp thương mại không có khâu này ): trong giai đoạn này phải sắp xếp dây truyền sản xuất cũng như lượng nhân công sao cho việc sử dụng máy móc thiết bị là có hiệu quả nhất, khai thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy móc đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm. - Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu đồng thời cũng phải có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất. Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn : đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán - tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết. 2.2. Đặc điểm của sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau sẽ khác nhau về đặc điểm sản phẩm, quy trình sản xuất, thị trường... do đó hiệu quả sử dụng vốn khác nhau. Chẳng hạn nếu chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngắn thì doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất sản xuất kinh doanh dài doanh nghiệp sẽ lâu thu hồi được vốn nên phải gánh chịu một chi phí vốn nhất định nào đó . Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá... thì sẽ có vòng đời ngắn, sản phẩm tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do đó doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghệ có giá trị lớn như máy móc thiết bị ... việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn. Phần II : Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm sơn I. Một số nét về công ty xi măng Bỉm Sơn: 1. Quá trình hình thành và phát triển: Cuối thập kỷ 60, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định chiến lược xây dựng nhất là xây dựng các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng để ngay sau khi thống nhất nước nhà, nhân dân ta có thể bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng kiến thiết đất nước. Sau một quá trình thăm dò khảo sát kéo dài từ năm 1968 đến 1976, cùng với sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô, Đảng và Nhà nước đã quyết định xây dựng một nhà máy xi măng tại thị xã Bỉm Sơn tỉnh Thanh Hoá. Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được thành lập theo quyết định số 334/BXD – TCCB ngày 04/03/1980. Đến ngày 03/02/1982, dây chuyền số một của nhà máy chính thức đi vào hoạt động , nhân kỷ niệm 66 năm ngày cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại , ngày 6/11/1983 dây chuyền sản xuất số hai của nhà máy đã được hoàn thành và chính thức đưa vào sản xuất . Tuy ra đời sau các nhà máy xi măng khác như: Hải Phòng, Hà Tiên nên kinh nghiệm chưa nhiều nhưng nhờ dây chuyền công nghệ hiện đại hơn, đồng bộ hơn do Liên Xô cung cấp (vào thời điểm đó) cùng với sự nổ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên , nhà máy xi măng Bỉm Sơn luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch mà Nhà nước giao cho , đóng góp vào ngân sách ngày càng tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Để phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế cả nước, nhằm thực hiện tổ chức sản xuất kinh doanh được tốt hơn, ngày 1/4/1998 Tổng công ty xi măng Việt Nam đã sát nhập Công ty kinh doanh vật tư xi măng số 4 vào nhà máy xi măng Bỉm Sơn và chính thức đổi tên thành “Công ty xi măng Bỉm Sơn” đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty xi măng Việt nam và Bộ xây dựng. Ngày 08/01/1998, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 04/1999/ QĐ-TTg về việc chuyển phân xưởng may bao thuộc Công ty Xi Măng Bỉm Sơn thành Công ty Cổ phần bao Bì Bỉm Sơn. Công ty Xi Măng Bỉm Sơn là doanh nghiệp nhà nước , có trụ sở đặt tại phường Ba Đình – Thị Xã Bỉm Sơn – Tỉnh Thanh Hóa. Giấy phép đăng ký kinh doanh : DI 109087 do Bộ xây dựng cấp Có tài khoản số: 710A00002 Ngân hàng Công thương Bỉm Sơn 7901-0012C Ngân hàng đầu tư Bỉm Sơn 431101.000065 Ngân hàng Nông nghiệp Bỉm Sơn 00.3700.0112.0 Ngân hàng Việt – Lào (VND) 37.7300.0074.5 Ngân hàng Việt – Lào (USD) 51121.02.00.107.001 Quỹ hỗ trợ phát triển Thanh Hoá . Sản phẩm chính của công ty là xi măng PC30, PCB30, PC40 chất lượng đạt tiêu chuẩn Việt Nam. Sản phẩm của công ty đã tham gia xây dựng nhiều công trình quan trọng của quốc gia như bảo tàng Hồ Chí Minh, công trình thuỷ điện Sông Đà, công trình thuỷ điện Yaly, công trình cầu Thông Phong (Lào), công trình cầu Thăng Long, xi măng Bút Sơn, xi măng Nghi Sơn, … Trải qua hơn 20 năm hoạt động, công ty xi măng Bỉm Sơn đã đạt được các danh hiệu: Huân chương lao động hạng ba Cờ thưởng luân lưu của Hội đồng bộ trưởng. Huân chương lao động hạng ba Huân chương lao động hạng hai Bộ xây dựng tặng cờ xuất sắc năm 1999,… Năm 1988 được cấp dấu chất lượng cấp 1 6 năm liên tục( 91- 96) được Bộ Xây dựng và công đoàn ngành tặng cờ chứng nhận sản phẩm chất lượng cao. 8 năm liên tục ( 90-98) được cấp huy chương vàng hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam. 4 năm liên tục( 94-97) được cấp chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn ( sản phẩm có chỉ tiêu chất lượng phù hợp TCVN 2682/1992) Uỷ ban quốc tế của tổ chức BID đã quyết định tặng thưởng “ sao vàng quốc tế” về tinh thần tập thể và chất lượng sản phẩm cho Công ty Xi măng Bỉm Sơn tại thủ đô Madrid-Tây Ban Nha. 6 năm liền (1997-2002) được cấp chứng nhận “hàng Việt Nam chất lượng cao”. Sản phẩm PCB30 đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 679-1989E . Ngày13/ 9/ 2000 Công ty xi măng Bỉm Sơn đạt tiêu chuẩn IS 9002 về quản lý chất lượng 2. Bộ máy tổ chức và quản lý của công ty: Cơ cấu tổ chức của công ty được thể hiện qua sơ đồ ở trang bên . Giám đốc công ty: Đối với Nhà nước và Tổng công ty thì giám đốc chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh mà công ty được giao, chịu trách nhiệm hoàn thành những chỉ tiêu kế hoạch do Tổng Công ty giao . Đồng thời giám đốc trực tiếp điều hành , quản lý phòng kế toán thống kê tài chính, phòng tổ chức lao động, phòng kế hoạch , văn phòng công ty và quản lý các phòng, phân xưởng khác thông qua các phó giám đốc. Giúp việc cho giám đốc là năm phó giám đốc. Phó giám đốc sản xuất: chịu trách nhiệm trước giám đốc về những vấn đề do mình quản lý, bao gồm các phòng : kỹ thuật sản xuất, thí nghiệm KCS, điều độ sản xuất, cung ứng vật tư - thiết bị , kỹ thuật an toàn –vệ sinh công nghiệp; tổng kho và các phân xưởng : Mỏ nguyên liệu, ô tô vận tải , tạo nguyên liệu , lò nung, nghiền xi măng và phân xưởng đóng bao. Phó giám đốc cơ điện : trực tiếp quản lý phòng kỹ thuật cơ khí, phòng năng lượng, phòng quản lý xe máy, xưởng điện tự động, xưởng sửa chữa thiết bị cơ khí chế tạo, sửa chữa công trình và xưởng cấp thoát nước nén khí. Phó giám đốc dự án: Công ty xi măng Bỉm Sơn ra đời đã khá lâu, công nghệ do Liên Xô cung cấp nay đã lạc hậu do đó khả năng cạnh tranh với các xi măng khác là rất khó khăn, để cạnh tranh được thì cần phải được đổi mới dây chuyền công nghệ. Phó giám đốc dự án phụ trách ban quản lý dự án cải tạo và mở rộng dây chuyền công nghệ của công ty. Phó giám đốc kinh doanh: phụ trách vấn đề kinh doanh của công ty, trực tiếp quản lý các chi nhánh của công ty ở các tỉnh Nam Định, Thái Bìmh, Ninh Bình, Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Tĩnh và trung tâm giao dịch tiêu thụ của công ty chịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt động kinh doanh của công ty. Phó giám đốc nội chính: phụ trách các vấn đề trong công ty, trực tiếp quản lý phòng bảo vệ quân sự, phòng quản trị đời sống, trạm y tế. Sau đây là chức năng, nhiệm vụ của một số phòng ban phân xưởng: - Phòng kế toán – thống kê - tài chính: có nhiệm vụ giúp giám đốc quản lý về mặt tài chính, công tác kế toán thống kê để công ty cũng như các bộ phận sản xuất thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách của Nhà nước đồng thời đảm bảo thực hiện quản lý và sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả và kinh doanh có lãi. Phòng kế toán – thống kê - tài chính có 38 người được chia làm 5 bộ phận: * Tổ kế toán tổng hợp: gồm 9 người phụ trách việc lập báo cáo tài chính, tính giá thành sản phẩm, theo dõi tài sản cố định , theo dõi việc thanh toán với người bán, duyệt giá đối với vật tư đầu vào và sản phẩm bán ra. * Kế toán vật tư: gồm 7 người có nhiệm vụ theo dõi việc nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu của công ty và việc hạch toán nội bộ. * Tổ tài chính: gồm 11 người , làm nhiệm vụ theo dõi việc thanh toán đối với công nhân viên, thanh toán các khoản tạm ứng, các khoản phải thu, phải trả và theo dõi việc thanh toán đối với ngân sách Nhà nước. * Tổ kế toán tiêu thụ: gồm 4 người có nhiệm vụ theo dõi và hạch toán đối với các khâu tiêu thụ sản phẩm và các chi nhánh đại lý. * Tổ kế toán nhà ăn: gồm 7 người, có nhiệm vụ theo dõi và hạch toán, thống kê tại các bếp ăn của công ty. Ngoài ra còn có các bộ phận kế toán nằm ở các chi nhánh và trung tâm giao dịch tiêu thụ làm nhiệm vụ kế toán bán hàng và thu chi các khoản được giám đốc và kế toán trưởng phân cấp quản lý. - Phòng kinh tế kế hoạch: là trung tâm tổ chức điều hành quản lý việc lập kế hoạch phát triển công ty, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường. Tính toán đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch mà công ty đã đề ra. -Phòng tổ chức lao động: đây là phòng có nhiệm vụ sắp xếp, điều động cán bộ công nhân viên của công ty sao cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đạt kết quả cao nhất. Đây là một phòng có số công việc tương đối lớn do số cán bộ công nhân viên công ty rất lớn . Cụ thể theo số liệu năm 2001, tổng số công nhân viên công ty:2833 người trong đó nhân viên quản lý: 244 người - Xưởng mỏ nguyên liệu: có chức năng là khai thác, bốc xúc đá vôi, đất sét trên địa bàn đơn vị quản lý; quản lý tài nguyên mỏ được giao; quản lý tài sản, thiết bị máy móc chuyên dùng được giao để phục vụ khai thác. - Xưởng ô tô vận tải: Quản lý tài sản, lao động, tổ chức vận hành và sửa chữa các loại xe, máy phục vụ sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của xưởng. - Xưởng tạo nguyên liệu: Quản lý tài sản, vật tư, lao động, tổ chức vận hành các thiết bị từ máy đập đá vôi, đất sét, vận chuyển đến các thiết bị nghiền bùn, bơm bùn, các đường ống dẫn bùn, giếng bùn, bể chứa bùn, điều chế dữ trữ bùn cung cấp cho lò nung. Đảm bảo các thiết bị hoạt động liên tục, đồng bộ, an toàn nhằm đáp ứng cho yêu cầu sản xuất clinker với chất lượng cao nhất. - Xưởng lò nung: Quản lý tài sản, lao động, vận hành hệ thống các thiết bị từ tiếp liệu bùn đến xilô clinker, các thiết bị tiếp nhận than, kho chứa than, vận chuyển than và tổ hợp máy nghiền sấy than thuộc xưởng quản lý để đảm bảo các thiết bị hoạt động liên tục, đồng bộ, an toàn, nhằm đạt sản lượng clinker với hiệu quả cao nhất. - Xưởng nghiền xi măng: Quản lý lao động, tài sản, phối hợp với phòng điều độ tổ chức vận hành hệ thống các thiết bị đập thạch cao, clinker, phụ gia đến thiết bị nghiền, bơm và vận chuyển xi măng bột vào két chứa, xi lô , đảm bảo thiết bị hoạt động liên tục, đồng bộ, an toàn nhằm nâng cao năng suất chất lượng xi măng, đạt và vượt mức kế hoạch công ty giao với hiệu quả cao nhất. - Xưởng đóng bao: Quản lý lao động, tài sản, tổ chức vận hành hệ thống các thiết bị đóng bao, phối hợp với trung tâm giao dịch tiêu thụ để xuất xi măng bao, xi măng rời lên các loại phương tiện (đường sắt, đường bộ) cho khách hàng đảm bảo số lượng, chất lượng, đúng chủng loại đáp ứng nhu cầu của thị trường với hiệu quả cao nhất. - Xưởng cấp thoát nước nén khí: Quản lý lao động, quản lý tài sản, tổ chức vận hành hệ thống các thiết bị nến khí, bơm và xử lý nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt nhằm đảm bảo cho các thiết bị hoạt động liên tục, an toàn và đạt hiệu quả cao nhất. - Xưởng sửa chữa công trình: Quản lý lao động, tài sản và tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng, sửa chữa kiến trúc các công trình nội bộ, xây vá gạch lò nung và vệ sinh công nghiệp đạt hiệu quả cao nhất. - Xưởng cơ khí: Quản lý lao động, quản lý tài sản, nắm vững các thiết kế của các thiết bị trong dây chuyền sản xuất xi măng để thực hiện công việc gia công chế tạo, sửa chữa và phục hồi thiết bị trong lĩnh vực cơ khí phục vụ cho quá trình sản xuất an toàn, đạt hiệu quả cao nhất. - Xưởng điện tự động: Quản lý vận hành và sửa chữa bảo dưỡng các thiết bị thuộc hệ thống cung cấp điện, thiết bị điện trong phạm vi quản lý của đơn vị được công ty giao. - Xưởng sửa chữa thiết bị: Quản lý lao động, quản lý tài sản, nắm vững thiết kế, cấu tạo các thiết bị, máy móc trong lĩnh vực cơ khí phục vụ sản xuất an toàn và đạt hiệu quả cao. - Trung tâm giao dịch tiêu thụ: là đơn vị trực thuộc công ty, có chức năng tiếp thi, quản lý tiêu thụ sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của công ty, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Tổ chức tiếp thị, dự báo về nhu cầu của thị trường, xây dựng kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm, theo dõi thường xuyên sự biến động của thị trường về giá cả, nhu cầu, chủng loại, thị hiếu người tiêu dùng trên từng địa bàn…. - Các chi nhánh: Chi nhánh công ty xi măng Bỉm Sơn tại các địa bàn là đơn vị trực thuộc công ty, có chức năng kinh doanh tiêu thụ xi măng của công ty, là đơn vị hạch toán phụ thuộc, được mở tài khoản chuyên thu tại ngân hàng, có con dấu theo mẫu quy định. 3. Một số đặc điểm về công nghệ và thị trường của xi măng Bỉm Sơn: 3.1. Quy trình công nghệ của công ty xi măng Bỉm Sơn : Sản phẩm chính của công ty xi măng Bỉm Sơn là xi măng PC30, PCB30 và PC40. Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền đồng bộ do Liên Xô cung cấp. Đây là dây chuyền sản xuất xi măng theo phương pháp ướt nghiền hở với đặc điểm dây chuyền công nghệ chế biến kiểu liên tục, có thể tóm tắt các công đoạn của dây chuyền như sau: Nguyên liệu sản xuất ra xi măng là đá vôi và đá sét được khai thác bằng phương pháp khoan nổ mìn sau đó vận chuyển về nhà máy bằng ô tô. Hỗn hợp hai nguyên liệu (đá vôi và đá sét) được đưa vào máy nghiền. Phối liệu ra khỏi máy nghiền có độ ẩm từ 35 – 36% được điều chỉnh thành phần hoá học trong tám bể chứa có dung tích 800m3/bể. Sau đó phối liệu dưới dạng bùn được đưa vào lò nung thành Klinker (ở dạng hạt). Lò nung có đường kính 5m dài 185m, năng suất một lò là 65 tấn/giờ. Trong quá trình này người ta cho thêm thạch cao và một số chất phụ gia khác để tạo ra thành phẩm. Tuỳ theo từng chủng loại xi măng mà người ta sử dụng các chất phụ gia với tỉ lệ pha khá nhau. Xi măng bột ra khỏi máy nghiền, dùng hệ thống nén khí để chuyển vào 8 xi lô chứa sau đó được chuyển sang xưởng đóng bao. Lúc đó thu được thành phẩm là xi măng bao. Sơ đồ quy trình công nghệ này có thểđược biểu diễn theo sơ đồ sau: Khai thác nguyên liệu Nghiền nguyên liệu Nung clinker Thành phẩm Đóng bao Nghiên xi mawmăng 3.2. Về thị trường của công ty: Trước kia thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty trải khắp cả nước, nhưng sau đó do sự ra đời của nhiều nhà máy sản xuất xi măng với công nghệ tiên tiến hơn nên thị trường của công ty đã bị thu hẹp lại. Sau đây là một số địa bàn chính của thị trường tiêu thụ của công ty: Địa bàn do Công ty vật tư kỹ thuật xi măng quản lý( Hà Nội, Hà Tây, Hoà Bình…). Đây là thị trường tiêu thụ xi măng vào loại lớn nhất của nước ta, với khoảng 2 triệu tấn/năm, đồng thời ở đây cũng tập trung rất nhiều xi măng của các công ty khác nhau nên việc tiêu thụ cạnh tranh rất quyết liệt. Thị phần của Công ty xi măng Bỉm Sơn rất nhỏ(6%) ở địa bàn này và chỉ tiêu thụ được ở một số huyện của tỉnh Hà Tây và vành đai Hà Nội. Địa bàn Thái Bình: Thái Bình là tỉnh thuần nông, các công trình xây dựng lớn không nhiều, ước tính nhu cầu tiêu thụ xi măng trên thị trường này từ 90.000 đến 110.000 tấn/năm, xi măng Bỉm Sơn đang được tiêu dùng ở Thái Bình tin tưởng sử dụng. Nhưng địa bàn này do Tổng công ty phân bổ nên việc mở rộng thị trường, tạo thế chủ động trong kinh doanh của xi măng Bỉm Sơn bị hạn chế , đồng thời do giá bán của xi măng Bỉm Sơn cao hơn giá bán của các loại xi măng khác từ 20.000 đến 30.000 đồng/tấn và việc mở rộng thị trường, tăng cường đưa xi măng Bỉm Sơn về địa bàn này trong các năm qua chưa được chi nhánh Thái Bình chú ý quan tâm nên thị phần của công ty ở đây chỉ đạt 17%. Địa bàn Nam Định, Ninh Bình: hai tỉnh này có nhu cầu xi măng từ 480.000 đến 520.000 tấn/năm, là địa bàn có ít các cơ sở đầu tư xây dựng lớn, với cơ cấu tiêu dùng xi măng là 40%cho xây dựng cơ bản và giao thông nông thôn, 60% cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư , xi măng Bỉm Sơn trên thị trường này uy tín vẫn còn rất cao đối với người tiêu dùng nên thị phần của công ty trên địa bàn này chiếm 40%. Địa bàn Thanh – Nghệ – Tĩnh là một địa bàn có nhu cầu xi măng rất lớn ước khoảng 1 triệu tấn/năm. Từ tháng 7/2000 trở về trước đây là địa bàn truyền thống của xi măng Bỉm Sơn nhưng từ khi có thêm xi măng Nghi Sơn và nay có thêm xi măng Hoàng Mai thì thị trường này cạnh tranh gay gắt và có ưu thế thuộc về xi măng Nghi Sơn. Theo số liệu thống kê năm 2000 thì thị phần của xi măng Bỉm Sơn tại Thanh Hoá là 60%, Nghệ An là 37%, Hà Tĩnh là 50% và thị phần của công ty đang có khả năng giảm dần. Địa bàn miền Trung từ Bình Trị Thiên trở vào: ở địa bàn Bình Trị Thiên thì uy tín của xi măng Bỉm Sơn vẫn còn in đậm trong tiềm thức của mọi người. Thị phần của công ty đang được nâng cao , hiện nay là 40%, việc kinh doanh của công ty không thông qua đại lý nào mà do Công ty KDTCXM Huế đảm nhiệm. Còn ở miền Trung tuy có nhu cầu cao 1 triệu tấn/năm , nhưng xi măng Bỉm Sơn chỉ chiếm một lượng rất ít mặc dù Công ty VLXD & XL Đà Nẵng tích cực tìm cách đẩy mạnh việc tiêu thụ xi măng Bỉm Sơn Thị trường Lào: Đây là một thị trường mà nhu cầu xi măng đang tăng lên. Xi măng Bỉm Sơn có nhiều lợi thế hơn về xuất khẩu so với các nhà máy xi măng khác trong Tổng Công ty và đã được người tiêu dùng Lào chấp nhận. Tuy nhiên do điều kiện vận tải và tài chính của công ty khó khăn nên chưa đáp ứng được việc phát triển thị phần của mình trên thị trường này. II. Thực trạng hiệu quả của việc sử dụng vốn của công ty xi măng Bỉm Sơn: 1.Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua: Ra đời được 22 năm, đã hoạt động sản xuất kinh doanh được 21 năm, xi măng Bỉm Sơn đã đóng góp cho đất nước được khoảng 19 triệu tấn sản phẩm, tham gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm của quốc gia. Trong những năm cuối thập kỷ 90, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực nên đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm sút, nền kinh tế của chúng ta phát triển chậm lại. Điều đó đã làm cho nghành công ngiệp xi măng gặp phải nhiều khó khăn, nhưng xi măng Bỉm Sơn mang biểu tượng con voi trong 5 năm cuối thập niên 90 vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 4,5% so với năm năm đầu 1991-1995( đây là giai đoạn mà toàn nghành nói chung và xi măng Bỉm Sơn nói riêng có tốc độ tăng trưởng cao) và so với 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới tăng 170%. Những năm gần đây xi măng Bỉm Sơn với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty cùng với sự giúp đỡ của lãnh đạo Tổng Công ty xi măng Việt Nam, các cấp uỷ chính quyền trung ương và địa phương, xi măng Bỉm Sơn đã đạt được một số các kết quả nhất định, có thể thấy rõ hơn thông qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 1: Kết qủa sản xuất kinh doanh trong 3 năm qua Đơn vị : Triệu đồng. Số TT Chỉ tiêu Năm Tỉ lệ (%) 1999 2000 2001 00/99 01/00 1 2 3 4 5 6 7 Tổng doanh thu Doanh thu thuần Lợi nhuận trước thuế Tỷxuất LNTT/DTTx100 Nộp NSNN Tổng quỹ lương TNBQ người/tháng 757.945 757.945 81.240 10,72 127.952 53.848 1,51 909.374 909.374 84.918 9,34 142.565 81.406 2,26 856.045 856.045 87.161 10,18 96.482 72.240 2,15 120 120 104,54 87,13 111,42 151,18 149,67 94,13 94,13 102,64 108,99 67,67 88,74 95,13 Nguồn: báo cáo tài chính công ty xi măng Bỉm Sơn Trước đi vào phân tích đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong vài năm gần đây, ta có thể điểm qua những nét khái quát về ._. thụ: Tăng thị phần của xi măng Bỉm Sơn ở các thị trường tiêu thụ chính như hiện nay tại các tỉnh Hà tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và một số công trình lớn đã đang và sẽ được xây dựng hoàn thành trong nước như đường Hồ Chí Minh, đường ngầm đèo Hải Vân, các công trình cầu đường bộ, đường sắt, các khu công nghiệp lớn, giao thông kênh mương hoá nông thôn. Công ty còn dự kiến tăng lượng xi măng xuất sang Lào, xuất khẩu sang các thị trường mới như Campuchia... Về phương án vận tải tiêu thụ xi măng từ nay đến 2010. Từ kế hoạch tiêu thụ xi măng tại các địa bàn nói trên, công ty cần phối hợp chặt chẽ với các ngành vận tải của bộ giao thông để chủ động hợp đồng và điều hành thống nhất. Tập trung toàn bộ số lượng xe ô tô vận tải hàng hoá hiện có trong công ty về một đơn vị quản lý chuyên tiến tới cổ phần hoá phương tiện vận tải, nhằm gắn trách nhiệm kinh tế của cá nhân với tập thể về tài sản chung của côngty. Phương tiện vận tải ô tô của công ty được tập trung vận chuyển xi măng đường ngắn ( khi phương án vận tải đường sông, sông pha biển được triển khai) để vận chuyển xi măng đến các cảng và bốc xếp lên phương tiện vận tải đường sông, đường sông pha biển, cung ứng cho các địa bàn tiêu thụ. Còn về kế hoạch tổ chức lao động của công ty được thể hiện qua biểu sau: Đơn vị: Người Số lao động trong các bộ phận Sau khi cải tạo dây chuyền 2 (1,8 triệu tấn/năm) Sau khi cải tạo dây chuyền 2&1 (2,4 triệu tấn/năm ) Sản xuất chính 1.003 1.013 Sản xuất phụ trợ 685 671 Quản lý 259 262 Phục vụ 326 306 Tiêu thụ 208 208 Tổng 2.481 2.460 Nguồn:Đề án phát triển Công ty xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2010 Kế hoạch huy động và trả nợ cho cải tạo nhà máy : + Vốn vay nước ngoài: Tính theo giá trị hợp đồng cung cấp máy móc thiết bị và công nghệ dự kiến khoảng 60% số vốn đầu tư, lãi suất dự tính là 7,5% năm trong đó có tất cả các khoản phụ phí. Công ty sẽ tiến hành thanh toán lãi vay, phí và gốc mỗi năm một lần vào tháng 12 của năm. + Vốn vay trong nước: Để thanh toán tiền đặt cọc, phí bảo hiểm tiền vay và một phần khối lượng gia công, xây lắp công trình. - Vay bằng ngoại tệ: Dự tính khoảng 25% tổng số vốn đầu tư với lãi suất phải trả là 7% năm. - Vay bằng nội tệ (VND): Dự tính khoảng 15% tổng số vốn đầu tư với lãi suất tiền vay là 1% tháng bằng 12% năm. Vay ưu đãi: Với lãi suất 0,81% tháng , niên hạn trả nợ gốc tiền vay trong nước dự kiến năm 1 lần vào tháng 12 của năm. Ngoài ra Công ty còn đề nghị huy động các nguồn vốn tập trung của Tổng Cty xi măng Việt Nam và vốn của các công ty thành viên để trả nợ trong những năm đầu khi công ty mới đi vào sản xuất . - Về khấu hao: Công ty sẽ sử dụng phương pháp trích khấu hao theo đường thẳng, thời gian khấu hao trong 10 năm phù hợp với thời gian hoàn trả vốn vay nước ngoài và trong nước. II- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xi măng Bỉm Sơn. Từ thực trạng phân tích ở trên ta thấy công ty đã đạt được những kết quả rất khả quan trong quá trình sản xuất kinh doanh , việc đầu tư và sử dụng vốn của Công ty rất có hiệu quả. Để có thể tốt hơn nữa nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh , khai thác tối đa những khả năng tiềm tàng , đồng thời khắc phục những khó khăn hạn chế hiện tại , tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty . 1. Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định. Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển nhanh như hiện nay, tài sản cố định thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình. Do đó để có cơ sở cho việc tính toán khấu hao nhằm thu hồi đầy đủ vốn, công ty cần phải giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên sổ sách của tài sản .muốn như thế thì công ty phải lập kế hoạch và có các biện pháp đánh giá và đánh giá lại giá trị tài sản cố định của công ty một cách thường xuyên chính xác . Công ty có thể tự đánh giá bằng cách tạm thời lập ra một ban để đánh giá và đánh giá lại tài sản hoặc có thể phối hợp với các công ty kiểm toán để đánh giá tình hình tài chính của công ty nói chung và của tài sản cố định nói riêng. Có như thế công ty mới xác định được môt cách chính xác giá trị thực của tài sản cố định , đây cũng là cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời xử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoát vốn. Tính hiệu quả cần phải đạt được của các quyết định xử lý là phải bảo toàn được vốn cố định trong mọi trường hợp biến động giá cả nói chung và hao mòn vô hình nói riêng. 2. Lựa chọn phương pháp trích khấu hao. Trong công tác khấu hao tài sản cố định, công ty xi măng Bỉm Sơn đã chú trọng tới việc lựa chọn phương pháp trích khấu hao hàng năm của tài sản cố định . Hiện công ty đang áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng cho tất cả các loại tài sản cố định của công ty . Điều này là chưa hợp lý toàn bộ vì có những loại tài sản cố định có thời gian làm việc lớn và cường độ làm việc cao như máy xúc, xe ben la... thì nếu áp dụng phương pháp khấu hao này sẽ gây khó khăn cho công ty trong việc bảo dưỡng, nâng cấp, thay thế chúng, do đó đối với loại tài sản cố định này thì nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh. 3. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Để nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định thì cần phân cấp quản lý tài sản cố định cho các bộ phận trong công ty, tự quy trách nhiệm đối với người quản lý và sử dụng tài sản cố định , đưa ra các hình thức khen thưởng nhằm khuyến khích sự sáng tạo và cần cù của người lao động giúp tiết kiệm các chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và đưa ra các hình thức kỷ luật, phạt đối với những cá nhân gây thiệt hại tới tài sản cố định của công ty. Cần tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, giảm thời gian tác nghiệp giữa các bộ phận, hợp lý hoá dây truyền công nghệ, đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, công ty phải tổ chức tốt quá trình sản xuất. Có nghĩa là tổ chức sản xuất trong công ty phải đảm bảo 3 nguyên tắc đó là tính cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Thực hiện tốt các nguyên tắc này sẽ đem lại những tác động to lớn cho công ty như: Tiết kiệm được thời gian trong sản xuất . Sử dụng hợp lý công suất và thời gian hoạt động của máy móc thiết bị. Góp phần đảm bảo sản xuất cân đối nhịp nhàng. Bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất với hiệu quả cao. 4. Thường xuyên sửa chữa, duy tu bảo dưỡng tài sản cố định. Công tác này có mục đích là duy trì khả năng hoạt động bình thường cho tài sản cố định của công ty và cần tiến hành định kỳ để có thế phát hiện, sửa chữa kịp thời những hỏng hóc chứ không phải đến lúc xảy ra sự cố mới xem xét sửa chữa thay thế. Tuy nhiên, đôi khi chi phí sửa chữa còn cao hơn giá trị còn lại của tài sản cố định , trong trường hợp này cần cân nhắc sửa chữa hay là sẽ thay mới tài sản này. 5. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty. Sau mỗi kỳ kế hoạch, công ty sẽ phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua những chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó, công ty có thể đưa ra quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng có sẵn và khắc phục được những tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định. 6. Quản lý tốt vốn lưu động của công ty. Trong cơ cấu tài sản của công ty thì tài sản lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn ( 71,65% năm 2001), mà tỷ lệ hàng tồn kho chiếm tới 86,7% tổng tài sản của công ty năm 2001). Do đó việc quản lý tốt khoản hàng tồn kho sẽ giúp công ty nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động của mình. Cần phải tính toán lượng nguyên vật liệu cần thiết để làm sao giảm được mức dự trữ các loại nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế ở mức độ hợp lý từ đó giảm vốn trong khâu dự trữ. Mặc dù trong thời gian qua công ty đã có những biện pháp tích cực để giảm mức dự trữ vật tư, nhưng cần thiết phải có sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng để rà soát tính toán lại mức dự trữ hợp lý hơn. Tuy nhiên để đảm bảo sản xuất, tiêu thụ ổn định và liên tục thì không thể không dự trữ nguyên vật liệu, thành phần và bán thành phẩm. Công ty cũng cần phải tính toán và tìm cách quản lý tốt khoản mục “hàng mua đang đi đường”, bởi với lượng vốn mà công ty tập trung vào đây là khá lớn, nó không chỉ làm cho công ty bị lãng phí vốn mà còn gây cho công ty những chi phí khác nhu chi phí vận chuyển, chi phí bảo quản .... cụ thể là năm 2002, lượng vốn cuả công ty đầu tư vào “hàng mua đang đi trên đường” là 566 tỷ 297triệu chiếm 49,62% tổng nguồn vốn của công ty. Cần tiến hành kiểm kê phân loại đánh giá chất lượng vật tư để xác định loại cần dùng, không dùng hoặc ít dùng, kém hay mất phẩm chất để có các biện pháp xử lý kịp thời tránh gây cho công ty bị chiếm dụng vốn một cách vô ích. Đối với các loại vật tư kém phẩm chất hoặc không có nhu cầu sử dụng nữa thì cần tiến hành thanh lý bán để thu hồi vốn. Trong năm 2001 công ty đã xúc tiến phân loại đánh giá, xây dựng giá và phương án bán thanh lý các loại vật tư tồn kho ứ đọng và đã báo cáo với Tổng Cty xin ý kiến chỉ đạo. Tuy nhiên cần phải quan tâm tập trung chỉ đạo để giải quyết dứt điểm công việc này, tránh tình trạng dây dưa lâu dài gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Công ty cần có kế hoạch để mua sắm lượng vật tư hợp lý trên cơ sở sản xuất và sữa chữa , chú trọng tiến độ nhập hàng , tránh tình trạng mua dự trữ cho cả năm.Phải thực hiện đúng tiến độ nhập hàng theo hợp đồng . Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty, tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn lưu động. Để thực hiện công tác này thì cần thông qua một số chỉ tiêu như vòng quay với lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động... trên cơ sở đó, biết rõ tình hình sử dụng vốn lưu động trong công ty, phát hiện những vướng mắc nhằm kịp thời sửa đổi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Công ty cũng cần hạn chế những khoản trả trước cho người bán và phải thu của khách hàng, mặc dù khoản này là không thể không có nhất là trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển như hiện nay. Nhưng công ty phải tính toán sao cho lượng giá trị các khoản phải thu của khách hàng và trả trước cho người bán là hợp lý, càng nhỏ càng tốt để tránh cho công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và vốn nói chung của công ty. 7. Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá trong tổ chức và sản xuất kinh doanh: Công tác kế hoạch hoá trong sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều hành quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được liên tục, có hiệu quả và đạt được mục tiêu đã đề ra. Xây dựng kế hoạch chủ yếu thuộc về trách nhiệm của phòng kế hoạch, trung tâm giao dịch tiêu thụ, phòng kế toán thống kê tài chính, ban giám đốc. Để đạt hiệu quả cao hơn trong vấn đề sử dụng vốn , công ty nên phân công cán bộ chuyên trách theo dõi công tác sử dụng vốn thường xuyên theo định kỳ. Sau đó tổng hợp đánh giá các số liệu về quá trình sử dụng vốn, phân tích nguyên nhân ảnh hưởng và tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh , từ đó có giải pháp và kiến nghị kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 8. Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. 8.1. Nhiệm vụ trọng tâm là phải giữ được thị phần các thị trường truyền thống có lợi nhuận cao cuả công ty như Nghệ An, Thanh Hoá, Nam Định, Ninh Bình . Xử lý mềm dẻo và có các cơ chế linh hoạt để xi măng Bỉm Sơn không bị mất thị phần ở các thị trường này, đây là sự sống còn của xi măng Bỉm Sơn. 8.2. Tăng cường cải tiến công tác thị trường từ công ty đến chi nhánh cho phù hợp với cơ chế mới. Thực hiện tốt chính sách chất lượng của công ty và coi đó là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình sản xuất kinh doanh. 8.3. Xem xét và cải tiến hệ thống bán hàng cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay như là : Hệ thống đại lý phải chọn những đại lý có đủ khả năng tài chính và có năng lực bán hàng để tạo điều kiện khuyến khích các đại lý bán hàng, tránh tình trạng mở nhiều đại lý ở một huyện. Công ty nên xem xét mức chi phí bán hàng, tiền lương và tạo điều kiện để cán bộ công nhân viên gắn bó với công ty, nhằm quản lý và làm chủ được thị trường phân công . 8.4. Công ty cần quản lý chặt chẽ nguồn hàng nhằm đưa xi măng về đúng địa bàn tiêu thụ , khi giải quyết các chi phí nhất là chi phí đường bộ phải cân đối chung trong toàn công ty để tạo ra một mặt bằng giá cả hợp lý, tránh tình trạng các chi nhánh tranh giành phương tiện lẫn nhau. 8.5. Cần phải cân đối chi phí giữa các loại phương tiện cho hợp lý, nhằm khai thác hài hoà các phương tiện giữa đường bộ và đường sắt (đặc biệt cần quan tâm tới chi phí đường sắt để đưa xi măng về đích thực địa bàn). Cụ thể như sau: + Đối với thị trường Hà Nội và vùng phụ cận. - Trong cơ chế kinh doanh hiện tại của Tổng Cty xi măng Việt Nam quy định, công ty phải kết hợp với công ty vật tư kỹ thuật xi măng để tăng thị phần của xi măng Bỉm Sơn do công ty vật tư kỹ thuật quản lý. Trước mắt là năm 2002 phải tăng được lượng sản phẩm tiêu thụ ở khu vực này là 150 đến 200.000 tấn, đề ra kế hoạch là phải lấy lại được thị trường Hà Tây, Hoà Bình... và một phần thị trường Hà Nội. - Công ty tiếp tục khuyến mại hoặc hỗ trợ các chi phí đường sắt, đường bộ để khuyến khích Công ty vật tư kỹ thuật tăng được lượng tiêu thụ xi măng Bỉm Sơn so với kế hoạch đề ra. - Tìm các đối tác có nhu cầu tiêu thụ xi măng Bỉm Sơn, đồng thời dùng xe của công ty vận chuyển xi măng đến tận chân các công trình để đảm bảo giá cả phù hợp với thị trường và khách hàng chấp nhận được . + Đối với thị trường Thái Bình. Đây là thị trường lớn, có sức tiêu thụ cao nhưng thị phần của xi măng Bỉm Sơn không đáng kể. Vì thế, không khuyếch trương nhưng cố gắng phát triển được thị trường này. Chi nhánh ở Thái Bình cần phải tăng cường mở rộng thị trường để xi măng Bỉm Sơn có mặt nhiều trên các huyện và phấn đấu đạt mức tiêu thụ ít nhất là 70 -80.000tấn/năm trong các năm tới. + Đối với thị trường Nam Định - Ninh Bình: Đây là thị trường chủ yếu phục vụ nhu cầu của dân cư, trong khi xi măng Bút Sơn và xi măng Nghi Sơn đang tìm cách tăng thị phần, để xi măng Bỉm Sơn kiên quyết giữ vững và tăng thị phần ở địa bàn này cần: - Xem xét giá bán của xi măng Bỉm Sơn để nó không chênh lệch quá lớn với giá bán các loại xi măng khác (khoảng 5000đến 10.000đ/tấn là phù hợp). - Có chính sách khuyến khích các đại lý lớn để tạo điều kiện điều tiết thị trường, đồng thời giảm bớt các thủ tục, nghiên cứu các chính sách cho phù hợp để các đại lý này trở lại thành đại lý cho chi nhánh. Tính toán các chi phí đường sắt để tại giá bán hợp lý và có sức hấp dẫn tại các ga để các chi nhánh tập trung nhận bằng đường sắt từ 60% lượng hàng tiếp nhận trở lên, tránh trường hợp chi phí bằng đường sắt cao dẫn đến tập trung phương tiện tiếp nhận bằng đường bộ quá lớn làm ảnh hưởng đến sự điều tiết và giữ thị trường. Mở rộng điểm bán hàng xa, nhất là những vùng ven biển của tỉnh Nam định và Ninh Bình đang có những công trình thuỷ lợi lớn và khu vực dân cư có nhu cầu xi măng cao. + Địa bàn Thanh - Nghệ – Tĩnh : Càng ngày địa bàn này càng gặp nhiều khó khăn hơn do xi măng Nghi Sơn ngày càng dược người tiêu dùng chấp nhận và việc xi măng Hoàng mai đi vào sản xuất ổn định. Để giữ và tăng thị phần và hạn chế làm giảm tốc độ mở rộng thị phần của xi măng Nghi Sơn, Hoàng Mai thì công ty cần phải: - Củng cố lại hệ thống bán hàng, tăng cường mở rộng các điểm bán hàng ở các huyện (đặc biệt là các huyện vùng xa), xem xét lại hệ thống đại lý, chọn đại lý có đủ năng lực về tài chính, khả năng bán hàng để ký kết hợp đồng (kiên quyết loại bỏ những đại lý chỉ mở ra không bán hoặc chỉ bán tại nguồn), nghiên cứu lại các chi phí để cho CBCNV của các chi nhánh bán được hàng. - Đảm bảo đủ chi phí bán hàng bằng đường sắt để 2 chi nhánh Nghệ An , Hà Tĩnh có mức giá bán bằng đường sắt phù hợp với thị trường, đặc biệt là chi nhánh Hà Tĩnh có vùng phiá tây chủ yếu là đường sắt và nhu cầu xi măng để phục vụ cho công trình đường Hồ Chí Minh rất lớn . + Địa bàn Bình Trị Thiên và Miền trung. Do đặc tính của dân cư khu vực Bình - Trị - Thiên có tính bảo thủ cao, nên các loại xi măng khác khó thâm nhập vào thói quen sử dụng xi măng Bỉm Sơn của người dân ở đây, hơn nữa đây là khu vực đang được chú trọng để nâng cấp cơ sở hạ tầng. Vì vậy , công ty cần phải giữ vững thị phần của xi măng Bỉm Sơn ở khu vực này. Tiếp tục tăng cường liên doanh với xí nghiệp xi măng Quảng Bình, cố gắng đưa trạm nghiền ở đây đạt công suất thiết kế để hàng năm tiêu thụ được 60.000- 70.000tấn Clinker. Đáp ứng đầy đủ nhu cầu xi măng và Clinker cho Công ty kinh doanh Thạch Cao xi măng và Công ty XMVLXD &XL Đà Nẵng, đồng thời là phải sau 6 tháng hoặc 1 năm hai công ty phải gặp nhau để cùng giải quyết những khó khăn vướng mắc và tìm các biện pháp giữ vững thị trường. Thăm dò thị trường và tâm lý người tiêu dùng ở Quảng Ngãi, từ đó tính toán hiệu quả kinh tế, nếu có lãi thì sẽ lập phương án liên doanh với trạm nghiền của LICOGI (thị xã Quảng Ngãi) để tiêu thụ được Clinker . + Thị trường Lào: - Hoàn thiện phương án kinh doanh tại thị trường này, phấn đấu tiêu thụ tại hiện trường này 25.000 -50.000tấn vào năm 2002 và mức lợi nhuận đạt tối thiểu 15.000đ/tấn trở lên và tăng dần trong các năm tiếp theo. - Lập phương án, nghiên cứu tiền khả thi V/v liên doanh xây dựng trạm nghiền tại thị xã Lạc Xao (tỉnh Bôlykhămxay) với Công ty phát triển triệu voi thuộc bộ thương mại Lào. Hiện nay Công ty này có mỏ thạch cao tại Thà Khạc tỉnh Khăm Muội đang chào bán thạch cao cho Tổng Cty xi măng Việt Nam và rất muốn liên doanh với xi măng Bỉm Sơn. + Đối với việc tiêu thụ tại nguồn : Tiếp tục duy trì bán đối lưu và mở rộng phục vụ đến chân công trình cũng như cung cấp Clinker cho một số cơ sở nghiền phục vụ xi măng cho các đối tượng có nhu cầu thấp. 9. Mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh: Trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay thì việc áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất kinh doanh là một trong những điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của công ty. Khi đưa dây chuyền công nghệ mới hiện đại vào sản xuất, công ty có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên liệu, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và lượng sản phẩm tiêu thụ , hạ giá thành sản phẩm, từ đó mà làm tăng tốc độ luôn chuyển của vốn , từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. 10. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. Để việc sử dụng vốn có hiệu quả thì ngoài các công việc như mua sắm đối với TSCĐ, thì quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên cũng góp phần vào nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Vì khi máy móc được trang bị hiện đại, nhưng lại không có kỹ năng sử dụng thì không những năng suất lao động không tăng lên mà có khi laị giảm xuống, máy móc bị hư hỏng. Do đó công ty phải thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, cử cán bộ đi học ở các trường trong và ngoài nước để nâng cao trình độ của cán bộ quản lý cũng như của công nhân công ty. III - Kiến nghị . 1. Kiến nghị với Nhà nước: Trong những năm gần đây, việc quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp đã được “nới lỏng”. Các doanh nghiệp hầu như hoàn toàn độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh , chủ động trong việc huy động vốn và sử dụng chúng . Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô thông qua các chính sách kinh tế xã hội đã được ban hành. Tuy nhiên , để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đồng thời phải phù hợp với thực tế thì việc quản lý của Nhà nước nên có một số sửa đổi sau : - Về lãi suất ngân hàng: Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn tài trợ đắc lực và hữu hiệu nhất đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng là vẫn để lãi suất và điều kiện thanh toán. Lãi suất được coi là một chi phí vốn mà việc tăng hay giảm lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp . Do đó , ngân hàng phải tính toán một cách hợp lý sao cho lãi suất tiền vay nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp . Khung lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định phải khuyến khích được các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả . Tình hình ở công ty xi măng Bỉm Sơn trong thời gian tới thì do nhu cầu vốn để đầu tư cải tạo dây chuyền là rất lớn, trong đó khoản vay trong nước chiếm một số lượng rất lớn , từ 50 triệu - 120 triệu USD (gồm USD và nội tệ quy đổi ra USD) tuỳ thuộc vào từng bước phát triển của công ty, do đó vấn đề về lãi suất mà ngân hàng cho vay có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của công ty . - Nhà nước phải có chính sách tỷ giá phù hợp: Nền kinh tế đất nước càng phát triển thì nhu cầu giao lưu trao đổi thương mại với nước ngoài là rất lớn, kể cả các nguồn vốn mà các doanh nghiệp trong nước huy động từ nước ngoài là rất lớn. Do đó chính sách tỷ giá của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp . Đối với các doanh nghiệp huy động vốn bằng ngoại tệ thì nếu tỷ giá tăng sẽ rất bất lợi , Công ty xi măng Bỉm Sơn cũng là một trong số các doanh nghiệp đó, vốn vay nước ngoài để cải tạo dây chuyền công nghệ là rất lớn , từ 50 triệu đến 150 triệu USD (tăng dần theo các bước cải tạo của công ty). - Về thủ tục hành chính pháp lý. Nhà nước nên cải thiện các thủ tục hành chính để nó thuận tiện , gọn nhẹ hơn nhằm giúp các doanh nghiệp tận dụng được cơ hội trong kinh doanh. Và cũng cần ban hành một số điều luật mới hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính , sửa đổi và bổ sung các điều luật đã ban hành sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Cần có các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nhà nước nên có biện pháp để bảo vệ một số ngành công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp xi măng khi chúng ta là thành viên của AFTA. 2. Kiến nghị với Tổng công ty. - Đề nghị tổng công ty cho phép công ty được giữ lại quỹ khấu hao để góp phần tăng nguồn vốn hoạt động cho công ty, công ty có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ mà không phải hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vốn mà tổng công ty rót xuống hay là vốn vay, nhằm tăng khả năng độc lập về tài chính của công ty , hạn chế ảnh hưởng của Tổng Cty trong vấn đề tài chính. - Đề nghị tổng công ty mở rộng khung khuyến mại các khu vực cạnh tranh găy gắt với xi măng Nghi Sơn như ở Nghệ An, Thanh Hoá với mức tối thiểu là 20.00đ/tấn để công ty chủ động điều tiết nhằm mục đích giữ vững và mở rộng thị phần . Trước kia khuyến mại đang ở mức 20.000đ/tấn, nhưng từ 01-04-2001 theo quyết định số 437/XMVN-TT ngày 20/3/2001 chỉ còn tối đa 10.000đ/tấn, điều này đã gây khó khăn cho công ty trong việc giữ vững thị phần của mình chứ chưa nói gì đến việc phát triển thị phần. - Để tăng được thị phần của xi măng Bỉm Sơn tại trường do Công ty VT -KTXM quản lý (nếu không xi măng liên doanh cũng tăng thị phần ở khu vực này và sẽ làm giảm thị phần của Tổng công ty) đề nghị Tổng công ty để Công ty xi măng Bỉm Sơn trong điều kiện cho phép được hỗ trợ một phần chi phí bằng đường sắt cho Công ty VT-KTXM để tăng cường bán xi măng ở khu vực này, mức tối đa là 15.000đ/tấn. Nếu đến cuối năm 2002 thị phần của xi măng Bỉm Sơn tại khu vực này không tăng thì đề nghị Tổng Cty cho phép công ty xi măng Bỉm Sơn có các biện pháp tích cực hơn. - Hiện tại giá bán xi măng ở đầu nguồn quá cao, bất hợp lý so với giá xi măng bao, chênh lệch chỉ 60.000đ/tấn nên hầu như Công ty không bán được xi măng rời, cụ thể: Năm 1999 bán được: 38.264tấn Năm 2000 bán được : 14.395 tấn Năm 2001 bán được : 2.659 tấn Do đó để công ty bán được xi măng rời đề nghị Tổng công ty giảm khung giá tối thiểu xuống 80.000đ/tấn. - Hiện tại xi măng của Bỉm Sơn nói riêng và của Tổng công ty nói chung không vào được các công trình xây dựng cơ bản lớn của Nhà nước như: Cầu cảng, giao thông ... Trong năm 2002 và các năm tiếp theo khu vực này sẽ được Nhà nước đầu tư rất lớn vào xây dựng cơ bản và cơ sở hạ tầng. Đề nghị Tổng công ty xem xét có cơ chế linh hoạt để xi măng Bỉm Sơn đi vào được các công trình này. Hiện tại toàn bộ xi măng phục vụ cho cải tạo đường quốc lộ 1, các cảng biển lớn dọc miền trung đều do Công ty xi măng ChinhFong cung cấp, toàn bộ xi măng phục vụ cho công trình xa lộ Hồ Chí Minh qua miền trung gần lớn do Công ty xi măng Nghi Sơn và ChinhFong cung cấp. Kết luận Sử dụng vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn trong các doanh nghiệp hiện nay là vấn đề rất cấp bách, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Cty , hạch toán độc lập, Công ty xi măng Bỉm Sơn với quy mô rất lớn, tuy nhiên trình độ khoa học công nghệ cũng như trình độ quản lý còn nhiều hạn chế, Công ty đã và đang gặp không ít khó khăn bởi áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt của cơ chế thị trường. Việc tìm ra giải pháp để công ty sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực có sẵn của mình có ý nghĩa rất quan trọng. Sau một thời gian tiếp xúc thực tế tại Công ty xi măng Bỉm Sơn, được sự hướng dẫn tận tình của anh LÊ HUY QUÂN và các cán bộ khác trong phòng kế toán -thống kê - tài chính của Công ty , cùng sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo -tiến sĩ Vũ Duy Hào , trên cơ sở những kiến thức có được trong quá trình học tập, tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình. Tôi không có tham vọng chuyên đề này có thể đưa ra những giải pháp hoàn toàn phù hợp, đem lại hiệu quả cao trực tiếp cho Công ty trong công tác sử dụng vốn . mà chỉ là sự so sánh, đối chiếu giữa thực tế và những kiến thức đã học được để đưa ra những nhận xét, gợi ý hướng giải quyết để hoàn thiện hơn nữa việc quản lý sử dụng vốn tại Công ty xi măng Bỉm Sơn. Hơn nữa do hạn chế về thời gian tìm hiểu, năng lực cũng như kiến thức, hiểu biết chuyên môn, chắc chắn chuyên đề này không tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong được các thầy cô, bạn bè, các cô chú trong Công ty xi măng Bỉm Sơn chỉ bảo và đưa ra những nhận xét, góp ý để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp cũng như kiến thức của bản thân mình. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo - tiến sĩ Vũ Duy Hào và các cán bộ Công ty xi măng Bỉm Sơn đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập cũng như trong quá trình làm chuyên đề tốt nghiệp này ./. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: Tài chính doanh nghiệp Khoa - ngân hàng - tài chính trường ĐHKTQD. 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp Tác giả: TS Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - Phạm Long NXB Thống Kê 2000 3. Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp Tác giả :PGS.TS Ngô Thế Chi - TS Vũ Công ty NXB Thống Kê 2001 4. Phân tích tài chính doanh nghiệp Tác giả: JOSETTE PEYRARD Người dịch: Đỗ Văn Thận NXB Thống Kê 1996 5. Báo cáo tài chính Công ty xi măng Bỉm Sơn các năm 1988,1999,2000 và 2001 6. Đề án phát triển Công ty xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 2001 -2010 7. Tạp chí tài chính 8. Tạp chí ngân hàng 20 Năm Công ty xi măng Bỉm Sơn - xây dựng và trưởng thành . NXB Thống Kê 2000. Mục lục Lời nói đầu 1 Phần I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 3 I Vốn và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3 1. Khái niệm 3 2. Phân loại vốn 5 2.1 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển 5 2.2 Phân loại vốn theo nguồn hình thành 10 2.3 Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng 13 3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp 14 II Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 16 1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn 16 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 18 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 21 3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 21 3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 23 III Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn 25 1. Các nhân tố khách quan 25 1.1 Môi trường tự nhiên 25 1.2 Môi trường pháp lý 25 1.3 Môi trường kinh tế 25 1.4 Môi trường chính trị văn hoá xã hội 26 1.5 Môi trường kỹ thuật công nghệ 26 2. Các nhân tố chủ quan 26 2.1 Trình độ của lực lượng lao động 26 2.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh 28 Phần II Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm Sơn 29 I Một số nét về công ty xi măng Bỉm Sơn 29 1. Quá trình hình thành và phát triển 29 2. Bộ máy tổ chức và quản lý của công ty 32 3. Một số đặc điểm về công nghệ và thị trường của công ty xi măng Bỉm Sơn 36 3.1 Quy trình công nghệ của công ty xi măng Bỉm Sơn 36 3.2 Về thị trường của công ty 37 II Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm Sơn 39 1. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty thời gian qua 39 2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty 48 2.1 Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động SXKD 48 2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định 50 2.3 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động 58 III Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại công ty 62 1. Những kết quả đạt được 62 2. Những tồn tại và nguyên nhân 63 Phần III Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xi măng Bỉm Sơn 66 I Định hướng phát triển của công ty 66 II Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty 69 1 Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại TSCĐ 70 2 Lựa chọn phương pháp trích khấu hao 70 3 Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ 71 4 Thuờng xuyên sữa chữa duy tu bảo dưỡng TSCĐ 71 5 Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại công ty 72 6 Quản lý tốt vốn lưu động tại công ty 72 7 Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá trong tổ chức và sản xuất kinh doanh 74 8 Đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm 74 9 Mạnh dạn đầu tư công nghệ mới vào sản xuất 78 10 Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên 79 III Kiến nghị 79 1. Kiến nghị với nhà nước 79 2. Kiến nghị với tổng công ty 81 Kết luận 83 Tài liệu tham khảo 85 Mục lục 86 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0165.doc
Tài liệu liên quan