Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75

Lời nói đầu Vốn là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là chìa khoá, là điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh tế của mình là lợi nhuận, lợi thế và an toàn. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung chúng ta chưa đánh giá hết được vai trò thiết yếu của nó nên dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động trong cơ chế này được bao tiêu cung ứng, chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được chú ý đến, do đó không mang lại hiệu quả, làm lãng phí nguồn nhân lực . Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng lời ăn, lỗ thì chịu. Bên cạnh đó nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp đang đối mặt với cạnh tranh gay gắt, mọi doanh nghiệp đều thấy rõ điều này, Nhà Nước và doanh nghiệp cùng bắt tay nhau hội nhập. Điều này đã tạo cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp năng động, sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã sử dụng vốn có hiệu quả còn những doanh nghiệp khó khăn trong tình trạng sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không còn là khái niệm mới mẻ, nhưng nó luôn được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của mình. Công ty xây dựng Cầu 75 – Thuộc Tổng Công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 là một trong những doanh nghiệp nhà nước thành công trong ngành xây dựng và luôn khảng định: Làm thế nào để sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn kinh doanh. Chính vì lẽ đó, trong thời gian thực tập tại công ty em quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75 “. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu đề cập đến hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao công tác đầu tư và phát triển của doanh nghiệp, chuyên đề có sử dụng phương pháp thống kê phân tích kinh doanh phục vụ cho công tác phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Nội dung chủ yếu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm ba chương : Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Chương II: Phân tích tình hình thực tế về hiệu quả sử dụng vốn của Công ty xây dựng Cầu 75 . Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty xây dựng Cầu 75 Chuyên đề này được hoàn thành, song đây là một vấn đề khó mà thời gian nghiên cứu lại có hạn, do vậy không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Quản trị khinh doanh của trường mà đặc biệt là sự quan tâm , giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thị Thảo và Ban lãnh đạo Công ty xây dựng Cầu 75 . Hà Nội , ngày tháng 04 năm 2004. Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn I Vốn và tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh: I.1./ Khái niệm về vốn: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển được đều cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh, đây là một trong ba yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động của mình, nhiều quan niệm về vốn, như: Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được ném vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời, tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ. Nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Do đó vốn mang lại giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản lý là sử dụng vốn, nhưng lại mang tính trừu tượng, hạn chế về ý nghĩa đối với hạch toán và phân tích quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp Theo nghĩa hẹp thì: vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp nhất là khi nước ta trình độ quản lý kinh tế còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh. Theo quan điểm của Mác thì: vốn (tư bản) không phải là vật, là tư liệu sản xuất, không phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Mác chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng,ẳ) mà giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức lao động, trong quá trình sản xuất thay đổi về lượng, tăng lên do sức lao động của hàng hoá tăng. Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused trong cuốn (Kinh tế học) thì: vốn hiện vật là giá trị của hàng hoá đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hoá và dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn là một hàng hoá nhưng được tiếp tục sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp theo. Quan điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái biểu hiện của vốn, nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích của việc sử dụng vốn. Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng: Vốn có nghĩa là phần lượng sản phẩm tạm thời phải hi sinh cho tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là nguồn vốn và biểu hiện của nguồn vốn. Do vậy quan điểm này cũng không đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như phân tích vốn. Có thể thấy, các quan điểm khác nhau về vốn ở trên, một mặt thể hiện được vai trò tác dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên phương diện hạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về quản lý đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về vốn ở trên, khái niệm cần thể hiện được các vấn đề sau đây: - Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt với vốn đất đai, vốn nhân lực. - Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản cố định và tài sản dự trữ) và tài sản tài chính (tiền mặt gửi ngân hàng, các tín phiếu, các chứng khoánẳ) là cơ sở để ra các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp một cách có hiệu quả. - Phải thể hiện được mục đích sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà vốn đem lại, vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản lý kinh tế nói chung, quản lý vốn doanh nghiệp nói riêng. Từ những vấn đề nói trên,có thể nói quan niệm về vốn là: phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài chính được cá nhân, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích. I.2./ Đặc trưng của vốn: Để tiến hành sản xuất kinh doanh cần có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu. Có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, cũng như trả tiền lương cho lao động sản xuất, sau khi tiến hành tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp dành một phần doanh thu để bù đắp giá trị tài sản cố định đã hao mòn, bù đắp chi phí vật tư đã tiêu hao và một phần để lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như vậy có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp đầu tư cho mua sắm cho hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh. Vốn bằng tiền là tiền đề cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy vốn sản xuất kinh doanh mang đặc trưng cơ bản sau: - Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. - Vốn phải vận động sinh lời đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. - Vốn có giá trị về mặt thời gian tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian và không gian theo công thức : T - H - SX - H’ - T’ - Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản lý chặt chẽ. - Vốn phải được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán hoặc bán bản quyền sử dụng vốn trên thị trường tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. Như vậy vốn bắt đầu là hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá là tư liệu lao động và đối tượng lao động trải qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ hoặc dịch vụ vốn sang hình thái hoá sản phẩm. Khi tiêu thụ sản phẩm lao vụ dịch vụ xong vốn lại trở về hình thái tiền tệ. Do sự luân chuyển vốn không ngừng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông. I.3./Phân loại vốn: I.3.1./Căn cứ theo nguồn hình thành vốn: a./ Vốn chủ sở hữu: Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp, số vốn vay này không phải là một khoản nợ. Doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả lãi suất. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả tuỳ theo loại hình doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách khác nhau thông thường nguồn vốn này bao gồm: +Vốn góp: là số vốn đóng góp của các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với các công ty liên doanh thì cần vốn góp của các đối tác liên doanh, số vốn này có thể bổ sung hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh. +Lãi chưa phân phối: Là số vốn có từ nguồn gốc lợi nhuận, là phần chênh lệch giữa một bên là doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động tài chính và từ hoạt động bất thường khác và một bên là chi phí. Số lãi này trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong kinh doanh vốn chủ sở hữu. b./Vốn vay : Là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi vay, đi chiếm dụng từ các đơn vị cá nhân sau một thời gian nhất định doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có thể sử dụng hai nguồn chính: Vay của các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn vốn huy động lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo cho nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp lý hai nguồn vốn này phụ thuộc vào ngành mà doanh nghiệp hoạt động cũng như quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế cũng như tình hình thực tế tại doanh nghiệp. I.3.2./ Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: a./Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp. b.Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường gồm các khoản vay ngắn hạn, các khoản chiếm dụng của bạn hàng. Theo cách phân loại này còn giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định về quy mô số lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, khai thác những nguồn tài chính tiềm tàng, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao. I.3.3./ Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành: a./ Nguồn vốn bên trong nội bộ doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm khấu hao tài sản, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. b./ Nguồn vốn hình thành từ ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: - Nguồn tín dụng từ các khoản vay nợ có kỳ hạn mà các ngân hàng hay tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay và có nghĩa vụ hoàn trả các khoản tiền vay nợ theo đúng kỳ hạn quy định. - Nguồn vốn từ liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp gồm nguồn vốn vay có được do doanh nghiệp liên doanh, liên kết từ các doanh nghiệp để phục vụ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. - Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành những chứng khoán có giá trị này cho phép các doanh nghiệp có thể thu hút số tiền rộng rãi nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Dựa theo cách phân loại này cho phép các doanh nghiệp thấy được những lợi thế giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động nguồn vốn. Đồng thời do nhu cầu thường xuyên cần vốn doanh nghiệp phải tích cực huy động vốn, không trông chờ ỷ lại vào các nguồn vốn sẵn có. Đối với các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp có thể toàn quyền tự chủ sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp mà không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Huy động vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp có cơ cấu tài chính linh hoạt. Do doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí sử dụng vốn nên doanh nghiệp phải cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chính vì thế, doanh nghiệp có thể vay vốn từ bên ngoài để làm tăng nội lực vốn bên trong. I.3.4.Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn : a./ Vốn cố định: Là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định và tài sản đầu tư cơ bản mà điểm luân chuyển từng phần trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hình thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng. b./ Vốn lưu động : Là bộ phận sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm các tư liệu lao động nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp I.4.\Cơ cấu của vốn : Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bên cạnh sức lao động là yếu tố quan trọng, doanh nghiệp cần có tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động lại được chia thành hai bộ phận là tài sản cố định (TSCĐ) và tài sản lưu động (TSLĐ) I.4.1./ Tài sản cố định: TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn và có thời gian sử dụng qua nhiều kỳ sản xuất kinh doanh. Như vậy, cơ sở để nhận biết các tư liệu lao động là TSCĐ phải dựa vào hai tiêu chuẩn đó là về mặt giá trị và thời gian sử dụng. TSCĐ của doanh nghiệp có đặc điểm là thâm nhập vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần, giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm và giá trị của nó vẫn được giữ nguyên trong thời gian hữu dụng. Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật như hiện nay, khi mà khao học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì khái niệm về TSCĐ cũng được mở rông ra, bao gồm cả TSCĐ không có hình thái vật chất, loại này là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn trên và thường gồm: Chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí bằng phát minh sáng chế... Khi mà nên kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì tỷ trọng của những TSCĐ vô hình này càng lớn. I.4.2./ Tài sản lưu động: TSLĐ khác với TSCĐ ở chỗ tái sản xuất và mức độ chuyển dịch giá trị của chúng vào sản phẩm. TSLĐ không tham gia nhiều lần như TSCĐ mà chỉ tham gia một lần vào quá trình sản xuất, do đó toàn bộ giá trị của nó được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm. Tính chất này làm cho việc tính toán vào giá thành được thuận lợi hơn, đưa toàn bộ giá trị nguyên vật liệu đã được sử dụng vào chi phí sản xuất kinh doanh mà không cần phải khấu hao từng phần. Do chỉ tham gia vào một quá trình sản xuất nên tốc độ di chuyển của TSLĐ nhanh hơn, không phải mấy năm, mấy chục năm như máy móc thiết bị, nhà cửa thuộc tài sản cố định, thông thường hạn tối đa là một năm. Một đặc điểm khác nữa là TSLĐ phải trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn, ở nhiều bộ phận quản lý khác nhau, nên việc đảm bảo đầy đủ và cân đối các bộ phận vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu thường xuyên liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh TSLĐ có quan hệ chặt chẽ với đầu vào, đầu ra với việc liên doanh liên kết cả hai đầu. I.5./ Cơ cấu vốn : Là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động và vốn cố định theo một tỷ lệ nào đó. I.5.1./ Vốn cố định: Là một bộ phận của sản xuất kinh doanh ứng ra hình thành TSCĐ của doanh nghiệp. Vốn cố định là một khoản đầu tư ứng ra trước để mua sắm TSCĐ có hình thái vật chất và TSCĐ không có hình thái vật chất. I.5.2./Vốn lưu động: Là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ứng ra để mua sắm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông nhằm phục vụ cho sản xuất. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động có hiệu quả, muốn nâng cao khả năng sử dụng vốn đều phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý.Tuy nhiên tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau có một cơ cấu vốn khác nhau. Nếu doanh nghiệp sản xuất thì tỷ lệ cố định sẽ lớn hơn so với vốn lưu động, còn đối với doanh nghiệp thương mại thì cần số vốn lưu động lớn hơn. Nếu các doanh nghiệp thương mại này không xác định được cơ cấu vốn hợp lý, họ đầu tư mua sắm TSCĐ quá nhiều dẫn đến vốn cố định lớn, điều này cho lãng phí đầu tư không có hiệu quả vì đầu tư cho TSCĐ cần một lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, tuy nhiên, nếu đây là doanh nghiệp sản xuất thì cơ cấu vốn này là được bởi vì đầu tư trang bị kỹ thuật sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện giải phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm do đó tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển và tăng trưởng. I.6. Các nguồn huy động vốn: I.6.1./Tự cung ứng: Cung ứng vốn nội bộ là phương thức tự cung cấp vốn của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là: I.6.1.1.Khấu hao tài sản cố định: Tài sản cố định là những tư liếu lao động tham gia vào nhiều quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và chuyển dần giá trị vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là một quá trình mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhân tố như chất lượng của bản thân tài sản cố định, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cố định,…Trong quá trình sử dụng tài sản cố định doanh nghiệp phải xác định độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào giá trị của sản phẩm được sản sản xuất ra từ tài sản cố định đó. Việc xác định mức khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định đó cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các doanh nghiệp Nhà Nước trong quá trình khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào ý đồ của Nhà Nước thông qua quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là công cụ điều chỉnh cơ cấu vốn bên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể diễn ra một cách tuỳ tiện, không có kế hoạch mà phải dựa trên các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn đã xác định. Mặt khác, cần chú ý rằng điều chỉnh tăng khấu hao tài sản cố định sẽ dẫn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm nên luôn khống chế bởi giá bán sản phẩm. I.6.1.2.Tích luỹ tái đầu tư: Tích luỹ tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có ưu điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động. - Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng. - Giúp các doanh nghiệp tăng thêm tiềm lực tài chính làm giảm tỉ lệ nợ/vốn. - Càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện chưa tạo được uy tín với các nhà cung ứng tài chính. Quy mô tự cung ứng vốn tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận cụ thể thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ đó. Chính sách phân phối lợi nhuận trước hết tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Nhà Nước, toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải được sử dụng cho các khoản sau: 1.Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà Nước theo quy định; 2.Trả các khoản phạt quy định không được tính vào chi phí kinh doanh; 3.Lập các quỹ đặc biệt; 4.Chia lãi cho các đối tác liên doanh; 5.Phần còn lại sẽ được sử dụng để lập các quỹ doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành gồm các quỹ sau: Quỹ đầu tư phát triển, Quỹ dự phòng tài chính(10%) và số dư dài hạn nhỏ hơn 25% vốn lưu động, Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc (5%) và số dư không quá 6 tháng lương, Quỹ khen thưởng và phúc lợi với mức trích nhỏ hơn 2-3 tháng lương. Đối với các công ty cổ phần, toàn bộ lợi nhuận sau thuế sẽ được dùng để trích lập quỹ dự trữ bắt buộc (5% lợi nhuận) cho đến khi số dự trữ bằng số dư quỹ bằng 10% vốn điều lệ. Số còn lại tuỳ thuộc vào chính sách phân phối cụ thể của công ty trong từng thời kỳ, chẳng hạn sử dụng để trích lập quỹ: Quỹ tái đầu tư khoảng 15%-45%, Quỹ nghiên cứu và phát triển 5%-10%, Quỹ dự phòng rủi ro từ 0- 5%, Quỹ khen thưởng và phúc lợi xã hội tối thiểu 10% và Số còn lại là tổ chức chia theo cổ phần I.6.1.3.Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh luôn biến động, hình thức kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại thiếu loại tài sản khác. Điểu chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có các giải pháp bán các loại tài sản dư thừa, không (chưa) sử dụng đến; mặt khác, phải trên cơ sở thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu đông trên cơ sở sử dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại TSLĐ hợp lý. Phương thức tự cung ứng vốn có ưu điểm rất lớn là doanh nghiệp hoàn toàn chủ động, không bị phụ thuộc vào bên ngoài; doanh nghiệp có thể toàn quyền sử dụng trong dài hạn với chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung ứng luôn được coi là một yếu tố để người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn. Tuy nhiên phương thức tự cung ứng vốn cũng có hạn chế là quy mô cung ứng vốn nhỏ và nguồn bổ sung luôn có giới hạn. I.6.2./Các phương thức cung ứng từ bên ngoài: I.6.2.1./Cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước: Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà Nước doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà Nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức vốn huy động khác nhau. Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước đối với các doanh nghiệp ngày càng thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi cung cấp vốn. Hiện nay, đối với tượng được cung cấp vốn theo hình thức này thường phải là các doanh nghiệp Nhà Nước xác định duy trì để đóng vai trò điều tiết nền kinh tế; các dự án đầu tư ở lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn và không có khả năng đầu tư; các dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà Nước đầu tư. I.6.2.2./Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu: Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung ứng trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu, bán trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người chủ sở hữu cổ phiếu thành những cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ này nhiều nhà quản trị học coi hình thức gọi hình thức hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là nguồn cung ứng vốn nội bộ. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ những doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu (công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà Nước có quy mô lớn). Hình thức huy động vốn qua phát hành cổ phiếu có ưu điểm rất lớn là tập hợp được lượng vốn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, quyền sở hữu vốn tách khỏi quản trị một cách một tương đối nên bộ máy quản trị doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn này. Bên cạnh đó, hình thức gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu có hạn chế là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ khai háo thông tin tài chính theo luật doanh nghiệp; Khi thừa vốn không hoặc chưa sử dụng đến doanh nghiệp không hoàn trả lại được vì vậy, khi có nhu cầu gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc. Mặt khác, hình thức huy động vốn này có thể làm cổ tức giảm cho nên doanh nghiệp phải có quy mô lớn hứa hẹn lợi nhuận cao mới dễ bán cổ phiếu trên thị trường. I.6.2.3.Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn : Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức phát hành cổ phiếu với đặc điểm là tăng vốn và tăng nợ của doanh nghiệp. Vay vốn bằng phát hành trái phiếu có những ưu điểm chủ yếu là: có thể thu hút một lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp có thể lựa chọn trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình. Tuy nhiên, hình thức huy động từ phát hành trái phiếu cũng có những hạn chế nhất định. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn trả và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành cổ phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần trợ giúp của một (một số) ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn điều kiện: Tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ những doanh nghiệp nào thoả mãn điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu. I.6.2.4./ Vay vốn từ ngân hàng thương mại: Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới hình thức ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng thương mại, đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên cho vay và một bên đi vay. Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Bên cạnh đó để có thể vay vốn từ ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng kế hoạch. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn ở các ngân hàng thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi hỏi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay, chẳng hạn; - Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị TSCĐ để tránh “ngâm vốn”, tránh rủi ro; - Doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài hạn nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay; - Doanh nghiệp không được đem thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay; - Ngân hàng cho vay có áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tư để phòng ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi; - Ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi can thiệp vào sự thay đổi ban lãnh đạo của doanh nghiệp;… I.6.2.5./Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Trong hoạt động kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào cũng phải diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại tồn tại là một nhu cầu khách quan. Thực chất, luôn diễn ra đồng thời doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu sau: Thứ nhất, doanh nghiệp mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm. Sẽ chỉ có hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như thế, doanh nghiệp có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền chưa phải trả ngay, số tiền chưa trả là số tiền mà doanh nghiệp chiếm dụng được của người cung ứng. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả ngay được coi là chiến lược maketing của người bán cho nên doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm tín dụng từ loại này. Đặc biệt, khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp càng có lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,… Khi quá trình này diễn ra một cách thường xuyên thì nguồn chiếm dụng này như là một nguồn tín dụng trung hoặc dài hạn. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng tới tình hình tài chính của mình. Hình thức tín dụng mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm lại càng có ý nghĩa với c._.ác doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu các điều kiện để vay vốn từ các nguồn khác. Bên cạnh đó, hình thức mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, mua theo phương thức này doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt khác, doanh nghiệp chỉ có thể mua theo hình thức trả chậm nếu doanh nghiệp có uy tín, có truyền thống tín dụng sòng phẳng cũng như tình hình tài chính lành mạnh. Thứ hai, Vốn khách hàng ứng trước. Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng khách hàng thường phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm (dịch vụ) cho khách hàng. Tuỳ theo lượng mua hàng của khách hàng, thông thường doanh nghiệp tín dụng từ hai nguồn: - Vốn ứng trước của khách hàng lớn, - Vốn ứng trước của người tiêu dùng. Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ doanh nghiệp phải đặt hàng (nguyên vật liệu,…) nên lại bị người cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng theo hình thức này nên các quá trình kinh doanh diễn ra bình thường thì diễn ra bình thì số dư vốn chiếm dụng này là không lớn. Tuy nhiên, kinh doanh trong thị trường hiện tại đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc rất cẩn thận vì không chỉ tồn tại lượng vốn nhất định khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là rất lớn. I.6.2.6.Tín dụng thuê mua (leasing): Trong cơ chế kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Sở dĩ hình thức thuê mua diễn ra khá phổ biến vì nó đáp ứng được yêu cầu cơ bản của bên có cầu (doanh nghiệp muốn thuê mua thiết bị) và bên đáp ứng cầu (doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua). Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là giúp doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong khoảng thời gian thích hợp. Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc thiết bị không đúng được yêu cầu hoặc hay do mua nhầm. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư một lần với vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể giảm được tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị doanh nghiệp sử dụng có thể thoả thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua; tức là doanh nghiệp sử dụng bán một phần tài sản thiết bị cho doanh nghiệp thuê mua rồi lại thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bị đó. Với phương thức thuê mua doanh nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. i.6.2.7.Vốn liên doanh, liên kết: Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một (một số) doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động (dự án) liên doanh nào đó. Các bên liên doanh ký hợp đồng liên doanh với các hoạt động cụ thể về phương thức hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có giá trị trong một khoảng thời gian nào đó. Khi hết hạn, hợp đồng liên doanh hết hiệu lực. Với phương thức liên doanh, liên kết doanh nghiệp có một lượng vốn lớn cần thiết cho một(một số) hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ.Vì vậy, nhiều nhà quản trị học cho rằng phương thức này có thể được coi là phương thức cung ứng vốn nội bộ.Trong quá trình hoạt động, các bên liên doanh cùng chia sẻ rủi ro. Bên cạnh đó, phương thức liên doanh, liên kết cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, huy động vốn theo phương thức này tất sẽ dẫn đến các bên liên doanh cùng tham gia kinh doanh và cùng chia sẻ lợi nhuận thu được. I.6.2.8.Cung ứng từ sự kết hợp cung và tư trong XD cơ sở hạ tầng (phương thức BOT): Phương thức cung ứng vốn từ sự kết hợp công tư trong xây dưng cơ sở hạ tầng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực tế, có thể có nhiều hình thức kết hợp khác nhau với cách thức tiến hành cụ thể khác nhau. Đó là cách thức: Xây dựng – sở hữu- chuyển giao (BOT). Xây dựng – sở hữu- điều hành- chuyển giao (BOOT), Xây dựng – chuyển giao - điều hành (BTO), Xây dựng – sở hữu- điều hành (BOO), Xây dựng- sở hữu- bán (BSO). Tuỳ theo hoàn cảnh thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn quyết định hình thức cụ thể thích hợp. Lựa chọn phương thức này, doanh nghiệp phải thoả mãn các điều kiện nhất định. I.6.2.9.Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp (FDI): Trong cơ chế kinh tế mở, từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước còn có thể cung ứng vốn bằng phương thức các doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài đầu tư trực tiếp. Với nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật – công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, huy động vốn bằng nguồn vốn nước ngoài đầu trực tiếp doanh nghiệp sẽ chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) cấp vốn. Mức độ kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Mặt khác, mà một doanh nghiệp trong nước vấp phải là doanh nghiệp khó tìm được đối tác nước ngoài thích hợp nhằm phát huy ưu thế mỗi bên. Vấn đề duy trì mối quân hệ hợp tác trong khoảng thời gian dài là bao nhiêu cũng là vấn đề các doanh nghiệp cần cân nhắc một cách thận trọng. I.6.2.10 Nguồn vốn ODA: Cuối cùng là phương thức cung ứng của doanh nghiệp bằng nguồn vốn ODA. Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay có diều kiện ưu đãi về lãi suất và thời gian thanh toán. Nếu doanh nghiệp được vay từ nguồn vốn ODA có thể chịu mức lãi suất thường trong khoảng 1%-1,5%/năm, phí ngân hàng thường là 0,2-0,3%/năm trong thời hạn có thể từ 10-20 năm và có thể được gia hạn thêm. Hình thức huy động vốn từ nguồn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận các điều kiện thủ tục rất chặt chẽ. Đồng thời, doanh nghiệp phải có trình độ quản lý dự án đầu tư cũng như trình độ phối hợp làm việc với các cơ quan chính phủ và chuyên gia nước ngoài. I.7. Tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh : Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù bất cứ cấp độ nào, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản quyền phát… Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định. I.7.1./Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý mới được công nhận. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt động như phá sản, sát nhập vào doanh nghiệp khác… Như vậy, vốn được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật . I.7.2./Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục, thường xuyên. Vốn là yếu tố quyết định đến mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo cho doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. II.Hiệu quả sử dụng vốn và ý nghĩa đối với doanh nghiệp: II.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn: Sự phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy muốn phát triển một doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Tuy nhiên nếu nguồn tài nguyên là vô hạn, người ta có thể sản xuất hàng hoá một cách không hạn chế, sử dụng máy móc nguyên vật liệu bừa bãi… cũng chẳng sao. Song mọi tài nguyên như đất đai, khoáng sản…lại là một phạm trù hữu hạn đòi hỏi ngày một nhiều và cao hơn, điều này buộc các doanh nghiệp phải sử dụng một cách có kế hoạch các nguồn lực của mình để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế chiều sâu, thể hiện trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Công thức tổng quát xác định hiệu quả kinh doanh: Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = ắắắắắắắ Chi phí đầu vào Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự tối thiểu hoá vốn cần sử dụng và tối đa hoá kết quả hay khối lượng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong một giới hạn nguồn nhân tài, vật lực, phù hợp với kinh tế hiệu quả nói chung. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời độ luân chuyển vốn… Nó phản ánh quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ. Công thức xác định là: G Hv = ắắắ V Trong đó: Hv: hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp G : sản lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ hoặc doanh thu bán hàng V : vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ. Theo công thức trên, Hv càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh càng cao. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau: - Phải khai thác nguồn lực một cách triệt để, nghĩa là không để nhàn rỗi không sinh lời. - Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm. Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ, nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản lý. II.2./ Phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong Công ty : II.2.1./Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian, kỳ phân tích được gọi là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đo bằng giá trị tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm: So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự suy giảm hay sự giảm sút trong hoạt động sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số bình quân của ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá doanh nghiệp mình tốt hay xấu được hay không được. So sánh chiều dọc để xem xét tỷ trọng của trừng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến động cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các liên độ kế toán liên tiếp. II.2.2./Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp được phân tích thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ mục tiêu thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều nhóm tỷ lệ riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính. Trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo góc độ phân tích, người phân tích lựa chọn các mục tiêu khác nhau. Để phục vụ cho mục tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta phải tính đến hao mòn vô hình do sự phát triển không những của tiến bộ khoa học kỹ thuật… II.3.ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có ba yếu cơ bản là vốn, lao động và kỹ thuật- công nghệ. Cả ba yếu tố này đều đóng vai trò quan trọng, song vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu. Bởi vì hiện nay, đang có một nguồn lao động dồi dào, việc thiếu lao động chỉ xảy ra ở các ngành nghề cần đòi hỏi chuyên môn cao, nhưng vấn đề này có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn nếu chúng ta có tiền để đào tạo hay đào tạo lại. Vấn đề là công nghệ cũng không gặp khó khăn phức tạp vì chúng ta có thể nhập chúng cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, nếu chúng ta có khả năng về vốn, ngoại tệ hoặc có thể tạo ra nguồn vốn, ngoại tệ. Như vậy, yếu tố cơ bản của doanh nghiệp nước ta hiện nay là vốn và quản lý sử dụng vốn có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết hoạt động kinh doanh là hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp phải có một chế độ bảo toàn vốn trước hết từ đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trước đây trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp coi nguồn vốn từ ngân sách Nhà Nước cấp cho nên doanh nghiệp sử dụng không quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà Nước bù đắp, điều này gây ra tình trạng vô chủ trong quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế thấp. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh. Nhà Nước không tiếp tục bao cấp về vốn cho doanh nghiệp như trước đây. Để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp phải bảo toàn, giữ gìn số vốn Nhà Nước giao, tức là kinh doanh ít nhất cũng phải hoà vốn, bù đắp được số vốn đã bỏ ra để tái sản xuất giản đơn. Đồng thời doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tích luỹ bổ sung vốn, là đòi hỏi với tất cả các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường doanh nghiệp luôn đề cao tính an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo toàn, doanh nghiệp có đủ nguồn lực để khắc phục những khó khăn và rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. Đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm…doanh nghiệp phải có vốn trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động… vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động ngày càng cải thiện. Điều đó giúp cho năng xuất lao động ngày càng được nâng cao, tạo cho sự phát triển của doanh nghiệp và các ngành khác có liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho Nhà Nước. Thông thường các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh như doanh thu, lợi nhuận … với số vốn cố định, vốn lưu động để đạt được kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cao nhất khi bỏ vốn vào kinh doanh ít nhưng thu được kết quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là đi tìm biện pháp làm cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất mà đem lại kết quả cuối cùng cao nhất. Từ công thức: Lợi nhuận = Doanh thu – chi phí Cho ta thấy: với một lượng doanh thu nhất định, chi phí càng nhỏ lợi nhuận càng lớn. Các biện pháp giảm chi phí tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở phản ánh chính xác, đầy đủ các loại chi phí trong điều kiện nền kinh tế luôn biến động về giá. Do đó để đảm bảo kết quả hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra trong đó chi phí về vốn là chủ yếu. III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh III.1. Các chỉ tiêu đánh giá chung Chỉ tiêu mức sản xuất của vốn kinh doanh : Mức sản xuất Giá trị sản lượng (hoặc doanh thu thuần) = ắắắắắắắắắắắắắ của vốn kinh doanh Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu mức sản xuất của vốn kinh doanh hay còn gọi là hiệu xuất sử dụng vốn, phản ánh cứ một đồng vốn bình quân bỏ vào kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hoặc doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Chỉ tiêu mức sinh lời của vốn kinh doanh: Lợi nhuận thuần Mức sinh lời vốn kinh doanh = ắắắắắắắắắắ Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu mức sinh lời của vốn kinh doanh hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cho thấy một đồng vốn bỏ ra sản xuất kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc đánh giá đúng mức biến động của lợi nhuận còn phải đánh giá bằng số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sử dụng để sinh ra lợi nhuận đó. III.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động III.2.1Hiệu quả sử dụng vốn lưu động : Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hoặc doanh thu trong kỳ. Giá trị tổng sản lượng (doanh thuần) Hiệu quả sử dụng vốn = ắắắắắắắắắắắắắắắ Vốn lưu động bình quân III.2.2Sức sinh lời của vốn lưu động : Còn gọi là tỷ xuất lợi nhuận của vốn lưu động, chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận bình quân = ắắắắắắắắắ VLĐ bình quân trong kỳ III.2.3./Số vòng quay của vốn lưu động : Chỉ tiêu này đánh giá tốc luân chuyển vốn lưu động cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. Hoặc cứ một đồng vốn lưu động bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay vốn lưu động = ắắắắắắắắắắắ Vốn lưu động bình quân III.2.4./Độ dài bình quân một lần luân chuyển: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một vòng quay của vốn lưu động trong kỳ phân tích hết bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này càng thấp, số ngày của một vòng quay vốn lưu động càng ít, hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Thời gian kỳ phân tích Thời gian một vòng luân chuyển = ắắắắắắắắắắắắ Số vòng quay của vốn lưu động III.2.5./Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (K): Chỉ tiêu này cho biết tạo ra một đồng vốn doanh thu thuần trong kỳ phân tích cần bao nhiêu đồng vốn lưu động bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vốn lưu động bình quân K = ắắắắắắắắắ Tổng doanh thu III.3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: III.3.1./Hiệu quả sử dụng vốn cố định : Phản ánh một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị sản lượng. Doanh thu (giá trị tổng sản lượng) Hiệu suất sử dụng vốn cố định = ắắắắắắắắắắắắắ Vốn cố định bình quân trong kỳ III.3.2./ Tỷ suất lợi nhuận cố định : Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = ắắắắắắắắắ Vốn cố định bình quân IV.Những nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luân chuyển không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. Tại một thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận động đó rất nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, cụ thể: IV.1. Nhân tố bên ngoài : Các chính sách vĩ mô : Trên cơ sở pháp luật, các chính sách kinh tế tạo môi trường cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Bất kỳ một sự thay đổi trong chính sách này đều có tác động đáng kể đến doanh nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng vốn thì các quy định như thuế vốn, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Biến động về thị trường đầu vào, đầu ra : Biến động về thị trường đầu vào là các biến động về tư liệu lao động, là những thay đổi về máy móc, công nghệ… nó có thể giúp cho doanh nghiệp chọn công nghệ phù hợp, học tập kinh nghiệm sản xuất nhưng ngược lại nó cũng có thể đẩy công nghệ đi đến lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh. Những biến động về thị trường đầu ra có thể ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp. Nếu nhu cầu về sản phẩm tăng, doanh nghiệp có cơ hội tăng doanh thu và lợi nhuận, qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, những biến động bất lợi như giảm đột ngột nhu cầu, khủng hoảng thừa…sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. IV.2.Nhân tố bên trong : Chu kỳ sản xuất kinh doanh : Chu kỳ sản xuất kinh doanh có hai bộ phận hợp thành: Bộ phận thứ nhất là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp nhập kho nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho người mua, bộ phận thứ hai là là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua đến khi doanh nghiệp thu tiền về. Chu kỳ kinh doanh gắn trực tiếp với hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kỳ kinh doanh ngắn doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ kinh doanh dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và trả lãi cho các khoản cho vay phải trả. Kỹ thuật sản xuất : Các đặc điểm về kỹ thuật tác động với một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ như hệ số sử dụng thời gian, công suất…nếu kỹ thuật công nghệ lạc hậu doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, từ đó làm cho việc bảo toàn và phát triển vốn gặp khó khăn. Ngược lại, nếu kỹ thuật công nghệ hiện đại doanh nghiệp sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm hao phí năng lượng, hao phí sửa chữa…tăng năng suất lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện chiếm lĩnh thị trường. Đặc điểm về sản phẩm : Đặc điểm của sản phẩm ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm, từ đó tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp, vòng quay của vốn, nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghệ nhẹ sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh, thu hồi vốn nhanh. Ngược lại nếu sản phẩm có vòng đời dài, giá trị thu hồi vốn chậm. Trình độ quản lý, hạch toán nội bộ : Trình độ quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản lý tốt đảm bảo cho quá trình thông suốt đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp, từ đó hạn chế tình trạng ngừng việc của máy móc thiết bị, tiết kiệm các yếu tố sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn. Mặt khác, công tác hạch toán dùng các công cụ tính toán các chi phí phát sinh, đo lường hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó phát hiện những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất biện pháp giải quyết. Trình độ lao động của doanh nghiệp : Trình độ lao động của doanh nghiệp được thể hiện qua tay nghề, khả năng tiếp thu công nghệ mới, khả năng sáng tạo, ý thức giữ gìn tài sản. Nếu lao động có trình độ cao, tay nghề cao thì máy móc thiết bị được sử dụng tốt, năng suất lao động tăng. Tuy nhiên để phát huy tiềm năng lao động doanh nghiệp phải có biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. V.Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn : V.1.Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm : Hiệu quả sử dụng vốn, trước hết quyết định bởi doanh nghiệp có công ăn việc làm, tức là có khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất sản phẩm gì, bao nhiêu tiêu thụ ở đâu, với giá nào nhằm huy động được mọi nguồn lực (vốn, kỹ thuật, lao động) vào hoạt động có được nhiều thu nhập, thu được nhiều lãi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, quy mô tính chất sản xuất kinh doanh không phải do doanh nghiệp chủ quan quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ... là những yếu tố quyết định thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vậy giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là chọn đúng phương thức kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng trên cơ tiếp cận thị trường, nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng hàng hoá và giá cả. Có như vậy sản phẩm sản xuất ra mới có khả năng tiêu thụ, quá trình sản xuất mới được tiến hành bình thường, TSCĐ mới có thể phát huy hết công xuất, công nhân viên có việc làm, vốn lưu động luân chuyển đều đặn, hiệu quả sử dụng vốn cao, doanh nghiệp có điều kiện bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại, nếu không lựa chọn đúng phương án kinh doanh, phương án sản phẩm thì dẫn đến tình trạng sản xuất sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường, không bán được hoặc bán chậm, vốn bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Để sản xuất kinh doanh đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp marketing. Các doanh nghiệp phải có tổ chức chuyên trách về vấn đề tìm hiểu thị trường để thường xuyên có các thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về những diễn biến của thị trường. Trong đó, đặc biệt nhận biết sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để chuẩn bị sản phẩm thay thế. V.2.Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn : Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà Nước đầu tư, cũng cần huy động cả những nguồn vốn huy động bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu. Các nguồn vốn huy động bổ sung trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều, do đó việc lựa chọn nguồn vốn là rất quan trọng và dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng trước hết cần huy động nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ phát triển sản xuất, phần còn lại vay tín dụng Nhà Nước, vay ngân hàng... Về nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo mục đích nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối... Đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho các doanh nghiệp khác vay thì cần phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh... V.3.Tổ chức và quản lý tốt quá trình kinh doanh : Điều hành và tổ chức tốt sản xuất kinh doanh được coi là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh tức là đảm bảo cho quá trình được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm tốt, tiêu thụ nhanh. Các biện pháp điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh phải hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất không đúng phẩm chất... gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Để đạt được mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất. +./ Quản lý tài sản cố định, vốn cố định : Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, vốn cố định các doanh nghiệp phải tổ chức tốt việc sử dụng TSCĐ, bao gồm: - Bố trí dây truyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao được hiệu suất công tác của mấy, thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm. - Xử lý dứt điểm những tài sản không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định ._.ông trình, hạng mục công trình công ty xác định chính xác nhu cầu về vốn sau đó lập ngay công tác huy động vốn kịp thời. chính điều này giúp cho công ty đứng vững trong môi trường cạnh tranh. VI.4./ Kết quả kinh doanh : Về giá trị sản lượng: Tổng sản lượng 114,5 tỷ đồng tương đương với 100,37% kế hoạch và tăng 17% so với năm 2002 trong đó giá trị do tổng công ty giao là 37,3 tỷ còn lại công ty ký hợp đồng trực tiếp là 77,2 tỉ đồng. Kế hoạch tổng sản lượng năm 2004 là 130,9 tỉ đồng tăng 14,3 % Tiến độ và chất lượng công trình: Hầu hết các công trình triển khai đều vượt và đạt tiến độ, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng Tình hình tài chính của công ty : + Vay ngắn hạn 39,9 tỉ đồng + Vay trung hạn đầu tư thiết bị 8,5 tỉ đồng + Tiền gửi ngân hàng 940 triệu Đầu tư thiết bị: Đầu tư 7,4 tỉ đồng thiết bị, với lực lượng thiết bị hiện có và khoản vay trung hạn 8,5 tỉ đồng công ty hoàn toàn yên tâm về khả năng trả nợ VI.5./ Hạn chế và nguyên nhân : Nhiệm vụ sản xuất năm 2003 tăng 10% so với năm 2002, triển khai thi công xây lắp 29 công trình trên 15 tỉnh, thành phố của mọi miền đất nước làm cho lực lượng lao động và trang thiết bị phân tán xa do đó quản lý và điều hành rất khó khăn và phức tạp Nhiệm vụ sản xuất phát triển, yêu cầu kỹ thuật phát triển ngày càng cao, chất lượng cũng ngày càng cao dẫn đến lao động chưa đáp ứng được về số và chất lượng Thiết bị trong những năm qua công ty đã cố gắng để đầu tư nhưng vẫn chưa ứng được yêu cầu, công tác sửa chữa chưa phục vụ được Công tác giải phóng mặt bằng là khó khăn cực lớn làm giảm tiến độ thi công các công trình VI.5.1./Trong quá trình sử dụng tài sản cố định : Trong năm 2002 tỷ trọng tài sản cố định là 22,74% trong tổng tài sản cố định và tăng 14,7% so với năm 2001, tuy có tăng tài sản cố định nhưng hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, hiệu quả sử dụng vốn là 3,57, thấp hơn so với năm 2001 là 1,004. Nguyên nhân là tài sản cố định chưa phát huy hết công suất, còn nhiều máy móc đang sửa chữa hoặc đang hư hỏng chưa sửa chữa. VI.5.2./ Trong quá trình sử dụng vốn lưu động : Đối với các khoản phải thu: Các khoản phải thu năm 2002 là 53.387tr.đồng tăng 10.783tr.đồng so với năm 2001, tỉ trọng năm 2002 là 48,52% trong tổng tài sản, năm 2001 là 43,05%. Như vậy các khoản phải thu là khá cao trong tổng tài sản lưu động, điều này làn cho lượng tiền mặt giảm, công ty cần có biện pháp thu nợ kịp thời, không làm ứ đọng vốn quá lâu làm giảm khả năng sử dụng vốn. Nguyên nhân: Các đơn vị được xây dựng là các cơ quan Nhà Nước đồng thời do đặc điểm của ngành xây dựng với giá thành công trình lớn, thời gian thi công kéo dài, ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự nhiên, sau khi hoàn thành công trình cần phải có thời gian theo dõi chất lượng công trình do vậy các cơ quan chưa thanh toán ngay hết giá trị của các công trình, do hệ thống ngân hàng còn phức tạp trong việc cho các đơn vị vay vốn để xây dựng công trình, bên cạnh dó là luật pháp chưa thông thoáng trong việc vay vốn của các đơn vị còn nhiều thủ tục. Những nguyên nhẩn trên làm cho khả năng thu nợ của công ty là thấp. Chi phí kinh doanh dở dang và vốn lưu động khác: Chi phí kinh doanh dở dang năm 2002 chiếm 27,29% trong tổng tài sản của công ty, năm 2001 là 26,02%, với tỷ lệ tăng 13.79% so với năm 2001, như vậy chi phí kinh doanh dở dang chiếm tỷ trọng lớn sau các khoản phải thu. Trong khi đó tài sản khác chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng tài sản, năm 2002 là 0,243%, năm 2001 là 2,48%. Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng Cầu 75 I. Phương hướng và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong thời gian tới I.1./ Nhiệm vụ chính năm 2004 : +./ Mục tiêu chính là đảm bảo tiến độ , chất lượng , hiệu quả ,tiết kiệm và an toàn tuyệt đổi trong công tác thi công các công trình. +./ Tích cực thu nợ các năm trước nhằm giảm lãi vay ngân hàng. +./ Các công trình trọng điểm năm 2004 : -./ Nút giao Thủ Đức : hoàn thành ngày 30/07/2004. -./ Cầu Gò Giầu : hoàn thành ngày 30/09/2004. -./ Cầu Gò Chai : hoàn thành ngày 30/11/2004. -./ Cầu Xê Công : hoàn thành ngày 10/12/2004. -./ Thi công cầu Nam Ô ( Đà Nẵng ) theo công nghệ đúc đẩy đà giáo . -./ Các công trình khác Công ty tự đấu thầu thi công đảm bảo tiến độ hiệu quả. I.2./ Kế hoạch thực hiện năm 2004: Giá trị sản lượng : 235.660 Triệu đồng Doanh thu: 242.220 Triệu đồng Thu tiền : 212.716 Triệu đồng Tỷ suất lợi nhuận đạt 1% Lương bình quân xây lắp của cán bộ công nhân viên đạt trên 1400000đ/tháng Nộp đủ nghĩa vụ ngân sách với nhà nước so với doanh thu . Đảm bảo đạt và vượt tiến độ, an toàn tuyệt đối về người và thiết bị . Đơn vị: 1 đồng TT Hạng mục công Trình Năm 2003 Kế hoạch năm 2004 Kế hoạch Thực hiện Tổng số (I+II+III+ IV+V+VI) 114,071,090 114,109,738 130,900,000 I Khu vực phía Bắc 25,937,000 31,422,230 39,900,000 1 Cầu Non Nước 6,113,000 4,122,230 2,000,000 2 Cầu sông Tích (Hà Tây) 4,000,000 3,400,000 600,000 3 Cầu Lim 5,860,000 7,610,000 0 4 Cầu Giá 1.000.000 2,000,000 3.000,000 5 Cầu KUO (Hà Nội) 10,000,000 6,000,000 8,000,000 6 Gia cố đê Bắc Ninh 662,053 1,000,000 0 7 Cầu Ngói Hóp 0 460,000 0 8 Cầu Trạng 0 353,000 0 9 05 cầu Thanh Hoá 0 3,000,000 0 10 Các dự án khác 0 4,477,000 19,000,000 II Khu vực Miền Trung 25,000,000 27,799,000 14,000,000 1 Cầu Kiêna An 2,000,000 3,100,000 0 2 Cầu Tây Hy ( Huế ) 20,000,000 21,699,000 14,000,000 3 Bắc thấm Cầu Tuyên Sơn 3,000,000 3,000,000 0 III Khu vực Tây Nguyên 22,098,090 33,388,508 51,000,000 1 Cầu Ka Tăng 11,391,153 14,206,508 0 2 Cầu IABLOK 1,203,000 1,203,000 0 3 Cầu HLO 3,199,937 3,200,000 0 4 Cầu Sông Bờ 1,3883,000 1,538,000 0 5 Cống QL24 921,000 921,000 0 6 Cầu Đăcpsi 2,000,000 2,000,000 0 7 Cầu IAKROOM 2,000,000 2,000,000 0 8 Cầu Châu E 0 1,000,000 32,000,000 9 Cầu khác 0 4,500,000 12,000,000 IV Khu vực Miền Nam 28,000,000 20,000,000 11,000,000 1 4 cầu DAPTNT( Trà Vinh) 18,000,000 20,000,000 1,000,000 2 Cầu Sông Ray ( Vũng Tàu) 10,000,000 0 10,000,000 V Khu vực Lào 6,000,000 1,500,000 15,000,000 VI Các công trình khác 7,000,000 0 Biểu 3.1: Kế hoạch sản xuất năm 2003 Hàng năm, hàng quý, hàng tháng công ty đã đặt kế hoạch sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, một mặt dựa và kết quả sản xuất hiện tại của công ty như tiến độ thi công đang đạt đến đâu, lượng trang thiết bị máy móc còn khả năng như thế nào, lực lượng lao động, khả năng tài chính và các nhân tố khác, mặt khác công ty dự kiến khả năng thắng thầu các công trình tự tìm và các công trình do Tổng Công ty giao để vạch ra kế hoạch trong thời gian tới như thế nào. II./ giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng Cầu 75 : II.1./ Về vốn cố định: II.1.1./ Nâng cao hệ số sử dụng máy móc thiết bị : Để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi máy móc thiết bị luôn luôn theo kịp tiến độ phát triển kinh tế, cùng lượng vốn sẵn có công ty có thể mua máy móc thiết bị bằng hình thức thuê tài chính. Thuê tài chính có thể giúp công ty sử dụng thiết bị công nghệ với số tiền nhỏ hơn chi phí để mua thiết bị đó, đáp ứng nhiều nhu cầu sản xuất hơn. Đồng thời tránh được sự lạc hậu thiết bị, nâng cao tiến độ và chất lượng công trình. Thuê mua không làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có cơ hội thu hút các nguồn vốn khác khi cần thiết. Các khoản thuê mua làm giảm lợi tức sẽ đưa lại cho công ty phần lợi nhuận (thuế thu nhập phải nộp ít hơn). Hết thời hạn hợp đồng, nếu quản lý, sử dụng tốt thì giá trị thực tế tài sản sẽ lớn hơn nhiều so với số tiền còn lại dự kiến trong hợp đồng, công ty có thể mua lại hoặc bán để hưởng phần chênh lệch. Để tiến hành công ty cần sắp xếp máy móc thiết bị theo nguyên giá, giá trị còn lại, khả năng phục vụ và mức độ đóng góp của nó vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Phải phân định rõ vai trò của thiết bị, đưa ra những tài sản thừa, ít sử dụng hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của công ty nên tìm cách xử lý phù hợp với từng loại tài sản. Bên cạnh đó công ty phải lập kế hoạch sản xuất cụ thể, đặc biệt là kế hoạch sử dụng máy móc thiết bị sao cho hiệu quả cao. Đồng thời quản lý chặt chẽ tài sản cố định, không để nó mất mát, hư hỏng trước thời hạn khấu hao. Để thực hiện được điều này công ty phân cấp quản lý tài sản cố định trong công ty nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong việc quản lý, chấp hành nội quy, quy chế sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa sớm hơn so với kế hoạch. Quy định rõ trách nhiệm quyền hạn của từng bộ phận cá nhân trong việc bảo quản, bảo dưỡng bảo đảm cho tài sản cố định hoạt động với công suất cao. Bên cạnh đó công ty cần sử dụng triệt để đòn bẩy kinh tế nhằm nâng cao hơn nữa công suất sử dụng máy móc thiết bị. Bằng các quy chế thưởng phạt rõ ràng nghiêm minh sẽ khuyến khích tinh thần nâng cao trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với tài sản chung. Sử dụng tốt đòn bẩy kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. II.1.2./ Hoàn thiện công tác khấu hao và sử dụng hiệu quả quỹ khấu hao tài sản cố định : Trong sản xuất kinh doanh khấu hao là một loại chi phí làm giảm tài sản cố định của công ty. Khấu hao là một chi phí không suất quỹ cho nên nó không phải là một luồng tiền nhưng nó lại có tác dụng gián tiếp đến luồng tiền thông qua thuế. Mỗi khi mức khấu hao thay đổi nó tác động đến mức thuế phải nộp của công ty. Việc tăng chi phí khấu hao sẽ làm tăng chi phí kinh doanh, giảm lợi nhuận dẫn đến thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ít hơn do đó làm tăng được lượng tiền sau thuế . Do vậy công ty cần phải xác định đúng mức khấu hao trong năm, xác định đúng giá trị còn lại của tài sản thực hiện tái đầu tư, nâng cao chất lượng, năng lực thi công. Hiện tại công ty đang sử dụng phương pháp khấu hao bình quân hàng năm, công ty nên nghiên cứu cho tiến hành khấu hao nhanh đối với một số tài sản để có điều kiện hiện đại nó và đổi mới công nghệ II.1.3./ Nâng cao hoạt động đầu tư đổi mới tài sản cố định : Ngoài một số máy móc thiết bị đã đầu tư năm 2002 còn đa số là đầu tư từ năm 1982 trở lại đây thì có 49 máy hỏng chiếm 9,55% tổng số máy, 8 máy đang sửa chiếm 1,6% tổng số máy còn 88,85% là đang hoạt động. Trong đó có các máy đều nhập ở Liên xô cũ, Nhật, Mỹ, và ở Việt Nam. Công suất thực tế chỉ đạt tối đa 60% tới 65% công suất thiết kế, chi phí sửa chữa bảo quản lớn dẫn đến chi phí sử dụng máy cao, chất lượng công việc thấp, đặc biệt là tiến độ thi công chậm làm ảnh hưởng tới chi phí chung và tốc độ luân chuyển vốn. Vì vậy, trong thời gian tới công ty có kế hoạch đầu tư thêm một số máy móc thiết bị, công nghệ mới để thay thế dần máy móc thiết bị cũ lạc hậu. Một điều quan trọng trong đầu tư đổi mới công nghệ là công nghệ đó phải phù hợp với yêu cầu thi công, phải đem lại lợi ích cho công ty, có như thế số vốn đem đầu tư mới đem lại hiệu quả. Trong thời gian gần đây, sự tham gia của một số công ty tài chính trên lĩnh vực xây dựng đã mở ra một hướng mới trong việc đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp xây dựng. Thay vì phải đầu tư toàn bộ cho việc mua mới, các công ty xây dựng có thể thuê sử dụng các thiết bị thi công theo đúng yêu cầu. Mặc dù công ty đã sử dụng loại dịch vụ này song vẫn chưa hợp lý và có một số tài sản phải sử dụng thường xuyên song công ty vẫn tiến hành thuê, mà chi phí thuê tài sản cố định là rất lớn. Chính vì thế công ty phải cân nhắc kỹ lưỡng, xem xét kỹ khi tiến hành phương án thuê. Chỉ tiến hành thuê khi: - Các máy móc thiết bị có tần suất sử dụng thấp, thường chỉ sử dụng cho một số ít công trình hoặc trong giai đoạn ngắn trong toàn bộ thi công công trình. - Công ty cùng một lúc thực hiện nhiều hợp đồng khác nhau tại các địa phương xa nhau, có một vài loại máy móc thiết bị phục vụ khi thi công bị hạn chế, các công trình có quy mô nhỏ trong khi vận chuyển trực tiếp máy móc thi công từ công ty tới rất khó khăn. - Các máy móc thiết bị mà công ty đó đã song đang bận thi công tại các công trình khác chưa điều động kịp về. Các máy móc thiết bị thuê theo hình thức này sẽ giúp công ty không phải bỏ ra một lần toàn bộ chi phí đầu tư, không phải tính khấu hao cho tài sản thuê tránh được khấu hao vô hình của tài sản. Mặt khác do năng lực máy móc thiết bị của công ty khá lớn song không phải chúng được sử dụng liên tục cho nên để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định công ty nên công ty cho các công ty khác thuê các máy móc thiết bị này. Như vậy, công ty sẽ có thêm một khoản thu, đồng thời tránh được hao mòn cho tài sản cố định. II.1.4./ Bảo toàn và phát triển vốn cố định : Xét về mặt hiện vật, tài sản cố định của công ty đã được bảo toàn, có nghĩa là phương tiện vận tải và máy móc thiết bị của công ty không bị mất mát, hư hỏng đã được sửa chữa cho nên năng lực hoạt động của tài sản cố định đã được duy trì, hạn chế tối đa tài sản không dùng vào sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Đối với các tài sản cố định được mua sắm từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp sử dụng tiền khấu hao luỹ kế thu được để tái đầu tư thay thế đổi mới tài sản cố định của mình. Khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại tài sản cố định, công ty có thể sử dụng linh hoạt số tiền khấu hao thu được để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Đối với các tài sản mua sắm từ nguồn vốn đi vay thì công ty dùng số tiền khấu hao thu được để trả vốn và lãi vay, tuy nhiên trong khi chưa đến hạn trả nợ công ty có thể tạm thời sử dụng vào mục đích kinh doanh khác để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. II.2./ Về vốn lưu động: II.2.1./ Xác định lượng vốn lưu động hợp lý cho năm kê hoạch : Có thể nói đối với doanh nghiệp xây dựng việc hoạch định nhu cầu vốn là rất phức tạp, khó chính xác do không ổn định của sản xuất, của thị trường. Mặc dù vậy công ty có thể áp dụng phương pháp phân tích tỷ lệ trên doanh thu để tính gần đúng nhu cầu về vốn lưu động trong năm tới. Công ty có thể xác định vào kế hoạch trong năm tới, công ty đang xây dựng các công trình nào, hạng mục công trình nào, hoặc những công trình nào sẽ thi công trong thời gian tới, trên cơ sở đó dựa vào các đơn giá chi tiết hay tổng hợp để xác định lượng vốn lưu động cần thiết cho năm kế hoạch. Công ty có thể có thể dựa vào định mức hao phí, thực trạng sử dụng vốn trong thời gian qua như tỷ lệ vốn lưu động trên mỗi công trình sau đó xác định vốn cho năm kế hoạch dựa trên tăng năm kế hoạch so với năm trước. Bên cạnh đó còn dựa vào năng lực, trình độ quản lý của công ty cũng ảnh hưởng tới hao phí vốn lưu động, nếu năng lực quản lý của công ty mà tốt sẽ giảm hao phí vốn lưu động, ngược lại sẽ lãng phí làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng, vốn nói chung. Nếu xác định nhu cầu vốn lưu động không thừa, không thiếu không những đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, có kế hoạch huy động vốn hợp lý. Để thấy rõ được công tác lập kế hoạch vốn lưu động định mức ta sử dụng phương pháp sau: - Tính số dư của các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán năm báo cáo - Chọn những khoản chịu biến động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu, trích tỷ lệ phần trăm của những khoản đó trên doanh thu. - Dùng tỷ lệ phần trăm đã tính được bước hai ước tính nhu cầu vốn lưu động của năm sau theo sự thay đổi của doanh thu. Tuy nhiên dây là mức xác định nhu cầu vốn lưu động một cách dự đoán và tương đối nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng trong việc hạch toán vốn, giúp công ty có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả. Việc xác định kế hoạch vốn lưu động định mức có tác dụng thực tế hơn, tránh được tình trạng thừa hoặc thiếu trong kỳ thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và làm lành mạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp. II.2.2./ Nâng cao năng lực thu hồi nợ : Nhìn vào biểu 2.16 ta nhận thấy rằng lượng vốn bị chiếm dụng chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng số vốn lưu động và tổng nguồn vốn của công ty, điều này chứng tỏ vốn lưu động bị ứ đọng trong khâu lưu thông là rất lớn, lượng vốn này không những không sinh lãi mà còn giảm vòng quay của vốn lưu động. Như vậy để tăng vòng quay của vốn lưu động công ty phải có biện pháp thích hợp để đẩy nhanh tốc độ thanh toán công nợ hay rút ngắn kỳ thu hồi vốn bình quân bởi vì nếu rút ngắn được thì thời gian thu hồi công nợ dù chỉ vài ba ngày cũng tiết kiệm được rất nhiều vốn vì với quy mô lớn như vậy công ty không những có thể đẩy nhanh tốc độ vòng quay vốn kinh doanh mà còn giảm đi phần nào việc chiếm dụng vốn của các đơn vị khác va lành mạnh hoá hoạt động tài chính của công ty . Để giảm kỳ thu hồi tiền bình quân công ty cần thực hiện các vấn đề sau: - Khi ký kết các hợp đồng xây dựng cơ bản công ty cần tìm hiểu rõ thực trạng tài chính của công ty, bởi vì các công trình có nguồn vốn khác nhau sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công và thanh quyết toán. Đối với các công trình Nhà Nước thì quá trình quyết toán phải chờ thẩm định kết quả công việc hoàn thành bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền. Sau đó quá trình thanh toán có thể bị chậm trễ do chờ chỉ tiêu kế hoạch của Nhà Nước hoặc các bộ ngành. Vì vậy công ty cần tìm hiểu quyết định cấp vốn thông qua đó công ty tiếp cận nguồn vốn một cách nhanh nhất. Còn đối với các công trình có vốn đầu tư do các cá nhân hay các tổ chức bỏ ra, tuỳ yêu cầu về chất lượng và tiến độ nhưng thanh quyết toán và bàn giao công trình nhanh hơn, nhưng trước khi ký hợp đồng phải xem xét tình hình tài chính và khả năng thanh toán của họ. -Trong nội dung ký kết hợp đồng công ty cần chú ý về các điều khoản ứng trước, điều khoản về thanh toán, mức phạt quy đinh khi thanh toán chậm so với thời hạn thanh toán đã thoả thuận, thông thường mức phạt 5-10% giá trị thanh toán chậm. - Trường hợp cùng một lúc thực hiện nhiều hợp đồng thi công, công ty cần xem xét lại các chủ đầu tư nào có khả năng thanh toán nhanh thì ưu tiên thi công dứt điểm công trình đó trước, nhưng vẫn bảo đảm tiến độ thi công các công trình khác. Đồng thời công ty cũng bàn giao công trình cho chủ đầu tư khi đã hoàn thành và sau khi đã được nghiệm thu thì cần lập ngay bản kiểm kê nghiệm thu và yêu cầu chi trả. - Để thu hồi các khoản nợ, công ty cần áp dụng các biện pháp thanh toán linh hoạt: Có thể là thu bằng tiền hoặc thu bằng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…Vì trong thực tế chủ công trình có thể thiếu tiền thanh toán nhưng lại có nguyên vật liệu và máy móc, nhưng đó là những loại công ty đang cần để thi công. Nếu công ty sử dụng nguyên vật liệu của chủ đầu tư công ty có thể tăng khả năng thu hồi nợ, đồng thời giảm được các khoản chi phí mua hàng, chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, dự trữ, bảo quản hàng trong kho, lãi trả tiền ngân hàng… điều này làm tăng vòng quay vốn lưu động. Ngoài ra công ty còn thu hồi bằng cách bắn nợ cho một công ty thứ ba. đó là có thể là một ngân hàng hay công ty tài chính. Sau khi việc mua bán nợ hoàn tất thì công ty mua nợ sẽ dựa vào hoá đơn chứng từ để thu nợ, quan hệ kinh tế lúc đó là quan hệ con nợ và chủ nợ. Tuy nhiên khi thực hiện phương pháp này công ty phải chịu một khoản chi phí bằng phần chênh lệch giữa giá trị ghi trên hoá đơn thu nợ và phần công ty có được sau khi bán nợ. Ii.2.3./ Giảm thiểu giá trị sản xuất kinh dở dang, hàng tồn kho: Tập trung chủ yếu vào đẩy nhanh vòng quay tồn kho hay rút ngắn thời gian kỳ lưu kho bình quân. Số vòng hàng tồn kho = Doanh thu thuần/ hàng tồn kho bình quân Kỳ lưu kho bình quân = 360/số vòng quay hàng tồn kho Đơn vị: 1.000.000 đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 1.Doanh thu thuần 100.107 81.574 2.Hàng tồn kho bình quân 23.321 27.526,5 Số vòng quay hàng tồn kho 4,3 3 Kỳ lưu kho bình quân 83,72 120 Biểu 3.2: Chỉ tiêu hàng tồn kho Qua bảng trên ta thấy lượng tồn kho là tương đối cao, số vòng quay kỳ tồn kho là thấp và có xu hướng xấu đi, kỳ lưu kho bình quân cao. Vì vậy để đẩy nhanh vòng quay hàng tồn kho đồng thời giảm kỳ lưu kho bình quân ta phải cần: - Xác định một lượng hàng tồn kho hợp lý phục vụ vừa đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng hàng tồn kho quá lớn gây ứ đọng về vốn lưu động. Để thực hiện được công ty phải thiết lập hệ thống kênh thông tin, phải có đội ngũ làm nhân viên làm công tác thu thập thông tin có trình độ, năng động hoạt bát, có như vậy thông tin mà công ty thu thập mới chính xác và cập nhật. - Tăng khả năng tạo doanh thu của hàng tồn kho bằng cách nâng cao chất lượng các công trình đang thi công, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian thi công, thực hiện thi công dứt điểm để công trình sớm nghiệm thu và đưa và sử dụng - Xác định hình thức cung cung cấp vật tư hợp lý để phục vụ ngay thi công các công trình tránh tình trạng công nhân và máy móc chờ nguyên vật liệu. Vật tư mua về phải đúng chất lượng, quy cách, cần bảo quản vật liệu hợp lý làm cho công trình được đảm bảo, làm giảm thiểu sản xuất kinh doanh dở dang. II.2.4./ Giảm chu kỳ vận động tiền mặt : C.Kỳ vận độngTM = T.gian thu hồi các KPThu+T.gian VC của NVL- T.gian chậm trả các PTrả Muốn giảm chu kỳ vận động của tiền mặt thì cần giảm các khoản phải thu, giảm thời gian vận động của nguyên vật liệu và tăng thời gian chậm trả các khoản phải trả. II.2.4.1./ Giảm thời gian vận động của nguyên vật liệu : Công ty phải tập trung giảm chi phí nguyên vật liệu trong sản xuất vì lượng chi phí này chiếm 60% - 70% giá trị sản phẩm, nếu thực hiện tốt công tác này sẽ tăng nhanh vòng quay vốn lưu động góp phần năng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để giảm được chi phí nguyên vật liệu công ty cần chú trọng giải quyết vấn đề: cần đề ra các định mức tiêu hao nguyên vật liệu hợp lý, dựa trên yêu cầu sản xuất kinh doanh; nâng cao ý thức trách nhiệm của công nhân viên trong việc sử dụng nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh; tạo mối quan hệ tốt với người cung ứng; nghiên cứu tìm hiểu thị trường, tìm kiếm nguyên vật liệu tốt mà giá lại rẻ. II.2.4.2./ Kéo dài thời gian chậm trả các khoản phải trả và tăng thời gian các khoản phải thu: Các khoản phải trả như phải trả khách hàng, thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả người lao động, người mua trả tiền trước, các khoản phải trả khác. Nếu chúng ta kéo dài thời gian trả thì sẽ chiếm dụng được số vốn lớn, khoản này chiếm khoảng 30% - 35% lượng vốn, như vậy ta dùng số vốn này đầu tư ngắn hạn hoặc sử dụng cho công việc cấp thiết hơn như thế sẽ làm cho hiệu quả tăng lên. Các khoản phải thu như phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán, các khoản phải thu khác, số vốn này bị chiếm dụng lớn chiếm 45% - 50% tổng tài sản, nếu chúng ta giảm thời gian các khoản phải thu này giảm lượng vốn bị chiếm dụng làm tăng cường tiền mặt cho công ty III. Một số giải pháp khác: III.1./Đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề : Công ty muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình đồng thời công ty phải thực hiện đồng thời các giải pháp song một giải pháp không thể thiếu được mà công ty áp dụng là thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn cho người lao động. Vì trình độ người lao động có nâng cao thì mới điều hành được các máy móc tiên tiến, mới tiết kiệm được chi phí vật tư, mới tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Cho nên có thể nói lao động là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung. Nhìn chung công ty đã nhận thức vai trò quan trọng của việc của việc phát triển nhân lực thông qua đào tạo nâng cao năng lực trình độ. Công ty đã có chương trình, phương pháp đào tạo phù hợp với điều kiện của mình như đào tạo chuyên gia, bồi dưỡng kiến thức liên quan đến công nghệ, bồi dưỡng đội ngũ đốc công, tổ trưởng, ngoài ra còn tổ chức nâng bậc, nâng cấp cho công nhân. Tuy nhiên công tác đào tạo chưa hợp lý, công ty chỉ tập trung đào tạo nâng cao năng lực kỹ thuật, chưa chú ý đến đào tạo năng lực quản trị. Công ty có thể bố trí tuyển chọn những người dưới 40 tuổi để đào tạo trên đại học, đặc biệt là chuyên ngành quản trị kinh doanh để nâng cao năng lực quản trị. Bên cạnh đó công ty cần đào tạo chuyên trách marketing. Không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn mà công ty còn giáo dục cả giá trị tinh thần góp phần làm phong phú thêm nhận thức của người lao động, bên cạnh việc đào tạo ở các trường đại học công ty cần mời các chuyên gia có kinh nghiệm trong và ngoài nước đến giảng dậy. III.2./Mở rộng thị trường, tăng cường tìm kiếm các công trình: Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì việc tìm kiếm thị trường, hoạt động marketing không thể thiếu được, nó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xây dựng thì hoạt động marketing là không cần thiết nhưng đó là sai lầm vì đã kinh doanh là phải tiến hành marketing. Trong những năm gần đây, công ty đã chú ý đến hoạt động này, đã tiến hành nghiên cứu, phân đoạn thị trường, xây dựng các trương trình marketing mix. Công ty vẫn chưa có ban kiểm tra chất lượng công trình, mọi công việc đều do người phụ trách thi công thực hiện, vì thế chất lượng kiểm tra các công trình còn mang tính khách quan, đôi khi nó ảnh hưởng tới chất lượng công trình. III.3./Bảo toàn và phát triển vốn: Sử dụng vốn đúng mục đích, tránh lãng phí, không đầu tư dài hạn bằng nguồn vốn ngắn hạn. nguyên tắc này nhằm đảm bảo hiệu cho các hoạt động đầu tư; chỉ sử dụng các nguồn vốn dài hạn để đầu tư dài hạn chứ không cho phép ngược lại, sở dĩ như vậy là vì: Vốn huy động ngắn hạn thường chịu lãi suất cao hơn dài hạn: mặt khác khi huy động vốn ngắn cho đầu tư dài hạn sẽ gắn trực tiếp với nguy cơ không đủ vốn để tiếp tục đầu tư. Làm tốt công tác phòng ngừa, rủi ro trong kinh doanh. Công ty cần nghiên cứu kỹ tiền khả thi, khả thi, thẩm định chi tiết, tính đơn giá chi tiết, phòng ngừa các điều kiện có thể xẩy ra làm giảm rủi ro trong kinh doanh. Công tác quản lý chặt chẽ, nghiên cứu khách hàng, các nguồn lực huy động và sản xuất kinh doanh làm hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Đầu tư phải tuân thủ nguyên tắc phân tán rủi ro, nguyên tắc này đòi hỏi phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư, không bao giờ sử dụng toàn bộ số tiền đầu tư vào một dự án nào đó. Tiến hành trích quỹ dự phòng tài chính đảm bảo cho mục tiêu thu chi ngân sách và giải pháp cho việc thực hiện, trích quỹ dự phòng có mục đích chủ yếu là đảm bảo cho khả năng thanh toán đúng hạn các khoản phải trả và đảm bảo thường xuyên có sẵn tiền để doanh nghiệp hoạt động. Thực hiện tốt tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp. Doanh nghiệp luôn diễn ra quá trình là doanh nghiệp nợ khách hàng tiền do mua máy móc thiết bị và nguyên vật liệu. Doanh nghiệp lợi dụng hình thức này để sử dụng nguồn vốn chiếm dụng cho sản xuất kinh doanh, nguồn này là một nguồn trung và dài hạn, công ty có thể đầu tư chiều sâu với ít vốn mà không ảnh hưởng tới tình hình tài chính, đây là phương thức đối với doanh nghiệp khi thiếu vốn từ các nguồn khác. Tín dụng ngân hàng là hình thức công ty vay vốn từ ngân hàng thương mại với kỳ hạn như ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn.Từ nguồn vốn vay này có thể huy động được một lượng lớn, đúng hạn. Đối với tín dụng ngân hàng thì công ty ngày phải tạo uy tín, kiên trì đàm phán và phải chịu nhiều điều kiện ngặt nghèo. Công ty có thể bổ sung nguồn vốn dài hạn để vững chắc về mặt tài chính,để huy đông các nguồn dài hạn này bằng cách kiến nghị với nhà nước bỏ sung thêm nguồn vốn ngân sách nhà nước, bổ sang thêm từ lợi nhuận sau thuế, tăng cường tín dụng thuê mua hoặc liên doanh liên kết trên nhiều lĩnh vực. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt quyết liệt, muốn tồn tại và chủ động bảo đảm quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục, nhịp nhàng, doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Bên cạnh đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một đề tài mang tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn sản xuất vì vậy doanh nghiệp luôn tìm cách sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất. Công ty xây dựng Cầu 75 cũng nằm trong danh sách các doanh nghiệp loại này, do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được các cấp lãnh đạo công ty luôn quan tâm và luôn tìm tòi hướng đi cho vấn đề này. Thấy được sự cấp bách của vấn đề cùng với sự hướng dẫn của giáo viên GVC Nguyễn Thị Thảo và các cô chú trong ban lãnh đạo công ty, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “ Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng Cầu 75 ” Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh là một vấn đề bao quát, rộng và khó về lý luận và thực tiễn. Do vậy trong phạm vi chuyên đề này em chỉ đề cập tổng thể thực trạng công tác sử dụng vốn tại công ty đồng thời đi sâu nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, rút ra nhận xét qua đó mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý sử dụng vốn của công ty. Do kiến thức còn hạn chế, thực tế chưa nhiều nên chuyên đề tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp chân thành của thầy cô giáo, bạn bè, để đề tài của em được hoàn thiện. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn, GVC Nguyễn Thị Thảo, cảm ơn ban lãnh đạo Công ty xây dựng Cầu 75 đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Hà nội, ngày tháng 04 năm 2004. Tài liệu tham khảo Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh Nhà xuất bản thống kê - 3/2001 Bộ môn Kế Toán Quản Trị và Phân Tích Hoạt Động Kinh Doanh 2. Giáo trình thống kê doanh nghiệp Nhà xuất bản thống kê năm 1999 Chủ biên: PGS. PTS Phạm Ngọc Kiểm 3. Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp tập II Nhà xuất bản thống kê - 2001 Chủ Biên: PGS. TS Nguyễn Thành Độ TS Nguyễn Ngọc Huyền 4. Kế toán quản trị kinh doanh Nhà xuất bản tài chính – 1998 5. Những nội dung cơ bản về quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chủ biên: Đồng Xuân Ninh 6. Tạp chí: Ngân hàng: số 12/1997; 6,14/1999; 4/2000; 3.4/2001 Xây dựng : số7/1998 Tài chính : số2,5,8/2000; 9/1998 Công nghiệp: số24/2000 Thị trường tài chính tiền tệ: số 2,18/1999; 14/2000 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9497.doc
Tài liệu liên quan