Lời nói đầu
Đất nước đang đổi mới từng ngày, con người cũng luôn luôn đổi mới, doanh nghiệp càng không thể nằm ngoài sự thay đổi thống nhất đó. Trước là biểu hiện của nền kinh tế nhỏ hẹp, ít năng động. Các doanh nghiệp luôn sản xuất cái mà mình có, ít khi sản xuất cái mà thị trường cần. Hầu như những yếu tố quan trọng tạo nên kết quả kinh doanh có lợi cho doanh nghiệp ít được quan tâm để ý. Chính vì vậy, vốn và việc sử dụng vốn như thế nào cũng nằm trong quy luật đó. Giờ đây, nền kinh tế thị tr
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường đã đúc kết nên nhiều kinh nghiệm quý báu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Không phải đơn thuần sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất để cho ai. Đó chỉ như là bài toán đầu tiên cần giải cho các doanh nghiệp khi bước vào một kho tàng các bài toán đồ sộ với hàng trăm, hàng ngàn những phép tính logic, khó khăn nhưng thú vị, mà kết quả đạt được là lợi ích đặt ra của doanh nghiệp. Thương trường luôn luôn chọn lọc và đào thải các doanh nghiệp. Nó không chấp nhận những doanh nghiệp không có kế hoạch làm ăn năng động, ì ạch, không biết tự đổi mới mình. Nhưng ngược lại, nó thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp chăm chỉ, tích cực xoay sở với những bài toán khó, tìm ra lời giải tối ưu cho những bài toán kinh tế đó. Việc có được vốn như thế nào đã không dễ, việc sử dụng vốn như thế nào lại càng là vấn đề khó hơn. Vấn đề sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả từ trước tới nay luôn là bài toán làm đau đầu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp lớn, với những hiểu biết đi trước của mình, với quy mô hoạt động và quy mô tài sản lớn, đã thành lập riêng một trung tâm, một phòng, ban chuyên trách với những cán bộ chuyên môn giỏi đảm nhiệm, quản lý về tài chính doanh nghiệp, trong đó có hoạt động về sử dụng vốn. Với tầm nhìn chiến lược cần có như hiện nay, các doanh nghiệp trung bình và nhỏ dần dần cũng không thể không xây dựng cho mình một phòng ban như vậy.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phát triển nền kinh tế nước ta theo nền kinh tế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay, khi mà xu hướng quốc tế hoá đang ngày càng phát triển, sự khan hiếm các nguồn lực ngày càng gia tăng, nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng luôn luôn biến đổi làm cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro thì việc nghiên cứu và đề ra các “giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại” là hết sức cần thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà Tổng công ty Bưu chính viễn thông có chủ trương cổ phần hoá Công ty Thiết bị điện thoại.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là áp dụng những kiến thức về kinh tế và thông qua thực tiễn nhằm đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Do đó, đối tượng nghiên cứu trong chuyên đề chính là hiệu quả sử dụng vốn, và phạm vi nghiên cứu, ở đây, là Công ty Thiết bị điện thoại.
Chuyên đề được hoàn thành dựa trên các phương pháp nghiên cứu như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh tế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề được chia làm ba chương như sau:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Chương I
Vốn và hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triền vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, tối đa hóa giá trị tài sản doanh nghiệp, v.v... Tất cả các mục tiêu cụ thể đó nói chung đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Song dù với bất cứ mục tiêu cụ thể hay mục tiêu tổng quát nào nằm trong các giai đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp, thì các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều cần đến những thông tin quan trọng liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Một trong những nguồn thông tin quan trọng đó là thông tin về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Từ đó các chiến lược kinh doanh và các quyết định tài chính của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp được xây dựng và ban hành. Ngược lại, các quyết định này cũng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng giá trị tài sản cho doanh nghiệp. Trong phần tổng quan này, bằng việc tìm hiểu các khái niệm, các chỉ tiêu và các yếu tố liên quan đến vốn và sử dụng vốn, chúng ta sẽ hiểu rõ được tầm quan trọng của vốn và việc sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp.
1.1 Tổng quan về vốn và vai trò của vốn trong doanh nghiệp.
Mặc dù luật doanh nghiệp đã bỏ điều kiện về vốn pháp định đối với đa số các ngành nghề nhưng vốn vẫn luôn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp tiến hành các công việc cho giai đoạn thành lập và giai đoạn đi vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển. Vì vậy việc tìm hiểu sâu về vốn, nắm chắc những kiến thức về vốn luôn là yếu tố quan trọng giúp cho các nhà điều hành doanh nghiệp hoạch định tốt các kế hoạch quản lý tài chính trong doanh nghiệp của mình.
1.1.1 Khái niệm.
Vốn gắn với việc phân tích tài chính, vốn gắn với quản lý đầu tư của doanh nghiệp, vốn gắn với doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong doanh nghiệp, vốn gắn với việc tái cấu trúc doanh nghiệp, v.v... Có thể nói rằng vốn luôn gắn chặt với các hoạt động của doanh nghiệp mà không bao giờ tách rời. Vậy vốn có thể được hiểu như thế nào? Có rất nhiều quan điểm để lý giải cho vấn đề này.
Theo quan điểm của Marx, vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất.
Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau có các quan điểm khác nhau về vốn: Theo Samuelon thì vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. David Begg cũng đưa ra quan điểm về vốn của mình trong cuốn “Kinh tế học”, đó là quan điểm về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác, còn vốn tài chính được hiểu là tiền và các loại giấy tờ có giá của doanh nghiệp.
Các quan điểm trên tuy thể hiện được vai trò, tác dụng của vốn trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu và mục đích nghiên cứu cụ thể song vẫn bị đồng nhất vốn với các tài sản của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị vật tư, tài sản và đầu tư phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu xem xét đến hình thức biểu hiện thì vốn được biểu hiện dưới hai hình thái:
Hình thái hiện vật: vốn được biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các tài sản như tư liệu lao động, nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ. Nhưng các tài sản vẫn được quản lý dưới hình thức tiền tệ vì đó là số vốn ứng trước của doanh nghiệp.
Hình thái giá trị: Vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị là tiền trong các quỹ tiền mặt dùng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần một lượng vốn nhất định ngay từ lúc thành lập để làm thủ tục đăng ký kinh doanh hay mua sắm trang thiết bị ban đầu, sau đó thì phải có vốn để chi cho quá trình tồn tại và phát triển. Như vậy, vốn có thể biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất hay phi vật chất khác nhau. Tuy nhiên, dù được thể hiện dưới hình thái nào thì vốn của doanh nghiệp cũng được sử dụng theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển sau khi hoạt động sản xuất kinh doanh kết thúc.
1.1.2 Phân loại.
1.1.2.1 Căn cứ vào nguồn hình thành.
Căn cứ vào nguồn hình thành của vốn ta có thể xem vốn dưới hai hình thức, đó là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay (nợ).
a/ Vốn chủ sở hữu, bao gồm:
* Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp, hay do chính các thành viên, chủ doanh nghiệp đóng góp. Nói chung hình thức sở hữu của doanh nghiệp sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể đối với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Đối với các công ty cổ phần thì phần vốn góp ban đầu do các cổ đông của công ty đóng góp. Các cổ đông là chủ sở hữu của công ty, chịu trách nhiệm về phần vốn của mình đã đóng góp. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, số vốn này có thể do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra, trực tiếp điều hành hoạt động hoặc thuê người điều hành hoạt động nhưng vẫn chịu trách nhiệm về phần vốn của mình.
* Vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên để phát triển và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các doanh phải luôn đòi hỏi tăng nguồn vốn để đầu tư phát triển và mở rộng quy mô. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì sử dụng vốn này doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh nghiệp đã coi trọng chính sách tái đầu tư bằng lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cần vốn ngày càng tăng. Việc sử dụng nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư.
* Vốn từ việc phát hành cổ phiếu: việc sử dụng vốn từ việc phát hành cổ phiếu là một kế hoạch tài chính rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu bao gồm phát hành cổ phiếu thường và phát hành cổ phiếu ưu tiên. Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng hơn cả vì nó có ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán.
b/ Vốn đi vay.
Để bổ sung cho quá trình sản xuất- kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đi vay từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất cho việc sử dụng vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Nhưng việc sử dụng vốn đi vay từ ngân hàng cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại hay tín dụng của người cung cấp phụ thuộc vào mối quan hệ hình thành trong quá trình mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Việc tận dụng được nguồn vốn này có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh về phía nhà cung cấp. Việc sử dụng vốn từ tín dụng thương mại là một cách thức sử dụng hợp lý vì chi phí của nguồn vốn này rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Đối với việc sử dụng vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng cần được các doanh nghiệp quan tâm. Bởi sử dụng nguồn vốn này có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường lưu hành các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có thể thu hồi và chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.1.2.2 Căn cứ đặc điểm tuần hoàn của vốn.
Vốn được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Các tài sản sẽ trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và giá trị của chúng sẽ được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm, hàng hoá dưới dạng hao phí lao động. Do đó chu chuyển tuần hoàn của vốn sẽ khác nhau. Dựa vào đặc điểm này, vốn được phân làm hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
a/ Vốn cố định: Vốn cố định trong doanh nghiệp được biểu hiện dưới ba hình thức, đó là giá trị tài sản cố định, giá trị các khoản đầu tư dài hạn, giá trị chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
* Tài sản cố định: được hiểu là những tài sản có giá trị, có thời gian sử dụng dài, tồn tại và phục vụ cho kinh doanh của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ kinh doanh. Đây là bộ phận tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp và nắm giữ vai trò là một trong những tư liệu lao động chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình vận động của tài sản cố định cho thấy thời gian chu chuyển của vốn cố định rất dài. Thường thì vốn cố định hoàn thành một vòng chu chuyển khi giá trị tài sản cố định đã chuyển dịch hết vào sản phẩm hàng hoá dịch vụ sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản cố định, vừa phải quản lý thời gian sử dụng của chúng một cách có hiệu quả để từ đó khai thác tối đa năng lực sản xuất kinh doanh và xác định đúng nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
* Đầu tư dài hạn: là những khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài với thời gian thu hồi vốn từ một năm trở lên. Các khoản đầu tư này được thực hiện dưới nhiều hình thức như: mua chứng khoán của các đơn vị khác, cho vay dài hạn, cho thuê dài hạn, góp vốn liên doanh dài hạn, v.v... Các khoản đầu tư này đã góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp tránh tình trạng ứ đọng vốn, tạo thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thực hiện các mục đích khác như xâm nhập các công ty cổ phần niêm yết trên các thị trường chứng khoán...
* Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang: Trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh sản xuất của mình, các doanh nghiệp cần phải tính và hạch toán đến các khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Đây là bộ phận vốn đã được sử dụng đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định cho doanh nghiệp nhưng hiện tại quá trình xây dựng cơ bản chưa hoàn thành. Có lúc bộ phận này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ chuyển thành tài sản cố định của doanh nghiệp khi kết thúc quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhìn chung, ba hình thức trên cùng biểu hiện về mặt giá trị cấu thành vốn cố định của doanh nghiệp và ba bộ phận này sẽ luân phiên chuyển hoá cho nhau trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi như thế nào và tỷ trọng của các thành phần này ra sao sẽ phụ thuộc vào các quyết định đầu tư và sử dụng vốn của các nhà quản lý doanh nghiệp.
b/ Vốn lưu động: Vốn lưu động đóng một vai trò rất lớn trong sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
Đặc điểm cơ bản của vốn lưu động là nó tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh dưới hình thức đối tượng lao động, không ngừng vận động và luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị hàng hoá và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy thời gian chu chuyển của vốn lưu động sẽ nhanh hơn vốn cố định.
Vốn lưu động là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy trong quản lý cần xác định đúng đắn giá trị hợp lý của vốn lưu động và các nguồn bù đắp để cung cấp kịp thời khi cần thiết. Bên cạnh đó, người quản lý phải theo sát sự dịch chuyển của vốn lưu động bằng cách thu hồi nhanh và có kế hoạch sử dụng hợp lý ở các khâu tiếp theo. Cần tăng nhanh vòng quay, tránh ứ đọng lãng phí vốn lưu động, đó là một trong những hoạt động cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Để góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả vốn lưu động nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, người ta sắp xếp vốn lưu động thành từng nhóm theo những tiêu thức nhất định:
* Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, sẽ có các hình thức sau: vốn bằng tiền, vốn trong khâu dự trữ, chi phí trả trước, các khoản phải thu, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn và các vốn lưu động khác.
* Căn cứ vào các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn lưu động được chia thành: vốn lưu động trong khâu dự trữ, vốn lưu động trong khâu sản xuất, vốn lưu động trong khâu lưu thông.
Dựa vào cách phân loại trên, ta có thể biết được tình trạng sử dụng và phân bổ vốn lưu động trong từng khâu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tiến hành các hoạt động để rút ngắn thời gian luân chuyển và sử dụng hợp lý vốn lưu động.
1.1.2.3 Căn cứ vào hình thức tồn tại và huy động.
Dựa vào tiêu thức này, người ta chia vốn ra làm hai loại: Vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
a/ Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định, chi phí vốn thấp mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng vốn này để đầu tư vào tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này mang tính chất ổn định và dài hạn, tuy vậy không phải doanh nghiệp nào cũng có thể có được nguồn vốn này để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình.
b/ Vốn tạm thời: đây là nguồn vốn có tính chất tạm thời mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn trong khoảng thời gian ngắn phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường được huy động từ vay ngắn hạn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này đôi khi rất quan trọng, bởi doanh nghiệp cần đáp ứng nhu cầu cấp thiết với thời gian huy động vốn nhanh chóng và chính xác.
1.1.2.4 Căn cứ vào thời gian sử dụng.
Nhìn trên góc độ thời gian sử dụng của vốn, vốn được chia làm hai thành phần tiêu biểu, đó là thành phần vốn ngắn hạn và thành phần vốn trung, dài hạn.
a/ Vốn ngắn hạn: vốn ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu các khoản nợ ngắn hạn, các khoản phải trả, phải nộp, các khoản chậm trả. Bên cạnh đó là các khoản vốn có được do cầm cố thế chấp tài sản. Nhìn chung đây cũng là khoản vốn quan trọng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp so với tỷ trọng của phần vốn trung và dài hạn. Sử dụng phần vốn này, doanh nghiệp cần cân nhắc về chi phí vốn và khả năng hoàn trả trong một thời gian ngắn.
b/ Vốn trung và dài hạn: đây là thành phần thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp. Vốn này có tính chất lâu dài và bền vững. Tuy nhiên sử dụng vốn này thì chi phí vốn cũng không nhỏ. Vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu là vốn đi vay dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng, vốn góp của các cổ đông hay vốn từ lợi nhuận không chia. Việc sử dụng vốn này cũng đòi hỏi các nhà điều hành doanh nghiệp cân nhắc và có kế hoạch hợp lý, tránh lãng phí, đầu tư không hiệu quả.
Có thể nói rằng việc phân loại vốn là hết sức quan trọng đối với yêu cầu của quản lý vốn hiện nay. Phân loại vốn mới giúp cho các nhà quản lý tài chính nắm bắt được rõ ràng về sự biến động đối với các thành phần làm nên cơ cấu của vốn. Phân loại vốn cũng giúp cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp được minh bạch hơn, và phân loại vốn giúp cho quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cụ thể hơn, chi tiết hơn và chính xác hơn. Tìm hiểu được vai trò và nội dung của công việc phân loại vốn, chúng ta sẽ muốn hiểu hơn về đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp hiện nay.
1.1.3 Đặc điểm của vốn.
Thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp. Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định, có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thứ tư, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý. Thứ năm, vốn được quan niệm như một hàng hóa đặc biệt, có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường. Ngoài ra vốn còn có một số đặc điểm khác như vốn có giá trị về mặt thời gian (sức mua của những đồng tiền ở những thời điểm khác nhau). Điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư và tính đến hiệu quả của đồng vốn mang lại. Vốn được biểu hiện bằng tiền và được đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Vốn cũng có thể mang tính chất tiềm năng, đó là những tài sản chưa được sử dụng cho mục đích kinh doanh, do đó cần khai thác những tiềm năng của các tài sản còn chưa được sử dụng.
1.1.4 Vai trò của vốn.
Qua việc xem xét, tìm hiểu khái niệm về vốn, ta có thể thấy vốn là tiền đề không thể thiếu cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy trong hoạt động thực tế, một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất làm các nhà điều hành doanh nghiệp phải đau đầu, đó là vấn đề về vốn.
Thứ nhất vốn là điều kiện đầu tiên đảm bảo cho sự ra đời của doanh nghiệp. Trước đây, Nhà nước quy định vốn pháp định đối với hầu hết các doanh nghiệp thì nay điều luật về vốn pháp định đã được bỏ mà chỉ yêu cầu đối với một số ngành nghề kinh doanh nhất định. Tuy vậy điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp khi mới thành lập không cần đến vốn. Trang trải các chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết, chuẩn bị các cơ sở vật chất thiết yếu, tất cả những việc đó đều cần đến một lượng vốn không nhỏ để doanh nghiệp ra đời và có thể đi vào hoạt động.
Thứ hai, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Thứ ba, vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ, thực hiện các hoạt động marketing, quảng cáo, xây dựng thương hiệu, v.v... tất cả những yếu tố này muốn đạt được đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Thứ tư, vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Có vốn giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình, thâm nhập vào thị trường mới, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp hữu hiệu huy động đủ vốn cho doanh nghiệp và có kế hoạch sử dụng vốn một cách hợp lý đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong những nền kinh tế khác nhau, tầm quan trọng của vốn cũng được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Nếu trong thời kỳ bao cấp, việc sử dụng vốn để sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả không cao cho các doanh nghiệp vì viêc cấp vốn tràn lan, thiếu yếu tố cạnh tranh, thì nay, trong nền kinh tế thị trường, có sự định hướng theo xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp luôn luôn phải vận động, tìm tòi để sử dụng vốn có hiệu quả nhất đem lại doanh thu và lợi nhuận đảm bảo sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp mình.
Như vậy vốn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, giúp các doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường. Việc sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ là yếu tố loại doanh nghiệp ra khỏi thương trường, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà việc sản xuất kinh doanh không tách rời hoạt động cạnh tranh gay gắt.
1.1.5 Quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Với xu hướng phát triển không ngừng để có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp luôn tìm mọi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh tranh cho mình. Việc tìm nguồn vốn luôn gắn với chi phí vốn và cơ cấu vốn. Sau việc huy động vốn từ các nguồn cũng là vấn đề sử dụng vốn, bảo toàn và phát triển vốn một cách hợp lý trong doanh nghiệp.
1.1.5.1 Bảo toàn và phát triển vốn trong doanh nghiệp.
Nội dung của bảo toàn và phát triển vốn được nêu trong chỉ thị số 138-CT của Hội đồng bộ trưởng và được giải thích trong thông tư số 31-TC/TN của Bộ tài chính như sau: Bảo toàn và phát triển vốn ở các đơn vị kinh tế được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các loại tài sản không bị hư hỏng trước thời hạn, không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn, không được tạo ra lãi giả để làm giảm vốn, kể cả vốn cố định và vốn lưu động. Đồng thời, người sử dụng vốn phải thường xuyên duy trì được giá trị đồng vốn của mình thể hiện bằng năng lực sản xuất của tài sản cố định, khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do đó trong điều kiện có trượt giá tăng lên thì số vốn được cấp ban đầu (hoặc tự bổ sung) cũng phải được tăng theo để duy trì năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn, các doanh nghiệp còn có trách nhiệm chăm lo phát triển vốn, thường xuyên bổ sung và tăng vốn để tự mở rộng, đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.5.2 Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Chi phí vốn đầu tư là chỉ tiêu được sử dụng chủ yếu để hoạch định cơ cấu vốn cũng như cơ cấu tài sản. Có thể hiểu chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu.
Thông thường, đối với nhà quản lý tài chính, sau khi nghiên cứu chi phí vốn và phân tích một số nhân tố, việc tiếp theo là thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý. Mục tiêu này có thể thay đổi theo thời gian khi những điều kiện thay đổi. Nhưng tại bất kỳ thời điểm nào cho trước, ban quản lý doanh nghiệp đều có một cơ cấu vốn nhất định và những quyết định tài trợ phải thích hợp với mục tiêu này. Nếu tỷ lệ nợ thực tế lớn hơn tỷ lệ nợ mục tiêu, cổ phiếu sẽ có thể được bán. Chính sách cơ cấu vốn liên quan tới mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro. Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro đối với thu nhập và tài sản của chủ sở hữu. Có bốn nhân tố tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn, đó là: rủi ro kinh doanh, chính sách thuế, khả năng tài chính của doanh nghiệp, và cuối cùng là sự bảo thủ hay phóng khoáng của các nhà quản lý. Bốn nhân tố này tác động rất lớn đến mục tiêu cơ cấu vốn. Với mỗi doanh nghiệp, cơ cấu vốn tối ưu tại các thời điểm khác nhau là khác nhau. Nhiệm vụ của các nhà quản lý là xác định một kết cấu vốn tối ưu để đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn doanh nghiệp.
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả trong thực tế có thể được tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác nhau tuỳ theo mục đích hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp bỏ vốn ra nhiều khi không chỉ coi việc thu lợi nhuận trước mắt là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn mà đó có thể là mối quan hệ bạn hàng, xây dựng thương hiệu, chịu thua lỗ để cạnh tranh với các đối thủ khác, v.v... Như vậy, để có cùng một hướng nhìn về hiệu quả sử dụng vốn, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm hiệu quả sử dụng vốn cùng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đó.
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều nghĩ làm thế nào để hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp đều lấy hiệu quả làm thước đo cho hoạt động kinh doanh của mình. Vây hiệu quả là gì?
Một cách chung nhất, hiệu quả được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Nếu chi phí bỏ ra càng ít mà kết quả thu lại càng nhiều có nghĩa là hiệu quả thu được càng cao và ngược lại. Hiệu quả có thể đo lường theo hai cách: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phản ánh kết quả của việc sử dụng những nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được những lợi ích về mặt kinh tế. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế thường là tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế rất quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiệu quả xã hội phản ánh kết quả mà xã hội thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả xã hội tạo ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định kinh doanh của các nhà điều hành doanh nghiệp.
Như vậy hiệu quả có thể được thể hiện bằng công thức sau:
Kết quả thu được
Hiệu quả =
Chi phí bỏ ra
Trong thực tế, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có khi thống nhất, có khi mâu thuẫn nhau. Nếu doanh nghiệp đầu tư có lãi thì đời sống cán bộ công nhân viên cũng được cải thiện đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội. Như vậy doanh nghiệp vừa đạt hiệu quả kinh tế vừa đạt hiệu quả xã hội. Nhưng nếu doanh nghiệp kinh doanh sản xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của cá nhân, tổ chức khác, trốn lậu thuế thì doanh nghiệp đó chỉ đạt được hiệu quả kinh tế mà không đem lại hiệu quả xã hội, thậm chí gây ảnh hưởng đến hiệu quả xã hội. Lúc này hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội là mâu thuẫn nhau.
Như vậy dựa trên cách nhìn nhận về hiệu quả, ta cũng có thể thấy đôi nét về hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở kết quả do vốn mang lại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp so với chi phí huy động vốn. Cũng có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho đồng vốn sinh lời nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn, v.v... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chí phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu q._.uả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử dụng vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo khả năng an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp sẽ đảm bảo các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên thương trường đồng thời tận dụng được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, là cơ sở để nâng cao đời sống, thu nhập cho cán bộ công nhân viên, góp phần đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Như vậy có thể khẳng định rằng việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ có ý nghĩa tích cực đối với doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Bằng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn, các nhà điều hành doanh nghiệp sẽ đánh giá được thực trạng sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chính là việc sử dụng các công cụ phân tích tài chính để đưa ra các đánh giá và quyết định tài chính quan trọng cho doanh nghiệp.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số, phương pháp này được phản ánh thông qua hệ thống các chỉ tiêu. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn là một nội dung trong phân tích tài chính. Do vậy khi phân tích, đánh giá về thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích cũng thông qua hệ thống các chỉ tiêu đánh giá về tình hình sử dụng vốn. Thông tin dùng để phân tích cũng rất quan trọng đối với các nhà phân tích. Nó là tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán, hay cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính chính là nguồn tin quan trọng bên cạnh việc quan sát tình hình thực tiễn, cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các báo cáo tài chính, và giúp cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn được dễ dàng, các nhà phân tích thường chia hệ thống các chỉ tiêu phân tích thành các nhóm chỉ tiêu sau: các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tổng vốn, các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn cố định và các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2.2.1 Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng tổng vốn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung của doanh nghiệp một cách tổng thể nhất, người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Doanh thu đạt được trong kỳ
Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn =
Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
a/ Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn.
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp là chỉ tiêu đầu tiên được quan tâm bởi qua đó ta có được cái nhìn tổng quát về kết quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp ngày càng cao và ngược lại.
b/ Doanh lợi vốn.
Lợi nhuận thu được trong kỳ
Doanh lợi vốn =
Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ nên dùng chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế vì nó phản ánh kết quả thực tế hoạt động của doanh nghiệp, còn nếu dùng lợi nhuận sau thuế chỉ nói lên được kết quả khi doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước.
c/ Doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Lợi nhuận thu được trong kỳ
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết đối với các doanh nghiệp thì nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
Qua đây ta thấy, ba chỉ tiêu trên đã cho một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu, ... Tuy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Trong các doanh nghiệp, tỷ trọng của vốn cố định trong tổng vốn phụ thuộc vào các ngành nghề sản xuất kinh doanh và quy mô của chính doanh nghiệp đó. Đối với các doanh nghiệp thương mại, vốn cố định chiếm tỷ trọng không lớn nhưng việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định rất quan trọng. Còn với các doanh nghiệp sản xuất thì công việc này lại càng quan trọng hơn bởi tỷ trọng vốn cố định ở đây. Vốn cố định tuy không tham gia trực tiếp vào kinh doanh và chu kỳ vận động của nó thường rất dài nhưng trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, vốn cố định lại luôn chịu tác động của rất nhiều yếu tố như: hao mòn vô hình, hao mòn hữu hình, hư hỏng, v.v... Do vậy có thể nói xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định là rất cần thiết.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
a/ Hiệu suất sử dụng vốn cố định.
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định theo mức luân chuyển hàng hoá, chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở so sánh số tương đối giữa doanh thu trong kỳ với số vốn cố định bình quân trong kỳ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng vốn cố định bỏ ra trong kỳ thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được dùng để so sánh giữa kỳ này với kỳ trước, hoặc so sánh với các doanh nghiệp trong cùng ngành hay với chỉ số trung bình ngành.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Như vậy giá trị này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao và ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp so với chỉ số trung bình ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp chưa khai thác được hết ích lợi của tài sản cố định.
b/ Doanh lợi vốn cố định.
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn cố định =
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Đây là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn cố định bằng tỷ số lợi nhuận trong kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng vốn cố định là có hiệu quả.
c/ Hệ số bảo toàn vốn cố định.
Vốn cố định thực tế cuối kỳ
Hệ số bảo toàn vốn cố định =
Vốn cố định phải bảo toàn cuối kỳ
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp đã thực hiện được việc bảo toàn vốn cố định so với kế hoạch như thế nào. Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng một thì doanh nghiệp đã bảo toàn được vốn cố định. Ngược lại nếu hệ số này nhỏ hơn một thì doanh nghiệp đã không bảo toàn và phát triển được vốn cố định.
Nói chung, những chỉ tiêu nêu trên cũng chỉ cung cấp những thông tin bước đầu về hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Nhưng nó cũng cho các nhà điều hành có được cái nhìn tổng quan về tình hình sử dụng vốn cố định ở doanh nghiệp mình.
Ngoài ba chỉ tiêu trên, người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định như: hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ số loại bỏ tài sản cố định, hệ số sử dụng tài sản cố định, v.v... Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải kết hợp xem xét tình hình sử dụng tài sản cố định thực tế của doanh nghiệp để có được sự đánh giá, phân tích chính xác hơn giúp cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cho chính doanh nghiệp mình.
1.2.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vốn lưu động đóng một vai trò rất quan trọng trong các doanh nghiệp. Có thể nói, việc sử dụng vốn lưu động ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Do đó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết, nó có ý nghĩa với chính doanh nghiệp, với khách hàng và có ý nghĩa với cả các nhà đầu tư.
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động =
Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
a/ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động.
Đây còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động hay vòng quay vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Do vậy, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
Doanh thu phản ánh quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Có doanh thu mới có thể bù đắp được chi phí kinh doanh và là cơ sơ để có lợi nhuận, đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Tuy vậy, trong kinh tế, doanh thu chỉ mang tính tổng quát, nó chưa biểu hiện rõ kết quả cụ thể từ hoạt động kinh doanh. Do vậy ngoài việc xem xét hiệu suất sử dụng vốn lưu động, các nhà điều hành doanh nghiệp cần quan tâm thêm các chỉ tiêu khác như doanh lợi vốn lưu động,
b/ Doanh lợi vốn lưu động.
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn lưu động =
Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cũng giống như các chỉ tiêu khác, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức sử dụng vốn lưu động càng hợp lý. Phản ánh mức sinh lời của vốn lưu động, chỉ tiêu này là thước đo quan trọng trong việc cân nhắc các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
c/ Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
Cùng với việc đánh giá mức sinh lời của vốn lưu động người ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Vì trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết các nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển vốn lưu động người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
Thời gian của một kỳ phân tích
Thời gian một vòng luân chuyển =
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Đối với chỉ tiêu này, chúng ta thấy được số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, trở về chu kỳ sản xuất kinh doanh ban đầu. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn. Thời gian của một kỳ phân tích thường được các nhà phân tích lấy là 360 ngày vì kỳ phân tích thường là 1 năm.
d/ Hệ số bảo toàn vốn lưu động.
Bảo toàn và phát triển vốn lưu động là nguyên tắc bắt buộc, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân theo vì vốn lưu động có bảo toàn và phát triển thì doanh nghiệp mới có điều kiện để sản xuất kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo.
Để đánh giá mức bảo toàn vốn lưu động, cần xác định số vốn lưu động hiện có lúc cuối kỳ và số vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối kỳ.
Vốn lưu động hiện có lúc cuối kỳ
Hệ số bảo toàn vốn lưu động =
Vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối kỳ
Nếu hệ số này nhỏ hơn một thì doanh nghiệp chưa bảo toàn được vốn lưu động. Ngược lại, nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng một thì doanh nghiệp đã bảo toàn và phát triển được vốn lưu động.
e/ Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động.
Vốn lưu động bình quân
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Như vậy, mối quan hệ giữa giá trị của hệ số này với kết quả kinh doanh là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Có nghĩa là hệ số này càng nhỏ thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Chỉ tiêu này có ý nghĩa tương tự như ý nghĩa của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động.
f/ Nhóm các chỉ tiêu khác.
Bên cạnh việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói chung, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng của từng vốn lưu động cụ thể, hay các chỉ tiêu về khả năng thanh toán.
Doanh thu thuần
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá trị hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho là số lần dự trữ được chuyển thành doanh thu trong mộ kỳ hạn nhất định (thường là một năm). Nếu mức quay vòng vốn càng cao thì công ty chỉ phải lưu trữ ít hàng dự trữ để tạo ra một lượng doanh thu nhất định. Nói chung, số hàng tồn kho càng ít thì số vốn ứ đọng càng ít, do đó mức quay vòng hàng tồn kho càng cao càng tốt. Tăng được chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ tận dụng được nguồn vốn lưu động, tránh lãng phí, giảm được đáng kể chi phí lưu kho, bảo quản.
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho biết mức độ của các khoản phải thu và hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh chóng thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao, công ty ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên nếu chỉ tiêu này quá cao cũng sẽ gây ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ. Do đó doanh nghiệp nên để chỉ tiêu này ở một mức hợp lý.
Các khoản phải thu ´ 360
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân năm
Kỳ thu tiền bình quân là độ dài thời gian trung bình để chuyển những khoản phải thu của công ty thành tiền mặt. Tính chỉ tiêu này để các nhà điều hành doanh nghiệp có kế hoạch hợp lý đối với các khoản phải thu.
TSLĐ và ĐTNH
Khả năng thanh toán chung =
Nợ ngắn hạn
Biết được chỉ tiêu này, doanh nghiệp có thể tính được khả năng trả nợ trong kỳ, đồng thời cũng chỉ ra khả năng đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư hay chủ nợ thông qua những tài sản có thể chuyển đổi thành tiền phù hợp với thời hạn trả nợ. Đôi khi các nhà đầu tư đòi hỏi những chỉ tiêu mang tính chất kịp thời hơn để có thể nhanh chóng thanh toán cho những khoản đầu tư vào doanh nghiệp. Lúc đó những nhà phân tích tài chính sẽ cung cấp các thông tin về khả năng thanh toán nhanh hay khả năng thanh toán tức thời.
TSLĐ và ĐTNH – Hàng tồn kho
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các khoản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Hàng tồn kho là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Chỉ tiêu này là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp trong một thời gian rất ngắn, không phụ thuộc vào việc bán hàng tồn kho. Phân tích chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ biết khả năng thanh toán của mình ngay trong thời gian sắp tới, đồng thời đưa ra biện pháp điều chỉnh để có được một tỷ số hợp lý trong giai đoạn tiếp theo.
Vốn bằng tiền và các khoản
t ương đương tiền
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn phải trả
Chỉ tiêu về khả năng thanh toán tức thời là rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nếu khả năng thanh toán này quá thấp sẽ không đảm bảo yêu cầu trong việc thanh toán, còn nếu quá cao thì có thể sẽ gây lãng phí vốn, vòng quay tiền chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Do vậy doanh nghiệp cần xác định một giá trị thích hợp cho chỉ tiêu.
Về nguyên tắc, với các chỉ tiêu dùng phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Khi phân tích, các nhà phân tích có thể so sánh với các tỷ số trung bình ngành hoặc với chính các tỷ số của doanh nghiệp đó, nhưng qua các mốc thời gian khác nhau. Tùy theo mục tiêu phân tích mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm chỉ tiêu này hay nhóm các chỉ tiêu khác. Nhưng để phân tích được sâu sắc và đúng đắn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thì các nhà phân tích cần phân tích chi tiết và đi sâu vào hầu hết các chỉ tiêu, kết hợp với sự quan sát và kiểm chứng thực tế tại chính doanh nghiệp mình để có được cái nhìn tổng quát và sự quan sát từ mọi khía cạnh.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn.
1.3.1 Nhân tố khách quan.
Đây là nhóm nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp, khó có thể tác động hay thay đổi các nhân tố này. Do vậy, doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi và dự đoán trước xu hướng phát triển để có các biện pháp ứng phó kịp thời. Nhóm nhân tố này gồm có:
a/ Cơ chế quản lý của nhà nước:
Cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước trong mỗi thời kỳ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự chủ tài chính trong mỗi doanh nghiệp, từ đó quyết định tới công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch, các chỉ tiêu tài chính mang tính mệnh lệnh, áp đặt vai trò của tài chính doanh nghiệp không được phát huy. Vì vậy công tác tổ chức tài chính trong trong thời kỳ này không được quan tâm, các giải pháp tài chính chỉ mang tính hình thức.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, quyền tự chủ tài chính doanh nghiệp được xác lập, tài chính doanh nghiệp đã có cơ hội phát huy vai trò của mình như khai thác huy động vốn đảm bảo nhu cầu vốn cho doanh nghiệp đầu tư phát triển sử dụng một cách hiệu quả. Như vậy trong thời kỳ này, tổ chức tài chính doanh nghiệp rất được coi trọng, các giải pháp tài chính đưa ra mang tính chất quyết định đối với sự sống còn của doanh nghiệp.
b/ Hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế: tất cả các doanh nghiệp đều hoạt động theo một khung pháp lý đã quy định sẵn của Nhà nước ban hành. Do vậy, việc sử dụng vốn dù ít hay nhiều cũng nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.
c/ Thị trường và sự cạnh tranh: thị trường trong đó có sự cạnh tranh gay gắt sẽ càng thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn của mình.
d/ Tính thời vụ và chu kỳ kinh doanh: các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ và có chu kỳ kinh doanh khác nhau, hiệu quả sử dụng vốn cũng khác nhau. Yếu tố này tác động lâu dài tới hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.3.2 Nhân tố chủ quan.
Tồn tại song song với các nhân tố khách quan tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là các nhân tố chủ quan, xuất phát chủ yếu từ bản thân doanh nghiệp. Đối với các nhân tố này, doanh nghiệp có thể tự động điều chỉnh hoặc chọn lựa một cách phù hợp để phục vụ cho quá trình phát triển và đi lên của mình.
a/ Loại hình doanh nghiệp.
Rõ ràng hình thức tồn tại của doanh nghiệp gắn chặt với hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau sẽ có hoạt động sử dụng vốn từ các nguồn khác nhau. Cụ thể như đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì chỉ sử dụng vốn từ các nguồn vốn góp của các thành viên, từ lợi nhuận giữ lại của công ty, hay từ việc đi vay các tổ chức khác mà không thể sử dụng vốn từ nguồn như phát hành cổ phiếu. Còn đối với công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân lại không thể sử dụng vốn từ việc phát hàng chứng khoán được. Đối với công ty cổ phần, việc sử dụng vốn có thể được xuất phát từ nhiều nguồn vì công ty được phép phát hành cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn. Như vậy loại hình doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên quyết định đến vấn đề huy động vốn để có được một lượng vốn cho doanh nghiệp, từ đó tác động đến hoạt động sử dụng vốn vào kinh doanh sản xuất ở doanh nghiệp.
b/ Đặc điểm kinh doanh và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mục đích của doanh nghiệp là tiêu thụ được nhiều hàng hoá để thu lợi nhuận, song đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến các hình thức tiêu thụ hàng hoá khác nhau. Nếu tiêu thụ sản phẩm thông qua khâu bán buôn thì doanh nghiệp sẽ cần một lượng vốn lớn do hàng hóa lưu chuyển với một số lượng lớn, tốc độ nhanh. Còn nếu doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm dưới hình thức bán lẻ thì hàng hoá chu chuyển với tốc độ chậm hơn, dễ dẫn tới ứ đọng vốn. Do đó hình thức tiêu thụ hàng hoá sẽ ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển hàng hoá, từ đó tác động tới hiệu quả sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, đặc điểm kinh doanh và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp sẽ quyết định tới quy mô dự trữ nguyên vật liệu, hàng hoá ở các thời điểm khác nhau. Mà điều này có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp. Do đó nguyên vật liệu và hàng hóa dự trữ cần phải hợp lý để vừa không bị ứ đọng vốn, nhưng lại vừa không bị gián đoạn vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu, hàng hóa, cần tính đến sự thay đổi của môi trường như yếu tố giá cả, sự khan hiếm, v.v...
Mỗi doanh nghiệp đều theo đuổi chiến lược riêng của mình để đạt được các mục tiêu như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, giảm chi phí, chiếm lĩnh thị trường. Để thực hiện được các chiến lược mà mình theo đuổi đó, doanh nghiệp cần phải thực hiện các dự án đầu tư. Việc lựa chọn các dự án đầu tư có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp có dự án đầu tư tốt sẽ sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng tốt, giá thành hạ, doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi được vốn và có lãi. Ngược lại, với những dự án kém hiệu quả, doanh nghiệp dễ bị ứ đọng vốn do quá trình tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, gây ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy doanh nghiệp cần xem xét phân tích kỹ các dự án đầu tư trước khi đi vào thực hiện, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả.
c/ Chi phí vốn.
Chi phí vốn là chi phí phải trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn tính đến sự bù đắp được các chi phí và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy chi phí vốn của doanh nghiệp càng cao, mức đạt hiệu quả sử dụng vốn càng khó khăn. Doanh nghiệp có chi phí sử dụng vốn thấp, việc đạt được hiệu quả sử dụng vốn dễ dàng hơn. Từ đó, các nhà điều hành luôn tìm cho doanh nghiệp của mình nguồn tài trợ có chi phí thấp giúp doanh nghiệp không phải gánh chịu những khoản chi phí vốn lớn, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
d/ Công tác tổ chức và quản lý hoạt động tài chính trong doanh nghiệp.
Công tác tổ chức và quản lý các hoạt động tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhân tố này tác động trực tiếp lên hiệu quả sử dụng vốn cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Bộ máy của doanh nghiệp có năng lực tốt, tổ chức cơ cấu tốt sẽ tạo nên uy tín cho doanh nghiệp. Điều này không những tác động tới khả năng huy động vốn mà còn tác động tới khả năng sử dụng vốn để bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh và sinh lời. Năng lực làm việc tốt sẽ giúp cho các bộ phận, phòng ban, cá nhân phối hợp ăn khớp nhịp nhàng, linh hoạt. Công tác tổ chức tốt giúp các cá nhân tích cực hoạt động theo một mục tiêu chung của tổ chức, hoàn thành kế hoạch, mục tiêu đã đề ra. Một người lãnh đạo giỏi sẽ khai thác được hết các nguồn lực trong doanh nghiệp của mình, tránh để lãng phí, thất thoát. Người lãnh đạo giỏi cũng sẽ sắp xếp phối hợp các hoạt động của các nhân viên sao cho thích hợp nhất, đạt được hiệu quả cao nhất. Công tác tổ chức và quản lý tài chính còn phụ thuộc vào quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu nhà lãnh đạo coi trọng công tác này, bộ phận quản lý tài chính sẽ được tổ chức sao cho có hiệu quả và như vậy hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao. Ngược lại, bộ phận quản lý tài chính sẽ không được chú trọng và dẫn đến không thể khai thác tối đa lợi ích của việc sử dụng vốn. Mặt khác công tác này kém hiệu quả dễ phát sinh tình trạng thất thoát vốn, sử dụng vốn kém hiệu quả, gây những tổn thất to lớn cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
e/ Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, kỹ thuật, công nghệ đang phát triển từng ngày. Thực tế đã chứng minh công nghệ, kỹ thuật đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp với lợi thế kỹ thuật công nghệ đi trước của mình đã chiếm lĩnh được thị trường và làm cho các đối thủ phải rút lui, không đủ sức để cạnh tranh. Doanh nghiệp nào có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiên tiến sẽ không những nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí mà còn tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, chinh phục được người tiêu dùng, do đó sản phẩm tiêu thụ tăng làm tăng doanh thu và lợi nhuận. Đó cũng chính là hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, đối với những doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu thì sức sản xuất sẽ không thể cao bằng các doanh nghiệp khác, chất lượng sản phẩm cũng kém, và vì thế không thể được ưa chuộng trên thị trường. Đây lại là dấu hiệu của việc sử dụng và quản lý vốn không tốt.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có rất nhiều nhân tố tác động tới hiệu quả sử dụng vốn, những nhân tố khách quan và những nhân tố chủ quan. Điều quan trọng là người quản lý phân biệt và kiểm soát được các nhân tố đó để từ đó đưa ra biện pháp khắc phục, chống lại sự ảnh hưởng tiêu cực do các nhân tố gây ra, đem lại việc sử dụng vốn hữu hiệu cho doanh nghiệp mình.
Chương II
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty Thiết bị điện thoại.
2.1 Một số nét về Công ty Thiết bị điện thoại.
2.1.1 Quá trình hình thành của Công ty Thiết bị điện thoại.
a/ Sự cần thiết và các điều kiện hình thành nên Công ty Thiết bị điện thoại.
Từ giữa những năm 80, trước xu thế phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ thông tin và viễn thông, ngành bưu điện đã nhận thức đúng đắn nhiệm vụ và chức năng của mình, do đó đã đặt ra yêu cầu phát triển cấp bách mạng lưới viễn thông Việt Nam. Lãnh đạo tổng cục bưu điện đã hoạch định chiến lược phát triển ngành và có nhiều cố gắng để hình thành dây chuyền sản xuất tổng đài kĩ thuật số Việt Nam.
Theo các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, và gần đây là lần thứ 9, Đảng ta đã thực hiện chính sách đổi mới, khẳng định phát triển kinh tế đất nước theo hướng nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua ngành bưu điện đã đạt được những thành tích ban đầu rất quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Thực tiễn của quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại giữa ngành Bưu Điện Việt Nam với các tập đoàn thương mại, công nghiệp nước ngoài để trang bị kỹ thuật mới, công nghệ cao đã đem lại những kết quả và kinh nghiệm hết sức khả quan. Các kết quả đó không chỉ riêng trong phạm vi kinh tế, tài chính mà còn có trong phạm vi khác như nâng cao chất lượng mạng lưới, khả năng phục vụ thông tin, đào tạo đội ngũ cán bộ làm tiền đề cho quá trình tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để phát triển ngành công nghiệp bưu điện. Công việc đó càng cần thiết nhất là sau thời gian thực hiện các hợp đồng thương mại dưới dạng mua, nhập thiết bị, trợ giúp kỹ thuật hoặc đề án "chìa khoá trao tay" như đề tài vệ tinh mặt đất Intelal A, B tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, tổng đài E-10B Hà Nội, tổng đài điện tử TDX-1B tại Hải Phòng, Quảng Ninh.
Do yêu cầu phát triển của xã hội nói chung và của ngành nói riêng, để đẩy nhanh tiếp thu công nghệ và đáp ứng nhu cầu mạng lưới, căn cứ vào Nghị định số 115/HĐBT ngày 07/04/1990, thông tư số 38/TCCP ngày 09/01/1991 của Ban Tổ chức cán Bộ Chính Phủ hướng dẫn thực hiện điều 11 chương II Nghị định 196/HĐBT ngày 11/02/1998 của Hội đồng bộ trưởng, theo đề nghị của Trưởng ban Tổ chức cán bộ, ngày 15/05/1991 Công ty thiết bị điện thoại được thành lập có tên giao dịnh quốc tế là VietNam Telecomunication Equipment Company (gọi tắt là VITECOM).
b/ Công ty thiết bị điện thoại.
Công ty thiết bị điện thoại là doanh nghiệp Nhà nước, là một đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Bưu Chính viễn thông Việt Nam, hoạt động theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty, phụ trách lĩnh vực sản xuất, lắp ráp các thiết bị chuyên ngành bưu chính viễn thông, điện tử và một số lĩnh vực khác nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác hóa sản xuất để thực hiện những chỉ tiêu Tổng công ty giao.
*Những nhiệm vụ cơ bản của Công ty Thiết bị điện thoại:
-Lắp đặt, bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa và trợ giúp vận hành khai thác các loại tổng đài phục vụ cho mạng lưới thông tin trên toàn quốc.
-Chuyển giao công nghệ, khảo sát thiết kế các công trình viễn thông, tư vấn kỹ thuật chuyên ngành điện tử viễn thông.
-Lắp ráp, nghiên cứu và sản xuất các thiết bị bưu chính viễn thông, điện tử.
-Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị công nghệ viễn thông phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty.
-Liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước tuân theo các quy định của nhà nước.
-Kinh doanh các ngàn._. sửa chữa tài sản cố định, giảm tối đa thời gian ngừng việc giữa ca hoặc phải ngừng việc để sửa chữa sớm hơn so với kế hoạch.
Doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm tới việc bảo toàn vốn cố định: quản lý chặt chẽ tài sản cố định về mặt hiện vật, không để mất mát hoặc hư hỏng tài sản cố định trước thời hạn khấu hao. Hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ Nhà nước quy định và điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao vào giá thành sản phẩm, bảo toàn vốn cố định.
- Xác định tỷ lệ vốn cố định thích hợp với từng thời kỳ phát triển của Công ty, của thị trường. Mức vốn cố định của Công ty quyết định tới việc đầu tư vào máy móc thiết bị, tài sản cố định của Công ty, quyết định tới quy mô của các tài sản này. Mức vốn cố định còn tuỳ thuộc vào tình hình làm ăn của công ty và chiến lược sản xuất kinh doanh mà Công ty theo đuổi. Tuy nhiên, ban lãnh đạo cần có một tỷ lệ cụ thể, hợp lý về vốn cố định sau khi đã nghiên cứu để theo đó điều chỉnh cho thích hợp. Qua các chỉ tiêu cụ thể đó, ban lãnh đạo Công ty cũng dễ dàng so sánh thực tế làm việc với yêu cầu đã đặt ra.
- Một giải pháp quan trọng, mang tính chiến lược của Công ty, đó là Công ty cần chú trọng nghiên cứu, phát triển dây truyền sản xuất những sản phẩm thông minh, có tính chất đầu cuối (sản phẩm chỉ cần đặt ở một địa bàn là có khả năng liên kết với các sản phẩm khác, đồng thời có thể hoạt động độc lập, xử lý được nhiều công việc). Hiện nay, Công ty cũng đang có chủ trương thực hiện nghiên cứu những dự án này. Tuy nhiên, việc đầu tư cho những dự án này cần được chú trọng hơn nữa. Công ty cần khuyến khích, bổ sung thêm nguồn tài trợ cho việc nghiên cứu, triển khai sản xuất kinh doanh những sản phẩm mới này.
- Để có được các dây truyền sản xuất sản phẩm như vậy, Công ty sẽ phải nghiên cứu nhập hay tự sản xuất các thiết bị máy móc sao cho hợp lý. Yêu cầu của việc này là các thiết bị máy móc nếu nhập từ nước ngoài về hay đặt hàng sản xuất trong nước cần được nghiên cứu kỹ để có thể vừa đáp ứng yêu cầu sản xuất sản phẩm trong thời gian hiện tại, lại vừa có thể phục vụ cho quá trình phát triển sản phẩm trong thời gian lâu dài. Thực hiện được giải pháp này, công ty sẽ giảm được mức khấu hao, tiết kiệm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm.
- Nếu xem xét kỹ đặc điểm sản xuất kinh doanh hiện nay của Công ty thì dây truyền sản xuất sản phẩm mang hình thái của dây truyền ảo, tức là các sản phẩm không được sản xuất nguyên vẹn trong các trung tâm sản xuất của Công ty mà nó được đặt hàng từ các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất khác ở trong nước hoặc ngoài nước. Tuy rằng, không phải toàn bộ sản phẩm được đặt hàng như vậy mà chỉ có một số phụ kiện hay từng bộ phận của sản phẩm được Công ty đặt hàng, nhưng nó cũng thể hiện phần nào tính hạn chế trong dây truyền sản xuất sản phẩm của Công ty. Do vậy để khắc phục nhược điểm này và thúc đẩy quá trình phát triển lâu dài của mình, Công ty cần đầu tư cho việc nghiên cứu, nhằm hoàn thiện dây truyền sản xuất sản phẩm ngay trong thời gian tới.
- Qua nghiên cứu cho thấy, Công ty nên mạnh dạn đầu tư vào tài sản cố định hơn nữa để quy mô tài sản cố định, quy mô vốn cố định tương xứng với mức sinh lời của vốn cố định và tương xứng ngang tầm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Công ty nên cung cấp trang thiết bị đầy đủ cho cán bộ công nhân viên. Làm được điều đó chứng tỏ Công ty quan tâm tới công việc của mọi người hơn. Mặt khác, thực hiện công việc này cũng chính là tạo cho các cán bộ công nhân viên một môi trường làm việc thuận tiện và đầy đủ. Mỗi cán bộ công nhân viên nếu được trang bị đầy đủ máy móc thiết bị làm việc sẽ có điều kiện phát huy hết khả năng lao động, góp phần tăng năng suất, tăng hiệu quả công việc cho Công ty.
3.2.3 Nhóm giải pháp về vốn lưu động.
- Công việc đầu tiên để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu động, đó là việc xác định lượng vốn lưu động thích hợp và phân loại chúng. Đối với vốn lưu động là loại vốn có tỷ trọng lớn trong tổng vốn của Công ty. Nhưng qua kết quả phân tích cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn chưa cao. Do đó việc dành cho lượng vốn lưu động là bao nhiêu cần được cân nhắc hợp lý. Chi tiết hơn, giá trị của vốn lưu động phải được xác định đến từng loại vốn lưu động khác nhau, điều này chỉ có thể làm tốt khi công tác phân loại vốn lưu động được cụ thể rõ ràng. Sau khi phân loại được vốn lưu động, có thể phân bổ vốn lưu động theo kế hoạch đã đề ra. Việc làm này giúp thực hiện kế hoạch kinh doanh sản xuất của Công ty được chính xác và chi tiết hơn.
- Chuẩn bị và thực hiện kế hoạch quản lý tiền mặt. Tiền mặt là tài sản lưu động quan trọng đối với Công ty. Nói chung, Công ty cần có lượng tiền thích hợp để trang trải cho những chi phí phát sinh cấp bách như ứng trước cho cán bộ công nhân viên, mua nguyên nhiên vật liệu, thanh toán cho việc nhập, sửa chữa máy móc thiết bị. Tuy nhiên nếu để lượng tiền mặt quá lớn, Công ty sẽ không tận dụng được khả năng sinh lời của đồng vốn, dễ làm lãng phí vốn. Do vậy Công ty không nên để lượng tiền mặt này nhiều, phải có kế hoạch điều chỉnh lượng tiền mặt sao cho hợp lý. Công ty nên tận dụng nguồn tiền mặt sẵn có để đầu tư vào các dự án có tính chất ngắn hạn hay gửi ngân hàng, cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng tiền gửi ngân hàng của Công ty rất nhiều. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh, không nên để lượng tiền này trong một thời gian dài như vậy, Công ty nên có kế hoạch đầu tư vào tài sản cố định và hoạch định những phương án dự phòng khi cần thiết đến tiền mặt.
- Có kế hoạch thu hồi và quản lý các khoản phải thu. Những năm vừa qua, gần như các khoản phải thu luôn tồn tại với giá trị lớn, việc này làm ứ đọng nguồn vốn của Công ty. Do đó, Công ty nên tăng cường biện pháp thu hồi các khoản phải thu để đưa nguồn tiền này vào sử dụng, bổ sung cho việc mua sắm trang thiết bị hay tài sản cố định, phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh.
Định kỳ (hàng tháng, hàng quý), Công ty phải đối chiếu, tổng hợp phân tích tình hình công nợ phải thu, đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, quá hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện thanh toán ngay khi tiêu thụ hàng hoá, tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị chiếm dụng vốn của Công ty, thực hiện tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của Công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh trong năm, trong khi đó lượng tiền tại quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa tiền mặt giả tạo.
Công ty có thể đề nghị ban tài chính của Tổng công ty đứng ra làm trung tâm thanh toán. Sản phẩm chủ yếu là bán cho các đơn vị trong ngành, phục vụ cho các công trình lớn, thời gian thi công dài và quyết toán cho Công ty chậm. Để tránh bị ứ đọng vốn, Tổng công ty có thể đứng ra thanh toán hộ các đơn vị thành viên và trở thành chủ nợ mới của các đơn vị này.
Các cán bộ quản lý tài chính cần xây dựng một số chính sách tín dụng thương mại hợp lý. Xây dựng những quy tắc chung nhất về việc có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, nếu có thì cấp như thế nào và việc thu hồi các khoản phải thu này được tiến hành như sau: đối với việc xem xét có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, trước hết cán bộ quản lý tài chính phải xem xét phẩm chất tư cách tín dụng của khách hàng có đạt yêu cầu mà mình đề ra hay không. Sau đó cần xem xét các yếu tố như: năng lực trả nợ của khách hàng (tình hình tài chính hiện nay, trong tương lai,…), các điều kiện về thế chấp, thanh toán mà khách hàng đề nghị.
Khi tiến hành thu hồi các khoản phải thu, cán bộ quản lý tài chính của Công ty cần chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho việc thu hồi đồng thời thông báo cho khách hàng biết yêu cầu thanh toán đúng hạn. Nếu có những trục trặc thì cán bộ cần xem xét nguyên nhân gây ra và có biện pháp xử lý tình hình nhanh chóng. Cần xác định rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan để có thể đánh giá chính xác hơn việc chậm thanh toán của khách hàng. Từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn đối với việc xử lý các khoản phải thu này.
- Quản lý dự trữ phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty.
Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu tính không đúng đắn nhu cầu vốn lưu động dễ dẫn đến tình trạng thiếu vốn, Công ty sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán, sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ, hoặc là huy động thừa vốn dẫn đến tình trạng lãng phí và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn.
Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất chất lượng vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động.
Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm.
Tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy định về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách. Bằng các hình thức kích thích tinh thần nhằm động viên cán bộ công nhân viên chức nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí tiền lương.
Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm (từng phần hoặc chìa khoá trao tay,...), mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước nhằm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nhanh, số lượng nhiều, chiếm lĩnh và vươn lên làm chủ thị trường.
Xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng (cung cấp vật tư, hàng hoá tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, tín dụng...) nhằm củng cố uy tín trên thương trường. Trong các giao dịch kinh tế tài chính với khách hàng phải tổ chức tốt quá trình thanh toán, tránh và giảm các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn chưa đòi được. Đồng thời cũng không để tình trạng công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán.
Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
3.3 Một số kiến nghị.
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước.
- Nhà nước cần sớm có kế hoạch hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam để tạo cho doanh nghiệp có cơ chế huy động vốn thích hợp, có thể chọn lựa nhiều nguồn cung cấp vốn với chi phí vốn hợp lý và thời gian sử dụng theo yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lựa chọn được nguồn vốn thích hợp, phù hợp với nhu cầu sử dụng, doanh nghiệp sẽ có kế hoạch sử dụng hợp lý hơn nguồn vốn của mình.
- Nhà nước cần có những điều chỉnh hợp lý đối với chính sách thuế theo hướng sắp xếp lại các sắc thuế cho phù hợp với tính chất của từng loại thuế, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, nhóm mặt hàng chịu thuế cần được quy định cụ thể, nội dung thu thuế cần rõ ràng để tránh tình trạng thông đồng, móc ngoặc giữa cán bộ ngành thuế với doanh nghiệp, tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp cùng phát triển. Bên cạnh đó, các cơ quan Nhà nước nên chú trọng việc tăng cường khuyến khích sản xuất và đầu tư tích luỹ mở rộng cho các doanh nghiệp bằng các chính sách giảm thuế, ưu đãi thuế nếu doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế trong nhiều năm.
- Sớm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều kiện cổ phần hoá và tham gia vào thị trường chứng khoán. Đó cũng là cách thức mà Nhà nước tạo cho các doanh nghiệp linh hoạt và tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, tạo một môi trường cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp.
- Các cơ quan pháp luật của Nhà nước cần xử lý thu hồi đối với các khoản nợ tồn đọng mà các doanh nghiệp không có khả năng thanh toán hoặc không chịu thanh toán theo hợp đồng kinh tế. Các khoản này cũng cần đưa vào luật các khoản nợ và cần có sự xử lý nghiêm minh nếu có vi phạm. Thêm vào đó là Nhà nước cần tăng cường việc khuyến khích đưa các công ty mua bán nợ vào hoạt động nhằm hoàn thiện thêm thị trường tài chính, giúp các doanh nghiệp xử lý tốt các khoản nợ, góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời đại hiện nay.
- Một vấn đề thực tế là các khoản phải thu hầu như tồn tại lâu dài trong cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp nói chung và nó cũng tồn tại lâu với giá trị lớn ở Công ty Thiết bị điện thoại nói riêng trong các năm gần đây. Điều này dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, làm giảm quá trình lưu thông vốn, tăng rủi ro cho các doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần quy định về cơ chế tín dụng thương mại và đưa ra các chuẩn mực để các doanh nghiệp có kế hoạch tuân theo, góp phần đảm bảo cho các doanh nghiệp an tâm sản xuất kinh doanh và có kế hoạch phát triển lâu dài.
- Các cơ quan hành chính Nhà nước cần rút ngắn, đơn giản các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ hơn, nhanh chóng đi vào thực hiện các dự án đầu tư, kinh doanh sản xuất các sản phẩm. Cùng với điều đó là việc tránh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, thu thuế chồng chéo làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các hoạt động này mang tính liên tục, đòi hỏi tính kịp thời, nhanh chóng.
- Nhà nước cần thực hiện nghiêm minh các hoạt động kinh tế công cộng, xử lý các cán bộ tha hoá, tham nhũng, cửa quyền, gây cản trở cho sự phát triển nền kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng. Hạn chế được tình trạng này cũng là tạo dựng cho các doanh nghiệp một môi trường kinh doanh tốt, ổn định và có tính cạnh tranh lành mạnh.
- Tuy rằng chính sách bảo hộ cho việc sản xuất kinh doanh trong nước, cụ thể là đối với lĩnh vực bưu chính viễn thông cũng có những hạn chế của nó, nhưng đối với việc cho các tập đoàn viễn thông nước ngoài vào khai thác thị trường Việt Nam cần được Chính phủ xem xét kỹ và đưa ra một thời gian nhất định để công ty có kế hoạch chuẩn bị. Đối với việc này, Nhà nước cũng cần có cơ chế chính sách giúp đỡ và tạo điều kiện lúc ban đầu cho các doanh nghiệp bưu chính viễn thông trong nước để có thể cạnh tranh ít nhiều với các tập đoàn viễn thông nước ngoài nói trên.
- Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần sớm đưa ra và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về Bưu chính- Viễn thông nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường Bưu chính- Viễn thông; tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các nhà khai thác dịch vụ Bưu chính- Viễn thông gồm: phân định rõ hoạt động công ích, hoạt động kinh doanh; thương quyền khai thác các dịch vụ Bưu chính- Viễn thông; ban hành các chính sách chống phá giá cùng những vấn đề về phát triển và áp dụng công nghệ mới, dịch vụ mới cung cấp cho khách hàng.
- Việc cung cấp những cán bộ kỹ thuật giỏi, các cán bộ quản lý có trình độ cho ngành bưu chính viễn thông nói chung và cho công ty nói riêng cần một hệ thống giáo dục và thu hút nhân tài của Nhà nước, tránh để chảy máu chất xám, những người có chuyên môn giỏi thì bị thu hút ra nước ngoài làm.
3.3.2 Kiến nghị với cơ quan chủ quản cấp trên.
Công ty thiết bị điện thoại hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương thức hạch toán kinh doanh độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp từ Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. Do đó để thúc đẩy và khuyến khích phát triển kinh doanh sản xuất ở Công ty, Tổng công ty nên có những chủ trương, kế hoạch nhất định như:
- Trên quan điểm chung, Tổng công ty cần có cơ chế quản lý thích hợp để vừa kiểm soát được các đơn vị thành viên lại vừa tạo cơ hội cho các đơn vị này độc lập hơn nữa, cụ thể ở đây tạo tính độc lập và tự chủ hơn cho Công ty nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của Công ty. Nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, nếu thiếu tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thì các doanh nghiệp sẽ khó tồn tại và phát triển lâu dài được.
- Nếu có thể, Tổng công ty cần tạo điều kiện hơn trong việc tái cấp vốn đầu tư cho Công ty, trong việc triển khai các thủ tục đầu tư, và trong xét duyệt các dự án. Điều này góp phần giúp cho Công ty có thêm những điều kiện thuận lợi chuẩn bị bước vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Khi nhu cầu về vốn của Công ty là bức thiết, dự án đầu tư của Công ty là khả thi, thì Tổng công ty có thể điều chuyển vốn trong nội bộ giúp Công ty giải quyết nhu cầu về vốn trong thời gian hiện tại. Nhất là trong thời gian gần đây, Công ty đang có kế hoạch nghiên cứu những sản phẩm mới, mang tính chất hiện đại, phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường và phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Những dự án này sẽ phát triển được sản phẩm lâu dài trong tương lai. Nhưng để thực hiện được điều này, Công ty cần một lượng vốn không nhỏ đầu tư ban đầu cho quá trình nghiên cứu và triển khai dự án. Tổng công ty với vai trò của mình, có thể điều chuyển vốn từ các thành viên trong nội bộ Tổng công ty, giúp Công ty thực hiện tốt những dự án khả thi này.
- Tổng công ty nên nghiên cứu về tình hình phát triển của đơn vị thành viên trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới, từ đó đưa ra các kế hoạch nhằm giúp các đơn vị thành viên tháo gỡ khó khăn, tăng cường thế mạnh và thu thập những thông tin quan trọng để có thể phát triển sản xuất kinh doanh vững vàng. Hơn thế nữa, việc cung cấp cho các doanh nghiệp bưu chính viễn thông trong nước những thông tin quan trọng về sự phát triển cũng như sự triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực bưu chính viễn thông trên thế giới giúp các doanh nghiệp so sánh tương quan được trình độ của mình với trình độ phát triển của thế giới. Từ đó, các doanh nghiệp nói chung và Công ty nói riêng sẽ nỗ lực phấn đấu nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ kỹ thuật cùng tiềm lực kinh tế của mình.
- Trong quá trình liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, Tổng công ty có thể thay mặt Công ty ký kết hoặc giao dịch, bảo đảm cho Công ty kết hợp kinh doanh có lợi và học hỏi những tiến bộ khoa học trong chuyên môn kỹ thuật hoặc trong quản lý. Nhất là với vai trò của mình, Tổng công ty có thể đại diện cho ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam để ngoại giao, tìm đối tác, ký kết các hợp đồng liên doanh liên kết nhằm thúc đẩy và hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty phát triển hơn nữa.
- Thực tế, khi thành lập các công ty thành viên chuyên trách về một lĩnh vực nhất định nhằm trợ giúp và thúc đẩy cho hoạt động bưu chính viễn thông, các công ty thành viên thường gặp khó khăn trong việc phân định thị trường và xác định quyền sản xuất kinh doanh sản phẩm của mình. Cụ thể, khi chi nhánh trong miền nam được phép tách khỏi Công ty thì quan hệ về thị trường của Công ty Thiết bị điện thoại trở nên khó khăn hơn. Do vậy, Tổng công ty nên có quy định rõ về điều này trước khi quyết định tách hoặc thành lập một doanh nghiệp thành viên mới.
- Việc đưa vào sử dụng những tổng đài lớn phục vụ cho hoạt động liên lạc thông tin tốn một lượng vốn rất lớn. Không những thế trong quá trình triển khai đưa những tổng đài này vào sử dụng, Công ty phải có kế hoạch bảo dưỡng với chi phí bảo dưỡng lên tới hàng tỷ đồng. Chi phí này đã được tính vào dự trù thu chi của Công ty. Nhưng có khi, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, Tổng công ty quyết định thay những tổng đài này bằng những tổng đài khác hiện đại hơn. Cụ thể, việc thay thế tổng đài DTS đã làm doanh thu của Công ty sụt giảm đi nhiều do công việc duy trì hoạt động và bảo dưỡng tổng đài này không còn cần thiết nữa. Do vậy, Tổng công ty cần hoạch định chiến lược sử dụng tổng đài liên lạc lâu dài và hợp lý, tránh lãng phí vốn, chưa hết thời gian khấu hao của tài sản. Điều này cũng tránh cho Công ty những khoản dự trù thu chi thiếu chính xác và sự thiếu hụt về doanh thu so với dự kiến.
- Tổng Công ty có thể bổ sung cho Công ty những cán bộ có chuyên môn kỹ thuật giỏi bằng cách cung cấp cho Công ty hoặc điều chuyển cán bộ giữa các đơn vị thành viên hoặc từ Tổng công ty xuống khi đơn vị thành viên có nhu cầu về đội ngũ kỹ thuật có chuyên môn. Việc tiến hành nghiên cứu và triển khai các sản phẩm mới có tính chất cho tương lai luôn đòi hỏi một lực lượng cán bộ kỹ thuật giỏi, tiếp thu được sự phát triển của khoa học và công nghệ thế giới. Do vậy, để đáp ứng được đòi hỏi này, Tổng công ty cũng cần có chính sách đào tạo đội ngũ kỹ thuật ngay từ bây giờ như gửi các cán bộ công nhân viên của ngành ra nước ngoài học hỏi thêm những kiến thức về kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm, hay thuê các chuyên gia nước ngoài huấn luyện thêm cho cán bộ kỹ thuật của ngành.
3.3.3 Kiến nghị với các ngành có liên quan.
- Đối với các ngân hàng cần có cơ chế vay vốn thoáng hơn. Nhất là trong vấn đề thủ tục vay vốn và xét duyệt các dự án đầu tư. Tuy rằng hiện tại đối với các doanh nghiệp mang tính chất Nhà nước thường được ưu tiên hơn các doanh nghiệp tư nhân về vay vốn ngân hàng nhưng thủ tục xét duyệt vay vốn vẫn khá phức tạp, thời gian thẩm định dự án xin vay vốn cũng dài. Điều này gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là các dự án đòi hỏi tính cấp bách của vốn.
- Hàng năm, Công ty luôn đạt được mức lợi nhuận dương sau khi đã trả hết nợ và nộp ngân sách. Do vậy, ngân hàng cần có chính sách ưu đãi về lãi suất để áp dụng riêng đối với Công ty, khuyến khích công ty phát triển và vay vốn hợp lý. Với lãi suất ưu đãi, Công ty sẽ mạnh dạn vay vốn để đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư cho quá trình nghiên cứu sản phẩm mới của mình nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của Công ty và sự phát triển trong lĩnh vực bưu chính viễn thông ở Việt Nam.
- Hơn nữa, Chính phủ và các bộ, ban ngành có liên quan cho phép Công ty được thực hiện các quy chế đầu tư xây dựng cơ bản, đấu thầu phù hợp với đặc thù ngành Bưu chính- Viễn thông trên cơ sở đảm bảo tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư, nâng cao chất lượng và độ vững chắc của mạng lưới, bảo hộ có nguyên tắc sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước, tuân thủ các qui định của pháp luật; trước mắt cho phép chào hàng cạnh tranh đối với sản phẩm cáp quang được Công ty sản xuất.
- Việc có được các nguồn vốn ổn định và dài hạn, chi phí vốn hợp lý là rất quan trọng đối với kế hoạch phát triển lâu dài mang tầm chiến lược của Công ty. Do đó các ngân hàng nên sắp xếp các khoản vay dài hạn với lãi suất hợp lý cho Công ty khi cần thiết để giúp Công ty hoàn thành kế hoạch đề ra, tăng trưởng vững mạnh và lâu dài.
- Trong quá trình thi công, lắp đặt các tổng đài, đường dây liên lạc, Công ty cũng gặp không ít những khó khăn về cơ sở hạ tầng ở tại địa điểm thi công. Cụ thể như việc thu xếp, chuẩn bị mặt bằng cho việc đặt các trạm, tổng đài, hay việc đi các đường dây ngầm dưới đất. Để giải quyết được những khó khăn này, các ngành giao thông, xây dựng nên đưa ra chiến lược, kế hoạch xây dựng của ngành mình và kết hợp làm việc, hỗ trợ cho hoạt động của Tổng công ty Bưu chính viễn thông nói chung và của Công ty Thiết bị điện thoại nói riêng.
Kết luận
Như vậy, trên đây là tổng hợp những nghiên cứu cho vấn đề sử dụng vốn tại một đơn vị trực thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông. Cụ thể, chuyên đề đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại. Thông qua các khái niệm, quan điểm và những lý thuyết chuyên ngành về kinh tế ở chương một, phần thực trạng hoạt động sử dụng vốn tại Công ty ở chương hai, và phần giải pháp đưa ra cùng những kiến nghị xuất phát từ những quan điểm chủ quan của cá nhân, chúng ta có thể biết được nhiều vấn đề cần nghiên cứu liên quan đến Công ty Thiết bị điện thoại. Đó là cơ cấu vốn của Công ty Thiết bị điện thoại qua các năm. Đó là tình hình về các nguồn vốn Công ty đang sử dụng và các nguồn vốn Công ty chưa huy động và sử dụng. Đó là cách thức sử dụng vốn của Công ty vào các mục đích, đầu tư vào các tài sản, sự hợp lý và không hợp lý trong sử dụng vốn cùng các nguyên nhân và các giải pháp khắc phục, giải pháp nâng cao. Nói tóm lại, cuối cùng chuyên đề đã hoàn thành được phần đề tài cần nghiên cứu và đưa ra được các giải pháp cho quá trình sử dụng vốn có hiệu quả ở Công ty Thiết bị điện thoại.
Xung quanh vấn đề sử dụng vốn tại Công ty như đã phân tích, có những điểm mạnh mà Công ty tận dụng và đã đạt được kết quả đáng mừng, nhưng bên cạnh đó là những điểm yếu trong sử dụng vốn, gây cản trở quá trình phát triển mà Công ty cần khắc phục. Việc đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã phần nào giải quyết được các vấn đề trên. Trên cơ sở đó, cùng với việc được tìm hiểu sâu về tài sản cố định và vốn cố định tại Công ty Thiết bị điện thoại, sự trợ giúp nhiệt tình của các cán bộ công nhân viên của Công ty, và sự chỉ bảo tận tình của thày giáo hướng dẫn, kết hợp với các tài liệu sẵn có, nếu có thể được phát triển tiếp chuyên đề ở những nghiên cứu sau, em xin được nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Thiết bị điện thoại. Đây cũng là một phần trong đề tài chuyên đề mà em hoàn thành nhưng có lẽ sẽ được tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc hơn trong tương lai.
Danh mục tài liệu tham khảo
1/ PGS-TS Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Th.s Nguyễn Quang Ninh, 1998, Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê.
2/ PGS.TS Lưu Thị Hương (Chủ biên), 2002, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục.
3/ PGS.TS Vũ Duy Hào, 2000, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê.
4/ Bộ tài chính, 1999, Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê.
5/ Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, 2000, Quy chế tài chính của tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam.
6/ Công ty Thiết bị điện thoại, 2003, các báo cáo tài chính.
7/ Công ty Thiết bị điện thoại, các tài liệu và các báo cáo tài chính qua các năm.
8/ Văn kiện đại hội Đảng Việt Nam lần thứ IX.
9/ Báo cáo kế hoạch phát triển 5 năm 2001-2005 của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam.
Mục lục
Lời nói đầu ...................................................................................................
3
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp .....................
5
1.1 Tổng quan về vốn và vai trò của vốn trong doanh nghiệp ......................
5
1.1.1 Khái niệm ............................................................................................
6
1.1.2 Phân loại ..............................................................................................
7
1.1.3 Đặc điểm của vốn ................................................................................
13
1.1.4 Vai trò của vốn ....................................................................................
14
1.1.5 Quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp .......................................
16
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp .............................................
17
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn .........................................................
17
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn .......................................
20
1.2.2.1 Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng tổng vốn .............
21
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định .......................
23
1.2.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động .....................
25
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn .................................
31
1.3.1 Nhân tố khách quan .............................................................................
31
1.3.2 Nhân tố chủ quan .................................................................................
32
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại ..............................................................................................................
36
2.1 Một số nét về Công ty Thiết bị điện thoại ..............................................
36
2.1.1 Quá trình hình thành của Công ty Thiết bị điện thoại .........................
36
2.1.2 Quá trình phát triển .............................................................................
38
2.1.3 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và bộ máy tổ chức quản lý của Công ty Thiết bị điện thoại ....................................................................
40
2.1.4 Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị điện thoại ..........
44
2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn ...........................................................
46
2.2.1 Thực trạng hiệu quả sử dụng tổng vốn ................................................
46
2.2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định ............................................
51
2.2.3 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động .........................................
60
2.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại .............
67
2.3.1 Những kết quả đạt được .......................................................................
67
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân ..........................................................
69
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại ......................................................................................................
72
3.1 Định hướng phát triển của Công ty ........................................................
72
3.2 Các giải pháp chủ yếu ............................................................................
75
3.2.1 Nhóm giải pháp về tổng vốn ................................................................
75
3.2.2 Nhóm giải pháp về vốn cố định ...........................................................
80
3.2.3 Nhóm giải pháp về vốn lưu động .........................................................
82
3.3 Một số kiến nghị .....................................................................................
86
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước .......................................................................
86
3.3.2 Kiến nghị với cơ quan chủ quản cấp trên ............................................
88
3.3.3 Kiến nghị với các ngành có liên quan .................................................
91
Kết luận ........................................................................................................
93
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................
94
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0054.doc