Lời mở đầu
Vốn luôn được coi là một nhân tố hết sức quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh, vì vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài là hết sức mãnh liệt. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều có khối lượng vốn thấp. Vì thế, để có t
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sau một thời gian thực tập tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC, em đã lựa chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC)”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC).
Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Lưu Thị Hương, kế toán trưởng Chu Xuân Thanh và các anh chị trong Công ty Dịch vụ và Thương mại TSC đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Chương I
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.1 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển.
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy rằng: đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp muốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả thì đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản là:
- Sản xuất kinh doanh cái gì ?
- Sản xuất, kinh doanh như thế nào?
- Sản xuất, kinh doanh cho ai ?
Quyết định sản xuất, kinh doanh cái gì đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường. Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày một tăng về số lượng cũng như chất lượng. Nhưng thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, người tiêudùng phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho họ ở từng thời điểm nhất định. Tổng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội chính là căn cứ để các nhà kinh doanh quyết định việc đầu tư vào sản xuất, kinh doanh của mình.
Mặt khác, do sự giới hạn của của khả năng sản xuất nên khi doanh nghiệp đưa ra một quyết định đầu tư nào đó thì luôn phải chịu một chi phí cơ hội nhất định. Nghĩa là khi doanh nghiệp quyết định sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm, dịch vụ nào đó thì sẽ có một sản phẩm, dịch vụ khác bị bỏ qua. Việc lựa chọn, xác định được sản phẩm, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường và năng lực của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngược lại nếu xác định sai thì hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu sẽ là rất lớn.
Sản xuất, kinh doanh như thế nào? Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai thực hiện và những nguồn lực, hình thức công nghệ và phương pháp sản xuất kinh doanh nào sẽ được sử dụng. Sau khi đã lựa chọn được sản xuất, kinh doanh cái gì, doanh nghiệp phải xem xét và lựa việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó như thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, với chi phí ít nhất, giành thắng lợi trong cạnh tranh nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Sản xuất cho ai? Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ. Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất do đó cũng quyết định thu nhập của các hàng hoá, dịch vụ. Thu nhập của cá nhân hay tập thể phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hoá, dịch vụ và giá cả của chúng. Về nguyên tắc thì cần đảm bảo cho mọi người lao động được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ căn cứ vào những cống hiến của họ đối với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ ấy.
1.1.2.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm vốn
Trong cơ chế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Để thực hiện việc sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, doanh nghiệp phải mua sắm những yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ... nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản. Muốn đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ nghĩa là phải có tiền để trả cho đầu tư, đó chính là vốn. Vì thế, có thể coi vốn là tiền đề của mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vậy vốn là gì? Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Còn “nguồn vốn” chính là nơi cung cấp vốn cho các hoạt động trên.
Vốn có các đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn giá trị của các vật tư, tài sản, hàng hoá của doanh nghiệp. Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hoá, tiền tệ thông thường. Tiền tệ, hàng hoá là hình thái biểu hiện của vốn nhưng chỉ khi chúng được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời thì chúng mới được coi là vốn.
- Vốn được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Vốn của doanh nghiệp phải được tích tụ, tập trung thành một lượng tiền đủ lớn mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh được. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải cân nhắc để lựa chọn nguồn vốn sao cho có chi phí thấp nhất mà mang lại hiệu quả cao nhất.
- Vốn phải được gắn với một chủ sở hữu nhất định để tránh sự chi tiêu lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
- Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình vận động liên tục, do vậy vốn của doanh nghiệp cũng luôn vận động tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Vốn vận động theo quy luật: T – H – T’…
1.1.2.2 Phân loại vốn
Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đảm bảo việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả người ta phân vốn thành nhiều loại tuỳ theo mục đích quản lý và sử dụng:
* Căn cứ vào tính chất sở hữu
Theo hình thức sở hữu, vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần. Có ba nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí Nhà nước cấp phát không hoàn lại, giao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, mục đích chính trị xã hội ...)
Nợ phải trả: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán. Nợ phải trả bao gồm các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn.
Để đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải cân đối hai nguồn vốn nói trên tạo ra cơ cấu vốn tối ưu đối với doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp là cơ cấu vốn tại đó chi phí vốn của doanh nghiệp là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo an toàn khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn thì vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Đây là vốn mà doanh nghiệp có thể đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm hay một chu kỳ kinh doanh) mà doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn có tính chất tạm thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này bao gồm các khoản vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác...
* Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của vốn trong chu kỳ sản xuất kinh doanh
Theo đặc điểm luân chuyển vốn, vốn được phân thành vốn lưu động và vốn cố định. Đây là hình thức phân loại thể hiện rõ ràng, chính xác và thuận tiện nhất mà hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng.
- Vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là số vốn ứng trước cho những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của nó là từng bộ phận giá trị được chuyển dần vào sản phẩm cho đến khi tư liệu lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của của các TSCĐ. Nhưng vốn cố định và TSCĐ khác nhau ở chỗ: lúc mới hoạt động, vốn cố định của doanh nghiệp có giá trị bằng giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ. Về sau, giá trị của vốn cố định thường thấp hơn giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ do hao mòn.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn cố định một mặt giảm dần do trích khấu hao và thanh lý TSCĐ, mặt khác lại tăng thêm giá trị do đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. Như vậy giá trị của vốn cố định sẽ thay đổi: giảm giá trị TSCĐ sản xuất đã chuyển dịch vào sản phẩm hoàn thành và tăng thêm các chi phí đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn. Việc đổi mới TSCĐ và tăng thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của lao động.
Trong quá trình luân chuyển, TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị của nó giảm thông qua hình thức khấu hao. Bởi vậy, yêu cầu của việc quản lý và sử dụng vốn cố định là phải dựa trên hai cơ sở: một là, phải đảm bảo cho TSCĐ của doanh nghiệp được toàn vẹn và nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Hai là, phải tính toán chính xác sổ trích lập quỹ khấu hao, đồng thời phân phối và sử dụng quĩ đó hợp lý để có kế hoạch trích khấu hao bù lại giá trị hao mòn, thực hiện đổi mới TSCĐ.
Như vậy, TSCĐ chính là biểu hiện của vốn cố định do đó sử dụng vốn cố định cũng có nghĩa là sử dụng TSCĐ. TSCĐ cũng là một loại hàng hoá như những hàng hoá thông thường khác, không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. TSCĐ ngoài việc được mua bán trên thị trường cũng còn có thể thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tuỳ mục đích của người sử dụng. Để thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng vốn cố định người ta có thể chia vốn cố định theo TSCĐ (TSCĐ hữu hình, vô hình), hay theo các phương tiện vật chất cụ thể (nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn...)
Vốn cố định của doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với một doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển, do đó việc thường xuyên sửa chữa, đổi mới, bổ sung TSCĐ mới là việc làm sống còn đối với doanh nghiệp.
- Vốn lưu động:
Vốn lưu động là vốn của doanh nghiệp ứng trước vào vật tư và tài sản lưu động khác nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Khác với vốn cố định, vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và không còn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn này được thu hồi sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tiếp tục được đưa vào chu kỳ sản xuất tiếp theo một cách liên tục.
Vốn lưu động chính là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ. Do đó, đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối của sự vận động của TSLĐ. Trong các doanh nghiệp, TSLĐ được chia làm hai loại:
- TSLĐ sản xuất: bao gồm các nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang... đang trong quá trình dự trữ hoặc chế biến
- TSLĐ lưu thông: bao gồm các thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước...
Trong quá trình, sản xuất kinh doanh, các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Để phù hợp với các đặc điểm trên của TSLĐ, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh: dự trữ - sản xuất - lưu thông. Quá trình này diễn ra liên tục, thường xuyên, lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuỷen của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư, hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển.
Cũng giống như vốn cố định, việc quản lý vốn lưu động cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ với lượng vốn lưu động thường cao hơn vốn cố định thì việc quản lý vốn lưu động có vai trò sống còn đối với doanh nghiệp.
1.1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
Trong thực tế, bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng cần phải có sự kết hợp của 3 yếu tố là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động được gọi là tư liệu sản xuất. Để có hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần có sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động. Đối với doanh nghiệp thì tư liệu sản xuất và sức lao động chính là tài sản của doanh nghiệp. Vậy để tiến hành được quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tài sản, tức là phải có máy móc, nhà xưởng các trang thiết bị kỹ thuật và các nguyên vật liệu, vật tư, nhân công... Nhưng để có được tài sản đó thì doanh nghiệp phải có tiền để mua, lượng tiền đó chính là vốn. Do đó, với tư cách là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh vốn có vai trò quyết định đối với quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Vốn được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của người sử dụng vốn, thông qua quy luật T – H – T’. Quy luật này với T’ > T, cho thấy vốn của doanh nghiệp sau quá trình sản xuất kinh doanh đã tạo ra một lượng giá trị lớn hơn ban đầu, đó là giá trị thặng dư. Như vậy, vốn có vai trò tạo ra giá trị thặng dư, đó chính là nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp.
Bên cạnh vai trò tạo ra giá trị thặng dư, vốn còn đóng vai trò quan trọng nữa là giám đốc quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lớn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có liên quan đến vốn, đều sử dụng vốn vì thế thông qua quản lý vốn có thể quản lý doanh nghiệp. Sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng phản ánh sự vận động của hàng hoá dịch vụ vì vậy quản lý vốn cũng chính là quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một việc là cần thiết của doanh nghiệp.
1.1 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh đều phải sử dụng vốn để hoạt động. Với cùng một lượng vốn nhưng lợi nhuân thu được ở các doanh nghiệp khác nhau lại khác nhau. Vậy điều gì đã tạo ra sự khác biệt này? Vấn đề này có rất nhiều câu trả lời. Có thể do biến động của thị trường mà hàng hoá của công ty này bán chạy hơn công ty khác, song một nguyên nhân lớn là do công tác sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả khác nhau.
Vốn là một nhân tố hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh dù nó có nguồn gốc như thế nào, nhưng sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại quan trọng hơn nhiều. Nếu việc sử dụng vốn không mang lại hiệu quả sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm sút, thậm chí còn đưa doanh nghiệp tới việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ, và phải giải thể. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường.
Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá bằng nhiều cách, nhiều chỉ tiêu, trong nhiều mô hình khác nhau nhưng nhìn chung nó thường được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa khối lượng đầu vào (vốn) với kết quả có được ở đầu ra (sản lượng, lợi nhuận...).
Nếu ta gọi đầu vào (vốn) là K, đầu ra (sản lượng) là G, thì quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là: G = K/ k (hay G = a.K với a = 1/k) với k là một hằng số, gọi là hệ số vốn – sản lượng. Hệ số này cho biết số vốn cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng. Với một lượng vốn cụ thể phương án sử dụng nào cho hệ số k nhỏ nhất thì chi phí ít nhất và sẽ được lựa chọn để thực hiện.
Hiệu quả sử dụng vốn cũng còn được đánh giá bằng một chỉ tiêu quan trọng khác đó là thời gian sử dụng vốn. Thời gian sử dụng vốn càng ngắn thì chi phí quản lý trong quá trình sử dụng vốn càng được giảm bớt, đồng thời vốn bỏ ra càng sớm được thu hồi, do vậy hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Ví dụ có thể sử dụng công thức sau: h = (Dt/T).100
Với : h - hiệu quả sử dụng vốn
Dt - thời gian sử dụng vốn được rút ngắn so với thời gian định mức hay dự kiến.
T - Thời hạn thu hồi vốn
Như vậy, nếu Dt càng lớn tức là thời gian sử dụng vốn được rút ngắn càng nhiều thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Vốn là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại còn quá trình hơn rất nhiều. Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Thông thường, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu về cơ cấu vốn
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh một cách tổng quát về cơ cấu vốn cũng như cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm một số chỉ tiêu:
* Hệ số cơ cấu nguồn vốn
S Vốn chủ sở hữu (S Nợ phải trả)
Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
S Nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của các loại hình doanh nghiệp, từng ngành sản xuất kinh doanh là khác nhau. Đối với các doanh nghiệp lớn, có uy tín thì họ có khả năng huy động vốn từ vay nợ lớn hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Việc phân tích chỉ tiêu cơ cấu vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi cơ cấu vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
* Hệ số nợ vốn chủ sở hữu
S Nợ phải trả
Hệ số nợ vốn chủ sở hữu =
S Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết tổng số vốn huy động từ vay nợ của doanh nghiệp bằng bao nhiêu lần vốn chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp thì việc sử dụng nợ càng nhiều thì càng có lợi vì sử dụng nợ có tác dụng làm tăng thu nhập trên vốn chủ sở hữu. Nhưng nếu tỷ lệ sử dụng nợ cao quá thì doanh nghiệp cũng sẽ phải chịu rủi ro thanh toán, rủi ro này do người cho vay gánh chịu, do đó họ sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn và đến một lúc nào đó doanh nghiệp sẽ không thể vay được vốn nữa.
* Hệ số nợ tổng tài sản
S Nợ phải trả
Hệ số nợ tổng tài sản =
S Tài sản
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu đồng nợ phải trả. Thông thường tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi hai nguồn là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Thông thường TSCĐ và một phần tài sản lưu động thường xuyên được tài trợ bởi nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu còn tài sản lưu động tạm thời thì có thể tài trợ bằng nợ ngắn hạn. Căn cứ vào chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể có kế hoạch điều chỉnh việc huy động và sử dụng vốn.
* Hệ số cơ cấu tài sản
Vốn và tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nghiên cứu vốn phải đặt trong mối quan hệ với tài sản.
TSCĐ hoặc TSLĐ
Hệ số cơ cấu tài sản =
S Tài sản
Hệ số cơ cấu tài sản cho biết cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, và sử dụng tài sản đó phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Tùy từng loại hình doanh nghiệp, cũng như trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đầu tư vào TSLĐ, hay TSCĐ. Ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng thường có tỷ trọng TSCĐ cao, trong khi các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thì tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản lại cao hơn.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng =
vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Có thể thấy chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định nên chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
* Tỷ suất sinh lợi vốn cố định
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lợi =
vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Khi sử dụng chỉ tiêu này cần lưu ý là chỉ tính lợi nhuận do có sự tham gia trực tiếp của TSCĐ tạo ra, vì thế cần phải loại ra các khoản thu nhập khác như lãi do hoạt động tài chính, lãi do góp vốn liên doanh, lãi khác... không có sự tham gia của TSCĐ.
Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng TSCĐ còn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu khác như hệ số hao mòn TSCĐ, kết cấu TSCĐ, hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào (vốn lưu động) và đầu ra (doanh thu, lợi nhuận, sản lượng...) và dựa trên thời gian sử dụng vốn (tốc độ luân chuyển vốn lưu động).
Trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá qua các chỉ tiêu:
* Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Số doanh thu được tạo ra trên một đồng vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
* Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lợi =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh thì có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
Trên cơ sở thời gian sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh thông qua các chỉ tiêu:
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động thể hiện bởi số vòng quay vốn lưu động trong một kỳ sản xuất kinh doanh.
Doanh thu thuần
Số vòng quay =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn lưu động của doanh nghiệp luân chuyển nhanh, do vậy rút ngắn được thời gian hoàn vốn, cũng như chi phí sử dụng vốn lưu động.
* Thời gian của một vòng luân chuyển
Thời gian của một vòng luân chuyển phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động.
360 (ngày)
Thời gian một =
vòng luân chuyển Số vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn càng nhanh thì thời gian của một vòng luân chuyển càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả cao.
* Kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân 1 ngày
Kỳ thu tiền bình quân đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp đồng thời phản ánh công tác quản lý các khoản phải thu và chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình.
* Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì hàng tồn kho thấp, vòng quay hàng tồn kho sẽ cao.
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi
* Hệ số sinh lợi doanh thu
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi =
doanh thu Doanh thu thuần
Hệ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Hệ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tế, lợi nhuận là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ đi mọi chi phí và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, với một doanh nghiệp doanh thu cao chưa chắc lợi nhuận đã cao mà nó còn phụ thuộc vào chi phí của doanh nghiệp và thuế.
* Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi =
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu cho biết một đồng vốn chủ sở hữu được sử dụng thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Vì vốn chủ sở hữu khi sử dụng có chi phí cơ hội nên nếu hệ số này không cao thì chi phí vốn sẽ lớn và hiệu quả sử dụng vốn thấp.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.3.1. Các nhân tố thuộc về phía Nhà nước
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô. Do đó mọi doanh nghiệp đều phải tiến hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp luật và phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp Nhà nước còn chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước thông qua việc cấp ngân sách, và định hướng phát triển sản xuất kinh doanh.
Các chính sách của Nhà nước trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể kể tới chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối.
Chính sách lãi suất
Lãi suất thể hiện như là chi phí của việc sử dụng vốn, do vậy nó là nhân tố quan trọng trong quyết định sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Khi lãi suất ở mức cao, chi phí của việc sử dụng vốn đầu tư vào kinh doanh sẽ cao do chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn lớn, do vậy doanh nghiệp sẽ ít đầu tư vào sản xuất kinh doanh hơn, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào các tài sản nhiều hơn.
Đối với việc đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất tăng làm cho chi phí của việc giữ hàng tăng và làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.
Như vậy, lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định việc sử dụng vốn của doanh nghiệp để đầu tư vào vốn là tài sản hay hàng dự trữ. Do đó chính sách lãi suất có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chính sách tỷ giá
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá là quan trọng vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài.
Khi đồng tiền một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn (giá nội địa tại hai nước giữ nguyên). Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn.
Tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động xuất nhập khẩu, do đó ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, một lượng vốn lớn được đầu tư vào việc nhập khẩu hay xuất khẩu hàng hoá, do đó tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ giá quyết định giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, gián tiếp ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ của hàng hoá vì thế ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Vì vây, chính sách tỷ giá của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ và thương mại nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính sách thuế
Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế hay vay nợ để tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Do hai nguồn vốn này có chi phí khác nhau nên hiệu quả sử dụng cũng khác nhau.
Thuế xuất nhập khẩu ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, do vậy ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại có hoạt động xuất nhập khẩu do đó có tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp này.
Chính sách thuế của Nhà nước là nhân tố ảnh hưởng rất quan trọng tới công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp, vì vậy để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao doanh nghiệp phải luôn chú ý tới nhân tố này.
Ngoài ra, các chính sách kinh tế đối ngoại, các văn bản pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp… đều có ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp trong suốt quá trình kinh doanh.Vì vậy, nếu các chính sách của Nhà nước được quyết định đúng đắn sẽ là động lực rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh, ngược lại sẽ gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp
1.3.2.1. Loại hình doanh nghiệp
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp trực tiếp ảnh hưởng tới việc tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng tới việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất vật chất khác với doanh nghiệp thương mại – dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật chất, quá trình kinh doanh được gọi là quá trình sản xuất kinh doanh, đó là quá trình bao gồm từ việc đầu tiên là nghiên cứu, xác định nhu cầu của thị trường về hàng hoá dịch vụ, tổ chức sản xuất đến việc cuối cùng là tổ chức tiêu thụ hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp. Do đặc điểm gồm nhiều giai đoạn, sử dụng nhiều công nghệ khác nhau nên các doanh nghiệp sản xuất đòi hỏi phải sử dụng lượng vốn thường lớn trong đó vốn cố định có tỷ trọng ca._.o trong tổng vốn đầu tư. Vì thế, việc quản lý vốn cố định có vai trò rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp thương mại - dịch vụ thì quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra chủ yếu là mua và bán hàng hoá dịch vụ, chu kỳ kinh doanh ngắn hơn, hàm lượng vốn lưu động sử dụng thường cao hơn vốn cố định, do vậy việc quản lý vốn lưu động đóng vai trò sống còn đối với doanh nghiệp.
1.3.2.2. Cơ cấu vốn và chi phí vốn
Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau nhưng với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn để tài trợ cho tổng tài sản. Chi phí vốn chính là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Mỗi nguồn vốn đều có chi phí, đối với vốn chủ sở hữu thì đó là chi phí cơ hội còn đối với vốn vay thì đó chính là lãi suất.
Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên cùng với một lượng vốn được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn cũng khác nhau. Cơ cấu vốn có liên quan đến việc tính toán chi phí trung bình của vốn và nó được sử dụng trong quyết định dự toán sử dụng vốn.
ảnh hưởng của cơ cấu vốn đến thu nhập của doanh nghiệp là rất rõ rệt. Ngoài tác dụng làm tăng thu nhập trên vốn chủ sở hữu, khi doanh nghiệp sử dụng nợ tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp thì chỉ cần một số lượng vốn hạn chế cũng vẫn nắm được quyền kiểm soát doanh nghiệp, mặt khác khi vốn chủ sở hữu có tỷ trọng nhỏ thì doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Do cơ cấu vốn có ảnh hưởng tới thu nhập cũng như rủi ro của doanh nghiệp do đó nó có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xác định được cơ cấu vốn tối ưu thì không những đảm bảo được vốn để kinh doanh mà còn giảm được chi phí sử dụng vốn vì thế có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy, trong thực tiễn hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải tìm ra được cơ cấu vốn phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp, trên cơ sở đó để tiến hành huy động và sử dụng vốn.
Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất và bằng cách đó tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Với cơ cấu vốn tối ưu thì chi phí trung bình quân gia quyền của vốn cũng thấp nhất.
Có bốn nhân tố chính ảnh hưởng tới quyết định về cơ cấu vốn:
Một là: Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.
Hai là: Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ. Do vậy, khi thuế thu nhập cao thì các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng nợ.
Ba là: Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng huy động vốn trong những điều kiện thay đổi. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc huy động vốn dễ dàng hơn do đó họ có thể duy trì tỷ lệ nợ cao hơn.
Cuối cùng, một nhân tố cũng có ảnh hưởng tới cơ cấu vốn là quan điểm của các nhà quản lý. Có nhà quản lý thích sử dụng nợ nhiều hơn, trong khi nhiều người khác lại thích sử dụng vốn chủ sở hữu.
Tóm lại, cơ cấu vốn và chi phí vốn là một nhân tố quan trọng mà bất cứ nhà quản lý nào cũng phải chú ý trong khi sử dụng vốn. Nếu cơ cấu vốn được sử dụng tối ưu thì sẽ làm giảm chi phí vốn, giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
1.3.2.3. Trình độ lao động
Ngày nay, khi trình độ khoa học công nghệ đã phát triển, nhiều công việc có thể được vận hành bằng máy móc. Tuy vậy, vai trò của người lao động trong doanh nghiệp vẫn không thể thiếu được. Lao động của doanh nghiệp được nhìn nhận dưới cả hai góc độ: lao động quản lý và lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Lao động quản lý là lao động của các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp, quyết định của các nhà lãnh đạo là quyết định cuối cùng , trực tiếp ảnh hưởng tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người lãnh đạo là người quyết định sẽ sử dụng vốn như thế nào, đầu tư vào đâu, với số lượng bao nhiêu, với cơ cấu vốn ra sao. Quan điểm, phương pháp sử dụng vốn của mỗi người là không giống nhau, tùy vào trình độ năng lực và mục đích của họ. Do vậy, trình độ, trách nhiệm của người lãnh đạo có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Lao động của công nhân ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của việc sử dụng vốn. Vốn được đầu tư vào các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, còn người lao động sẽ sử dụng đầu vào đó để tạo ra đầu ra, thu nhập của doanh nghiệp. Lao động có trình độ tay nghề, tâm huyết và có ý thức trách nhiệm là nguồn vốn lớn nhất của doanh nghiệp, nó là yếu tố giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tránh được những lãng phí, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.3.2.4. Hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Doanh nghiệp sử dụng vốn đó đầu tư vào tài sản doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh. Khi đầu tư vào mua sắm tài sản, dù bằng nguồn nào thì doanh nghiệp cũng phải chịu một chi phí đó là chi phí sử dụng vốn. Đối với vốn chủ sở hữu thì chi phí là chi phí cơ hội mà doanh nghiệp có thể dùng vốn đó để đầu tư vào một dự án khác, còn với nợ phải trả thì chi phí chính là lãi vay.
Hiệu quả huy động vốn có tác động khá lớn đối với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do việc sử dụng vốn là có chi phí do vậy nếu doanh nghiệp có khả năng huy động được những nguồn vốn lớn, ổn định và có chi phí thấp thì việc sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều thuận lợi. Đối với mỗi doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp thương mại luôn có những nhu cầu vốn bất thường cần sử dụng, ví dụ như cần trả tiền nguyên vật liệu trong khi chưa tiêu thụ được hàng hoá hoặc cần những khoản tiền để đặt cọc trong các thương vụ làm ăn lớn... trong trường hợp này khả năng huy động vốn tức thời, với chi phí phù hợp sẽ làm tăng khả năng chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Vì vậy, hiệu quả huy động vốn của một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng huy động vốn, doanh nghiệp cần tạo cho mình những mối quan hệ tốt đối với khách hàng, nhà cung cấp, các Ngân hàng thương mại... đồng thời không ngừng nâng cao uy tín của công ty trong kinh doanh.
1.3.2.5. Nhân tố thị trường
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp từ việc huy động vốn, sử dụng vốn mua sắm các yếu tố đầu vào, đến việc bán sản phẩm thu hồi vốn đều diến ra trên thị trường. Do vậy, thị trường là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi gặp gỡ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà cung cấp, và cả những đối thủ cạnh tranh để xác định được cung cầu và giá cả hàng hoá. Thông qua cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được quy mô sản xuất, số lượng và chất lượng sản phẩm do đó ảnh hưởng tới quy mô của việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Giá cả của các yếu tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất kinh doanh, giá cả của hàng hoá bán ra quyết định doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp, mặt khác hiệu quả được đánh giá thông qua kết quả và chi phí do vậy giá cả có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của thị trường, nó là động lực phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả nhất thì mới có thể nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm... giành lợi thế trong cạnh tranh, mở rộng thị phần doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.3. Các nhân tố khác
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chịu tác động rất nhiều của các nhân tố khách quan bắt nguồn từ môi trường bên ngoài. Các nhân tố khách quan như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, sự khủng hoảng kinh tế, chiến tranh... đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do vậy cũng ảnh hưởng tới tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. ảnh hưởng của các nhân tố này khi chúng xảy ra là rất lớn, nhiều khi chúng có thể phá hoại cả một nền kinh tế chứ không riêng gì một doanh nghiệp.
Xác suất xảy ra rủi ro bởi các nhân tố khách quan là rất thấp nhưng không phải là không thể xảy ra. Đặc biệt, việc dự đoán tác động của chúng đối với doanh nghiệp là rất khó vì vậy chỉ có thể phòng ngừa nhằm giảm tác hại khi chúng xảy ra. Để có thể hạn chế rủi ro của các tác nhân này doanh nghiệp cần phải chú ý tới các biện pháp phòng ngừa rủi ro đồng thời trích lập các quỹ dự phòng rủi ro để có thể hạn chế tổn thất cũng như có thể duy trì đươcj kinh doanh khi rủi ro xảy ra.
Chương II
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.1. Giới thiệu chung về công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.1.1 Giới thiệu về công ty
Công ty dịch vụ và thương mại (tiếng Anh là: Trade and Service Company, viết tắt là TSC) là doanh nghiệp đoàn thể do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thành lập, đầu tư 100% vốn và quản lý trực tiếp, toàn diện.
Công ty Dịch vụ và Thương mại hoạt động theo cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp Nhà nước được quy định tại văn bản 283/CN ngày 16 tháng 1 năm 1993 do Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ ký, thông báo ý kiến của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý các doanh nghiệp đoàn thể.
Công ty Dịch vụ và Thương mại (dưới đây gọi tắt là công ty) có tư cách pháp nhân đầy đủ, có trụ sở làm việc riêng, có tài khoản tiền đồng Việt Nam và tài khoản ngoại tệ mở tại các ngân hàng, có con dấu để giao dịch và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
Công ty có trụ sở chính tại 79 Phố Bà Triệu – Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ngoài ra công ty còn có các chi nhánh tại Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành Phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Đặc điểm kinh doanh của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp đoàn thể, hạch toán độc lập và trực thuộc sự quản lý của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Chức năng của công ty là kinh doanh dịch vụ và hàng hoá nhằm tạo ra nguồn thu bổ sung kinh phí hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của Phòng Thương mại.
Tuy là một công ty trực thuộc nhưng công ty được phép chủ động trong việc tiếp cận tìm kiếm thị trường, khai thác các mặt hàng, các dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh thu lợi. Công ty có chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí minh và có mối quan hệ làm ăn với các cá nhân và tổ chức trên toàn quốc.
Hiện tại, những hoạt động kinh doanh chính mang lại thu nhập cho công ty là: lữ hành du lịch, dịch vụ vé máy bay, kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu, hoạt động tư vấn và hội chợ triển lãm, và xuất khẩu lao động.
Hoạt động lữ hành du lịch: đây là hoạt động quan trọng không chỉ trong việc tạo ra doanh thu lớn cho công ty mà còn có tác dụng thúc đẩy giao lưu thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hàng năm công ty đã đưa hàng trăm đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài tại 15 nước. Tổ chức đón gần một ngàn khách vào tham quan du lịch, khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá: đây là hoạt động mang lại đầu tư chủ yếu cho công ty. Là một công ty thương mại nhưng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty hầu như chỉ mang tính chất dịch vụ chứ không mang nhiều tính chất thương mại. Hàng hoá xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ (hàng sơn mài, mây, tre đan…), các nguyên liệu thô như quặng đồng, kẽm,... Công ty không trực tiếp mua hàng để xuất khẩu mà chủ yếu do các công ty có nguồn hàng cần xuất khẩu nhờ bán hộ do công ty có nhiều mối quan hệ làm ăn ở nước ngoài. Do vậy, công ty không cần vốn để mua hàng mà chủ yếu là mua chịu, sau khi xuất khẩu thu tiền mới phải thanh toán. Hàng hoá nhập khẩu của công ty chủ yếu là các máy móc, thiết bị sản xuất, hàng tiêu dùng... Các hàng hoá này hầu hết công ty đều được các công ty trong nước đặt hàng nhờ công ty nhập hộ, công ty chỉ làm dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng.
Hoạt động xuất khẩu lao động: đây là hoạt động mang lại lợi nhuận rất lớn cho công ty. Lao động được công ty đưa ra nước ngoài chủ yếu là các thuyền viên làm việc trên các tàu viễn dương, các lao động giúp việc cho các gia đình ở nước ngoài. Thị trường xuất khẩu lao động của công ty chủ yếu là Malaixia, Đài Loan và Nhật Bản.
Hoạt động tư vấn và hội chợ triển lãm: tổ chức các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam về luật pháp cũng như các thông tin về môi trường kinh doanh trong và ngoài nước.
Ngoài ra, công ty còn làm đại lý bán vé máy bay cho hãng hàng không Việt Nam Airline.
Nhìn chung, trong tất cả các hoạt động của công ty ta nhận thấy tuy là một công ty thương mại và dịch vụ nhưng chủ yếu công ty vẫn là làm dịch vụ, đây là một hạn chế. Để tăng lợi nhuận thì trong thời gian tới công ty cần chủ động hơn trong việc kinh doanh, mở rộng hơn nữa các lĩnh vực dịch vụ cũng như tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
2.1.3. Tình hình kinh doanh của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, được sự ủng hộ và chỉ đạo sát sao của Ban thường trực, các chi nhánh, các công ty trong hệ thống Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cùng với những nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên, công ty đã thu được những kết quả nhất định về kinh doanh.
Mặc dù lượng vốn chủ sở hữu của công ty bỏ ra kinh doanh trong những năm gần đây hầu như không tăng, nhưng doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày một tăng mạnh cho thấy công ty hiện đang sử dụng vốn khá có hiệu quả.
Biểu 1 : Doanh thu thực hiện chia theo các lĩnh vực kinh doanh
Đơn vị: tỷ đồng
Lĩnh vực kinh doanh
Doanh thu
2002
Doanh thu
2001
2002/2001
(%)
Xuất khẩu hàng hoá
15
9
166,7
Xúc tiến thương mại
26
18,6
139,7
Xuất khẩu lao động
1,6
1,2
133.3
Các lĩnh vực khác
54,9
41
133,9
Tổng doanh thu
97,5
69,8
139.7
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán)
Cùng với việc hoàn thành vượt mức kế hoạch, công ty đã đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và tạo ra nguồn thu bổ sung cho kinh phí hoạt động xúc tiến của Phòng thương mại nói riêng.
Công tác xuất nhập khẩu hàng hoá : duy trì và mở rộng thị trường đã có, khai thác thêm nhiều thị trường mới. Ngoài Nhật Bản, Tiệp Khắc, Sinhgapo, Hồng Kông, đã thêm Trung Quốc, Australia tạo hiệu quả kinh doanh cao hơn trước.
Công tác xúc tiến thương mại công ty đã khai thác tốt lợi thế chung của Phòng Thương mại, cùng với việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế đã đẩy mạnh tổ chức đưa các đoàn doanh nghiệp của Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài với 120 đoàn, 1750 người, 650 doanh nghiệp đơn vị tại 15 nước. Tổ chức đón 850 khách vào tham quan khảo sát tại Việt Nam (năm 2002)
Công tác xuất khẩu lao động năm 2002 đã đưa được 727 lao động sang Đài Loan, làm việc trên các tàu du lịch vùng Thái Bình Dương, hoàn tất thủ tục chuẩn bị đưa lao động đi làm việc tại Nhật Bản và Malaixia.
Bên cạnh bước tập trung phát triển các dịch vụ trên, công ty đã khai thác thêm những lợi thế khác để tạo việc làm trong các lĩnh vực như: nhập khẩu hàng hoá, tạm nhập tái xuất, xuất nhập khẩu uỷ thác...
* Nộp ngân sách Nhà nước và kinh phí cho Phòng Thương mại:
- Nộp ngân sách Nhà nước năm 2001 là 9,1 tỷ đồng, năm 2002 là: 13,4 tỷ tăng 147% năm 2001.
- Đóng góp kinh phí cho Phòng Thương mại mỗi năm khoảng 200 triệu đồng.
* Thu nhập và tích luỹ công ty
Lương bình quân 1 tháng 1 lao động năm sau cao hơn so với năm trước chứng tỏ đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Lương bình quân tháng 1 nhân viên năm 2001 là 1,3 triệu đồng ; năm 2002 là 1,65 triệu đồng tăng 128% năm 2001.
Lợi nhuận của công ty cũng tăng qua các năm, năm 2001 lợi nhuận sau thuế đạt 404,5 triệu đồng, năm 2002 đạt 578 triệu đồng, tăng 143% so với năm 2001. Nhờ làm ăn có lãi, hàng năm công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn cho công ty cũng như tích cực đầu tư mua sắm tài sản cố định phục vụ kinh doanh. Năm 2002 công ty đã mua sắm trang bị thêm nhiều phương tiện làm việc cho CBCNV và bổ sung nguồn vốn bằng 1 ô tô trị giá trên 300 triệu đồng.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.2.1. Thực trạng vốn của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, trực thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, do Phòng Thương mại trực tiếp quản lý và đầu tư 100% vốn. Do vậy, vốn của công ty cũng giống như mọi doanh nghiệp khác trong nước đều được huy động từ hai nguồn là nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Điều khác là, 100% vốn chủ sở hữu ở thời điểm ban đầu khi thành lập công ty là do Phòng Thương mại cấp (4 tỷ đồng). Song do quá trình phát triển, hoạt động của công ty ngày càng mở rộng, số vốn được cấp không thể đủ cho công ty có thể kinh doanh được. Do vậy, để phục vụ quá trình kinh doanh của mình công ty đã chủ động vay một khối lượng vốn lớn từ các cá nhân, tổ chức, Ngân hàng trong và ngoài nước. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức có uy tín ở trong và ngoài nước nên việc vay vốn của công ty rất thuận lợi, đây là một nhân tố rất quan trọng giúp cho công ty có thể sử dụng tỷ lệ nợ cao, có thể chiếm dụng được lượng vốn khá lớn để kinh doanh.
Tình hình vốn của công ty được thể hiện qua biểu 2 – Nguồn huy động vốn của công ty
Biểu 2: Nguồn huy động vốn của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn vốn
2000
2001
2002
A. Nợ phải trả
8.836
14.475
14.358
I. Nợ ngắn hạn
8.575
14.386
14.199
1. Vay ngắn hạn
305
91
356
2. Phải trả người bán
1.869
1.121
3.967
3. Người mua trả tiền trước
128
693
573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
384
- 79
- 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
2.475
8.063
6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác
3.414
4.498
3.080
II. Nợ khác
261
89
159
1. Chi phí phải trả
261
89
159
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
6.257
6.270
6.743
1. Nguồn vốn kinh doanh
5.900
5.899
6.399
2. Chênh lệch tỷ giá
2
1
19
3. Lãi chưa phân phối
38
71
104
5. Quỹ dự phòng tài chính
27
30
30
6. Quỹ phát triển kinh doanh
234
247
247
7. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
14
11
9
8. Quỹ khen thưởng phúc lợi
44
11
- 65
Tổng nguồn vốn
15.093
20.745
21.101
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán công ty TSC ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002).
Số liệu ở biểu cho thấy:
Tổng nguồn vốn huy động được của công ty, cũng là tổng số vốn mà công ty có thể sử dụng, liên tục có sự tăng trưởng nhưng không đều qua các năm.
Năm 2001 so với năm 2000, tổng nguồn vốn tăng khá lớn khoảng 5,6 tỷ đồng (37%). Trong khi đó, năm 2002 so với năm 2001 tổng nguồn vốn tăng rất ít chỉ 0,4 tỷ đồng (1,9%).
Nguyên nhân của sự tăng không đồng đều này là do bước vào năm 2001 công ty đã chủ trương mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá không những duy trì được những thị trường truyền thống như Nhật Bản, Tiệp Khắc, Hồng Kông, Sinhgapore, mà còn mở rộng được sang các thị trường mới, nhiều tiềm năng như Trung Quốc, Australia. Do việc mở rộng thị trường, đòi hỏi công ty cũng phải có thêm các nguồn hàng, các chi phí mới phát sinh do đó công ty đã phải đầu tư thêm một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại do việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế nên đã đẩy mạnh tổ chức đưa các đoàn Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, Khảo sát thị trường, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài, đồng thời tổ chức đón rất nhiều đoàn khách vào tham quan khảo sát thị trường Việt Nam. Do đó, việc tăng vốn đầu tư vào công tác xúc tiến thương mại cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn. Qua năm 2002, khi các thị trường đã ổn định, lượng vốn đầu tư đã đáp ứng nhu cầu sử dụng thì lượng vốn tăng thêm là không đáng kể.
Tổng nguồn vốn tăng lên được giải thích bởi sự tăng giảm của hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
* Nguồn vốn chủ sở hữu
Không có nhiều điều để nói về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty. Thực vậy, nguồn vốn chủ sở hữu qua ba năm hầu như không có sự thay đổi về lượng. Từ lượng vốn là 4 tỷ đồng được cấp bởi Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ở ngày đầu thành lập công ty, đến nay công ty phát triển nó thành 6,7 tỷ đồng. Lượng vốn tăng thêm chủ yếu được tích luỹ qua các năm làm ăn có lãi, công ty đã giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng công ty.
Mặc dù không có sự thay đổi đáng kể nào về lượng nhưng xét về tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thì lại có sự thay đổi đáng kể. Năm 2000 vốn chủ sở hữu của công ty chiếm tới 41% trong tổng số nguồn vốn của công ty nhưng bước sang năm 2001 nó chỉ còn chiếm 30% và năm 2002 cũng chỉ là 32%.
Sở dĩ có sự sụt giảm như vậy, là do trong năm 2001, do yêu cầu của việc mở rộng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ công ty đã chủ động tăng thêm vốn đầu tư như đã nói ở trên. Nhưng vốn đầu tư vào mở rộng kinh doanh chủ yếu được huy động từ các khoản vay ngắn hạn và từ việc chiếm dụng vốn, chứ không tăng thêm vốn chủ sở hữu. Bước sang năm 2002, công ty do làm ăn có lãi nên đã bổ sung nguồn vốn kinh doanh thêm 500 triệu, do đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn có tăng thêm 2%.
Để thấy rõ hơn tình hình vốn chủ sở hữu của công ty, ta phân tích cụ thể từng bộ phận của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ các bộ phận chủ yếu là nguồn vốn kinh doanh, lãi chưa phân phối và các quỹ.
Nguồn vốn kinh doanh trong hai năm 2000 và 2001 không có sự thay đổi, nhưng sang năm 2002, nguồn vốn kinh doanh được bổ sung thêm 500 triệu từ lợi nhuận của công ty. Đây chính là nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng của vốn chủ sở hữu.
Phần lãi chưa phân phối của công ty đều tăng qua các năm nhưng số lãi này không lớn, năm 2002 cao nhất mới đạt 103 triệu đồng.Tuy vậy, sự tăng này cũng ảnh hưởng tới tỷ trọng vốn chủ sở hữu nhưng là rất nhỏ.
Các nguồn quỹ của doanh nghiệp như quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được công ty duy trì ổn định qua các năm. Đây là điều tốt, bởi nó sẽ giúp công ty ổn định được nếu gặp những rủi ro trong kinh doanh và cũng đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết. Riêng quỹ khen thưởng, phúc lợi lại có xu hướng giảm, thậm chí đạt con số âm vào năm 2002 trên bảng cân đối kế toán. Thoạt nhìn, có thể cho rằng công ty không chú trọng tới việc khen thưởng cũng như các chương trình phúc lợi của công ty nhưng trái lại sự sụt giảm hay con số âm không đủ để khẳng định được điều đó. Trong các năm qua, do công ty ăn có hiệu quả là cũng một phần do công ty đã biết khuyến khích, khen thưởng kịp thời cán bộ công nhân viên, do quỹ khen thưởng không đủ đáp ứng nhu cầu chi nên công ty đã phải sử dụng cả lãi chưa phân phối. Tuy vậy, việc duy trì một quỹ khen thưởng, phúc lợi đủ lớn sẽ giúp công ty có thể chủ động trong việc sử dụng hơn. Đây là một vấn đề công ty cần chú ý trong thời gian tới.
* Nợ phải trả
Một điều dễ nhận thấy trong các khoản nợ của công ty là công ty không hề sử dụng các khoản vay dài hạn. Các khoản nợ của công ty chủ yếu bắt nguồn từ vay ngắn hạn và các khoản phải trả. Như vậy toàn bộ các tài sản thường xuyên và một phần tài sản không thường xuyên của công ty được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, phần tài sản không thường xuyên còn lại được tài trợ bằng việc sử dụng nợ.
Biểu 3: Các hệ số nợ của công ty TSC
Các hệ số
2000
2001
2002
01/00
02/01
Hệ số nợ tổng vốn
0,59
0,70
0,68
0,11
- 0,02
Hệ số nợ vốn chủ sở hữu
1,41
2,31
2,13
0,9
- 0,18
Hệ số cơ cấu nguồn vốn
0,41
0,30
0,32
- 0,11
0,02
(Nguồn: Phòng - tài chính kế toán)
Qua biểu 3 có thể dễ dàng nhận xét về cơ cấu nguồn vốn của công ty. Với hệ số nợ trên tổng nguồn vốn cao và có xu hướng tăng cùng với sự tăng nguồn vốn cho thấy việc công ty mở rộng kinh doanh hoàn toàn dựa vào việc sử dụng nợ. Mặt khác, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao đồng thời với việc tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn thấp và có xu hướng giảm chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của công ty còn rất thấp. Để nghiên cứu kỹ hơn về các khoản nợ của công ty ta quan sát biểu 4.
Biểu 4: Nợ phải trả của công ty TSC
Đơn vị: triệu đồng
Nợ phải trả
2000
2001
2002
I. Nợ ngắn hạn
8.574
14.386
14.1989
1. Vay ngắn hạn
305
91
356
2. Phải trả người bán
1.869
1.121
3.967
3. Người mua trả tiền trước
128
693
573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
384
- 79
- 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
2.474
8.062
6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác
3.414
4.498
3.080
II. Nợ khác
261
89
159
1. Chi phí phải trả
261
89
159
Tổng số
8.835
14.475
14.358
(Nguồn: Phòng tài chính – kế toán)
Số liệu ở biểu 3 cho thấy tỷ lệ nợ của công ty khá cao nhưng tỷ lệ vay ngắn hạn Ngân hàng lại rất thấp (cao nhất cũng chỉ chiếm khoảng 3%). Như vậy nợ của công ty chủ yếu nằm trong các khoản phải trả. Đây là một điều rất tốt đối với mỗi doanh nghiệp bởi lượng vốn chiếm dụng được nhiều, mà lượng vốn này hầu như không có chi phí, do đó lợi nhuận kiếm được không lo phải trả lãi vay. Việc công ty sử dụng tỷ lệ nợ cao là xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Trước hết, do công ty TSC là một công ty trực thuộc Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, vốn của công ty do Phòng Thương mại cấp. Nhưng lượng vốn được cấp ban đầu không thể đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh. Mặt khác, phạm vi hoạt động kinh doanh rộng cả trong và ngoài nước, thực hiện nhiều chức năng hay nghiệp vụ kinh doanh do đó đòi hỏi phải có một lượng vốn đủ lớn. Vì vậy, nhu cầu sử dụng nợ của công ty là điều tất yếu. Nhờ uy tín của Phòng Thương mại, nên việc sử dụng nợ của công ty tỏ ra rất thuận lợi, việc vay vốn Ngân hàng rất dễ dàng, và nhất là việc mua bán chịu của công ty đối với các công ty trong nước nhất là các công ty cùng trực thuộc sự quản lý của Phòng Thương mại không gặp khó khăn gì. Do có những thuận lợi như vậy nên công ty có thể sử dụng tỷ trọng nợ rất cao, và có thể còn cao hơn trong thời gian tới.
- Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của công ty. Công ty TSC là công ty thương mại và dịch vụ nhưng trong mọi hoạt động của công ty tính thương mại rất ít mà hầu như công ty chỉ làm dịch vụ. Ví dụ, trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá: việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của công ty mà đều do các công ty trong nước đặt hàng, đặt tiền cho công ty, sau đó công ty mới mua hàng hoá ở nước ngoài để nhập về. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá cũng vậy, các công ty trong nước có hàng cần xuất khẩu trong khi công ty lại có thị trường ở nước ngoài, do đó công ty cứ việc lấy hàng xuất bán thu tiền sau đó mới thanh toán với phía trong nước. Tuy cũng có lúc công ty phải đặt cọc để giữ mối hàng nhưng lượng đặt cọc cũng không lớn nên không phát sinh những khoản chi bất thường lớn. Những khoản vay ngắn hạn Ngân hàng chính là nhằm đáp ứng cho những nhu cầu bất thường này.
Tuy việc sử dụng nợ có chi phí thấp, nhưng rủi ro từ nợ cũng không phải là ít. Điều gì sẽ xảy ra đối với công ty khi các khoản nợ đến hạn thanh toán mà các khoản phải thu chưa đòi được hoặc không đòi được. Hoặc giả dụ, khi công ty không thể huy động được nợ do các bạn hàng không đồng ý bán chịu, hoặc lãi suất vay nợ quá cao thì công việc kinh doanh nhất định sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn cho phù hợp. Bên cạnh sử dụng nợ, công ty cũng có thể tự tích luỹ nội bộ để có thể có một lượng vốn chủ sở hữu lớn hơn để đảm bảo an toàn trong kinh doanh.
Như vậy, điều kiện tiền đề để công ty có thể hoạt động sản xuất kinh doanh là vốn đã có nguồn tài trợ. Nhưng vấn đề là lượng vốn đó được sử dụng đầu tư vào đâu cho có hiệu quả mới là điều thực sự đáng quan tâm hơn.
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty, việc xem xét tình hình phân bổ vốn của công ty là việc làm cần thiết.
Như đã biết, doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, như vậy cơ cấu tài sản cũng phản sánh cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong biểu 5: Cơ cấu sử dụng vốn của công ty TSC.
Biểu 5: Thực trạng sử dụng vốn của công ty TSC
Đơn vị: triệu đồng
Tài sản
2000
2001
2002
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
13.696
19.812
20.305
I. Tiền
1.070
819
2.451
1. Tiền mặt tại quỹ (kể cả ngân phiếu)
609
71
514
2. Tiền gửi Ngân hàng
461
737
1.932
3. Tiền đang chuyển
12
4
II. Các khoản phải thu
9.447
9.265
12.227
1. Phải thu của khách hàng
724
424
808
2. Trả trước cho người bán
60
53
418
3. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
253
332
402
4. Phải thu nội bộ
4.083
2.213
3.889
5. Các khoản phải thu khác
4.327
6.243
6.711
III. Hàng tồn kho
1.210
6.405
4.705
1. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
175
2. Công cụ dụng cụ trong kho
10
40
32
3. Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang
72
4. Hàng hoá tồn kho
1.200
6.365
4.426
IV. Tài sản lưu động khác
1.969
3.323
923
1. Tạm ứng
1.598
2.897
283
2. Chi phí trả trước
268
12
12
3. Chi phí chờ kết toán
102
413
170
4. Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn
1
1
458
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
1.397
933
796
I. Tài sản cố định
818
354
214
1. TSCĐ hữu hình
818
354
214
- Nguyên giá
5.365
2.827
2.578
- Giá trị hao mòn luỹ kế (*)
-4.547
-2.473
-2.364
II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
60
60
60
1. Góp vốn liên doanh
60
60
60
IV. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
519
520
522
Tổng cộng tài sản
15.093
20.745
21.101
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002).
Công ty sử dụng vốn không ngoài mục đích đầu tư vào TSLĐ (vốn lưu động) hoặc TSCĐ (vốn cố định).
Số liệu trên bảng cân đối kế toán của công ty cho thấy, vốn lưu động của công ty luôn chiếm tỷ lệ rất cao (luôn trên 90% tổng vốn, thậm chí các năm 2001, 2002 còn chiếm tới 96%).
Biểu 6: Cơ cấu vốn của công ty TSC
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Vốn lưu động
13.696
91
19.812
96
20.305
96
Vốn cố định
1.397
9
933
4
796
4
Tổng vốn
15.093
100
20.745
100
21.101
100
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5603.doc