Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được coi như là những tế bào của xã hội mà sự tồn tại và phát triển của chúng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội nói riêng thì sự phát triển của nó phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính của bản thân doanh nghiệp hay nói cách khác là phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Bởi v
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy, trên cơ sở thực hiện các biện pháp chủ yếu về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước, đảm bảo quyền tự chủ và độc lập về mặt tài chính đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải có các biện pháp hợp lý sử dụng nguồn vốn của mình một cách có hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn cao hay thấp sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong môt trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội đang phải đương đầu với những khó khăn trong hoạt động kinh doanh: về quản lý vốn và các nguồn lực khác. Vốn đầu tư của công ty tăng lên liên tục trong một vài năm gần đây, lợi nhuận tăng lên nhưng đang có xu hướng chững lại.
Sau thời gian thực tập tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội, xuất phát từ tình hình thực tế của công ty, em đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội ” làm nội dung nghiên cứu của mình.
Với phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận với thực tiễn trên cơ sở phân tích các hoạt động tài chính của công ty, chuyên đề thực tập tốt nghiệp nhằm nêu rõ bản chất và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội dung trong công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp được xây dựng thành 3 chương:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội.
Chương I
vốn và Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1. Vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm:
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà kinh tế đã tốn rất nhiều công sức và mỗi người đều có những định nghĩa riêng, theo quan điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: nhà cửa, tiền của ... Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm: vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hóa đã sản xuất để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có giá của doanh ngiệp. Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế... đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới ... để tái sản xuất mở rộng. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền ban đầu đã được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình này diễn ra liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất dầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó đưa ra được một định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu mọt cách khái quát về vốn như sau:
Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu (đây là các khoản được tích tụ bởi lao động trong quá khứ được biểu hiện bằng tiền), tham gia liên tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư cho chủ sở hữu.
1.1.1.2. Phân loại vốn:
Để có thể quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả bước đầu tiên mà người quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nước đang phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm.
* Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh: phân thành hai loại là Vốn sản xuất và vốn đầu tư.
- Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình... dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nhgiệp. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
- Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch, các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng. Việc huy động đủ số lượng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc đó.
* Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được chia thành nợ vay và vốn của chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.
- Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối. Đối với các loại vốn này doanh nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú... Chi phí vốn chủ sở hữu là chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao.
- Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp. Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả cho các khoản nợ vay. Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn định và được thoả thuận trước khi vay. Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi, lợi tức dành cho chủ sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ như nợ vay. Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu.
Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có thể thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng... Còn nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân chia theo khoản mục. Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định.
* Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình kinh doanh
Khi căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động.
- Vốn cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định (bao gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình). Hay nói cách khác vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất, hoàn thành vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định là một thành phần quan trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định cần phải hiểu những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), thời gian sử dụng dài (có thời gian sử dụng tối thiểu là 1 năm), có chức năng là tư liệu lao động. Trong khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
+ Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài sản cố định.
+ Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nói chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất thì bị giảm dần, tức là bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất đó nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh nghiệp.
Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định đã quyết định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định, đó là khi tham gia vào quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm hai bộ phận.
+ Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ.
+ Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định chính từ đặc điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định mà khi đánh giá tài sản cố định cần có các đại lượng như giá trị ban đầu (nguyên giá), giá trị còn lại của tài sản cố định.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông thường có các cách phân loại sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo phương pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những tài sản cố định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và kinh doanh cơ bản cuả doanh nghiệp như, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc...
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là các tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy móc thiết bị phục vụ sản xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê.
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương pháp này, căn cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố định phân thành các loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán
Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách phân loại tài sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp quản lý và bảo toàn vốn cố định hiệu quả.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp: là số vốn được ứng ra để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó trong quá trình tái sản xuất được chia làm ba loại:
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao gồm, vốn nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ nhỏ...
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế.
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm: Vốn tiền tệ vốn trong thanh toán...
Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động có thể chia thành:
+ Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
+ Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
* Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
- Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc hình thành các tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.
- Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ ngắn hạn.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh doanh.
* Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn:
- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định.
- Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy động nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động.
* Căn cứ vào nguồn tài trợ
Căn cứ vào nguồn tài trợ nguồn vốn của doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại
- Nguồn vốn ngắn hạn: Đây là các khoản huy động được từ những người cho vay, có thời hạn ngắn và không phải là lá chắn chống lại sự phá sản của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn dài hạn: Đây là các khoản huy động được từ người cho vay và người chủ hữu, có thời hạn dài, là lá chắn chống lại sự phá sản của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp đưa ra được những quyết định như khi nào thì sử dụng nguồn nợ vay, khi nào thì sử dụng vốn chủ sở hữu
1.1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của DN
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định, không có vốn sẽ không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công... Vì vậy trong giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh tranh trước các đối thủ.
Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng lãi suất thấp của ngân hàng. Có thể nói trong thời bao cấp vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “cho không”. Khi sử dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế hoạch Nhà nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm, nếu thiếu Nhà nước sẽ bù lỗ. Chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc khai thác đảm bảo vốn kinh doanh của doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều này đã một mặt thủ tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự cân đối giả tạo về cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và không cần thiết có thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp Nhà nước phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi có trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở, không bảo toàn và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh khỏi.
Với vai trò quan trọng to lớn như vậy nên việc bảo tồn và tăng trưởng vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là: Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào? Làm thế nào doanh nghiệp có thể huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền KTTT
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Mục tiêu chủ yếu của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là tối đa hóa giá trị tài sản chủ sở hữu. Vì vậy, sử dụng vốn một cách có hiệu quả có nghĩa là kinh doanh có hiệu quả, đạt lợi nhuận cao.
Hiệu quả sử dụng vốn được hiểu như sau:
Với một số vốn nhất định, doanh nghiệp phải đạt được lợi nhuận.
- Ngoài khả năng của mình, doanh nghiệp phải năng động tìm nguồn tài trợ để tăng số vốn hiện có nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, gia tăng mức lợi nhuận so với khả năng ban đầu.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn thể hiện ở các chỉ tiêu về hiệu quả theo thu nhập, khả năng thanh toán, chỉ tiêu về sử dụng và phân bổ vốn.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu và tối thiểu hóa chi phí. Tuy nhiên, để sử dụng vốn một cách có hiệu quả không phải doanh nghiệp nào cũng làm được, đặc biệt khi mà ở Việt Nam các doanh nghiệp vẫn còn coi nhẹ vấn đề này. Khi bàn về vấn đề làm thế nào để sử dụng vốn sao cho có hiệu quả rất nhiều doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) cho rằng bây giờ là chưa thích hợp hoặc không mấy quan tâm tới vấn đề này. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt động có lãi nhưng không hề biết doanh nghiệp mình sử dụng vốn có hiệu quả không? Song khi mà nền kinh tế thị trường ngày càng sôi động nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt thì các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới vấn đề này nhiều hơn. Khi đó doanh nghiệp không chỉ quan tâm làm sao có thể sử dụng vốn có hiệu quả mà còn phải tìm cách làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp mình.
Mặt khác, để tiến hành hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố lao động, vốn và công nghệ trong đó vốn đóng vai trò quan trọng nhất và là yếu tố quyết định các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là cơ sở phân chia các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Còn tài sản chính là các hình thái biểu hiện của vốn hay nói cách khác tài sản biểu hiện việc các doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn như thế nào trong hoạt động kinh doanh của mình “bất kỳ một sự gia tăng nào bên tài sản của doanh nghiệp cũng phải được tăng ít nhất một khoản mục bên nguồn vốn”. Do đó quản lý sử dụng vốn và tài sản là nội dung quan trọng không thể tách rời trong quản trị tài chính. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý của sử dụng vốn và tài sản là đảm bảo sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn.
Vì những lý do cơ bản trên có thể thấy việc sử dụng vốn có hiệu quả và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là điều tất yếu phải làm của mỗi doanh nghiệp nhằm ổn định và phát triển doanh nghiệp đồng thời tiết kiêm được những chi phí không cần thiết trong hoạt động.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần phải có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cơ cấu vốn:
Vốn của doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu vào TSCĐ và TSLĐ. Với một lượng vốn nhất định doanh nghiệp muốn thu được kết quả cao thì cần phải có một cơ cấu vốn hợp lý. Vì vậy, ta phải xem xét đến vốn đầu tư vào tài sản ra sao, hợp lý hay chưa hợp lý, ta có:
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tỷ trọng tài sản cố định = --------------------------------------
Tổng tài sản
Tỷ trọng tài sản lưu động = 1 – tỷ trọng tài sản cố định
Công thức trên cho biết một đồng vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào TSCĐ, có bao nhiêu đầu tư vào TSLĐ. Tuỳ theo từng loại hình sản xuất mà tỷ số này ở mức độ cao thấp khác nhau, nhưng bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ cấu vốn làm mất cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ dẫn đến thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó sẽ có ảnh hưởng không tốt tới doanh nghiệp.
- Vòng quay toàn bộ vốn:
Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản ánh một đồng vốn doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại mấy đồng doanh thu.
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn = ----------------------------------
Tổng số vốn
- Kỳ thu tiền bình quân.
Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh ra các khoản phải thu, phải trả là tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị ứng đọng trong khâu thanh toán càng nhiều, có ảnh hưởng không tốt tới doanh nghiệp. Vì vậy, các nhà phân tích tài chính rất quan tâm tới thới gian thu hồi và chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân với mục đích thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = ------------------------------------
Doanh thu bình quân ngày
Các hoản phải thu x 360
Hoặc = -------------------------------
Doanh thu
- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Lợi nhuận sau thuế
+ Mức doanh lợi của vốn cố định = ---------------------------------
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định đem lại mấy đồng lợi nhuận.
Trong đó vốn cố định được tính như sau:
Giá trị còn lại đầu kỳ + giá trị còn lại cuối kỳ
+ VCĐ bình quân trong kỳ = ----------------------------------------------------
2
Vốn cố định bình quân
+ Hàm lượng vốn cố định = ------------------------------------
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần cần có bao nhiêu đồng vốn cố định.
Doanh thu thuần
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định = ---------------------------------
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo được mấy đồng doanh thu thuần.
Công suất thực tế
+ Hệ số sử dụng công suất TSCĐ = ----------------------------------
Công suất thiết kế
Sau khi tính được các chỉ tiêu trên, người ta thường so sánh giữa các năm, các kỳ với nhau để xem sự biến động đó là tốt hay xấu. Người ta cũng có thể so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, cùng lĩnh vực để xét khả năng cạnh tranh, tình trạng quản lý, kinh doanh có hiệu quả hay không, từ đó rút ra những ưu điểm, khuyết điểm và kịp thời đưa ra các biện pháp hợp lý.
- Các chỉ tiêu đánh giá sử dụng vốn lưu động
Lợi nhuận sau thuế
+ Mức doanh lợi của vốn lưu động = -------------------------------------
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tốt. Trong đó vốn lưu động được tính như sau:
VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng
VLĐ bình quân tháng = -------------------------------------------------
2
Tổng VLĐ sử dụng bình quân 3 tháng
VLĐ bình quân quý = -------------------------------------------------
3
Tổng VLĐ sử dụng bình quân 4 quý
VLĐ bình quân năm = -------------------------------------------------
4
V1/2 + V2 + V3 +…..+Vn/2
= -----------------------------------------------
n – 1
( V1, V2, V3…là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng)
Doanh thu thuần
+ Số vòng quay của vốn lưu động = ---------------------------------
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này đánh giá tốc độ luân chuyển vốn lưu động và cho biết trong một năm vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Nếu số vòng quay càng nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng tăng và ngược lại.
360
+ Thời gian một vòng luân chuyển = -------------------------------------------
Số vòng luân chuyển vốn lưu động
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn càng lớn, đảm bảo nguồn vốn lưu động tránh bị hao hụt, mất mát trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động bình quân
+ Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = ----------------------------------
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động.
Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ TSCĐ và TSLĐ thì khi phân tích cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được các nhà đầu tư, tín dụng đặc biệt quan tâm. Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn, người phân tích thường tính và so sánh các chỉ tiêu sau:
Lợi nhuận
+ Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh = ----------------------
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, phản ánh trình độ sử dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = ------------------------------------
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết một đồng đầu tư vào tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, phản ánh khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp là tốt hay còn yếu kém.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN
1.3.1. Những nhân tố khách quan
+ Môi trường kinh doanh:
Doanh nghiệp là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ qua lại với môi trường xung quanh. Thị trường là nhân tố quan trọng quyết định tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, thị trường vôn quyết định đến việc huy động vốn của doanh nghiệp, thị trường hàng hoá quyết định đến việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó, yếu tố kinh doanh quyết định rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
+ Môi trường tự nhiên:
Là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường. Khoa học càng phát triển thì con người càng nhận thức được rằng họ là một bộ phận không thể tách rời của tự nhiên. Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên thích hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công việc. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt… gây khó khăn rất lớn cho nhiều doanh nghiệp.
+ Môi trường kinh tế:
Là tác động của các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái…. đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn do nền kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền giảm sút dẫn tới sự tăng giá các loại vật tư ._.hàng hóa…Vì vậy, nếu doanh nghiệp không kịp thời điều chỉnh giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp bị mât dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ
+ Môi trường pháp lý:
Là hệ thống các chủ trương, chính sách, hệ thống pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở pháp luật và các biện pháp kinh tế - chính trị, nhà nước tạo môi trường điều hành cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch vĩ mô. Với bất kỳ sự thay đổi nào trong chế độ chính sách hiện hành đều chi phối các mảng hoạt động của doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật về tài chính, về quy chế đầu tư như các quy định về trích khấu hao, về tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản về thuế … đều ảnh hưởng lớn tới hoạt động của doanh nghiệp.
+ Môi trường chính trị, văn hóa:
Tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới khách hàng. Do đó các phong tục tập quán của khách hàng sẽ ảnh hưởng trưc tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong môi trường văn hóa lành mạnh, chính trị ổn định thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được nâng cao.
+ Môi trường khoa học công nghệ:
Là sự tác động của các yếu tố như trình độ tiến bộ của KHKT, CN.
Trong điều kiện hiện nay, chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước rất lớn. Doanh nghiệp muốn kinh doanh có hiệu quả thì cần phải nắm bắt được công nghệ hiện đại vì công nghệ hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp tăng năng suất, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh…
+ Môi trường cạnh tranh:
Cơ chế thị trường là cơ chế có sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Mỗi doanh nghiệp muốn tìm được cho mình một chỗ đứng vững chắc trong đó đòi hỏi ở họ những nhân tố biết mình biết người thì mới có thể thắng trong cạnh tranh. Và một điều quan trọng nữa là bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải đứng vững trong cạnh tranh. Doanh nghiệp phải sản xuất ra mặt hàng mặt hàng phải căn cứ vào nhu cầu hiện tại và tương lai. Sản phẩm để cạnh tranh phải có chất lượng cao, giá thành hạ, mà điều này chỉ có ở những doanh nghiệp nâng cao hàm lượng công nghệ, kỹ thuật của TSCĐ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch đầu tư, cải tạo, đầu tư mới tài sản cố định trước mắt cũng như lâu dài.
+ Nhân tố giá cả:
Đây là nhân tố do doanh nghiệp quyết định nhưng lại phụ thuộc vào mức chung của thị trường. Khi giá cả tăng, các kết quả kinh doanh tăng dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn tăng, đồng thời sự biến động về giá cả sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.3.2. Những nhân tố chủ quan
Ngoài các nhân tố khách quan trên, còn rất nhiều nhân tố chủ quan do chính bản thân doanh nghiệp tạo nên làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Nhân tố này gồm nhiều yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh cả về trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy, việc xem xét, đánh giá và ra quyết định đối với các yếu tố này cực kỳ quan trọng. Thông thường, trên góc độ tổng quát, người ta xem xét những yếu tố sau:
- Ngành nghề kinh doanh:
Nhân tố này tạo ra điểm xuất phát cho doanh nghiệp cũng như định hướng cho nó trong suốt quá trình tồn tại. Với một ngành nghề kinh doanh đã được chọn, chủ doanh nghiệp buộc phải giải quyết những vấn đề đầu tiên về tài chính bao gồm:
+ Cơ cấu vốn hợp lý
+ Chi phí vốn của công ty bao nhiêu là hợp lý để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu công ty.
+ Cơ cấu tài sản được đầu tư như thế nào thì hợp lý, mức độ hiện đại so với đối thủ cạnh tranh đến đâu.
+ Nguồn tài trợ được huy động từ đâu, có bảo đảm lâu dài và an toàn không.
+ Ngoài ra, qua ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp còn có thể tự xác định được mức độ lợi nhuận đạt được, khả năng chiếm lĩnh và phát triển thị trường trong tương lai, sự đổi mới và đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh… để có kế hoạch bố trí nguồn lực cho phù hợp.
- Lao động:
+ Trình độ quản lý của lãnh đạo: Vai trò của người lãnh đạo trong sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu và hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm giảm những chi phí không cần thiết, đồng thời nắm bắt những cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển.
+ Trình độ tay nghề của người lao động: Thể hiện ở khả năng tìm tòi sáng tạo trong công việc, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Cung ứng hàng hóa: là quá trình tổ chức nguồn hàng cho hoạt động bán ra bao gồm hoạt động mua và dự trữ. Để đảm bảo việc kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, mua hàng phải đảm bảo chi phí tối ưu tức là phải hạ thấp giá thành sản phẩm đầu vào. Mục tiêu chất lượng trong mua hàng là phải phù hợp với chi phí bỏ ra và nhu cầu của thị trường vói khả năng thanh toán của khách hàng. Do hoạt động bán hàng phụ thuộc vào tính thời vụ của tiêu dùng và sự biến động của sức mua, đồng thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có những cơ hội xuất hiện một cách bất ngờ nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn có một mặt hàng dự trữ thích hợp để đảm bảo tính liên tục và tránh lãng phí trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Bán hàng hay tiêu thụ sản phẩm: Là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong đó việc xác định giá bán tối ưu hết sức phức tạp, thể hiện rất rõ trình độ và năng lực tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trình độ quản lý và sử dụng nguồn vốn:
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để quản lý các nguồn tài chính là hệ thống kế toán tài chính. Nếu công tác kế toán thực hiện không tôt sẽ dẫn đến mất mát chiếm dụng, sử dụng không đúng mục đích…gây lãng phí tài sản, đồng thời có thể gây các tệ nạn tham ô hối lộ, tiêu cực…là các căn bệnh thường gặp trong cơ chế hiện nay. Hơn nữa việc sử dụng vốn còn được thể hiện thông qua phương án đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư. Việc lựa chọn không phù hợp và đầu tư vốn vào các lĩnh vực không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu vốn, gây ứ đọng, hao hụt mất mát làm cho hiệu quả sử dụng vốn rất thấp.
- Mối quan hệ của doanh nghiệp:
Mối quan hệ này được đặt trên hai phương diện là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp. Điều này rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất, khả năng phân phối sản phẩm, lượng hàng hóa tiêu thụ…là những vấn đề trực tiếp tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mối quan hệ tốt đối với khách hàng và nhà cung cấp thì nó sẽ bảo đảm tương lai lâu dài cho doanh nghiệp bởi đầu vào được đảm bảo đầu đủ và sản phẩm làm ra được tiêu thụ hết. Để được vậy, doanh nghiệp cần phải có kế hoạch cụ thể để duy trì những bạn hàng lâu năm lại vừa tăng cường thêm những bạn hàng mới. Biện pháp mà mỗi doanh nghiệp đề ra không giống nhau mà còn phụ thuộc vào tình hình hiện tại của từng doanh nghiệp. Nhưng chủ yếu là các biện pháp như: đổi mới quy trình thanh toán thuận tiện, mở rộng mạng lưới bán hàng và thu mua nguyên vật liệu, đa dạng hóa sản phẩm…
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có thể có nhiều nguyên nhân khác tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu, xem xét từng nguyên nhân để hạn chế một cách tối đa những hậu quả xấu có thể xảy ra, đảm bảo cho việc tổ chức huy động đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh đồng thời làm cho hiệu quả sử dụng vốn ngày càng tăng.
Chương II
Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội
2.1. Giới thiệu về Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
- Tên công ty: Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại
- Tên giao dịch: ICT – Hanoi joint stock company
- Tên viết tắt: Hanoi - ict.,jsc
- Địa chỉ trụ sở chính: Phòng 113, tầng 1, nhà A6, Tập thể Giảng Võ, Phường Giảng Võ, Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội
- Ngành nghề kinh doanh:
+ Lập, quản lý và thực hiện dự án đầu tư, kinh doanh phát triển nhà;
+ Kinh doanh bất động sản;
+ Dịch vụ môi giới, cho thuê văn phòng, nhà xưởng, kho bãi;
+ Xây dựng công trình: dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị;
+Trang trí nội, ngoại thất;
+ Tư vấn đầu tư xúc tiến thương mại;
+ Kinh doanh khách sạn, du lịch lữ hành;
+ Dịch vụ vui chơi giải trí; …
Công ty CP đầu tư phát triển Xây dựng và dịch vụ thương mại là doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức cổ phần chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp và được thành lập theo quyết định số 0103002365 của Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Hà Nội ban hành ngày 06/06/2000
Khi mới thành lập (tháng 6/2000) do còn nhiều hạn chế về vốn cũng như nguồn nhân lực, ban lãnh đạo công ty đã quyết định chỉ tiến hành hoạt động kinh doanh trong hai lĩnh vực chính: đầu tư xây dựng (cụ thể là lập, quản lý và thực hiện dự án đầu tư, kinh doanh và phát triển nhà, tư vấn thiết kế, xây dựng công trình dân dụng, công trình công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị), và kinh doanh bất động sản. Có thể nói đây là sự lựa chọn ngành nghề kinh doanh rất sáng suốt của ban lãnh đạo công ty đặc biệt là hội đồng quản trị. Bởi vào thời điểm mới thành lập quy mô công ty còn tương đối nhỏ, nguồn nhân lực còn hạn chế, vốn tự có thấp (nguồn vốn chủ yếu đầu tư cho các dự án là nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng), nhưng cùng với sự năng động, sáng tạo cũng như mối quan hệ rộng rãi và uy tín của các thành viên trong hội đồng quản trị đã giúp công ty thực hiện thành công các hoạt động kinh doanh trong hai lĩnh vực đầy khó khăn trên. Nếu như hoạt động kinh doanh bất động sản được thực hiện dựa trên sự năng động, nhạy bén với những thay đổi của thời cuộc nhưng cũng hàm chứa không ít rủi ro. Thì hoạt động đầu tư xây dựng lại có đôi chút khác biệt. Nhưng nhìn chung hoạt động của công ty trong giai đoạn này chủ yếu là thực hiện đầu tư nhằm hưởng chênh lệch từ các dự án. Chẳng hạn, trong hoạt động đầu tư xây dựng công ty sẽ tham dự đấu thầu những công trình xây dựng sau đó sẽ thuê thiết kế, thuê thi công, thuê trang trí nội, ngoại thất… Khi hoàn tất công ty sẽ bán lại để hưởng chênh lệch. Do đó trong giai đoạn này công ty hoạt động với một bộ máy quản lý, và được tổ chức tương đối đơn giản, gọn nhẹ nhưng đem lại hiệu quả rất cao.
Có thể nói năm 2003 đánh dấu một bước ngoặt rất quan trọng đối sự phát triển của công ty. Sau ba năm hoạt động và tự khảng định mình trên thị trường cũng như bước đầu tạo được uy tín nhất định đối với các đối tác làm ăn. Đồng thời cùng với những đòi hỏi của thị trường ban lãnh đạo công ty đã quyết định mở rộng hoạt động kinh doanh sang một số lĩnh vực khác.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều hạn chế khi mới thành lập nhưng với sự sáng tạo, nắm bắt nhanh, kịp thời những thay đổi của thị trường của hội đồng quản trị và các nhân viên của công ty đã không những giúp công ty đứng vững trong cạnh tranh mà còn phát triển mạnh mẽ, từng bước khẳng định mình, tạo được uy tín lớn đối với các đối tác trong hoạt động kinh doanh. Hiện nay, ban lãnh đạo công ty không hề giấu tham vọng của mình là trong vòng 5 năm tới (tới năm 2010) công ty sẽ xâm nhập vào một số lĩnh vực như: Buôn bán, sản xuất hàng công nghệ phẩm, thủ công mỹ nghệ, trang thiết bị, vật liệu xây dựng, và đào tạo dạy nghề kỹ thuật cao.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ kinh doanh của công ty
Công ty CP đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại được thành lập với mục đích chủ yếu là sản xuất kinh doanh các dịch vụ trong ngành xây dựng cơ bản. Bên cạnh đó công ty còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khách sạn, cung cấp các dịch vụ vui chơi, giải trí, dịch vụ ăn uống và giải khát. Cụ thể như sau:
2.1.2.1. Thực hiện đầu tư các công trình xây dựng cơ bản
Trong lĩnh vực này, công ty kinh doanh theo 3 hướng chủ yếu sau:
a) Nhận trách nhiệm trợ giúp khách hàng trong quá trình lập dự án đầu tư xây dựng cơ bản thông qua việc cung cấp các thông tin cần thiết cho công việc lập hồ sơ dự án tiền khả thi, hoặc cung cấp cho khách hàng các phương án có thể lựa chọn, các định hướng, giải pháp giải quyết các phát sinh của dự án đầu tư.
b) Nhận trách nhiệm lập dự án cho khách hàng một cách trọn vẹn theo những yêu cầu của họ. Như vậy, trong hoạt động này công ty nhận sự uỷ thác của khách hàng để đảm nhiệm toàn bộ các hoạt động, trách nhiệm xây dựng dự án xây dựng cơ bản.
c) Nhận trách nhiệm quản lý và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản . Cụ thể là, công ty tham gia đấu thầu các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Sau đó, tiến hành giao dịch ký kết hợp đồng với các tổ chức khảo sát, cung ứng vật tư, thiết bị xây lắp, thuê thiết kế, thuê thi công, … để thực hiện các nhiệm vụ của quá trình thực hiện dự án, đồng thời chịu trách nhiệm giám sát, quản lý toàn bộ quá trình thực hiện dự án cho đến khi dự án đó hoàn thành. Khi công trình xây dựng được hoàn thành công ty sẽ thực hiện bán lại cho khách hàng để hưởng phần chênh lệch.
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản là một lĩnh vực dịch vụ được phát sinh từ một hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi lượng vốn đầu tư nhìn chung rất lớn. Cụ thể là hoạt động xây dựng cơ bản, do đó, khách hàng của công ty trong lĩnh vực này chính là các nhà đầu tư, các chủ đầu tư xây dựng cơ bản, trong số đó chủ yếu là các pháp nhân, các tổ chức quốc tế: Các doanh nghiệp nhà nước, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức hỗ trợ phát triển…
2.1.2.2. Khảo sát, thiết kế công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng
Trong lĩnh vực này, công ty cũng thực hiện kinh doanh theo hai hướng chính như sau:
a. Dịch vụ khảo sát địa chất công trình: Công ty đảm nhận trách nhiệm thăm dò, khảo sát, cung cấp các thông tin cho khách hàng về đặc điểm, tính chất cơ lý của đất đai nơi sẽ là địa điểm thi công các công trình khách hàng yêu cầu. Các khách hàng của công ty trong lĩnh vực này có thể là là các chủ đầu tư cần thông tin này cho dự án, cũng có thể là các đơn vị thiết kế thi công cần các thông tin này cho các hoạt động của họ.
b. Thiết kế công trìnhxây dựng công nghiệp và dân dụng: nhiệm vụ chủ yếu của công ty trong lĩnh vực này là đảm nhận công việc tính toán thiết kế các công trình xây dựng theo mong muốn của khách hàng đồng thời phải đảm bảo về kỹ thuật, mỹ thuật.
Công ty sẽ phải cung cấp cho khách hàng của mình các bản vẽ kiến trúc công trình, các bản vẽ kết cấu và các tính toán chi tiết về khối lượng nguyên vật liệu, dự toán chi phí xây dựng...
2.1.2..3. Giám sát, quản lý công trình xây dựng cơ bản
Trong lĩnh vực hoạt động này, Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế xây dựng nhận trách nhiệm giám sát và quản lý các công việc, các hoạt động trong quá trình thực hiện thi công các công trình xây dựng cơ bản. Công ty thay mặt cho khách hàng của mình kiểm tra và yêu cầu đơn vị thi công thực hiện theo đúng như thiết kế đúng tiến độ đã đề ra trong hợp đồng.
2.1.2.4. Trang bị nội ngoại thất
Trong lĩnh vực hoạt động này, công ty nhận đảm trách phần công việc cuối cùng của hoạt động xây dựng là hoàn thiện và trang trí nội ngoại thất cho các công trình.
2.1.2..5. Kinh doanh bất động sản
Đây là một trong những hoạt động chủ đạo của công ty. Hàng năm, hoạt động này đem lại mức doanh thu rất lớn cho công ty. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh bất động sản có mức rủi ro rất lớn nên hiện nay công ty rất thân trọng trước các quyết định đầu tư bất động sản.
2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức kinh doanh của công ty
2.1.3.1. Đứng đầu là Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông (bao gồm 5 thành viên) là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Đại hội đồng cổ đông có vai trò quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên của Hội đồng quản trị; thông qua các báo cáo tài chính hàng năm; quýêt định tổ chức lại và giải thể công ty…
2.1.3.2. Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị được Đại hội đồng cổ đông bầu ra - Đây là cơ quan quản lý công ty, là người chịu trách nhiệm trực tiếp về quản lý, tổ chức và điều hành bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề có liên quan đến mục đích và quyền lợi của công ty. Hội đồng quản trị là cơ quan đưa ra các quyết định cuối cùng và đại diện cho mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ của công ty trước pháp luật và các cơ quan hữu trách.
- Chủ tịch hội đồng quản trị: có trách nhiệm lập chương trình kế hoạch hoạt động cho hội đồng quản trị, là người đại diện theo pháp luật của công ty.
- Giám đốc công ty: là người hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
- Phó giám đốc kỹ thuật: có trách nhiệm giúp việc cho giám đốc quản lý các công việc liên quan đến kỹ thuật thi công công trình.
- Phó giám đốc kinh doanh: giúp giám đốc trong việc tạo việc làm và chỉ đạo kinh doanh.
- Phó giám đốc hành chính : giúp giám đốc quản lý hành chính tổ chức quản lý lao động toàn công ty.
- Kế toán trưởng: có nhiệm vụ quản lý các hoạt động tài chính như: tạo vốn, xây dựng quỹ trong công ty, quản lý quá trình hạch toán kinh doanh và nghiên cứu, áp dụng các chính sách tài chính của nhà nước.
2.1.3.3. Các phòng ban chức năng
a. Phòng kế hoạch đầu tư:
- Giúp việc cho ban giám đốc chuẩn bị hồ sơ ban đầu đảm bảo tính pháp lý cho các công trình xây dựng cơ bản.
- Cung cấp số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị trực thuộc, đồng thời xây dựng các chỉ tiêu, các định mức kế hoạch cho các kỳ sản xuất kinh doanh trong tương lai.
- Lập luận chứng kinh tế kỹ thuật cho các hoạt động đầu tư phát triển của cty.
b. Phòng kế toán:
- Tổ chức ghi chép sổ sách, chứng từ hoá đơn kế toán và thực hiện quá trình hạch toán sản xuất kinh doanh theo đúng chế độ chính sách của nhà nước, xác định kết quả sản xuất kinh doanh của công ty để báo cáo trước ban giám đốc.
- Tạo vốn và đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chỉ đạo hướng dẫn công tác kế toán ở các đơn vị trực thuộc.
c. Phòng tổ chức hành chính:
- Thực hiện các công việc hành chính quản trị: tổ chức các cuộc họp, hội nghị, nghiệp vụ văn thư lưu trữ.
- Quản lý nhân sự và lao động trong toàn công ty: xây dựng kế hoạch về lương bổng, chế độ phúc lợi trong toàn công ty
- Tuyển dụng và phân bổ nhân sự
- Quản lý xây dựng cơ bản các công trình đầu tư tăng tài sản cố định cho văn phòng công ty.
d. Phòng quản lý kỹ thuật và thẩm định dự án:
- Sắp xếp, điều phối các hoạt động của máy móc thiết bị toàn công ty.
- Xây dựng các chỉ tiêu, định mức kỹ thuật cho các đơn vị trực thuộc thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch bảo dưỡng, tu sửa, bổ sung và thay thế các máy móc thiết bị.
- Kiểm tra, giám sát về mặt kỹ thuật các hoạt động của các đơn vị trực thuộc công ty.
- Thẩm định dự án, bảo đảm tính khả thi cho các dự án về mặt kỹ thuật theo tiêu chuẩn của ngành, của nhà nước.
- Thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo những lĩnh vực, những kế hoạch cụ thể mà công ty đặt ra cho mỗi đơn vị.
e. Phòng kinh doanh tổng hợp:
- Lập kế hoạch kinh doanh theo tháng, quý, năm cho công ty.
- Phân tích các lựa chọn về tài trợ và đầu tư của công ty.
- Dự tính các hiệu ứng trong tương lai của các quyết định hiện tại.
- Quyết định thực hiện các phương án.
- So sánh kết quả hoạt động với các mục tiêu ban đầu.
Bên cạnh đó, các đơn vị có thể tự tìm kiếm và khai thác các công trình ngoài kế hoạch của công ty để tạo việc làm và thu nhập.
f. Phòng quản lý nhà:
Do đặc thù của công ty là tiến hành đầu tư và kinh doanh nhà, các dịch vụ vui chơi, giải trí cũng như các dịch vụ về ăn uống giải khát trong các công trình xây dựng: như nhà chung cư, nhà tập thể của cán bộ công nhân viên chức… Nên phòng quản lý nhà có trách nhiệm và chức năng rất cụ thể và rõ ràng là thực hiện quản lý các công trình nhà ở khi công ty tiến hành cho thuê hoặc sau khi đã chuyển nhượng cho khách hàng.
g. Các trung tâm và các xí nghiệp.
Song song với các phòng ban là các trung tâm dự án và lập hồ sơ thầu, các xí nghiệp thiết kế, xí nghiệp thi công, xí nghiệp khảo sát đo đạc và kiểm định chất lượng xây dựng. Mỗi khi thực hiện hoạt động đầu tư cũng như xây dựng các công trình, các xí nghiệp trên hoạt động như một công ty nhỏ tương đối biệt lập với các phòng ban. Cụ thể như sau:
* Trung tâm dự án và lập hồ sơ thầu. Có nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn đầu tư và xây dựng các hồ sơ tham gia dự thầu của công ty.
* Xí nghiệp thiết kế: Sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thiết kế công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng, giám sát các công trình thi công xây dựng cơ bản.
* Xí nghiệp khảo sát đo đạc và kiểm định chất lượng xây dựng: Tư vấn về điạ chất công trình và thực hiện các dịch vụ kiểm định đo lường chất lượng công trình.
* Xí nghiệp thi công thực nghiệm và thi công nội ngoại thất: Thực hiện thi công, xây lắp và thiết kế, trang trí, lắp đặt nội ngoại thất các công trình xây dựng cơ bản.
Như vậy, có thể nói kể từ khi thành lập cho đến nay ban lãnh đạo công ty không ngừng đổi mới phương thức kinh doanh nhằm thích ứng nhanh với thị trường. Với quy mô như hiện nay không hẳn là quá lớn nhưng cũng không phải là nhỏ so với tuổi đời non trẻ của công ty. Sự năng động đã không những giúp công ty đứng vững mà còn đang dần khẳng định mình trên thị trường. Nếu như trước đây có những thời kỳ khó khăn chồng chất khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua thì nay công ty có thể tự tin đi tiếp chặng đường mà công ty đã lựa chọn và có tham vọng đạt được.
Để có được một cách nhìn tổng thể về những họat động kinh doanh của công ty CP đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội. Có thể tóm tắt cơ cấu tổ chức cũng như bộ máy quản lý của công ty CP đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại bằng sơ đồ dạng cây như sau:
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty
Phòng kế hoạch đầu tư
Giám đốc
Phó giám đốc
Kế toán trưởng
Phòng kinh doanh tổng hợp
Phòng quản lý nhà
Hội đồng quản trị
Phòng kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng quản lý kỹ thuật và lập dự án
Trung tâm dự án và lập hồ sơ mời thầu
Xí nghiệp thiết kế
Xí nghiệp khảo sát đo đạc và kiểm định
chấtlượng
Xí nghiệp thi công, trang trí nội ngoại thất
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội
2.2.1. Khái quát về hoạt động KD của công ty trong thời gian qua
Kể từ khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội nói riêng được quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, tự tìm kiếm thị trường, có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước. Nhờ sự năng động sáng tạo, thích ứng với cơ chế mới, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nói chung công ty làm ăn tương đối có hiệu quả.
Công ty đã mạnh dạn đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, hoàn chỉnh các giai đoạn mở rộng sản xuất sang một số lĩnh vực khác. Bên cạnh đó, công ty đã nhanh chóng cơ cấu, xắp xếp lại các phòng ban, đẩy mạnh nghiên cứu thị trường; sử dụng nhiều biện pháp quản lý, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên của công ty… Với sự giúp đỡ của các ban ngành và sự năng động sáng tạo trong kinh doanh nên hoạt động đầu tư kinh doanh của công ty tương đối hiệu quả, biểu hiện qua các chỉ tiêu sau:
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cp đầu tư phát triển xây dựngvà dịch vụ thương mại Hà Nội
Doanh thu
(triệu đồng)
Nộp ngân sách (triệu đồng)
Lợi nhuận
(triệu đồng)
TN bình quân
(tr.đ/người/tháng)
2002
8700
435
839
0,930
2003
13100
655
2360
1,209
2004
18383
920
2016
1,551
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội năm 2002, 2003, 2004.
Như vậy, bảng trên cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công tương đối ổn định. Doanh thu tăng đều đặn qua các năm, thu nhập bình quân đầu người cũng ngày một tăng, có đủ việc làm, đảm bảo đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên của công ty.
Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội đạt được những kết quả trên, bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do công ty có đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân viên lành nghề, cũng phải kể đến những điều kiện khác đã giúp Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường:
+ Về sự thuận lợi của thị trường: Ngày nay với quá trình CNH-HĐH mạnh mẽ kéo theo đó là quá trình đô thị hoá nhanh chóng. Nhờ nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, cũng như sự phát triển thuận lợi của thị thời cuộc và thị trường xây dựng là những nhân tố không nhỏ tạo nên kết quả đáng khích lệ trên.
+ Về đặc điểm sản phẩm: sản phẩm chủ yếu của công ty là các công trình xây dựng (những khu nhà trung cư; những khu thể dục thể thao; hay những ngôi trường…) đã và đang đáp ứng được nhu cầu thị trường, phù hợp với người thị hiếu của người tiêu dùng cả về chất lượng lẫn giá cả nên sản phẩm của công ty dễ được thị trường chấp nhận.
Có thể thấy rằng lợi nhuận trong 3 năm gần đây của công ty có những biến động thất rất ổn định. Cụ thể lợi nhuận sau thuế năm 2003 của công ty bằng 162% so với năm 2002, lợi nhuận sau thuế của năm 2004 bằng 148% so với năm 2003.
Ta có thể tính chỉ tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm:
839
- Năm 2002: = 9,64%
8700
2360
- Năm 2003: = 18.02%
13100
2016
- Năm 2004: = 10,96%
18383
Tình hình tài chính của công ty được thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu về tài chính sau đây:
Tình hình tài chính của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Khả năng thanh toán hiện hành
(Tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn)
0,88
1,05
1,57
Hệ số nợ (nợ/tổng tài sản)
0,54
0,68
0,46
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội 2002, 2003, 2004
Nhìn vào bảng ta thấy:
- Hệ số nợ của công ty có những biến động bất thường. Có thể nói hệ số nợ năm 2002, 2003 là tương đối cao so với tỷ số trung bình của ngành. Tuy nhiên, năm 2004 do tốc độ tăng của các khoản nợ ngắn hạn nhỏ hơn tài sản nên tỷ số nợ năm 2004 giảm xuống chỉ còn 0,46 thấp hơn tỷ số trung bình ngành . Điều này đảm bảo hơn cho công ty tránh rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, đảm bảo lòng tin cho các chủ nợ nhưng sẽ lại là bất lợi cho chủ doanh nghiệp nếu đồng vốn được sử dụng có khả năng sinh lời cao.
- Khả năng thanh toán hiện hành tại thời điểm năm 2004 tăng mạnh so với năm 2002 và 2003. Điều này cho phép chúng ta nhận định khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty là khả quan.
Nói chung tìnhh hình tài chính của công ty tương đối ổn định.
2.2.2 Nguồn vốn hình thành và cơ cấu vốn của công ty
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng tự đổi mới để thích ứng với tình hình mới. Các doanh nghiệp hoàn toàn độc lập tự chủ trong huy động và sử dụng vốn, có khả năng sử dụng các đòn bẩy tài chính để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong những năm gần đây, nguồn vốn của công ty không ngừng được tăng lên, chủ yếu dựa vào hiệu quả của hoạt động kinh doanh và phát hành cổ phần.
Nguồn vốn của công ty trong vài năm gần đây như sau:
Bảng Nguồn vốn của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Ghi chú
1. Tổng vốn kinh doanh
5.111,525
11.178,63
21.499,51
Vốn cố định tăng lên là do mua sắm thêm và do đánh giá lại tài sản.
1.1. Vốn cố định
2.101,445
3.500,241
7.293,531
1.2. Vốn lưu động
3.010,080
7.678,499
14.205,987
2. Nguồn hình thành
2.1. Chào bán cổ phần
1.650,000
2.792,188
5.250,210
2.2. DN tự bổ sung
330,900
504,874
1.779,275
2.3. Vay từ các nguồn khác
3.130,625
7.881,578
14.470,025
Nguồn: Báo báo tài chính của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội năm 2002, 2003, 2004.
Để đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng vốn cần phân tích cơ cấu tài sản của công ty, từ đó rút ra tỷ trọng đầu tư của từng bộ phận để có biện pháp hợp lý trong việc nâng cao hiêu quả sử dụng vốn của công ty.
Bảng phân tích cơ cấu tài sản
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
A.TSLĐ và ĐTNH
I. Tiền mặt
II. Các khoản phải thu
III. TSLĐ khác
3.010,080
359,705
1.945,685
704,690
59
7
38
14
7.678,499
315,359
6.039.199
1.323,941
68,7
2,82
54,02
11,86
14.205,987
719,336
7.272,192
6214,459
66
3,34
33,76
28,90
B. TSCĐ và ĐTDH
I. TSCĐ
II. Chi phí XDCB dd
2.101,45
1.955
146,45
41
38
3
3.500,241
2.977,834
522,407
31,3
26,43
4,672
7.293,531
5.826,202
1.467,329
34
27
17
Tổng tài sản
5.111,525
100
11.178,63
100
21.499,51
100
Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2002,2003, 2004 của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng và dịch vụ thương mại Hà Nội.
Qua bảng trên ta thấy
+ Tổng tài sản năm 2004 tăng mạnh so với năm 2002 và 2003, tăng hơn7 tỷ đồng. Ta có thể thấy nguyên nhân chính là do đầu tư tài chính ngắn hạn của năm 2004 tăng rất mạnh. Việc đầu tư ngắn hạn quá nhiều lại tăng nhanh có thể làm cho công ty gặp khó khăn trong việc huy động vốn trong trường hợp cần thiết để mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ TSCĐ đang có chiều hướng ngày càng tăng. Điều này cho thấy công ty đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất mở rộng sản xuất. Ta cũng biết TSCĐ là một yếu tố quan trọng quyết định tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Công ty cần phải tìm ra các giải pháp, tìm nguồn huy động vốn để đầu tư cho TSCĐ.
+ Riêng năm 2004 ta còn thấy có sự thay đổi lớn so với năm 2003 là lượng tiền mặt giảm, tuy nhiên lượng chứng khoán ngắn hạn lại tăng lên đáng kể và các khoản phải thu cũng tăng lên đáng kể. Đây là điều thuận lợi cho công ty trong việc đáp ứng ngay nguồn vốn cho sản xuất. Nhưng lại có ảnh hưởng tới khả năng thanh toán tức thời của công ty. Sự biến động của các nhân tố này ảnh hưởn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7845.doc