Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình: ... Ebook Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Xây dựng, nhất là các cán bộ, giảng viên Khoa Kinh tế Xây dựng, Khoa Đào tạo Sau Đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là Thầy giáo - GS.TS Nguyễn Đăng Hạc, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tận tình tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu để hoàn thành đề tài này.
Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn UBND thành phố Đồng Hới, Ban quản lý dự án ĐT&XD thành phố Đồng Hới, các đồng nghiệp, các ban, ngành đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tác giả trong việc thu thập thông tin, tài liệu trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã chia sẽ cùng tác giả những khó khăn, động viên và tạo mọi điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2009
Hoàng Vũ Diệu Thúy
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
BOT
Xây dựng - Khai thác - Chuyển giao
2
BQL
Ban quản lý
3
BT
Xây dựng - Chuyển giao
4
BTO
Xây dựng - Chuyển giao - Khai thác
5
CBĐT
Chuẩn bị đầu tư
6
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
7
DAĐT
Dự án đầu tư
8
ĐTXD
Đầu tư xây dựng
9
GPMB
Giải phóng mặt bằng
10
HĐND
Hội đồng nhân dân
11
HTKT
Hạ tầng kỹ thuật
12
KT - XH
Kinh tế xã hội
13
NSNN
Ngân sách Nhà nước
14
SPXD
Sản phẩm xây dựng
15
TKKT - DT
Thiết kế kỹ thuật - Dự toán
16
TKQH
Thiết kế quy hoạch
17
TMĐT
Tổng mức đầu tư
18
TSCĐ
Tài sản cố định
19
UBMTTQVN
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
20
UBND
Uỷ ban nhân dân
21
VĐT
Vốn đầu tư
22
XDDD
Xây dựng dân dụng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Dân số thành phố Đồng Hới giai đoạn 2006 - 2008
44
Bảng 2.2
Tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế thành phố Đồng Hới
48
Bảng 2.3
Tình hình thu chi ngân sách thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
53
Bảng 2.4
Nguồn vốn đầu tư phát triển thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
55
Bảng 2.5
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008 phân theo cấp quản lý và nguồn vốn
56
Bảng 2.6
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển do thành phố Đồng Hới quản lý giai đoạn 2004 - 2008 phân theo các ngành
57
Bảng 2.7
Hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho ĐTXD do thành phố Đồng Hới quản lý giai đoạn 2004 - 2008
57
Bảng 2.8
Hệ số thực hiện vốn đầu tư từ nguồn NSNN cho ĐTXD do thành phố Đồng Hới quản lý giai đoạn 2004 - 2008
59
Bảng 2.9
Quy mô các dự án ĐTXD sử dụng vốn NSNN thực hiện trên địa bàn thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
60
Bảng 2.10
Các dự án ĐTXD sử dụng vốn NSNN ở thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008 phải điều chỉnh tổng mức đầu tư
61
Bảng 2.11
Chi phí bồi thường GPMB một số dự án ĐTXD sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
62
Bảng 2.12
Tình hình quyết toán các công trình ĐTXD trên địa bàn thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
63
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Số sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
Sơ đồ 1.1
Các giai đoạn của dự án đầu tư
18
Sơ đồ 1.2
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
30
Sơ đồ 2.1
Mô hình tổ chức quản lý dự án ĐTXD sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới
52
Biểu đồ 2.1
Cơ cấu kinh tế thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
48
Biểu đồ 2.2
Tỷ trọng vốn ĐTXD thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
50
Biểu đồ 2.3
Tình hình thu ngân sách thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
54
Biểu đồ 2.4
Tình hình chi ngân sách thành phố Đồng Hới giai đoạn 2004 - 2008
54
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI NGHIÊN CỨU:
Bước vào thế kỷ XXI, bộ mặt nước ta có nhiều thay đổi to lớn, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO) vào ngày 07/11/2006, những cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam là rất lớn. Có nhiều yếu tố tác động tới sự thay đổi của đất nước ta, nhưng có thể nói vốn đầu tư xây dựng là yếu tố có vai trò hết sức quan trọng. Nhờ có vốn đầu tư mới xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển và tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút đầu tư…
Thành phố Đồng Hới là một thành phố mới được thành lập từ tháng 8 năm 2004. Để phát triển thành phố theo hướng hiện đại, công việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những vấn đề then chốt nhất. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước, đặc biệt được sự hỗ trợ của nguồn vốn NSNN, các tổ chức quốc tế và nguồn huy động từ nội bộ của tỉnh Quảng Bình, công tác đầu tư xây dựng ở thành phố Đồng Hới thời gian qua đã có nhiều khởi sắc, góp phần làm cho diện mạo của thành phố ngày một đổi mới. Đường lối phát triển theo Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Đồng Hới khoá XVIII nhiệm kỳ 2005 - 2010: “…Phấn đấu đến năm 2010, Đồng Hới đạt được một số tiêu chí cơ bản của đô thị loại II, tạo tiền đề để đến nhiệm kỳ 2010 - 2015 lên đô thị loại II. Xây dựng phát triển thành phố giàu đẹp, văn minh, hiện đại xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Quảng Bình” [15].
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ thành phố, hiện nay kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị từng bước hiện đại hoá và hệ thống "điện, đường, trường, trạm" ngày càng được đồng bộ hoá đã tạo tiền đề cho kinh tế - xã hội thành phố không ngừng tăng trưởng, hoà nhập chung vào sự phát triển của tỉnh và cả nước. Bên cạnh những kết quả đạt được của việc sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng, còn có những tồn tại và hạn chế như: đầu tư manh mún, dàn trải...dẫn đến kém hiệu quả và làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước.
Đồng Hới là một thành phố với xuất phát điểm thấp, việc huy động nguồn vốn đầu tư từ nội bộ của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ của ngân sách Trung ương và khai thác quỹ đất, nên việc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung và đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng càng mang tính cấp thiết.
Trong những năm vừa qua, vốn đầu tư xây dựng từ NSNN của thành phố Đồng Hới đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tuy nhiên bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho vốn đầu tư xây dựng từ NSNN chưa phát huy hiệu quả cao. Từ những cơ sở trên, yêu cầu đặt ra là phải sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xây dựng từ NSNN. Đây là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn, không thể giải quyết triệt để cùng một lúc.
Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và hoàn thiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN cho đầu tư xây dựng, Tác giả đã chọn đề tài luận văn cao học là: "Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hoá lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng thuộc NSNN;
- Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thuộc NSNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2004 - 2008.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu định tính và định lượng, các phương pháp điều tra thu thập số liệu, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp vấn đề.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về đầu tư xây dựng và hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho ĐTXD
Chương II: Thực trạng sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới - Tỉnh Quảng Bình
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng ở thành phố Đồng Hới - Tỉnh Quảng Bình.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NSNN CHO ĐTXD
1.1. Khái niệm về đầu tư xây dựng
1.1.1. Khái niệm chung về đầu tư:
Trong cuộc sống, đầu tư là một hoạt động rất phong phú, đa dạng, do đó cũng có khá nhiều cách hiểu về khái niệm này.
Xét theo nghĩa gốc, “đầu tư” là chỉ sự chi phí, hy sinh các nguồn lực ở hiện tại (thời gian, sức lực, tiền bạc...) vào hoạt động nào đó của con người nhằm thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Người Pháp có sự phân biệt rõ ràng giữa 2 khái niệm “Đầu tư” (investissement) và “dùng tiền sinh lãi” (Placement). Placement tức là dùng tiền để mua thứ gì đó cho thuê chẳng hạn, vậy nó sinh lời cho người đó nhưng thực ra tổng đầu tư xã hội không tăng. Còn investissement là xây nhà máy, xây dựng cơ sở vật chất, trồng cây nông lâm nghiệp..., hoạt động này làm tăng tổng đầu tư xã hội.
Người Mỹ lại không phân biệt những khái niệm này. Họ gọi chung đầu tư và dùng tiền sinh lãi là “investment”.
Theo Luật Đầu tư năm 2005, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật [24].
Để phân biệt một hoạt động có phải là đầu tư hay không, ta có thể dựa vào 2 đặc trưng sau của đầu tư:
- Tính sinh lãi: mục đích của việc đầu tư là sinh lãi. Chẳng hạn nếu như ta bỏ tiền ra chỉ để mua một thứ hàng hóa cho tiêu dùng thì không gọi là đầu tư vì nó không vì mục đích sinh lãi.
- Tính rủi ro: Mục đích của đầu tư là sinh lãi, nhưng không phải hoạt động đầu tư nào trên thực tế cũng có lãi, mà có khi bị lỗ. Đó là do thuộc tính thứ hai này của đầu tư. Rủi ro cao hay thấp tuỳ thuộc vào loại hình đầu tư, nhưng đầu tư thì luôn đi liền với rủi ro.
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách vốn tự có, liên doanh, hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hoá, mở rộng doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận hay phát triển phúc lợi công cộng.
Thông thường, đầu tư là bỏ vốn để tạo ra một tài sản đem lại lợi nhuận, là bỏ vốn vào những giá trị bất động sản. Nguồn vốn đầu tư lấy từ trong lợi nhuận của các đơn vị sản xuất, từ vốn vay ngân hàng hay từ cấp phát ngân sách, nói chung là từ quỹ tích luỹ của tái sản xuất xã hội, không thuộc quỹ tiêu dùng. Trong cải cách kinh tế, tăng vốn đầu tư từ mọi nguồn như ngân sách nhà nước, tích luỹ của các đơn vị kinh tế, tích luỹ của các tầng lớp dân cư, tiết kiệm tiêu dùng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức...đi đôi với đổi mới việc sử dụng vốn như điều chỉnh cơ cấu đầu tư và cơ chế đầu tư nhằm đạt hiệu quả KT - XH cao, tạo ra nhịp độ phát triển nhanh, mạnh, vững chắc là những vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Đầu tư chiều sâu bằng cách đổi mới thiết bị, công nghệ, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đổi mới và mở rộng mặt hàng...có ý nghĩa kinh tế rất quan trọng, đặc biệt trong thời đại ngày nay.
1.1.2. Khái niệm về hoạt động đầu tư và đầu tư xây dựng
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì những tiềm lực sẵn có hoặc tạo thêm tiềm lực mới để mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, dịch vụ, phục vụ KT - XH, là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động đầu tư cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính vốn đầu tư ở tầm quản lý vĩ mô và vi mô.
Đối với quản lý vĩ mô cần chú trọng việc xác định quyền hạn, trách nhiệm các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc xác định chủ trương đầu tư, mục tiêu đầu tư, ra các quyết định liên quan đến đầu tư.
Đối với quản lý vi mô cần phải đề ra các biện pháp cụ thể trong công tác quản lý ở từng khâu, thực hiện mục tiêu cụ thể đối với từng cấp quản lý (theo sự phân công).
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư, nhưng xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, có thể phân chia ra thành:
- Đầu tư tài chính: là các hoạt động đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh khác, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích mở rộng cơ hội thu lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro trong kinh doanh như bỏ tiền ra cho vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). Nói cách khác, đây là hình thức doanh nghiệp tận dụng mọi tài sản, nguồn vốn nhàn rỗi hoặc sử dụng kém hiệu quả và các cơ hội kinh doanh trên thị trường để tham gia vào các quá trình kinh doanh, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa trong kinh doanh.
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực: là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động xã hội khác.
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.
- Đầu tư xây dựng: là hoạt động bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố định trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc...), trong lĩnh vực không sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay…) bao gồm việc xây dựng các xí nghiệp, công trình mới, khôi phục, cải tạo, mở rộng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn các tài sản cố định). Đầu tư xây dựng (ĐTXD) là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Nguồn vốn đầu tư cơ bản lấy từ quỹ tích luỹ trong thu nhập quốc dân, bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tự có của xí nghiệp, hợp tác xã và tổ chức kinh tế, kết hợp với vốn tín dụng, vốn của tư nhân, vốn hợp tác và vay nước ngoài; trong đó vốn đầu tư của NSNN và vốn vay với chế độ ưu đãi của nước ngoài được tập trung chủ yếu vào những công trình lớn, chậm thu hồi vốn, nhất là những công trình kết cấu hạ tầng. Xét về mặt tổng thể thì không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các tài sản cố định (TSCĐ), nó bao gồm toàn bộ cơ sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả từng thời kỳ.
Xây dựng chỉ là một khâu trong hoạt động ĐTXD. Xây dựng là các hoạt động cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt…). Kết quả của hoạt động xây dựng là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Như vậy, xây dựng là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia.
Tóm lại, ĐTXD là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất, tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội.
1.2. Vai trò, chức năng và đặc điểm của đầu tư xây dựng
1.2.1. Vai trò của đầu tư xây dựng
Đầu tư xây dựng có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân mỗi nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển.
ĐTXD từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng…mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN được triển khai ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt nhất, đảm bảo cho nền KT - XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Đầu tư còn có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra đầu tư còn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
ĐTXD có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, bởi vì nó tạo ra các TSCĐ. ĐTXD là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất, đặc biệt là tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ tăng nhanh khi có ĐTXD, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. ĐTXD nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ĐTXD sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp. ĐTXD sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. ĐTXD góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các địa phương nghèo, vùng sâu và vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo, khai thác các tiềm năng của vùng để vươn lên phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Từ đó, đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng, miền, ngành nghề, khu vực và phân bổ hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
ĐTXD của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng, bởi vì vốn dành cho ĐTXD của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn ĐTXD của toàn xã hội. Mặt khác ĐTXD của Nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống KT - XH. Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng ĐTXD của Nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là ĐTXD từ các nguồn vốn khác.
1.2.2. Chức năng của đầu tư xây dựng
ĐTXD với mục tiêu là làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ, thực hiện một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng thường được chú ý là:
a. Chức năng tạo năng lực mới
Chức năng này tạo ra năng lực mới của ĐTXD. Các năng lực mới do ĐTXD tạo ra có giá trị sử dụng cá thể và thông qua đó các nhu cầu cá thể được thoả mãn. Vì vậy chức năng năng lực tạo ra khả năng đảm bảo duy trì hoặc phát triển sản xuất sản phẩm, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu cuối cùng hoặc khả năng bảo vệ và cải tạo môi trường nhằm hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng năng lực được coi là chức năng đầu tiên của ĐTXD. Các chức năng khác được suy ra hoặc hỗ trợ chức năng này.
b. Chức năng thay thế
Chức năng thay thế của ĐTXD biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp các nhân tố sản xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố này do kết quả của quá trình ĐTXD.
Vai trò, chức năng thay thế của ĐTXD ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, vì bản chất của nó chính là việc sử dụng vật liệu và công nghệ mới, cao cấp hơn thay thế các vật liệu cũ và công nghệ hiện đang dùng và với việc hướng dần nền kinh tế vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay thế có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
c. Chức năng thu nhập và sinh lời
Chức năng thu nhập và sinh lời của ĐTXD được xác định bởi khả năng tạo ra thu nhập và sinh lời do quá trình ĐTXD mang lại. Chức năng thu nhập và sinh lời ở đây chính là sự kết hợp của chức năng năng lực và chức năng thay thế để tạo điều kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc gia. Đặc trưng, kết quả thu nhập là ở chỗ đánh giá công dụng của ĐTXD về phương diện ảnh hưởng của nó, tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền kinh tế. Do đó, chức năng thu nhập và sinh lời của ĐTXD chính là tác động của nó trong việc tạo ra và phân phối thu nhập quốc dân. Nói một cách chính xác hơn là tạo ra và tăng thu nhập của từng chủ thể trong hệ thống kinh tế, mà trước hết là ảnh hưởng đến tăng thu nhập của các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đầu tư, làm ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế.
1.2.3. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng
Đặc trưng của xây dựng, đó là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có những đặc điểm riêng, khác với những ngành sản xuất vật chất khác. Xuất phát từ những đặc thù riêng của ngành xây dựng, dự án đầu tư xây dựng có những đặc điểm riêng khác với sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác:
- Dự án ĐTXD có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, địa chất, thuỷ văn, khí hậu... Dự án ĐTXD là những TSCĐ, có chức năng tạo ra sản phẩm và dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do nhiều cơ quan, đơn vị khác cùng tạo ra.
Dự án ĐTXD không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn mang tính nghệ thuật, phản ánh trình độ kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật của từng giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước.
Quá trình xây dựng bị tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên như tình hình địa chất thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất. Do vậy, để giảm thiểu lãng phí, thất thoát do nguyên nhân khách quan bởi điều kiện tự nhiên, công tác điều tra khảo sát, chuẩn bị đầu tư phải thật kỹ càng, chính xác.
Trong ĐTXD, chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy, chọn công trình để bỏ vốn thích hợp nhằm giảm mức tối đa thiệt hại do công trình xây dựng dở dang là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.
Để thực hiện một dự án ĐTXD phải trải qua nhiều giai đoạn, có rất nhiều đơn vị tham gia thực hiện. Trên một công trường, có thể có hàng chục đơn vị làm các công việc khác nhau, nhưng các đơn vị này cùng hoạt động trên một không gian và thời gian, vì vậy trong tổ chức thi công cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau bằng các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy vậy, hiện nay cách thức giao nhận thầu chưa được cải tiến, giá bán được định trước khi chế tạo sản phẩm, tức là trước khi nhà thầu biết giá thành thực tế của mình, việc ước lượng đúng đắn giá cả và phương tiện thi công rất khó khăn vì phải dựa trên những giả thiết mà rất có thể khi thi công thực tế bị phủ định.
Như vậy, đặc điểm này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa chọn địa điểm, điều tra khảo sát để dự án đầu tư đảm bảo tính khả thi.
- Dự án ĐTXD có quy mô lớn, kết cấu phức tạp.
Dự án ĐTXD với tư cách là công trình xây dựng khi đã hoàn thành đưa vào sử dụng, đưa ra trao đổi mua bán trên thị trường là TSCĐ, không bé nhỏ như các loại sản phẩm trong sản xuất công nghiệp. Kết cấu của sản phẩm phức tạp, một công trình có thể gồm nhiều hạng mục công trình, một hạng mục có thể bao gồm nhiều đơn vị công trình. Với quy mô lớn và phức tạp của dự án ĐTXD dẫn đến chu kỳ sản xuất dài. Từ đặc điểm này đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn. Muốn đáp ứng được điều đó, các quốc gia phải phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực trong nước như: tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong các tầng lớp dân cư, đồng thời phải tìm mọi giải pháp để thu hút các nguồn lực nước ngoài như vốn ODA, FDI, NGO…
Xuất phát từ đặc điểm này, yêu cầu trong công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính phải có kế hoạch, tiến độ thi công, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn thời gian xây dựng nhằm giảm chi phí quản lý, hạ giá thành xây dựng.
- Dự án ĐTXD có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác.
Dự án ĐTXD sản xuất không theo dây chuyền hàng loạt, mà mỗi công trình dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên, địa điểm nơi xây dựng công trình. Thời gian khai thác và sử dụng lâu dài, thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất dự án.
Quá trình ĐTXD gồm 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc đầu tư, đưa dự án vào vận hành khai thác.
Xây dựng dự án và thực hiện dự án là hai giai đoạn có thời gian dài nhưng lại không tạo ra sản phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa đầu tư và tiêu dùng. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Muốn nâng cao hiệu quả vốn ĐTXD cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm, nhằm đưa nhanh các dự án đầu tư vào khai thác sử dụng.
Khi xét hiệu quả vốn ĐTXD cần quan tâm xem xét cả 3 giai đoạn của quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện đầu tư, tức là việc đầu tư vào xây dựng các dự án mà không chú ý thời gian khai thác dự án. Việc coi trọng hiệu quả kinh tế do ĐTXD mang lại là hết sức cần thiết nên phải có phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự xây dựng.
- Dự án ĐTXD mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ thuật và quốc phòng.
Đặc điểm này đòi hỏi người quản lý phải có cách nhìn toàn diện, nếu không có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình thi công.
Ngoài những đặc điểm của dự án ĐTXD nói chung thì dự án ĐTXD từ nguồn vốn NSNN còn có đặc điểm riêng, đó là quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn ĐTXD bị tách rời nhau.
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn ĐTXD của NSNN dễ bị thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không đáp ứng yêu cầu quản lý; Nhà nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính sách ràng buộc trách nhiệm thì thất thoát lãng phí trong ĐTXD thuộc vốn NSNN là không thể tránh khỏi.
1.3. Các giai đoạn của quá trình đầu tư xây dựng
1.3.1. Các giai đoạn của dự án đầu tư:
Dự án đầu tư được hình thành và phát triển với nhiều giai đoạn riêng biệt, nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau, thậm chí đan xen nhau theo một tiến trình lôgic. Mặc dù vậy, có thể nghiên cứu chúng một cách tương đối độc lập và trên các góc độ khác nhau để hiểu chúng một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn.
Một dự án đầu tư từ khi hình thành ý đồ bỏ vốn đầu tư đến khi công trình được nghiệm thu đưa vào hoạt động trải qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị đầu tư
- Giai đoạn thực hiện đầu tư
- Giai đoạn kết thúc, đưa dự án vào vận hành khai thác.
Ba giai đoạn đó tạo nên vòng đời của dự án, còn gọi là chu kỳ hoạt động của dự án theo sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Các giai đoạn của dự án đầu tư
Giai ®o¹n I:
ChuÈn bÞ ®Çu t
Nghiªn cøu c¬
héi ®Çu t
Nghiªn cøu dù
¸n tiÒn kh¶ thi
ThÈm ®Þnh dù ¸n vµ
quyÕt ®Þnh ®Çu t
Giai ®o¹n II:
Thùc hiÖn ®Çu t
Thi c«ng x©y dùng,
l¾p ®Æt thiÕt bÞ,
®µo t¹o, CGCN
§Êu thÇu, thu¬ng
lîng, ký kÕt H§:
XD, l¾p ®Æt TB
Kh¶o s¸t, thiÕt
kÕ, lËp dù to¸n
Ch¹y thö,
nghiÖm thu,
quyÕt to¸n
Giai ®o¹n III: KÕt thóc, ®a dù ¸n
vµo vËn hµnh, khai th¸c
Nghiªn cøu dù
¸n kh¶ thi
Trong mỗi giai đoạn cần thực hiện những công việc cụ thể, diễn ra theo trình tự các bước nhất định. Khi bước trước đã thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện bước tiếp theo phải kiểm tra và đánh giá đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của bước đó, nếu đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn, quy phạm (nếu có) cho bước đó và được cấp có thẩm quyền chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo.
Cụ thể như sau:
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư:
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư còn gọi là giai đoạn tiền đầu tư.
Đây là giai đoạn điều tra, khảo sát các vấn đề kinh tế, xã hội để lập dự án. Công việc thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm:
+ Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
+ Tiến hành thăm dò, xem xét thị trường để xác định nhu cầu tiêu thụ; tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
+ Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
+ Lập dự án đầu tư.
+ Gửi hồ sơ dự án và văn bản đến cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư để thẩm định, phân tích, đánh giá mức độ khả thi của dự án về mặt kỹ thuật và công nghệ, xây dựng và môi trường, kinh tế và tài chính xem dự án có khả thi không, có được đầu tư hay không.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư:
Thực hiện dự án là giai đoạn biến các dự định đầu tư thành hiện thực nhằm đưa dự án vào hoạt động trong thực tế của đời sống kinh tế xã hội. Công việc ở giai đoạn thực hiện dự án bao gồm các công việc sau được thực hiện kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi đưa dự án vào vận hành khai thác:
+ Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước, mặt biển và thềm lục địa.
+ Chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
+ Tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế giám định kỹ thuật và chất lượng công trình.
+ Phê duyệt, thẩm định thiết kế, dự toán công trình, hạng mục công trình.
+ Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có).
+ Tổ chức đấu thầu thi công xây lắp, thiết bị.
+ Ký kết hợp đồng kinh tế với nhà thầu đã trúng thầu.
+ Thi công xây lắp công trình.
+ Kiểm tra giám sát thực hiện các hợp đồng.
+ Nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.
* Giai đoạn kết thúc, đưa dự án vào vận hành, khai thác:
Giai đoạn này được xác định từ khi dự án hoàn thành, được nghiệm thu quyết toán chính thức đưa dự án vào vận hành, khai thác cho đến khi kết thúc tuổi đời hoạt động của dự án. Đây là giai đoạn thực hiện các hoạt động theo chức năng của dự án đã được xác định trong mục tiêu đặt ra để xây dựng dự án.
1.3.2. Phân loại dự án đầu tư:
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và thời hạn. Do vậy, tuỳ ._.theo mục đích nghiên cứu và quản lý mà người ta có thể phân loại dự án đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Các dự án đầu tư xây dựng công trình (sau đây gọi chung là dự án) được phân loại như sau:
a. Theo quy mô và tính chất:
Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C theo quy định tại Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
b. Theo nguồn vốn đầu tư:
- Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp nhiều nguồn vốn.
1.4. Khái niệm vốn NSNN và hiệu quả dự án đầu tư
1.4.1. Khái niệm vốn NSNN
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư.
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến hành được đều phải có vốn đầu tư. Vốn đầu tư trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả các dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, vốn đầu tư (VĐT) xây dựng bao gồm: chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi phí xây dựng công trình, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được sử dụng cho hoạt động ĐTXD được gọi là VĐT xây dựng từ NSNN.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm [25].
Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, VĐT xây dựng từ NSNN được hình thành từ các nguồn sau:
+ Vốn trong nước của các cấp ngân sách nhà nước (vốn của NSNN cân đối cho đầu tư xây dựng của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…).
+ Nguồn vốn vay nợ nước ngoài của Chính phủ cho ĐTXD và vốn viện trợ của nước ngoài cho Chính phủ, các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước.
Vốn NSNN phân làm hai cấp quản lý đó là vốn thuộc ngân sách Trung ương và vốn thuộc ngân sách địa phương.
+ VĐT xây dựng của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia. Nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT xây dựng của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu ngân sách địa phương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương đó. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) quản lý thực hiện.
Nguồn VĐT xây dựng của NSNN phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung cho nền KT - XH mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát không hoàn lại này từ NSNN có tính chất bao cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong nguồn vốn NSNN thì phải loại nguồn vốn không được đưa vào kế hoạch và cấp phát theo kế hoạch của Nhà nước (vốn để lại tại đơn vị), khả năng quản lý, kiểm soát của Nhà nước gặp khó khăn hơn. Vốn ngoài nước thường phụ thuộc vào điều kiện nhà tài trợ đặt ra, cũng làm cho việc quản lý bị chi phối. Đối với viện trợ không hoàn lại thường do phía nước ngoài điều hành nên giá thành cao.
VĐT của NSNN dùng để đầu tư cho các dự án đầu tư thuộc các đối tượng sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT - XH, quốc phòng - an ninh không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát triển như các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, đào tạo, y tế, trồng rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn…
+ Các dự án thuộc diện nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng khoa học, công nghệ mới…
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo Quy định của pháp luật.
+ Các dự án về quy hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quy hoạch phát triển ngành; Quy hoạch phát triển vùng; Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn…
+ Các dự án được bố trí bằng vốn chi sự nghiệp trong dự toán NSNN để sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có, có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên, nhằm phục hồi hoặc tăng giá trị TSCĐ (bao gồm cả việc xây dựng mới các hạng mục công trình trong các cơ sở đã có của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp).
+ Các dự án đầu tư khác theo quyết định của Chính phủ.
1.4.2. Khái niệm về hiệu quả của dự án đầu tư
Do nguồn lực khan hiếm, có hạn nên nhu cầu đầu tư luôn luôn cao hơn khả năng đầu tư của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi VĐT phải được sử dụng có hiệu quả trong một thời gian nhất định với một khối lượng VĐT có hạn, nhưng lại có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thoả mãn tối đa nhu cầu xã hội. Việc đầu tư vào các dự án như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất là vấn đề quan trọng.
Như vậy, hiệu quả của dự án đầu tư (DAĐT) là toàn bộ mục tiêu đề ra của dự án, được đặc trưng bằng các chỉ tiêu định tính (thể hiện ở các loại hiệu quả đạt được) và bằng các chỉ tiêu định lượng (thể hiện quan hệ giữa chi phí đã bỏ ra của dự án và các kết quả đạt được theo mục tiêu của dự án) [9].
Lợi ích kinh tế của DAĐT thể hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế của quá trình ĐTXD nhằm thoả mãn chủ yếu các nhu cầu vật chất của xã hội. Do đó, lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi cán cân thương mại, ở mức độ lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất…
Ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên DAĐT còn thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh quốc phòng, văn hoá xã hội…Theo đó, lợi ích xã hội của DAĐT còn bao gồm những sự thay đổi về điều kiện sống, điều kiện lao động, về môi trường, về hưởng thụ văn hoá, phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng…
Dựa vào quá trình quản lý ĐTXD, ta thấy rằng từ khi có VĐT, tiến hành thực hiện đầu tư sẽ tạo một khối lượng TSCĐ. Khi các TSCĐ này được sử dụng (giai đoạn khai thác dự án) sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhất định. Lợi ích của VĐT cho các dự án chỉ xuất hiện khi mà sản phẩm hàng hoá dịch vụ được sử dụng, thoả mãn nhu cầu theo mục tiêu đã định.
Để hoạt động đầu tư có hiệu quả, cần có chiến lược đầu tư dài hạn đúng quy hoạch (quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch KT -XH…) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, KT - XH… của đất nước. Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục tiêu chiến lược, từ đó bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo vùng, đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả của dự án phụ thuộc vào việc xác định quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ trung ương đến địa phương trong việc ra quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư như việc huy động vốn đầu tư, thẩm định và ra quyết định đầu tư, phân cấp quản lý và giao kế hoạch, cơ chế đấu thầu, giải ngân và quyết toán…
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD
Nền kinh tế luôn luôn tồn tại mâu thuẫn, một bên là nhu cầu xã hội có tính vô hạn và một bên là nguồn lực khan hiếm, có hạn để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội.
Hoạt động đầu tư chiếm một nguồn vốn lớn của Nhà nước, có liên quan đến việc sử dụng hợp lý hay lãng phí tài nguyên và các nguồn lực của sản xuất, liên quan đến việc bảo vệ môi trường. Những sai lầm về xây dựng và lựa chọn công nghệ của các DAĐT có thể gây nên các thiệt hại lớn, tồn tại lâu dài và khó sửa chữa.
Việc đo lường đánh giá hiệu quả VĐT trở nên rất cần thiết đặc biệt là đối với nền kinh tế kém phát triển có mức thu nhập thấp như nước ta.
Để đánh giá hiệu quả của hoạt đồng đầu tư, người ta thường sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau:
* Nhóm chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả đầu tư chung
- Chỉ tiêu ICOR: dùng để phản ánh mối quan hệ giữa tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP và tốc độ tăng GDP. Như vậy, hệ số ICOR cho biết để GDP tăng 1% thì tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP phải cần bao nhiêu %; để có một đồng tăng trưởng kinh tế thì cần bao nhiêu vốn đầu tư hoặc để tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư. Hệ số ICOR được tính bằng công thức sau:
ICOR = I/GDP/GDP
Trong đó:
I/GDP: là tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP
GDP: Tốc độ tăng trưởng GDP
Hệ số ICOR đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng các kế hoạch kinh tế. Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất trong việc tính toán nhu cầu VĐT theo các mô hình kinh tế.
Thông qua việc sử dụng hệ số ICOR, chúng ta thấy rõ sự gia tăng VĐT đặt trong mối quan hệ với sự gia tăng GDP. Chỉ tiêu ICOR ở mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp; ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu phụ thuộc vào việc tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
- Hệ số thực hiện VĐT:
Hệ số thực hiện VĐT là một chỉ tiêu quan trọng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng VĐT bỏ ra với giá trị các TSCĐ (kết quả của VĐT) được đưa vào sử dụng. Hệ số được tính theo công thức sau:
H0 = FA/I
Trong đó:
H0: Hệ số thực hiện VĐT
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ
I: Tổng mức VĐT trong kỳ
Theo cách tính này, hệ số thực hiện VĐT càng lớn biểu hiện hiệu quả VĐT càng cao.
* Nhóm chỉ tiêu kinh tế phản ánh hiệu quả đầu tư cho từng dự án
Đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT ở tầm vi mô là hiệu quả của từng dự án đầu tư, là trọng tâm của việc đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT. Các nhà kinh tế học hiện nay thường dùng một số chỉ tiêu sau:
- Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian khai thác dự án (thường tính bằng năm) mà toàn bộ các khoản thu nhập do dự án mang lại có thể bù đắp đủ toàn bộ VĐT của dự án, số tiền thu hồi này không bao gồm lãi suất phát sinh trả cho việc sử dụng vốn ứng trước. Thời gian hoàn vốn được tính bằng công thức:
T= i=
Trong đó:
Vi: Số VĐT ứng trước năm i
Li: Lợi nhuận ròng bình quân đến năm thứ i
Ki: Khấu hao TSCĐ bình quân đến năm thứ i
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (Net present Value - NPV)
Giá trị hiện tại thuần là tổng lãi ròng của cả đời dự án được chiết khấu về năm hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu nhất định.
NPV=
Hay NPV =
Trong đó:
Bi: Lợi ích của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án thu được (như doanh thu bán hàng, lệ phí thu hồi, giá trị thanh lý thu hồi..) ở năm i
Ci: Chi phí của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án bỏ ra (như chi phí đầu tư, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, chi trả, thuế và trả lãi vay..) ở năm i
r: tỷ suất chiết khấu
n: số năm hoạt động kinh tế của dự án (tuổi thọ kinh tế của dự án)
i: Thời gian của dự án (i=).
Nếu dự án có NPV > 0 thì dự án khả thi về mặt tài chính.
Nếu phải lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất trong nhiều phương án đầu tư khác nhau thì phương án được chọn là phương án có NPV lớn nhất và không âm (các phương án đầu tư có cùng thời kỳ phân tích). Trong trường hợp các phương án đầu tư có các thời kỳ phân tích khác nhau thì trước khi so sánh cần phải đưa chúng về cùng thời kỳ phân tích.
Nhược điểm của chỉ tiêu này là phải đưa vào lãi suất chiết khấu được lựa chọn. Lựa chọn lãi suất chiết khấu rất phức tạp vì có nhiều cách thức và mỗi cách thức kết quả khác nhau. Thông thường lãi suất chiết khấu được xác định bằng lãi suất vay vốn trên thị trường vốn (vốn dài hạn, vốn ngắn hạn, vốn cổ phần..) có kể đến các yếu tố rủi ro.
Ngoài ra, chỉ tiêu NPV còn có nhiều nhược điểm như tính toán phức tạp, chỉ đúng trong thị trường vốn hoàn hảo...
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate Return - IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị tương đương của dòng tiền hiệu số thu chi (NPV, NAV, NFV) của dự án bằng 0. Như vậy để tìm chỉ tiêu IRR người ta giải các phương trình tương ứng NPV = 0, NAV = 0, NFV = 0 với nghiệm là r. Tuy nhiên việc giải các phương trình trên bằng phương pháp giải tích là không thể khi số năm hoạt động n của dự án lớn hơn 2. Vì vậy, người ta phải sử dụng phương pháp thử dần gần đúng để giải ra IRR trên cơ sở mối quan hệ giữa chỉ tiêu NPV và lãi suất chiết khấu r.
Cụ thể như sau:
Như vậy, IRR được tính theo công thức sau:
Trong đó:
r1: Tỷ lệ lãi suất làm cho NPV1 > 0
r2: Tỷ lệ lãi suất làm cho NPV2 < 0
NPV1: Giá trị hiện tại thuần là số dương nhưng gần 0 được tính theo r1
NPV2: Giá trị hiện tại thuần là số âm nhưng gần 0 được tính theo r2
- Tỷ số lợi ích/chi phí (B/C)
Tỷ số lợi ích/chi phí (B/C) là tỷ số giữa hiện giá thu nhập và hiện giá chi phí được tính theo công thức:
B/C =
Trong đó:
Bi: Lợi ích trong năm i
r: Lãi suất chiết khấu
n: Tuổi thọ kinh tế của dự án
Ci: Chi phí của dự án đầu tư ở năm i
Kết quả tính được từ công thức trên:
Nếu B/C ≥ 1: Phương án (dự án) đầu tư đáng giá
Nếu B/C <1: Phương án (dự án) đầu tư không đáng giá
Ưu điểm của chỉ tiêu B/C giúp ta thấy mức lợi ích của một đồng chi phí, nhưng nhược điểm là không cho biết tổng số lãi ròng thu được. Có những dự án B/C lớn, nhưng tổng lãi ròng vẫn nhỏ và việc tính suất chiết khấu r phức tạp.
- Điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm có mức sản lượng hoặc mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị thua lỗ trong năm hoạt động bình thường.
+ Điểm hoà vốn tính bằng sản lượng:
Q0=
Trong đó:
f: Tổng chi phí cố định của dự án.
v: Chi phí biến đổi tính cho một đơn vị sản phẩm
p: Giá đơn vị sản phẩm
Q0: Sản lượng hoà vốn
+ Điểm hoà vốn tính bằng mức doanh thu
R0=Q0.P0 = R0=
1.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho ĐTXD
Vốn ĐTXD của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là chủ thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho ĐTXD và là người đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế dự toán. Song quyền sử dụng vốn ĐTXD Nhà nước lại giao cho một tổ chức làm chủ đầu tư, thành lập các Ban quản lý dự án.
Chủ đầu tư và các Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật. Do vậy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VĐT thuộc NSNN.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho ĐTXD được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
C«ng t¸c tæ
chøc qu¶n lý
®Çu t
x©y dùng
Tæ chøc khai
th¸c, sö dông
c¸c dù ¸n
®Çu t
C¸c chÝnh
s¸ch kinh tÕ
C«ng t¸c
quy ho¹ch
vµ kÕ ho¹ch
®Çu t
C¸c nh©n tè ¶nh hëng
®Õn hiÖu qu¶ sö dông
vèn ®Çu t
a. Công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư
Công tác quy hoạch và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư (gọi tắt là kế hoạch hoá đầu tư) là một nội dung của công tác kế hoạch hoá, là quá trình xác định mục tiêu của hoạt động đầu tư và đề xuất những giái pháp tốt nhất để đạt mục tiêu đó với hiệu quả cao.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT trong xây dựng thì công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư phải xuất phát từ nhu cầu của phát triển kinh tế. Mục đích cuối cùng của hoạt động ĐTXD là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội. Do đó, nhu cầu của nền kinh tế là xuất phát điểm cho việc lập quy hoạch và công tác kế hoạch hoá và phải dựa vào định hướng lâu dài của Nhà nước, phù hợp với quy định của pháp luật. Kế hoạch đầu tư phải dựa trên khả năng huy động các nguồn lực trong và ngoài nước đảm bảo tính vững chắc và có mục tiêu rõ rệt. Công tác quy hoạch và kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học, tính đồng bộ và tính liên tục. Có như vậy thì hiệu quả sử dụng VĐT trong xây dựng mới được nâng cao. Ngược lại, nếu công tác quy hoạch, công tác kế hoạch tính khoa học không cao, không xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế, không có mục đích rõ rệt, không có tính bền vững thì dễ gây nên lãng phí thất thoát VĐT trong xây dựng.
Có thể khẳng định quy hoạch ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả của hoạt động ĐTXD. Thực tế ĐTXD trong những năm qua cho thấy, nếu quy hoạch yếu thì tình trạng các công trình không đưa vào sử dụng được hoặc thua lỗ kéo dài như các nhà máy đường, các cảng cá, chợ đầu mối…Quy hoạch dàn trải sẽ làm cho việc ĐTXD manh mún không có hiệu quả. Nhưng nếu không có quy hoạch thì hậu quả lại càng nặng nề hơn. Vì vậy, khi đã có quy hoạch cần phải công bố quy hoạch để người dân biết để thực hiện theo quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch, Nhà nước cần phải đưa vào đầu tư, khuyến khích các khu vực vốn khác tham gia đầu tư để tránh tình trạng quy hoạch treo.
b. Các chính sách kinh tế
Các chính sách kinh tế là nhóm nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng VĐT. Đó là chính sách thương mại, chính sách đầu tư…Các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, vi mô như chính sách tài khoá (chủ yếu là chính sách thuế và chính sách chi tiêu của Chính phủ), chính sách tiền tệ (công cụ chính sách lãi suất và mức cung tiền), chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách khấu hao...
Chính sách kinh tế góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, VĐT được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp. Các chính sách kinh tế tác động vào lĩnh vực đầu tư góp phần tạo ra một cơ cấu đầu tư nhất định, là cơ sở để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý hay không hợp lý cũng như tác động làm tăng hoặc giảm, thất thoát VĐT, theo đó mà VĐT được sử dụng có hiệu quả hay không có hiệu quả
Trong quá trình khai thác sử dụng, các đối tượng đầu tư hoàn thành, các chính sách kinh tế tác động làm cho đối tượng này phát huy tác dụng tích cực hay tiêu cực, tức là làm cho VĐT được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp.
c. Công tác tổ chức quản lý ĐTXD
Tổ chức, quản lý ĐTXD là một lĩnh vực rộng, bao gồm nhiều nội dung nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển KT - XH trong từng thời kỳ nhất định để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH đất nước.
Sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn VĐT do Nhà nước quản lý, chống thất thoát, lãng phí, bảo đảm dự án được xây dựng đúng quy hoạch, mỹ quan, bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong ĐTXD, áp dụng công nghệ tiên tiến với chi phí hợp lý, tổ chức quản lý chặt chẽ theo đúng trình tự ĐTXD đối với các dự án thuộc nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước, chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng, nhằm sử dụng có hiệu quả VĐT.
Chất lượng của công tác quản lý đầu tư sẽ tạo điều kiện cho việc tiết kiệm tránh thất thoát, lãng phí VĐT. Chính do những thiếu sót trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng đã làm cho VĐT bị thất thoát, lãng phí. Một số đối tượng đầu tư hoàn thành mang lại hiệu quả sử dụng không như mong muốn về lợi ích KT - XH chính là những nguyên nhân làm cho ĐTXD kém hiệu quả.
d. Tổ chức khai thác, sử dụng các dự án đầu tư
Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành sẽ tạo ra một khối lượng cung ứng hàng hoá dịch vụ nhất định. So sánh khối lượng hàng hoá dịch vụ này với nhu cầu hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế sẽ xác định lợi ích kinh tế của ĐTXD.
Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành có kết quả tốt hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Do tác động của việc chọn mô hình chiến lược CNH, tác động của việc sử dụng các chính sách kinh tế và tác động của các tổ chức quản lý quá trình đầu tư xây dựng. Các nhân tố này tuỳ thuộc vào mức độ đúng đắn, phù hợp của chúng mà có tác động ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các đối tượng của quá trình đầu tư hoàn thành.
- Các nhân tố thuộc bản thân của quá trình tổ chức, khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành như công tác tổ chức điều hành, công tác nghiên cứu triển khai, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, công tác tiếp thị, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, công tác cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm…
Nhóm nhân tố tổ chức khai thác sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành, với vị trí riêng có vai trò quan trọng trong sự tác động độc lập và theo mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa chúng có thể tác động tổng hợp đến hiệu quả sử dụng VĐT.
Tóm lại, ĐTXD từ NSNN là tiền đề để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, thu hút các nguồn VĐT như vốn nước ngoài, vốn từ các doanh nghiệp, vốn của các tầng lớp dân cư…đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, việc nâng cao hiệu quả vốn ĐTXD từ NSNN là một vấn đề đang được các cấp, các ngành quan tâm.
1.5. Nguyên tắc và quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong ĐTXD
1.5.1. Một số nguyên tắc đánh giá hiệu quả các dự án ĐTXD
Các dự án đầu tư phải được đánh giá theo các giác độ lợi ích khác nhau như lợi ích của chủ đầu tư, lợi ích của quốc gia và xã hội, lợi ích của tổ chức tài trợ cho dự án, lợi ích của cư dân địa phương đặt dự án.
Khi đánh giá dự án đầu tư, các chủ đầu tư phải xuất phát trước hết từ lợi ích trực tiếp của họ, tuy nhiên lợi ích này phải nằm trong khuôn khổ lợi ích chung của quốc gia và cộng đồng, mà lợi ích này thể hiện trước hết ở đường lối chung phát triển KT - XH của đất nước cũng như ở các luật có liên quan đến đầu tư, bảo vệ môi trường…
Khi phân tích đánh giá các dự án cần quan tâm đến một số nguyên tắc chủ yếu sau:
a. Kết hợp phân tích định tính với phân tích định lượng
Phân tích định tính dựa trên cơ sở phân tích và sử dụng các lí luận và kinh nghiệm đã đúc kết, chưa đi sâu vào tính toán định lượng.
Ngay từ đầu chưa có các tính toán tốn kém đã có thể xác định được tính chất và định hướng của dự án. Không phải tất cả mọi vấn đề về KT - XH đều có thể tính toán thành số lượng cụ thể được và các định lượng thường là rất tốn kém. Vì vậy phải dựa vào phân tích định tính.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở bước phân tích định tính thì các cơ sở khoa học của quyết định chưa toàn vẹn và chưa bảo đảm. Do vậy, phải kết hợp với phân tích định lượng.
Phân tích định lượng dựa trên các phép tính về số lượng cụ thể hoặc các công cụ tính toán hiện đại.
Trong nhiều trường hợp, với tổng số nguồn lực như nhau, nhờ các phương pháp tính toán định lượng sẽ tìm ra tìm được các phương án có hiệu quả nhất. Các kết quả tính toán định lượng có khi làm thay đổi hẳn chủ trương ban đầu của chủ đầu tư. Ví dụ tính toán định lượng đã phát hiện ra rằng với chủ trương ban đầu là quá tốn kém, vượt quá khả năng của chủ đầu tư.
Tuy nhiên việc phân tích định lượng đòi hỏi phải có các số liệu gốc bảo đảm chính xác để tính toán ban đầu, nếu không bảo đảm yêu cầu này thì phương pháp tính toán dù chính xác đến mấy vẫn không có ý nghĩa, thậm chí còn có thể gây nên các tác động nguy hiểm.
b. Kết hợp các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối với các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối
Các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối như các chỉ tiêu: Tổng lợi nhuận hàng năm, hiện giá của hiệu số thu chi (NPV), các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối như các chỉ tiêu: Tỉ suất lợi nhuận (lợi nhuận hàng năm tính cho một đồng vốn đầu tư), suất thu lợi nội tại (IRR).
Nếu chỉ tiêu tổng lợi nhuận rất lớn, nhưng chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận tính cho trường hợp sau khi đã nộp thuế lại bé hơn ngưỡng hiệu quả cho phép, ví dụ lãi suất trung bình của thị trường vốn, thì phương án vẫn không hiệu quả, vì không đủ lợi nhuận để trả vốn vay, hoặc đem vốn đầu tư tài chính (cho vay) sẽ lợi hơn đầu tư cho dự án.
Nếu chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận rất lớn nhưng tổng số lợi nhuận lại rất bé thì hiệu quả kinh doanh kém ý nghĩa, vì chỉ tiêu tổng lợi nhuận có đủ lớn thì mới tái sản xuất và mở rộng kinh doanh được.
Cho nên để kết hợp hai loại chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối và số tương đối, có thể rút ra nguyên tắc tổng quát để lựa chọn phương án cuối cùng là: phải ưu tiên chọn phương án có chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối như chỉ tiêu tổng lợi nhuận, hiện giá của hiệu số thu chi NPV là lớn nhất, còn chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối (như chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận, suất thu lợi nội tại IRR) chỉ cần đạt ngưỡng hiệu quả quy định (nếu các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối này cũng lớn nhất thì càng tốt). Không bao giờ được phép sử dụng một trong hai chỉ tiêu trên một cách riêng rẽ để lựa chọn dự án đầu tư.
c. Kết hợp các chỉ tiêu về lợi nhuận với các chỉ tiêu về an toàn
Các chỉ tiêu về lợi nhuận như: tổng lợi nhuận thu được hàng năm, tỉ suất lợi nhuận, hiện giá hiệu số thu chi (NPV), suất thu lợi nội tại (IRR).
Các chỉ tiêu về an toàn như: thời hạn thu hồi vốn đầu tư, điểm hoà vốn, khả năng trả nợ...
Khi đánh giá lựa chọn phương án để đầu tư không được sử dụng một trong hai loại chỉ tiêu trên một cách riêng rẽ, vì chỉ có kết hợp hai chỉ tiêu lợi nhuận và an toàn mới bảo đảm được tính phát triển và bền vững của kinh doanh.
d. Phải tôn trọng nguyên tắc so sánh hai bước
Ở bước thứ nhất phải xét sự đáng giá của các phương án, tức là hiệu quả của các phương án phải bảo đảm một ngưỡng hiệu quả (định mức hiệu quả) cho phép.
Ở bước thứ hai, phải chọn lấy trong số các phương án đáng giá một phương án có hiệu quả lớn nhất.
Như vậy, phương án được chọn không phải chỉ là phương án có hiệu quả lớn nhất mà còn phải là phương án có hiệu quả đạt mức yêu cầu.
e. Phải đảm bảo tính so sánh được của các phương án
Các điều kiện bảo đảm cho tính có thể so sánh được của các phương án là phương pháp tính toán của các phương án phải thống nhất về các mặt: hình thành số liệu gốc, phương pháp so sánh và chỉ tiêu định mức hiệu quả.
Khi muốn so sánh một chỉ tiêu thì chỉ có chỉ tiêu đó thay đổi, còn các chỉ tiêu khác phải giữ nguyên và giống nhau. Cụ thể như sau:
- Khi so sánh về mặt giá trị (chi phí) thì mặt giá trị sử dụng (chất lượng sản phẩm, công suất, tuổi thọ, độ bền chắc...) của các phương án phải giống nhau. Nếu ở đây giá trị sử dụng của các phương án khác nhau thì phải đưa các phương án về cùng một mặt bằng giá trị sử dụng nhờ một phương pháp nhất định (trong đó có phương pháp giá trị - giá trị sử dụng).
- Khi tuổi thọ của các phương án khác nhau thì phải quy về bằng nhau bằng các cách như: lấy thời gian tính toán so sánh bằng bội số chung bé nhất của tuổi thọ của các phương án, hoặc lấy bằng thời kỳ kế hoạch, hoặc theo luật đầu tư quy định, hoặc điều chỉnh thông qua giá trị thu hồi khi đào thải tài sản, hoặc lấy bằng thời gian tồn tại của mỏ nguyên liệu, hoặc tính san đều hàng năm.
- Khi vốn đầu tư của các phương án khác nhau thì phải quy về điều kiện có thể so sánh được bằng cách so sánh theo hiệu quả của gia số đầu tư, hoặc có phương án phụ thêm.
1.5.2. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong ĐTXD
Nói chung khi đánh giá các DAĐT, Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích tổng thể của quốc gia và xã hội, từ đường lối chung phát triển đất nước và phải xem xét toàn diện các mặt kỹ thuật, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng cũng như bảo vệ môi trường.
Đối với các DAĐT từ nguồn vốn NSNN, sự đánh giá dự án phải toàn diện và sâu sắc hơn, sự phân tích dự án chủ yếu đứng trên quan điểm vĩ mô và phải coi trọng phân tích KT - XH của dự án.
Để nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN cần phải quán triệt các quan điểm sau:
a. Kết hợp chặt chẽ lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội khi xem xét đánh giá hiệu quả sử dụng VĐT
Kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội sẽ dẫn đến sự kết hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Do đó lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi khối lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm, sự thay đổi cán cân thương mại ở mức lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất...
Lợi ích xã hội của ĐTXD là thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên, ngoài ra còn thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh quốc phòng, mục tiêu văn hoá xã hội, môi trường...
Việc phân biệt hai lợi ích này mang tính cân đối và chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, phân biệt 2 lợi ích này trong nhiều trường hợp khá dễ dàng, nhưng trong nhiều trường hợp trở nên khó khăn. Mặt khác, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội trong nhiều trường hợp có sự tương thích, bổ sung cho nhau, nhưng ở những trường hợp khác lại xung đột với nhau. Khi xem xét hiệu quả sử dụng VĐT cho các dự án cần phải đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện để quyết định ưu tiên lợi ích kinh tế hay lợi ích xã hội. Trong rất nhiều trường hợp có sự xung đột xảy ra giữa 2 loại lợi ích như vậy, về nguyên tắc lợi ích xã hội sẽ được ưu tiên hơn.
b. Kết hợp chặt chẽ 3 mặt lợi ích để xem xét hiệu quả sử dụng VĐT cho các dự án ĐTXD
Hệ thống kinh tế được xem là hệ thống có tầng bậc. Theo các quan điểm khác nhau được chia thành 8 tầng, 5 tầng hoặc 3 tầng. Nếu nền kinh tế được chia thành 3 tầng theo quan điểm chính thống của nước ta hiện nay thì tầng cao nhất là “toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Tầng này ngoài việc coi trọng nhất mục tiêu của mình còn phải quan tâm đến mục tiêu của 2 tầng còn lại. Mục tiêu của tầng kinh tế “tập thể” cũng vậy trong khi coi trọng nhất mục tiêu của tầng mình còn phải quan tâm đến mục tiêu của “toàn bộ nền kinh tế quốc dân” và mục tiêu của tầng kinh tế “cá nhân hộ gia đình”. Tương tự tầng kinh tế “cá nhân hộ gia đình” cũng phải quan tâm mục tiêu của 3 tầng, tuy nhiên mục tiêu của nó được coi trọng nhất.
Với vai trò con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của hệ thống quản lý, mục tiêu cá ._. rừng phòng hộ. Định hướng phát triển các ngành cụ thể như sau:
- Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Đẩy nhanh tốc độ phát triển CN - TTCN theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, thực hiện tốt chính sách khuyến công, chú trọng việc chuyển giao, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng sản phẩm có thương hiệu, đào tạo nghề, đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập để phát triển hiệu quả, bền vững CN - TTCN thành phố.
- Nông nghiệp: Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành theo hướng phát triển mạnh chăn nuôi; Chú trọng phát triển kinh tế tổng hợp vùng gò đồi phía tây Đồng Hới theo hướng kinh tế trang trại, kết hợp trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn quả với chăn nuôi; Mở thêm nhiều cơ sở chế biến nông sản, thức ăn công nghiệp để thu hút lao động, giảm lao động thuần nông, tăng lao động trong lĩnh vực dịch vụ.
- Lâm nghiệp: Mục tiêu phát triển lâm nghiệp là bảo đảm chức năng chính của rừng là phòng hộ, bảo vệ cân bằng sinh thái, giảm thiểu các bất lợi do điều kiện tự nhiên mang lại, bảo tồn tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng, bảo vệ tốt sản xuất và đời sống xã hội của thành phố.
- Thuỷ sản: Thuỷ sản là ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Khai thác tốt tiềm năng, tận dụng lợi thế để phát triển toàn diện cả đánh bắt, nuôi, chế biến và dịch vụ thủy sản. Tăng cường cơ sở vật chất để từng bước hiện đại hoá ngành thuỷ sản. Kết hợp khai thác, đánh bắt, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái biển.
- Dịch vụ: Phát huy ưu thế, vị trí của thành phố là trung tâm tỉnh lỵ, có nhiều lợi thế trong phát triển các ngành dịch vụ, tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ, coi phát triển dịch vụ là lĩnh vực đột phá của kinh tế thành phố, trong đó du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn để tạo việc làm, tăng thu cho ngân sách.
b. Các mục tiêu xã hội
Giữ vững phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS 16/16 xã, phường, hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông. Có 90% gia đình đạt gia đình văn hoá, 65 - 70 thôn, tiểu khu đạt làng văn hoá, khu phố văn hoá các cấp. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 2% vào năm 2015. Tạo việc làm cho 20.000 - 21.000 lao động, phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm cho 4000 lao động. Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ y tế có chất lượng cao. Mọi người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần.
c. Mục tiêu về phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng
Đẩy mạnh huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, chú trọng tạo nguồn quỹ đất để đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị để phát triển các ngành kinh tế, thu hút đầu tư, tạo mối giao lưu hàng hoá, thúc đẩy phát triển KT - XH. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, xây dựng phát triển các khu vui chơi, giải trí, tôn tạo các di tích lịch sử. Từng bước xây dựng hoàn thiện các khu dân cư hiện có và quy hoạch các khu dân cư mới. Phấn đấu đến giai đoạn 2010 - 2015 thành phố đạt các tiêu chuẩn để được công nhận là thành phố loại 2.
Thực hiện tốt xã hội hoá trong việc đầu tư kiên cố hoá trường học, đề án xây dựng vĩa hè, hệ thống giao thông nông thôn, kênh mương… phấn đấu tổng đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006 - 2010 đạt gấp 2 lần giai đoạn 2001- 2005. Việc đầu tư xây dựng công trình phải có trọng tâm, trọng điểm, chống đầu tư dàn trải; quan tâm đầu tư với những vùng còn khó khăn. Tích cực giải quyết nợ tồn động trong ĐTXD trong những năm qua.
Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn đối với các cơ quan đơn vị trực thuộc, đảm bảo việc thực hiện đầu tư theo đúng trình tự thủ tục quy định, chống thất thoát lãng phí trong ĐTXD.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới
Để sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả như mong muốn là vấn đề mà các cấp, các ngành ở thành phố Đồng Hới rất quan tâm. Qua phân tích, đánh giá một số kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại trong ĐTXD tại thành phố Đồng Hới, có thể đề xuất 07 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT từ NSNN như sau:
Nâng cao
trách nhiệm
của các chủ
thể trong
ĐTXD
Thực hiện
tốt công tác
GPMB, tái
định cư
ĐTXD tập
trung, phù
hợp với cơ
cấu kinh tế
và QH được
duyệt
Nâng cao
chất lượng
công tác
quy hoạch
Các giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư xây dựng
Đẩy mạnh
công tác
thanh,
quyết toán
công trình
hoàn thành
Thực hiện
dân chủ
công khai,
minh bạch
trong
ĐTXD
Chú trọng
công tác
đào tạo
cán bộ
trong hoạt
động ĐTXD
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
- Đẩy mạnh công tác lập, điều chỉnh, nâng cao chất lượng các quy hoạch; bảo đảm tính chiến lược và đồng bộ, sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng với quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của thành phố Đồng Hới.
- Khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch xây dựng thành phố đến năm 2020, đẩy mạnh quy hoạch chi tiết tỉ lệ 1/500; hoàn thành xây dựng các quy hoạch KT - XH, quy hoạch xây dựng các phường, xã và quy hoạch ngành. Khắc phục tình trạng quy hoạch được duyệt nhưng không được triển khai thực hiện theo quy định.
- Khi quy hoạch phải lường trước mọi vấn đề bất khả kháng có thể xảy ra để từ đó có các biện pháp nhằm hạn chế và khắc phục các tổn thất nếu có, điều chỉnh kịp thời các dự án nằm trong khu vực quy hoạch treo.
- Có các biện pháp, chế tài xử phạt cụ thể, quy trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân vi phạm trong công tác quy hoạch.
3.2.2. Đầu tư xây dựng tập trung, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quy hoạch được duyệt
- Bảo đảm bố trí vốn xây dựng cơ bản theo hướng tập trung vào các lĩnh vực có trọng tâm, trọng điểm của thành phố như: bố trí vốn đầu tư phù hợp cho các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, hạ tầng xã hội, phù hợp với khả năng cân đối vốn của năm kế hoạch và những năm tiếp theo; quản lý vốn theo phân cấp của Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư; chấm dứt tình trạng đầu tư không đồng bộ, không hiệu quả; dành vốn thanh toán các khoản nợ đến hạn trong ĐTXD.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, có hiệu quả, không để thất thoát, lãng phí. Chỉ phân bổ vốn đối với những dự án có đủ nguồn vốn đảm bảo, đúng quy định, trình tự, thủ tục xây dựng cơ bản hiện hành.
- Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho các ngành, vùng.. hướng vào mục tiêu thúc đẩy nhanh chóng việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm trong các ngành kinh tế. Trước hết là trong công nghiệp, du lịch - dịch vụ, nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Xác định rõ nguồn lực, cơ cấu nguồn vốn đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài và giảm dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách. Xây dựng quy định cụ thể để khuyến khích thực hiện xã hội hoá đầu tư xây dựng theo hướng giảm dần danh mục các công trình sử dụng vốn NSNN. Có giải pháp xử lý, hạn chế tình trạng các dự án không thực hiện đúng cam kết huy động các nguồn vốn khác, chỉ trông chờ vào vốn ngân sách. Không bố trí công trình xây dựng mới đối với những dự án trên địa bàn xã, phường, vượt quá tổng mức dư nợ cho phép.
- Đối với các dự án trọng điểm, thành phố phải có sự phân loại để tập trung đầu tư. Những dự án này phải có ý nghĩa chiến lược, có tác động mạnh đến các ngành, vùng và thu hút các nguồn vốn đầu tư như: các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, các khu công nghiệp và những vùng, ngành có nhiều tiềm năng, lợi thế; thành phố cần lập quy hoạch đồng bộ, sử dụng vốn NSNN đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong quá trình thực hiện thành phố phải có chính sách ưu tiên nhưng vẫn tuân thủ trình tự đầu tư theo quy định của Nhà nước; khuyến khích đầu tư hợp lý như ưu đãi thuế, tín dụng…để thu hút những nguồn vốn đầu tư khác.
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong ĐTXD
- Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện trong quản lý dự án về các mặt chất lượng, chi phí, tiến độ, an toàn lao động, vệ sinh môi trường, vì vậy việc lựa chọn giám đốc điều hành dự án rất quan trọng, là người có đủ điều kiện về năng lực, phù hợp với từng loại và cấp công trình theo qui định của Nhà nước.
- Chủ đầu tư phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ tiến độ thi công, việc chấp hành quy trình, quy phạm, kiểm định chất lượng xây dựng các công trình nhằm nâng cao chất lượng xây dựng công trình và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong hoạt động xây dựng.
- Thành phố Đồng Hới cần có kế hoạch rà soát các tổ chức tư vấn về năng lực chuyên môn và tư cách chủ thể, sắp xếp chuyển sang hoạt động độc lập và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư, trước pháp luật về thiết kế và chất lượng công tác tư vấn. Kiên quyết thu hồi đăng ký hành nghề của các đơn vị không đảm bảo năng lực, trình độ. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch để thu hút tạo điều kiện huy động các đơn vị tư vấn có trình độ cao vào hoạt động tại thành phố Đồng Hới.
- Nâng cao chất lượng trong hoạt động thẩm định phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế, lập dự toán, giám sát thi công, nghiệm thu, thanh toán các hạng mục công trình, các công trình xây dựng; áp dụng quy chế tuyển chọn cơ quan tư vấn, thẩm định dự án trên cơ sở cạnh tranh rộng rãi.
- Tăng cường thẩm định về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu thi công cũng như đơn vị tư vấn quản lý, giám sát. Xác định rõ trách nhiệm của chủ quản đầu tư, chủ đầu tư, tư vấn thiết kế; thẩm định dự án; cá nhân, đơn vị tổ chức thi công.
- Chủ đầu tư cần tổ chức tốt công tác đấu thầu, tăng nhanh tỷ lệ dự án đấu thầu rộng rãi ở các khâu tư vấn, thi công và quản lý, giám sát. Đảm bảo thực hiện đúng, đủ các quy định của pháp luật về công tác đấu thầu, nhằm hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng nhận thầu nhưng triển khai không hiệu quả hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không đủ điều kiện, năng lực thi công xây dựng công trình; chỉ định thầu không đúng quy định, chia nhỏ dự án để chỉ định thầu.
Bên cạnh đó phải khắc phục được tình trạng đấu thầu hình thức, chống phá giá trong đấu thầu. Các tiêu chí trong hồ sơ mời thầu phải rõ ràng, chuẩn mực. Tránh tình trạng chủ đầu tư và đơn vị tư vấn cố tình lập hồ sơ mời thầu chỉ có một số ít nhà thầu đáp ứng. Cần phải xử lý nghiêm minh, thích đáng đối với những trường hợp vi phạm Luật đấu thầu và Nghị định hướng dẫn thi hành luật.
Ngoài việc công bố thông tin trên Bản tin đấu thầu và trang Web đấu thầu của bộ Kế hoạch & đầu tư thì phải công bố trên thông tin đại chúng ở địa phương như Báo Quảng Bình, đài phát thanh truyền hình Quảng Bình...nhằm thông tin về đấu thầu được công khai rộng rãi hơn.
- Thành phố cần đăng tải các thông tin cụ thể về các đơn vị tư vấn, năng lực thiết bị kỹ thuật và quản lý của các đơn vị thi công trên các phương tiện thông tin đại chúng của thành phố, nhất là trên trang thông tin điện tử của thành phố.
- Các cấp, các ngành có liên quan cần nghiên cứu xây dựng, thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng theo hướng “liên thông”, rà soát, loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết trong quá trình thực hiện thủ tục đầu tư.
- Cần có giải pháp quản lý chặt chẽ giá vật tư, vật liệu và việc áp dụng các định mức. Hiện nay công tác quản lý giá vật tư, vật liệu xây dựng trên địa bàn còn nhiều bất cập. Một số công việc có định mức áp dụng chưa phù hợp với thực tế. Hàng quý vẫn có Thông báo giá vật tư, vật liệu của Liên sở Tài chính - Xây dựng nhưng chưa kịp thời và chưa đầy đủ các chủng loại trên thị trường. Vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc kéo dài tiến độ dự án. Do giá vật tư vật liệu thường xuyên thay đổi nên làm thay đổi giá trị xây dựng công trình, các nhà thầu chờ phê duyệt điều chỉnh dự toán công trình cho phù hợp với thực tế mới tiếp tục thi công nên chậm tiến độ. Để tránh được tình trạng trên đề nghị với các ngành cấp tỉnh phải cập nhật đầy đủ các chủng loại vật tư, vật liệu có trên thị trường, khi thông báo giá phải ghi rõ tên, nơi xuất xứ, phẩm chất của đầy đủ các chủng loại sản phẩm.
Trên cơ sở định mức, đơn giá theo quy định của Nhà nước, UBND thành phố Đồng Hới cần phải có giải pháp để hoàn thiện hệ thống đơn giá, công tác xây dựng các định mức, bổ sung các định mức còn thiếu trong thực tế, đặc biệt là phần hoàn thiện của nhóm công việc cao cấp để các đơn vị thực hiện được hiệu quả, chính xác trong lĩnh vực xây dựng.
3.2.4. Thực hiện tốt công tác GPMB, tái định cư
- Công tác bồi thường GPMB phải hoàn thành mới được phép triển khai dự án, tránh tình trạng vừa bồi thường vừa thi công, chỉ cần một ách tắc nhỏ thì cả dự án phải đình trệ. Trước khi bồi thường phải tiến hành lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân trong vùng bị ảnh hưởng. Thực hiện quy chế dân chủ, công khai. Nếu có 2/3 số ý kiến của người bị ảnh hưởng đồng ý phương án bồi thường thì phải triển khai đồng loạt. Thành phố cần phải có biện pháp cụ thể cho từng dự án để cưỡng chế đối với số người còn lại nếu họ không đồng ý thực hiện.
- Áp dụng cơ chế bồi thường lấy của người được lợi thế mới bồi thường cho người bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bồi thường xây dựng giao thông đô thị. Nếu làm tốt việc này thì không những dự án đỡ tốn chi phí bồi thường GPMB mà nhà nước còn được khoản chênh lệch đáng kể, đó là chênh lệch giữa người được hưởng lợi do có lợi thế so sánh mới với người bị ảnh hưởng.
- Đối với những dự án mà chủ yếu người dân trong khu vực đầu tư được hưởng lợi thì thành phố nên có chính sách vận động người dân tự giải toả, không thực hiện công tác bồi thường GPMB nhằm giảm bớt vốn đầu tư vào các công trình.
- Thành phố cần tập trung chỉ đạo sát sao, kiên quyết với các cơ quan chức năng liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đặc biệt là Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư UBND thành phố Đồng Hới. Không cho triển khai thực hiện những dự án mà phương án GPMB di dân không khả thi và phương án bồi thường không hợp lý.
- Khi lập, phê duyệt dự toán, phương án và thực hiện bồi thường phải xác định, xây dựng thống nhất và phù hợp với thực tế các chỉ tiêu như định mức, đơn giá cấp đất, loại đất, hình thức sở hữu, các lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương, từng thời điểm để từ đó áp dụng cho từng loại hình, từng dự án, từng hộ gia đình trong phạm vi bị ảnh hưởng tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ của dự án, có thể làm tăng tổng VĐT cho dự án.
- Dành vốn để tập trung đầu tư các khu di dân tái định cư, đảm bảo đáp ứng nhu cầu tái định cư hiện tại và trong những năm tiếp theo.
3.2.5. Đẩy mạnh công tác thanh, quyết toán công trình hoàn thành
- Các cấp, các ngành phải xem đây là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đầu tư. Cần phải có những chính sách thưởng, phạt cụ thể của thành phố để gắn trách nhiệm vật chất đối với những chủ đầu tư, nhà thầu chậm thanh, quyết toán công trình. Ngay từ khi bắt đầu triển khai dự án phải đảm bảo đầy đủ và thực hiện đúng trình tự, thủ tục ĐTXD theo quy định của Nhà nước.
- Nên áp dụng tỷ lệ % tạm giữ chờ quyết toán để khi tiến hành thẩm tra, phê duyệt công trình hoàn thành nếu có điều chỉnh tăng, giảm chi phí thì các cơ quan hữu quan đỡ mất thời gian kiểm tra tình hình thực hiện công nợ của chủ đầu tư với các nhà thầu. Ngoài ra còn thúc đẩy các chủ đầu tư lập nhanh báo cáo quyết toán để thanh toán phần tạm giữ.
- Trước khi thẩm tra, phê duyệt quyết toán, khuyến khích chủ đầu tư mời các tổ chức kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo quyết toán các công trình hoàn thành.
- Công khai quy trình, thủ tục thanh, quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành.
- Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về xây dựng; xác định rõ trách nhiệm các chủ thể tham gia quá trình đầu tư. Quản lý chặt chẽ về quy hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư, bảo đảm đúng kế hoạch, lập dự án khả thi phải sát với yêu cầu nhiệm vụ đầu tư, tiêu chuẩn định mức, quy trình, quy phạm, đơn giá, chế độ chi theo quy định, giảm đến mức thấp nhất các chi phí phát sinh trong quá trình đầu tư và nghiệm thu, thanh quyết toán công trình.
3.2.6. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong ĐTXD
- Công khai, minh bạch quá trình đầu tư từ công tác quy hoạch, kế hoạch VĐT (vốn kế hoạch tập trung, vốn sự nghiệp), danh mục dự án công trình đầu tư; thông tin hoạt động đấu thầu của các dự án, chống khép kín, bảo đảm tính cạnh tranh trong đấu thầu.
- Các cơ quan, đơn vị có dự án, công trình xây dựng phải công bố công khai quy hoạch, thiết kế, dự toán, đơn vị trúng thầu, tiến độ, thời gian thực hiện, kế hoạch vốn đầu tư để cán bộ, công nhân viên cơ quan, nhân dân địa phương giám sát quá trình đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị.
- Công khai thông tin về phòng, chống tham nhũng, lãng phí về đầu tư xây dựng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là cơ quan, đơn vị có sai phạm trong thực hiện quản lý đầu tư ĐTXD.
- Tăng cường giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân để phát hiện tham nhũng, lãng phí. Các tổ chức, đơn vị bố trí hòm thư tố giác tham nhũng, lãng phí ở đơn vị mình; khi có đơn thư tố giác cần tổ chức kiểm tra, thanh tra, điều tra, kết luận kịp thời và xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm.
- Nghiêm túc thực hiện các quy định của luật Xây dựng, luật Đấu thầu, luật Ngân sách nhà nước trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư, từ khâu lập dự án đến quyết toán ngân sách. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư các dự án, công trình bằng nguồn vốn ngân sách, nhằm ngăn chặn kịp thời các tiêu cực trong việc thi công xây dựng, nhất là những công trình trọng điểm, công trình lớn để làm cơ sở đánh giá hiệu quả đầu tư. Phối kết hợp công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại - tố cáo với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí bảo đảm đạt hiệu quả cao. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng, lãng phí.
- Các ngành, địa phương, đơn vị, chủ đầu tư phải tự kiểm tra và chịu trách nhiệm về kết quả tự kiểm tra việc chấp hành pháp luật về quản lý đầu tư ĐTXD đối với dự án, công trình do ngành, địa phương, đơn vị thực hiện.
3.2.7. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ trong hoạt động ĐTXD
- Kiện toàn, sắp xếp lại, đào tạo và đổi mới cơ chế hoạt động từ đơn vị hành chính sự nghiệp sang đơn vị tự chủ hạch toán đối với các Ban quản lý dự án; đảm bảo các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án phải đủ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm, hiệu lực, hiệu quả quản lý theo quy định của pháp luật về xây dựng. Tăng cường chất lượng các Ban quản lý dự án, những Ban quản lý dự án đã hoàn thành công trình (không còn hoạt động), hoặc không đủ năng lực, không đủ số lượng thì giải thể hoặc sát nhập. Tại mỗi Ban quản lý dự án cần bố trí những cán bộ chuyên môn có trình độ phù hợp, cần có quy trình, quy chế cụ thể trong công việc để nâng cao trách nhiệm của từng thành viên trong ban. Mỗi một cán bộ trong các Ban quản lý phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình.
- Theo các Nghị định mới của Chính phủ về ĐTXD, hiện nay các dự án thuộc xã, phường giao cho các xã, phường làm chủ đầu tư nên hiệu quả đưa lại rất thấp vì các chủ đầu tư này chưa được trang bị kiến thức về xây dựng một cách bài bản. Có thể khẳng định rằng trình độ quản lý và kiến thức về xây dựng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sử dụng vốn, thuê tư vấn cũng như giám sát công trình. Hiện nay, hầu hết các chủ đầu tư phân cấp về cho xã, phường với trình độ hiểu biết về xây dựng, về đấu thầu hạn chế. Vì vậy, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho chủ đầu tư là vấn đề rất cần thiết.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Vốn cho ĐTXD là yếu tố vật chất quan trọng, đóng vai trò quyết định để tiến hành hoạt động ĐTXD nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với một lượng vốn đầu tư từ NSNN có hạn, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN là yêu cầu bức thiết không những với thành phố Đồng Hới và còn đối với tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
Thành phố Đồng Hới là trung tâm của tỉnh Quảng Bình, có điểm xuất phát thấp, chịu ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn phá. Cơ sở hạ tầng yếu kém, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể, các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển quá nhỏ bé so với yêu cầu phát triển KT - XH của thành phố. Tuy nhiên, trong những năm qua, đặc biệt từ khi Đồng Hới được công nhận là thành phố loại 3, thành phố Đồng Hới như trở mình thức giấc, nhiều chỉ tiêu kinh tế đạt và vượt kế hoạch. Tốc độ xây dựng trên địa bàn nhanh, nhiều dự án đầu tư của tỉnh trong thời gian qua là đầu tư đúng hướng đã và đang phát huy hiệu quả, làm cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đầu tư, đầu tư xây dựng; vốn, vốn NSNN; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN.
- Giới thiệu về điều kiện tự nhiên, tình hình KT - XH của thành phố Đồng Hới và thực trạng sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN giai đoạn 2004 - 2008. Ngoài việc đánh giá chung về công tác ĐTXD trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tác giả đã cụ thể hơn tình hình thực hiện ĐTXD bằng việc phân tích tình hình quản lý các công trình đầu tư trên địa bàn thành phố Đồng Hới, để từ đó đánh giá một cách đầy đủ những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những kết quả đạt được và hạn chế tồn tại trong lĩnh vực ĐTXD từ NSNN.
- Căn cứ vào mục tiêu phát triển KT - XH của thành phố Đồng Hới giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến 2020; căn cứ vào đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế tồn tại của hoạt động đầu tư xây dựng từ NSNN để đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN của tỉnh Quảng Bình nói chung và trên địa bàn thành phố Đồng Hới nói riêng trong giai đoạn 2009 - 2015.
Việc phân tích để rút ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại, kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm quản lý vốn ĐTXD của các tỉnh và một số nước là hết sức quan trọng giúp tác giả đề xuất những giải pháp sát với thực tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ĐTXD thuộc NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới trong thời gian tới. Những giải pháp mà đề tài đã đưa ra:
1) Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch;
2) Đầu tư xây dựng tập trung, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quy hoạch được duyệt;
3) Nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong ĐTXD;
4) Thực hiện tốt công tác GPMB, tái định cư;
5) Đẩy mạnh công tác thanh, quyết toán công trình hoàn thành;
6) Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong ĐTXD;
7) Chú trọng công tác đào tạo cán bộ trong hoạt động ĐTXD.
2. Kiến nghị
Để đảm bảo cho các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng từ NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới nhanh chóng phát huy tác dụng, tác giả luận văn có các kiến nghị sau:
a. Về phía Trung ương
- Nhà nước cần quản lý tốt hơn việc sử dụng nguồn vốn NSNN cho đầu tư xây dựng vì sự phát triển có chất lượng và bền vững; phải có lộ trình thực hiện theo thứ tự ưu tiên và cần quy định việc đánh giá hiệu quả của mỗi dự án ĐTXD.
- Ngoài nguồn vốn NSNN, cần huy động các nguồn vốn khác như: VĐT trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn ODA, vốn của các thành phần kinh tế khác để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng bằng các chính sách và hình thức thích hợp.
- Cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của tập thể và cá nhân trong công tác quy hoạch, thẩm định, phê duyệt dự án, công trình. Phân cấp nhiều hơn cho địa phương là đúng, nhưng phải kèm theo kỷ cương, tinh thần liên kết, phối hợp, tránh nếp tư duy sản xuất nhỏ, cá thể. Có hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với các đơn vị, cá nhân có thành tích hoặc vi phạm.
- Khuyến khích các địa phương liên kết, hợp tác với nhau để phát huy thế mạnh của vùng và cùng phát triển.
- Các dự án đều phải đưa ra đấu thầu công khai và ngay từ khâu lựa chọn tổ chức tư vấn, khảo sát, thiết kế, lập dự án; hạn chế tối đa sự khép kín trong một bộ, ngành.
- Mọi công trình đều phải được nghiệm thu từng giai đoạn và nghiệm thu cuối cùng với đầy đủ trách nhiệm của các bên và mọi sai phạm phải bị xử phạt theo chế tài nghiêm minh của pháp luật.
- Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính thực hiện đúng luật Ngân sách, cụ thể là hai dòng Ngân sách ĐTXD và chi thường xuyên cần được quản lý thống nhất, quy định rõ bộ nào chịu trách nhiệm cuối cùng trước Chính phủ và trước Quốc hội về hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước chi cho ĐTXD.
b. Về phía UBND tỉnh Quảng Bình:
- Công tác kế hoạch phải thực sự được xây dựng từ cơ sở và thực hiện theo quy chế dân chủ. Hàng năm UBND tỉnh Quảng Bình thông báo sớm các chỉ tiêu kế hoạch, danh mục công trình và giao cho thành phố Đồng Hới làm chủ đầu tư, thành lập các Ban quản lý dự án, từ cấp xã, phường để kiểm tra quá trình thực hiện từ khâu xây dựng kế hoạch, tiến độ thi công đến nghiệm thu, quản lý công trình đưa vào sử dụng.
- UBND tỉnh Quảng Bình sớm có quy định kiện toàn các Ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh quản lý.
- Sớm ban hành hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của tổ giám sát đầu tư, hướng dẫn thực hiện phân cấp đầu tư, đặc biệt là công tác thẩm định kỹ thuật dự án.
- Giao sở Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với các sở ban ngành, địa phương từng bước hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các nhà thầu trên địa bàn, cung cấp thông tin về năng lực, kinh nghiệm các nhà thầu cho các chủ đầu tư. Hàng tháng, hàng quý phát hành tờ tin về công tác đầu tư, giới thiệu các dự án, thông tin về đấu thầu, chỉ định thầu, chất lượng công trình…
- Cần đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư có sự tham gia của người dân hưởng lợi trực tiếp nhằm rút kinh nghiệm trong việc đầu tư xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng.
- UBND tỉnh giao cho sở Xây dựng, sở Tài chính phối hợp các ban ngành liên quan xây dựng đơn giá ĐTXD trên địa bàn tỉnh để áp dụng cho từng quý.
- Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các công ty tư vấn hiện đang trực thuộc các sở, ngành nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh đối với các công ty tư vấn.
- UBND tỉnh cần quan tâm hơn nữa đến công tác tổ chức, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ĐTXD. Tỉnh phải có chính sách luân chuyển cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ĐTXD, nên luân chuyển các cán bộ phụ trách thẩm định ở các khâu của quá trình xây dựng.
c. Về phía UBND thành phố Đồng Hới:
- Hiện nay các công trình do UBND thành phố Đồng Hới làm chủ đầu tư khá nhiều, nguồn vốn từ NSNN đầu tư xây dựng các công trình cho thành phố tương đối lớn. Do vậy thành phố cần sắp xếp lại bộ máy Ban quản lý dự án có đủ năng lực, kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng nhằm quản lý tốt và có hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn NSNN đầu tư cho các công trình trên địa bàn thành phố.
- UBND thành phố cần có đề án đề nghị UBND tỉnh phê duyệt chính sách cụ thể về chế độ bồi thường GPMB một cách thỏa đáng cho người dân để tránh tình trạng công trình bị chậm tiến độ do không GPMB được.
- Là đơn vị chủ đầu tư, UBND thành phố cần có quy định để lựa chọn các tổ chức tư vấn, nhà thầu thi công có năng lực thực sự để chất lượng công trình được đảm bảo theo quy định của nhà nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Quản lý dự án ĐTXD, UBND thành phố Đồng Hới, Báo cáo hoạt động ĐTXD (2004 - 2008)
Báo cáo Kết quả phát triển KT - XH, quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của BCH TW Đảng (khóa IX) về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới - Báo cáo của UBND thành phố Đồng Hới
Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 10/2005/TT-BTC ngày 02/02/2005, Hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với việc phân bổ, quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn NSNN
Bùi Mạnh Cường. ĐT-XDCB Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam
Chiến lược phát triển ngành Tài chính 2001 - 2010 - Bộ Tài chính (2000)
Cục Thống kê (2004 - 2008), Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Bình
Đầu tư XDCB - Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam - Bùi Mạnh Cường
Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế quốc dân (1998) - NXB Giáo dục
Kinh tế Đầu tư Xây dựng - GS.TSKH Nguyễn Văn Chọn - NXB Xây dựng 2003
Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng
Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng
Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng
Nghị Quyết, chương trình, Chỉ thị, Đề án của cấp uỷ, chính quyền thành phố Đồng Hới - Năm 2008
Nguyễn Thị Cành (2004), Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học kinh tế, NxB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh
Phạm Quang Long (2007), Một số giải pháp hoàn thiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình - Luận văn Thạc sỹ kinh tế - Đại học Kinh tế Huế.
Phân tích và quản lý dự án đầu tư - PGS.TS Thái Bá Cẩn - NXB Giáo dục 2008
Phòng Kế hoạch - Tài chính UBND thành phố Đồng Hới (2004 - 2008), Báo cáo tình hình thanh quyết toán vốn ĐTXD
Phòng Kế hoạch - Tài chính UBND thành phố Đồng Hới (2004 - 2008), Báo cáo kế hoạch phân bổ vốn ĐTXD
Phòng Kế hoạch - Tài chính UBND thành phố Đồng Hới (2004 - 2008), Báo cáo tình hình thu chi ngân sách
Phòng Thống kê UBND thành phố Đồng Hới (2004 - 2008), Niên giám Thống kê thành phố Đồng Hới
Quốc hội, Luật Đấu thầu, Số 61/2005/QH61 ngày 29/11/2005
Quốc hội, Luật Đầu tư, Số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước, Số 01/2002/QH ngày 16/12/2002
Quốc hội, Luật Xây dựng, Số 11/2003/QH11 ngày 26/11/2003
Trần Văn Sơn (2006), Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách địa phương, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân
UBND thành phố Đồng Hới (2004 - 2008), Kế hoạch phát triển KT-XH T.P Đồng Hới
UBND thành phố Đồng Hới, Quy hoạch phát triển KT-XH thành phố Đồng Hới 2006 - 2010 và định hướng đến 2020
Website: Trung tâm thông tin KT - XH tỉnh Quảng Bình; Trung tâm thông tin KT - XH thành phố Đồng Hới
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31793.doc