Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước quan trọng trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Với đường lối đổi mới đó, bước đầu chúng ta đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Biểu hiện đó là những năm gần đây nền kinh tế đang dần khởi sắc, đã có sự tích luỹ nội bộ nền kinh tế và thu hút được nhiều nguồn vốn, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động ở Công ty Bánh kẹo Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Phải nói rằng việc chuyển đổi cơ chế kinh tế đã khuyến khích kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển này góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế. Một số doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn bởi trình độ quản lý chưa theo kịp với đà lên ngày càng cao của cơ chế thị trường, kèm theo là sự phản ứng kém linh hoạt với phương thức và cách thức điều hành doanh nghiệp điển hình trong lĩnh vực tài chính. Các doanh nghiệp còn lúng túng trong huy động, quản lý và sử dụng vốn.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào sản xuất hay xem xét một phương án kinh doanh đều quan tâm đầu tiên đến vốn kinh doanh của mình và sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Muốn vậy, công tác tài chính của doanh nghiệp phải được thực hiện một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đảm bảo thực hiện đúng chế độ chính sách. Thông qua việc phân tích tài chính, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức kinh tế có thể biết được nguyên nhân dẫn đến hoạt động có hiệu quả hay không hiệu quả. Từ đó tìm ra các biện pháp để khắc phục.
Xuất phát từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại công ty Bánh kẹo Tràng An, em đã nghiên cứu tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cũng trong thời gian đó, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú phòng tài vụ của công ty, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An ”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương với các nội dung sau:
CHƯƠNG I: Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG II: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An.
CHƯƠNG III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An.
Trước khi đi vào nội dung chính của đề tài, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.S Đặng Ngọc Đức và các thầy cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
CHƯƠNG I
Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1. Vốn và vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp.
1.1.1. Doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Khi chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị kinh doanh phải có tư duy lý luận mới, cùng kinh nghiệm quản lý thực tiễn các vấn đề có ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường và cơ chế kinh tế thị trường là những yếu tố khách quan không thể hạn chế hay phân biệt một cách chủ quan thành thị trường có tổ chức, thị trường tự do để tạo ra sự ngăn cách quá trình hoạt động của các quy luật thị trường. Nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ đi thẳng lên vào phương thức quản lý và cơ chế kế hoạch hoá tập trung hành chính bao cấp được vận hành trong điều kiện không có thị trường do đó hàng hoá chậm phát triển, các quan hệ thị trường và sự vận động các quy luật kinh tế khách quan hầu như bỏ qua. Với sự phát triển khách quan của sản xuất và lưu thông hàng hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã tất yếu nảy sinh và hình thành thị trường hàng hoá. Kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước đã khẳng định một điều: Thị trường không phải là tự phát, sự vận động hàng hoá của các quan hệ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn có sự hướng dẫn và điều chỉnh của nhà nước.
Từ những thay đổi đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước như phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thực hiện chính sách “mở cửa” để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Kinh tế thị trường càng phát triển, số lượng các doanh nghiệp với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như: các nghành công nghiệp, nông lâm nghiệp, giao thông, xây dựng, ngân hàng, bảo hiểm… Đối với nền kinh tế thị trường thì các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính là các doanh nghiệp được hình thành một cách tất yếu, các bộ phận cấu thành hữu cơ trong tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có chức năng cơ bản là tạo ra nguồn tài chính đáp ứng các yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khác, thực hiện các mối quan hệ tài chính nhiều giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước, với tầng lớp dân cư và các tổ chức xã hội tạo nên thị trường tài chính đa dạng trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp này có vai trò to lớn trong việc tạo lập thị trường vốn, thị trường tiền tệ, đồng thời cũng là các thành viên hoạt động với tư cách như những nhịp cầu trung gian nối liền với sự vận động các nguồn vốn trong nền kinh tế giữa các chủ sở hữu, tạo ra các yếu tố kích thích sự phát triển sản xuất kinh doanh.
Từ sự tồn tại và phát triển đầy đủ các loại hình doanh nghiệp sẽ phát triển rất nhiều các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh của doanh nghiệp như mối quan hệ với nhà nước, với bạn hàng và khách hàng về các vấn đề quản lý, kinh doanh tài chính, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm… các quan hệ này ngày càng phát triển dẫn đến sự phát triển của các loại hình tổ chức doanh nghiệp và làm phong phú các mối quan hệ tài chính. Nhưng tóm lại, cho dù trong hoàn cảnh nào, cho dù sự thay đổi có lớn lao đến chừng nào thì cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không thể thoát ly được những đặc trưng vốn có của doanh nghiệp. Chúng ta thấy rằng, thị trường quyết định mọi hành vi của doanh nghiệp. Mọi quyết định của doanh nghiệp như: đưa ra một sản phẩm mới hay ngừng sản xuất kinh doanh sản phẩm cũ, mở rộng quy mô sản xuất hay thu hẹp quy mô sản xuất, xâm nhập thị trường hay rút lui khỏi thị trường… đều có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp. Một quyết định đúng đắn sẽ giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Ngược lại, quyết định ó mà sai lầm có thể dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp, thậm chí dẫn đến một sự phá sản của doanh nghiệp.
1.1.2. Những vấn đề chung về vốn sản xuất kinh doanh.
1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau.
Theo quan điểm của Mác, vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa của Mác về vốn có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ bản chất và vai trò của vốn. Tuy nhiên do hạn chế về trình độ phát triển của nền kinh tế nên Mác đã quan niệm rằng chỉ có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo quan điểm của P.Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cuốn “kinh tế học” của David Begg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa đó là: vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là các giấy tờ có giá và tiền mặt của doanh nghiệp. Như vậy, David Begg đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Đó là một hạn chế bởi thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn được phản ánh ở bên phải bảng cân đối kế toán, nó phản ánh cơ cấu và nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp. Còn tài sản phản ánh mục đích cụ thể của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chúng ta biết rằng các doanh nghiệp được coi như các tế bào của nền kinh tế. Doanh nghiệp là nơi trực tiếp sử dụng và khai thác mọi khả năng để sản xuất kinh doanh sản phẩm, hàng hoá dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có đủ ba yếu tố để phục vụ cho quá trình sản xuất đó là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Để có thể đáp ứng được yêu cầu cần thiết của những yếu tố trên thì buộc các doanh nghiệp phải có một lượng tiền vốn nhất định.
Lượng tiền vốn này sẽ vận động liên tục trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm và thu lợi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có một khái niệm về vốn: “ vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp”.
1.1.2.2. Đặc điểm của vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, để quản lý và sử dụng vốn một cách hiệu quả cần phải nhận thức đầy đủ hơn về những đặc trưng sau đây của vốn:
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định, điều này có nghĩa vốn được biểu hiện bằng giá trị của nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chất xám, bí quyết công nghệ... Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì những tài sản này ngày càng đa dạng.
- Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, đây là đặc điểm cơ bản nhất của vốn.
- Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian vì sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định, không thể có những đồng vốn vô chủ vì ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí kém hiệu quả.
- Vốn được quan niệm như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính.
1.1.2.3. Phân loại vốn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Vốn được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
1.1.2.3.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn sản xuất kinh doanh.
Dựa vào căn cứ này vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai nguồn: Nguồn hình thành từ vốn chủ sở hữu và nguồn hình thành từ nợ phải trả.
1.1.2.3.1.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn do ngân sách Nhà nước cấp, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận từ lợi nhuận từ các quỹ của doanh nghiệp, vốn liên doanh liên kết. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tổng tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.
* Vốn do ngân sách Nhà nước cấp.
Là vốn do Nhà nước cấp cho doanh nghiệp được xác nhận trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Vốn do Nhà nước cấp có hai loại là vốn cấp ban đầu và vốn cấp bổ sung trong quá trính sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sử dụng vốn này phải nộp ngân sách một tỷ lệ phần trăm nào đó trên vốn cấp gọi là thu sử dụng vốn ngân sách.
* Vốn tự bổ sung.
Là vốn nội bộ doanh nghiệp bao gồm: vốn khấu hao cơ bản, lợi nhuận để lại, vốn cổ phần.
* Vốn liên doanh, liên kết.
Là vốn do doanh ngiệp liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh này có thể gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu hợp đồng liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc, thiết bị.
1.1.2.3.1.2. Nợ phải trả.
* Tín dụng thương mại.
Đây là một loại tín dụng thường được các doanh nghiệp sử dụng, coi đó như là một nguồn vốn ngắn hạn. Tín dụng thương mại chính là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, mua bán trả chậm hay trả góp. Tín dụng thương mại luôn gắn với một luồng hàng hoá dịch vụ cụ thể, gắn với một quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của chính sách tín dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng.
Tín dụng thương mại là phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh mà nó còn tạo ra khả năng mở rộng hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên do đặc điểm của các khoản tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một cách khoa học, nó có thể đáp ứng phần nào vốn lưu động cho doanh nghiệp. Mặt khác, do là nguồn vốn ngắn hạn nên sử dụng qua nhiều loại hình này dễ gặp phải các rủi ro như: rủi ro về lãi suất, rủi ro về thanh toán. Trên thực tế, chiếm dụng đến một mức độ nào đó có thể coi là tín dụng thương mại.
* Tín dụng ngân hàng.
Đây là khoản vay tại các Ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp, với thời hạn có thể từ vài ngày tới cả năm với lượng vốn theo nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp vay ngắn hạn khi thiếu vốn lưu động.
Sự tài trợ của ngân hàng cho doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều phương thức.
Một là, cho vay theo từng món. Theo phương thức này, khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn với một lượng nhất định và thời hạn xác định, doanh nghiệp làm đơn xin vay. Nếu được ngân hàng chấp nhận, doanh nghiệp sẽ ký khế ước nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc trả nợ được thực hiện theo các kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn.
Hai là, cho vay luân chuyển. Phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ sung thường xuyên và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra. Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời hạn nhất định. Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa ma ngân hàng có thể chấp thuận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã rhoả thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác định.
* Vốn huy động qua thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể huy động vốn qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành trái phiếu, đây là công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút được số vốn nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp.
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng nữa đó là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Việc cho phép phát hành mới và phát hành bổ sung cổ phiếu không chỉ phụ thuộc vào tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp, mà còn phải xem xét các nhân tố khác. Mục đích của việc phát hành cổ phiếu đó là:
- Huy động vốn điều lệ cho các công ty cổ phần đang trong quá trình thành lập hoặc là thành lập mới hoàn toàn, hoặc là tách một bộ phận của doanh nghiệp Nhà nước để thành lập công ty cổ phần mới.
- Tăng vốn điều lệ cho các công ty cổ phần.
- Cổ phần hoá một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp Nhà nước.
Trong ba mục đích đó, hai mục đích đầu có tính vĩnh cửu vì việc huy động vốn và tăng vốn điều lệ là yêu cầu thường xuyên của nền kinh tế phát triển và tăng trưởng. Mục đích thứ ba có tính tình thế.
* Tín dụng thuê mua:
Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn tín dụng thuê mua là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị... Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính.
a. Thuê vận hành.
Phương thức thuê vận hành hay còn gọi là thuê hoạt động, là một hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Thuê vận hành có hai đặc trưng chính:
- Thời gian thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản. Điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn.
- Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thoả thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như: chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản... cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
Như vậy, hình thức thuê vận hành hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời vụ. Hình thức này được coi là một loại hợp đồng để chấp hành, tài sản đi thuê không được phản ánh trong sổ sách kế toán của người thuê, số tiền thuê trả tiền trả theo hợp đồng được ghi như một chi phí bình thường khác.
b. Thuê tài chính.
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua lại tài sản từ người cho thuê. Thuê tài chính có đặc trưng sau:
- Thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Trong thời hạn thuê chính thức, các bên trong hợp đồng không được quyền huỷ bỏ hợp đồng chỉ trừ những trường hợp đặc biệt mà tất cả các bên đều đồng ý.
- Ngoài khoản tiền thuê tài sản trả cho bên cho thuê, các khoản chi phí bảo dưỡng vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản cũng như các rủi ro khác đối với tài sản do bên thuê phải chịu cũng tương tự như tài sản của công ty mua sắm.
Từ việc nghiên cứu các tiêu thức phân loại về vốn của doanh nghiệp cho thấy rằng: các doanh nghiệp hiện nay ngoài việc phải chủ động trong khâu tạo lập vốn còn cần phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn sao cho đồng vốn phát huy hết tác dụng của mình để đạt được lợi ích kinh tế cao nhất.
1.1.2.3.2. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
1.1.2.3.2.1. Vốn cố định.
Vốn cố định là một khoản tiền đầu tư vào việc mua sắm, xây dựng tài sản cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- Giá trị của vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh dưới hình thức chi phí khấu hao tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Bộ phận còn lại chưa luân chuyển được tồn tại dưới hình thức giá trị còn lại của tài sản cố định và bộ phận này ngày một giảm đi ngược chiều với thời gian đã sử dụng.
- Vốn cố định hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Do tài sản cố định có thời gian sử dụng dài cho nên vòng tuần hoàn chu chuyển vốn cố định thường rất lớn.
Qua đặc điểm chu chuyển của vốn cố định ta có thể thấy vốn cố định được vận động theo quy luật riêng, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Việc đầu tư đúng hướng tài sản cố định sẽ mang lại hiệu quả và năng suất cao trong kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn và đứng vững trên thị trường.
2.2.4.2. Vốn lưu động.
a. Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên, liên tục. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp.
Vốn lưu động tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm.
Giá trị vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình vận động của vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng lên do việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của vốn lưu động ở các doanh nghiệp sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H’ - T’
Trong quá trình vận động, đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho chúng ta thấy hàng hoá dược mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng tạo ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b. Cơ cấu vốn lưu động.
Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý vốn lưu động. Trên cơ sở đó đáp ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
Muốn quản lý tốt vốn lưu động, các doanh nghiệp trước hết phải nhận biết được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động. Trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại.
* Căn cứ vào công dụng của các tài sản lưu động thì vốn lưu động bao gồm :
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ...
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế, vốn về chi phí phân bổ...
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: vốn thành phẩm, hàng hóa mua ngoài, vốn tiền tệ, vốn tạm ứng...
* Căn cứ về mặt kế hoạch hóa, vốn lưu động được chia thành vốn lưu động không định mức và vốn lưu động định mức:
- Vốn lưu động định mức: là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hóa và vốn phi hàng hóa.
- Vốn lưu động không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được
* Căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn lưu động bao gồm:
- Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được
- Các khoản phải thu
- Các khoản dự trữ: vật tư, hàng hóa ...
c. Nguồn vốn lưu động.
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của doanh nghiệp.
* Vốn tự có bao gồm:
- Nguồn vốn pháp định: chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân.
- Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khảon chênh lệch hàng hóa tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
- Nguồn vốn lưu động liên doanh: gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hóa, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ ...
* Vốn coi như tự có.
Được hình thành do phương pháp kế toán hiện hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có : tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hôi, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
* Vốn đi vay:
Nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
1.1.3. Vai trò của vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng đối với hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.3.1. Vai trò của vốn.
Vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động kinh doanh. Vốn là tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị sản xuất kinh doanh ... nếu thiếu vốn thì quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ, kéo theo hàng loạt các tác động tiêu cực khác đến bản thân doanh nghiệp và đến đời sống của người lao động.Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ... Tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyêt định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi, đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Chính vì vậy, doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý vốn có hiệu quả, sử dụng vốn một cách tiết kiệm tránh việc lãng phí vốn, đảm bảo vốn đầu tư đúng thời điểm, đúng chỗ cho sản xuất kinh doanh. Đặc biệt doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Có làm được như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới có lãi.
1.1.3.2. Vai trò của vốn lưu động.
Vai trò chung nhất của vốn lưu động cũng như vốn cố định và cũng là vai trò của vốn sản xuất kinh doanh nói chung ở mọi doanh nghiệp là phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phục vụ cho mục đích kiếm lời cao nhất của đơn vị.
Vốn lưu động luôn luôn vận động không ngừng trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, nó có vai trò đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Bên cạnh đó, vốn lưu động còn có vai trò trong việc tạo và khẳng định quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp có khả năng thích ứng nhanh nhạy hơn với cơ chế thị trường hết sức linh hoạt như hiện nay.
Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi nó không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Chính vì thế, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Do vậy, các nguồn lực kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Do đó, việc đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ giúp ta thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử dụng vốn lưu động nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lợi tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, vòng quay vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn, vòng quay hàng tồn kho... Nó chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải đảm bảo các điều kiện quan trọng sau đây:
- Phải khai thác nguồn lực vố._.n một cách triệt để tức là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý, tiết kiệm, tránh lãng phí vốn.
- Phải quản lý một cách chặt chẽ không để tình trạng vốn bị sử dụng sai mục đích, vốn bị thất thoát do việc buông lỏng quản lý.
Doanh nghiệp nên thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Qua đó tìm ra nguyên nhân yếu kém và tích cực phát huy những ưu điểm, thế mạnh của mình trong quản lý và sử dụng vốn lưu động.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Khi phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng hệ thống các chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Sức sinh lời của vốn lưu động.
Sức sinh lời của vốn lưu động =
Lợi nhuận
VLĐ bình quân
VLĐ bình quân =
VLĐ đầu kỳ + VLĐ cuối kỳ
VLĐ bình quân
Trong đó:
Chỉ tiêu này cho biết:
- Cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt
1.2.2.2. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động.
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
VLĐ bình quân
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết
- Cứ một đồng vốn lưu đồng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
1.2.2.3. Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển).
Số vòng quay của VLĐ =
Doanh thu thuần
VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết
- Vốn lưu động được quay mấy vòng trong kỳ
- Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ ư và ngược lại
1.2.2.4. Thời gian của một vòng luân chuyển.
Thời gian của một
vòng luân chuyển
Thời gian kỳ phân tích
Số vòng quay của VLĐ
=
Thường lấy thời gian của kỳ phân tích là 1 năm hay hay 360 ngày.
Chỉ tiêu này cho biết
- Số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng
- Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.
1.2.2.5. Số vòng quay của hàng tồn kho.
Số vòng quay HTK
Giá vốn hàng bán
HTK bình quân
=
Chỉ tiêu này phản ánh số lần mà HTK bình quân luân chuyển trong kỳ.
Trong đó:
HTK bình quân
HTK đầu kỳ + HTK cuối kỳ
2
=
1.2.2.6. Thời gian một vòng quay hàng tồn kho.
Thời gian một vòng quay HTK
360 ngày
Số vòng quay HTK
=
Mặt khác do vốn lưu động biểu hiện dưới nhiều dạng tài sản lưu dodọng khác nhau như tiền mặt, nguyên vật liệu, các khoản phải thu ... nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta còn di đánh giá các mặt cụ thể trong công tác quản lý sử dụng vốn lưu động. Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh chất lượng của công tác quản lý ngân quỹ và các khoản phải thu.
* Khả năng thanh toán hiện hành:
Hệ số thanh toán hiện hành
Tổng số TSLĐ
Tổng số nợ ngắn hạn
=
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện rõ nét thông quả khả năng thanh toán, đó là khả năng mà doanh nghiệp trả được các khoản nợ phải trả khi nợ đến hạn thanh toán.
- Hệ số cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp, nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có dư khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp là bình thường hoặc khả quan.
* Tỷ suất thanh toán tức thời:
Tỉ suất thanh toán tức thời
Tổng số vốn bằng tiền
Tổng số nợ ngắn hạn
=
- Nếu tỷ suất > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan.
- Nếu tỷ suất < 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng hóa, sản phẩm để trả nợ vì không dư tiền thanh toán.
* Số vòng quay các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu
Tổng số doanh thu bán chịu
Bình quân các khoản phải thu
=
- Chỉ tiêu cho biết mức hợp lý của số dư các khản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nợ. Nễu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển của các khoản phải thu sẽ nâng cao và vốn của công ty ít bị chiếm dụng.
- Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ.
* Thời gian một vòng quay các khoản phải thu
Thời gian một vòng quay các khoản phải thu
Thời gian kỳ quân tích
Số vòng quay các khoản phải thu
=
- Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi được các khoản phải thu cần một thời gian là bao nhiêu.
- Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại.
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động kinh tế nhằm mang lại lợi nhuận thông qua sản xuất kinh doanh. Sự thành bại của một nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là ba yếu tố. Vốn sản xuất kinh doanh gồm cả khả năng cung ứng và tích luỹ, tích tụ, đổi mới sử dụng vốn, trình độ quản lý và thị trường. Chúng ta biết rằng nguồn lực tài chính bao giờ cũng có giới hạn, vậy vấn đề cốt yếu là làm sao sử dụng nguồn lực hiệu quả chứ không phải là đòi thêm nguồn lực. Do vậy doanh nghiệp là hoạt động tạo ra nguồn tài chính, tái tạo lại ra nguồn tài chính là hoạt động quan trọng nhất, đó là nguyên tắc. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Từ khi đổi mới cơ chế kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó các doanh nghiệp phải thay đổi cơ chế hoạt động thì mới có thể tồn tại và phát triển. Chúng ta biết rằng cạnh tranh là quy luật kinh tế vốn có của nền kinh tế thị trường, nó cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì nó khiến cho doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể đứng vững trên thương trường và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận, đến quyền lợi đến mục đích cao nhất của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao lợi nhuận, chẳng có một lý do nào để doanh nghiệp có thể từ chối việc làm đó. Như vậy, ta có thể nhận thấy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là việc làm thiết yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào, người ta không thể từ chối thu một khoản lợi nhuận hay doanh thu nhiều hơn trên một đồng vốn bỏ ra mà ngược lại họ muốn thu nhiều, ngày càng nhiều.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn về tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp có đủ tiềm lực để khắc phục những khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người định đoạt số phận của doanh nghiệp chính là thị trường mà không phải là ai khác, song Nhà nước cũng đóng một vai trò nhất định. Nếu sử dụng đồng vốn hiệu quả thì việc đáp ứng nhu cầu thị trường là điều không khó khăn đối với doanh nghiệp nữa.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao tính cạnh tranh. Trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt hiện nay thì điều này càng được khẳng định chắc chắn hơn. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì điều kiện tiên quyết không thể thiếu là doanh nghiệp phải xem xét vấn đề chất lượng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm và phải quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vấn đề này quyết định lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như: nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động... Khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và cải thiện mức sống của họ. Điều này giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng tăng, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan.
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là yêu cầu chung đối với các doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả trở thành một yêu cầu khách quan của cơ chế hạch toán đó là: kinh doanh tiết kiệm, có hiệu quả trên cơ sở tự chủ về mặt tài chính. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tham gia vào suốt quá trình sản xuất kinh doanh là kho vốn được đưa và sử dụng cho hoạt dộng của doanh nghiệp. Trong quá trình vận động liên tục này, vốn lưu động chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng của nó.
1.2.4.1. Những nhân tố khách quan
1.2.4.1.1. Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trưởng là điều tất yếu nhưng các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Với bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián tiêps chi phối các mảng hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn như Nhà nước tăng thuế thu nhập của doanh nghiệp ; điều này trực tiếp làm suy giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp ; chính sách cho vay … đều có thể làm tăng hoạc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp . Bên cạnh đó, các quy định của Nhà nước về phương hướng, định hướng phát triển của các ngành kinh tế đều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.4.1.2. Tác động của thị trường.
Kinh tế thị trường là một sự phát triển chung của xã hội nhưng trong nó vẫn có những mặt trái tồn tại và khi cơ chế thị trưởng mới được một sự linh hoạt, nhạy bén bao nhiêu thì mặt trái của nó lại là những thay đổi liên tục đến chóng mặt gái cả của đồng tiền . Giá cả của các loại đồng tiền vì thế mà mất giá nghiêm trọng, lạm phát lại vẫn thường xuyên xảy ra. Điều này gây ra tình trạng với một lượng tiềm như cũ thì không thể tái tạo lại. Như vậy, đương nhiên vốn của doanh nghiệp bị mất dần.
Chúng ta biết rằng cạnh tranh là quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường. Do vậy, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm có như vậy doanh nghiệp mới có thể thắng trong cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta biết rằng thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu thị trường ổn định sẽ là tác nhân tích cự thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở rộng thị trường.
1.2.4.1.3. Tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Khi khoa học kỹ thuật phát triển đến tốc độ đỉnh cao trong thời đại văn minh này như một sự kỳ diệu, thị trường công nghệ biến động không ngừng và chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn, làn sóng chuyển giao công nghệ sản xuất . Mặt khác, nó đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh gay gắt, ngày càng khốc liệt.
Do đó, để sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp phải xem xét đầu tư vào công nghệ nào và phải tính đến hao mòn vỏ hình do phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
1.2.4.1.4. Tác động của môi trường tự nhiên.
Đó là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như: khí hậu, thừi tiết, môi trường... Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên phù hợp sẽ tăng năng suất lao động và từ đó tăng hiệu quả công việc.
Ngoài ra có một số nhân tố mà người ta thường gọi là nhân tố bắt khả kháng như thiên tai, địch hoạ... gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp . Từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.4.2. Những nhân tố chủ quan.
1.2.4.2.1. Tác động của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay.
1.2.4.2.2. Tác động của sản phẩm.
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và việc tiêu thụ sản phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp .
Vị thế của sản phẩm trên thị trường nghĩa là sản phẩm đó mang tính cạnh tranh hay độc quyền, được người tiêu dùng ưa chuộng hay không … sẽ quyết định tới lượng hàng bán ra và giá cả đơn vị sản phẩm . Chính vì ảnh hưởng tới lượng hàng hóa bán ra và giá cả của chúng mà sản phẩm ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận và doanh thu của doanh nghiệp . Từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy, trước khi quyết định sản phẩm hay ngành nghề kinh doanh , doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường và chu kỳ sống của sản phẩm . Có như vậy, doanh nghiệp mới mong thu được lợi nhuận.
1.2.4.2.3. Trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Trình độ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp: nói chung yếu tố con người là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong doanh nghiệp .
Công nhân sản xuất có tay nghề cao, có kinh nghiệm là việc, có khẳ năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tái sản trong quá trình lao động sản xuất mới tăng được năng suất lao động, tiết kiệm trong sản xuất từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Trình độ cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp . Có quản lý về mặt nhân sự tốt mới đảm bảo ó được một đội ngũ lao động có năng lực thực hiện nhiệm vụ, sắp xếp lao động hợp lý thì mới không bị lãng phí lao động... Những điều này sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn. Trình độ quản lý về mặt tài chính là hết sức quan trọng, quy trình hạch toán của doanh nghiệp có phù hợp, số liệu kế toán có chính xác thì các quyết định tài chính của người lãnh đạo doanh nghiệp mới có cơ sở khoa học. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, việc thu, chi phải rõ ràng, tiết kiệm, đúng việc, đúng thời điểm thì mới có thể năng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trình độ quản lý còn thể hiện trên một số mặt cụ thể như: quản lý hàng tồn kho, quản lý khâu sản xuất, quản lý khâu tiêu thụ... chỉ khi các công tác quản lý này được thực hiện tốt thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mới được nâng cao rõ rệt.
1.2.4.2.4. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp . Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải trải qua ba giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ
- Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu đố đầu vào cho qua strình sản xuất như nguyên vật liệu, lao động... nó bao gồm hoạt động mua và dự trữ. Một doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là doanh nghiệp đó đã xác định được lượng phù hợp của từng loại nguyên nhiên vật liêu, số lượng lao động cần thiết và doanh nghiệp đã biết kết hợp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra, đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hóa đầu vào phải được đảm bảo, chi phí mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ là đảm bảo cho quá tình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh nên để đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì phải xác định được mức dự trữ hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản.
- Khâu sản xuất (đối với các doanh nghiệp thương mại không có khâu này) trong giai đoạn này phải sắp xếp dây chuyền sản xuất cũng như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiế bị có hiệu quả nhất, khai thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm .
- Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định gái bán tối ưu đồng thời cũng phải có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất.
1.2.4.2.5. Việc xác định cơ cấu vốn và nhu cầu vốn.
1.2.4.2.5.1. Việc xác định cơ cấu vốn.
Cơ cấu vốn đầu tư là một nhân tố mang tính chủ quan có tác động đến hiệu quả của sử dụng vốn của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc chung, tỷ trọng các khoản vốn đầu tư cho tài sản đang dùng và sử dụng có ích cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải là cao nhất thì mới là cơ cấu vốn tối ưu.
- Phải đảm bảo cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp .
- Phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cố định tích cực và vốn cố định không tích cực.
- Phải đảm bảo tính đồng bộ giữa các công đoạn của quá trình sản xuất để phát huy tối đa hiệu quả công suất về thời gian và số lượng.
1.2.4.2.5.2. Việc xác định nhu cầu vốn.
Nhu cầu vốn của một doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào cũng bằng chính tổng số tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt dộng kinh doanh . Việc xác định nhu cầu vốn là hết sức quan trọng.
Do chất lượng của việc xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác hay chính xác cũng ảnh hưởng đến tình trạng thừa hoặc thiếu hoặc đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thừa hay thiếu vốn đều là nguyên nhân hay biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn kém hiệu quả. Ngược lại, xác định nhu cầu vốn phù hợp thực tế sử dụng vốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2.4.2.6. Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn.
Là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán - tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết.
1.2.4.2.7. Lựa chọn các phương án đầu tư.
Lựa chọn phương án đầu tư là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp . Cụ thể, nếu doanh nghiệp biết nắm bắt thị trường, thị hiếu người tiêu dùng để dựa vào đó đưa ra được phương án đầu tư nhằm tạo ra được những sản phẩm cung ứng rộng rãi trên thị trường, được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận thì sẽ có doanh thu cao, lợi nhuận nhiều, hiệu quả sử dụng vốn vì thế mà tăng lên. Ngược lại nếu phương án đầu tư không tốt sản phẩm làm ra chất lượng kém không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì sẽ khôgn tiêu thụ được hàng hóa , vốn bị ứ đọng là thế, vòng quay vốn bị chậm lại, tất yếu, đó là biểu hiện không tốt về hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4.2.8. Các mối quan hệ của doanh nghiệp.
Đó là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp. Các mối quan hệ này rất quan trọng, nó có ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất, khả năng phân phối sản phẩm, lượng hàng tiêu thụ... là những vấn đề trực tiếp tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu các mối quan hệ trên được diễn ra tốt thì quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới diễn ra thường xuyên liên tục, sản phẩm làm ra mới tiêu thụ được nhanh chóng, khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Để có được mối quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể để vừa duy trì mối quan hệ với các bạn hàng lâu năm, vừa thiết lập được mối quan hệ với các bạn hàng mới. Tùy thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể của mình mà mỗi doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình những biện pháp thích hợp: đổi mới quy trình thanh toán sao cho thuận tiên, mở rộng mạng lưới bán hàng và thu mua nguyên vật liệu, áp dụng các biện pháp kinh tế để tăng cường lượng hàng bán, đa dạng hóa sản phẩm, bán hàng trả chậm, các khoản giảm giá …
Chương II
Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn lưu động
ở Công ty Bánh kẹo Tràng An
2.1. Giới thiệu chung về công ty Bánh kẹo Tràng An.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty.
Công ty Bánh kẹo Tràng An trực thuộc Liên hiệp thực phẩm vi sinh Hà Nội (Bộ Công nghiệp nhẹ), là một đơn vị kinh tế độc lập được thành lập theo thông báo số 1113/CN (21/11/1992) của Bộ Công nghiệp nhẹ và Quyết định 2138/QĐUB (08/12/1992) của UBND Thành phố Hà Nội. Công ty được đặt tại phường Nghĩa Đô - Quận Cầu Giấy - Hà Nội, trên diện tích 41.000m2, tiện đường giao thông và có nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các loại bánh, kẹo nhằm đáp ứng nhu cầu cho nhân dân Thủ đô và cả nước.
Có nguồn gốc từ Xí nghiệp kẹo Hà Nội sát nhập với Xí nghiệp Mì Nghĩa Đô năm 1989. Công ty được Nhà nước chính thức cấp vốn 1.825.797 đồng để làm vốn ban đầu, cùng với nguồn vốn vay ngân hàng. Đến nay, Công ty đã đầu tư nâng cấp được cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị tương đối vững chắc đưa Công ty lên vị trí doanh nghiệp cỡ vừa thuộc thành phần kinh tế quốc doanh.
Để có được như ngày hôm nay, Công ty Bánh kẹo Tràng An đã trải qua không ít khó khăn. Ngay từ buổi đầu mới thành lập Công ty đã phải chủ động tự tìm kiếm bạn hàng, tìm kiếm nơi tiêu thụ cho sản phẩm của mình không những tiêu thụ trong nước mà còn phải xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Đầu vào không đủ, đầu ra quá chậm đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế suy thoái trì trệ, siêu lạm phát xảy ra thường xuyên lúc bấy giờ những khó khăn này tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Thế nhưng với chiến lược phát triển đúng đắn cùng với đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn cao (80% có bằng đại học) và một lớp công nhân lành nghề, có trách nhiệm, công ty đã dần vượt qua được cơn khủng hoảng. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường tiêu thụ sản phẩm không chỉ trong phạm vi cả nước mà công ty còn xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường thế giới. Với số lượng và chủng loại sản phẩm ngày càng tăng, nếu như ban đầu công ty chỉ sản xuất 5 mặt hàng đơn điệu thì đến năm 1998 công ty đã sản xuất 35 mặt hàng và cho đến nay chủng loại mặt hàng của công ty đã lên tới hơn 40 loại sản phẩm bánh kẹo. Trong đó, sản phẩm kẹo Hương cốm và bánh kem quế là hai sản phẩm nổi tiếng rất được ưa chuộng và đã đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận khá lớn.
Về doanh số có thể nói năm 1998 là thời kỳ phát triển rực rỡ của Công ty Bánh kẹo Tràng An. Công ty đạt doanh số 65 tỷ đồng với tỷ suất lợi nhuận chiếm hơn 10%, theo đó mà vốn của Công ty cũng không ngừng tăng lên. Hiện nay, Công ty đang nắm trong tay gần 4 tỷ đồng tiền vốn lưu động. Trong vài năm gần đây, do thị trường có nhiều biến động nên việc tiêu thụ sản phẩm của công ty có phần chậm lại.
Những khó khăn, thử thách hiện nay là sự cạnh tranh khốc liệt với các đơn vị sản xuất trong nước, các doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài...
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi Công ty phải có những chiến lược, chính sách mới và phù hợp. Một mặt phải giữ được khách hàng cũ, khách hàng truyền thống, mặt khác công ty cần phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, tìm kiếm mặt hàng mới nhằm mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ sản phẩm để Công ty không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn nữa.
2.1.2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức.
Để phù hợp với nghành nghề kinh doanh của doanh nghiệp và đứng vững trên thị trường trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Trước kia trong thời kỳ bao cấp: sản xuất theo kế hoạch cấp trên giao, sản phẩm làm ra tiêu thụ theo kế hoạch. Hiện nay, Công ty Bánh kẹo Tràng An tổ chức làm 5 phân xưởng sản xuất hoạt động độc lập với nhau, mỗi phân xưởng chịu trách nhiệm sản xuất ra một hoặc một số mặt hàng nhất định:
- Phân xưởng 1: Có 166 lao động chia làm 12 tổ chuyên sản xuất các loại kẹo tổng hợp và kẹo cứng: kẹo Gừng, kẹo Tuýp, kẹo cứng Chuối...
- Phân xưởng 2: Sản xuất kẹo Hương cốm - sản phẩm độc quyền của Công ty, kẹo Socola...Phân xưởng này có 50 lao động làm trên hai dây chuyền máy thuộc loại hiện đại nhập từ Đài Loan, Tây Đức.
- Phân xưởng 3: Có 115 lao động được chia làm 10 tổ chuyên sản xuất kẹo viên và kẹo mềm.
- Phân xưởng 4: Có 80 lao động và được bố trí hai dây máy hiện đại cho sản xuất, chuyên sản xuất kẹo gói gối như: kẹo Me, kẹo Loly... và sản xuất Bột ngọt.
- Phân xưởng 5: Có 153 lao động chia làm 10 tổ, được trang bị máy móc hiện đại để phục vụ tốt nhất cho quá trình sản xuất. Phân xưởng này chuyên sản xuất các loại bánh như: bánh Quế không nhân, bánh Quế nhân sữa,nhân Socola, bánh Snack...
Ngoài 5 phân xưởng sản xuất trên, còn có một phân xưởng phục vụ cho hoạt động sản xuất chính của doanh nghiệp, đó là phân xưởng cơ nhiệt: chuyên sửa chữa máy móc thiết bị và cung cấp hơi cho các phân xưởng sản xuất chính.
Ban giám đốc và các phòng nghiệp vụ
PXI SX kẹo tổng hợp và kẹo cứng các loại
PXII SX kẹo Hương cốm, kẹo SCL
PXIII SX kẹo viên và kẹo mềm
PXIV SX kẹo gói gối và bột ngọt
PXV SX bánh các loại
Phân xưởng cơ nhiệt
Sơ đồ tổ chức sản xuất ở Công ty Bánh kẹo Tràng An:
Trừ phân xưởng cơ nhiệt, ở những phân xưởng khác, căn cứ vào các giai đoạn của quy trình công nghệ, công nhân được chia thành những bộ phận sản xuất khác nhau: dựa vào số lao động và số ca làm việc, công nhân lại được sắp xếp thành các tổ sản xuất. Chính cách tổ chức sản xuất như vậy đã giúp công ty rất nhiều trong công tác quản lý, kế toán cũng như trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất.
2.1.2.2. Bộ máy quản lý của công ty.
Có nhiều cách thức tổ chức bộ máy quản lý khác nhau. Tuỳ thuộc đặc điểm cụ thể của các doanh nghiệp mà người ta có thể tổ chức theo kiểu cơ cấu trực tuyến, cơ cấu chức năng, cơ cấu chương trình mục tiêu... Nhưng dù bộ máy quản lý được tổ chức theo cơ cấu nào cũng phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản là: tính linh hoạt, tính tin cậy, tính kinh tế...
Tại Công ty bánh kẹo Tràng An, bộ máy quản lý được tổ chức theo cơ cấu chức năng. Theo cơ cấu này, các nhiệm vụ quản lý được phân chia cho các bộ phận chức năng và mỗi người lãnh đạo chỉ đảm nhận một chức năng nhất định còn người thừa hành ở bộ phận sản xuất không chỉ nhận mệnh lệnh từ người quản lý chung mà còn từ người lãnh đạo chức năng khác. Tổ chức bộ máy theo kiểu này, Công ty đã thu hút được nhiều chuyên gia tham gia vào công tác lãnh đạo giúp cho công tác chuyên môn được tiến hành tốt hơn nhưng đồng thời lại đặt người thừa hành vào tình thế khó xử - cùng một tình huống có thể có nhiều mệnh lệnh của các cấp lãnh đạo khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này và để thực hiện tốt các yêu cầu về tổ chức quản lý: tối ưu, linh hoạt, tin cậy và kinh tế. Công ty đã sắp xếp lại lao động cho phù hợp với đặc điểm và quy mô sản xuất của mình. Hiện nay, bộ máy quản lý của công ty Bánh kẹo Tràng An gồm 80 người được chia thành một ban giám đốc và 6 phòng ban chức năng.
- Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc:
Giám đốc là người có quyền lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty, đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ công ty trước pháp luật.
+ Phó giám đốc kỹ thuật: chuyên trách việc điều hành giám sát hoạt động sản xuất và chương trình nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới.
+ Phó giám đốc kinh doanh: phụ trách mọi hoạt động kinh doanh của công ty từ việc tìm nguồn hàng, nguồn tiêu thụ đến việc nghiên cứ mở rộng thị trường, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện...
- Các phòng ban được tổ chức hết sức gọn nhẹ, đảm bảo cho quá trình quản lý diễn ra thông suốt. Nhiệm vụ chung của các phòng ban này là chấp hành và kiểm tra việc chấp hành các chế độ chính sách của Nhà nước, của công ty, các mệnh lệnh chỉ thị của Ban giám đốc, tham gia đề xuất với giám đốc những chủ trương biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý, giải quyết khó khăn vướng mắc trong công ty theo trách nhiệm quyền hạn từng phòng, phục vụ đắc lực cho các phân xưởng sản xuất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài nhiệm vụ chung, mỗi phòng ban, tuỳ thuộc chức năng đảm nhiệm còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, cụ thể:
+ Phòng phát triển thị trường: tìm kiếm các nguồn hàng và nơi tiêu thụ thông qua việc nghiên cứu thị trường, tìm hiểu giá cả, sự biến động cung cầu của vật tư, hàng hoá, tổ chức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, hội nghị khách hàng.
+ Phòng kinh doanh: chịu trách nhiệm thực hiện các hợp đồng mua bán vật tư hàng hoá. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của phòng phát triển thị trường, phòng kinh doanh lập kế hoạch lịch trình mua nguyên vật liệu. Ký kết hợp đồng mua hàng đồng thời còn phải nắm được số nhập - xuất, tồn kho thành phẩm hàng ngày để có kế hoạch bán hàng hợp lý.
+ Phòng kỹ thuật: kết hợp với phòng kinh doanh lập các kế hoạch sản xuất ngắn hạn và dài hạn, xây dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý việc sửa chữa máy móc thiết bị, nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
+ Phòng tổ chức: có nhiệm vụ quản lý lao động trong toàn công ty, lên kế hoạch sắp xếp lao động theo đúng chuyên môn nghiệp vụ, tuyển dụng lao động.
+ Phòng kế toán tài vụ: theo dõi mọi hoạt động kinh tế của công ty, phản ánh toàn diện một cánh chính xác kết quả sản xuất, cũng như hiệu quả kinh tế mà công ty đã đạt được, cung cấp những thông tin cần thiết cho lãnh đạo và các bộ phận có liên quan để đề ra những biện pháp quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh thích hợp.
Bộ máy quản lý của công ty được thể hiện ở sơ đồ sau:
Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty Bánh kẹo Tràng An:
Giám đốc
Phó giám đốc Kinh doanh
Phó giám đốc Kỹ thuật
Các phân xưởng sản xuất
Phòng
kinh doanh
Phòng phát triển thị trường
Phòng kế t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0078.doc