Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn kinh doanh là một trong số các yếu tố không thể thiếu đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh dù dưới hình thức nào thì doanh nghiệp cũng phải có một lượng vốn nhất định. Vấn đề đặt ra là muốn tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp cần có những biện pháp gì để tổ chức quản lý và sử dụng vốn một cách hiệu quả.
Công ty Cổ phẩn kim khí An Bình là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần kim khí An Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại, được thành lập năm 1993 theo Nghị định 387 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1995, Công ty là thành viên của Tổng Công ty Thép Việt Nam. Ngày 01/0/2006 chuyển đổi thành Công ty Cổ phần. Công ty có tới 11 xí nghiệp trực thuộc nằm rải rác từ Bắc vào Nam với thế mạnh là kinh doanh thương mại ngành hàng kim khí. Với doanh thu hàng năm trên dưới 700 tỷ đồng. Công ty không ngừng mở rộng quy mô hoạt động, tối đa hoá lợi nhuận, đặc biệt Công ty đang trong quá trình cổ phần hoá, vấn đề quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là rất bức thiết, nó quyết định đến khả năng cạnh tranh và vị thế của Công ty trong tương lai.
Với mong muốn giúp công ty có thể có các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình ”
2. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện các nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty, từ đó có các biện pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phù hợp với mục đích nói trên, luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức, quản lý và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần kim khí An Bình trong những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá dựa trên các tài liệu sưu tập... kết hợp với suy luận để làm sáng tỏ đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức quản lý sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình.
Chương 1
VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Khái niệm vốn kinh doanh
Vốn là yếu tố cơ bản và là tiền đề không thể thiếu của quá trình sản xuất, kinh doanh. Muốn tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn kinh doanh. Vốn được dùng để mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Vốn kinh doanh thường xuyên vận động và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong các khâu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó có thể là tiền, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm… khi kết thúc một vòng luân chuyển thì vốn kinh doanh lại trở về hình thái tiền tệ. Như vậy, với số vốn ban đầu, nó không chỉ được bảo tồn mà còn được tăng lên do hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi.
Như vậy có thể hiểu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau cụ thể như sau:
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn:
Về cơ bản, vốn kinh doanh được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
- Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc chủ sở hữu của doanh nghiệp, nó bao gồm vốn do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra và phần vốn bổ sung được hình thành từ kết quả kinh doanh.
Vốn chủ sở hữu tại một thời điểm = Giá trị tổng tài sản - Tổng nợ phải trả
Trong đó, vốn chủ sở hữu này sẽ bao gồm các khoản:
+ Với doanh nghiệp nhà nước thì đó là nguồn vốn do NSNN cấp ban đầu và cấp bổ sung, còn với doanh nghiệp tư nhân thì nguồn vốn này do chủ doanh nghiệp bỏ ra khi thành lập doanh nghiệp. Đối với Công ty cổ phần hoặc liên doanh thì nó sẽ bao gồm phần đóng góp của các chủ đầu tư hoặc các cổ đông.
+ Phần lợi nhuận để lại tái đầu tư sau các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nợ phải trả: Bao gồm các khoản đi vay của các cá nhân hay các tổ chức tín dụng dưới mọi hình thức hoặc do phát hành trái phiếu, các khoản phải trả người bán, trả cho Nhà nước, khoản người mua ứng trước, phải trả cho lao động trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn:
Dựa trên tiêu thức này, vốn kinh doanh được chia làm hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động.
- Vốn cố định của doanh nghiệp
Vốn cố định: Là lượng vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên TSCĐ của doanh nghiệp. Quy mô của vốn cố định sẽ quyết định đến lượng TSCĐ được hình thành và ngược lại, đặc điểm hoạt động của TSCĐ sẽ chi phối đặc điểm luân chuyển của vốn cố định. Từ mối liên hệ này, ta có thể khái quát những đặc thù của vốn cố định như sau:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái hiện vật. Có được đặc điểm này là do TSCĐ tham gia vào phát huy tác dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy vốn cố định là hình thái biểu hiện bằng tiền của TSCĐ và cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
+ Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng, thì giá trị của nó cũng bị giảm đi, theo đó vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất TSCĐ nhằm duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Phần còn lại của vốn cố định vẫn được "cố định" trong đó, tức là giá trị còn lại của tài sản cố định. Hình thái hiện vật của vốn cố định là tài sản cố định.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm và được thu hồi dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần dần giảm xuống. Kết thúc quá trình vận động đó cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm đã sản xuất và khi đó vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định thường có chu kỳ vận động dài, sau nhiều năm mới có thể thu hồi đủ số vốn đầu tư đã ứng ra ban đầu. Trong thời gian dài như vậy, đồng vốn luôn bị đe doạ bởi những rủi ro, những nguyên nhân chủ quan và khách quan làm thất thoát vốn như:
Do kinh doanh kém hiệu quả, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, do giá bán thấp hơn giá thành nên thu nhập không đủ bù đắp mức độ hao mòn TSCĐ.
Do sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho mức độ hao mòn vô hình của TSCĐ vượt qua mức dự kiến về mặt hiện vật cũng như về mặt giá trị.
Do yếu tố lạm phát trong nền kinh tế. Khi lạm phát xảy ra, giá trị thực của đồng vốn bị thay đổi, do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải đánh giá và điều chỉnh lại giá trị tài sản để tránh tình trạng mất vốn kinh doanh theo tốc độ lạm phát trên thị trường.
+ Vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Quy mô của vốn cố định và trình độ quản lý sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp:
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền được ứng ra để hình thành các tài sản lưu động sản xuất, tài sản lưu động lưu thông và một phần để trả tiền công cho người lao động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Tài sản lưu động sản xuất bao gồm ở khâu dự trữ sản xuất như: Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ… Tài sản lưu động ở khâu sản xuất như sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm. Các tài sản lưu động ở khâu lưu thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước… Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế và đổi chỗ cho nhau đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Khác với tài sản cố định, trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, hàng hoá. Do đó, phù hợp với các đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn lưu động. Ta có sơ đồ chu chuyển vốn lưu động:
Dự trữ
T NVL Sản xuất Sản phẩm T’
Lao động
Trong quá trình vận động, vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo thành các bán thành phẩm và thành phẩm, sau khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu của nó. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động mới hoàn thành một vòng chu chuyển.
Trong các doanh nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh luôn diễn ra một cách thường xuyên, liên tục cho nên có thể thấy trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn cho quá trình sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau nó đảm bảo cho việc chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi.
Từ những đặc điểm của vốn lưu động đã được xem xét ở trên đòi hỏi việc quản lý và tổ chức sử dụng vốn lưu động cần chú trọng giải quyết một số vấn đề sau:
+ Xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, cần thiết tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo đủ vốn lưu động cho quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Tổ chức khai thác nguồn vốn tài trợ vốn lưu động, đảm bảo đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời phải có giải pháp thích ứng nhằm quản lý và tổ chức sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tiết kiệm chi phí sử dụng vốn
Căn cứ vào phạm vi huy động, vốn kinh doanh được hình thành từ hai nguồn:
- Nguồn vốn từ bên trong doanh nghiệp: Việc doanh nghiệp huy động sử dụng nguồn vốn bên trong có ưu điểm là doanh nghiệp được quyền tự chủ sử dụng vốn cho sự phát triển của mình mà không phải chi phí cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, cũng chính vì lợi thế về việc không phải trả chi phí khi sử dụng vốn bên trong dẫn đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả.
- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Loại nguồn vốn này bao gồm: Vốn vay ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người bán và các khoản nợ khác…
Ưu điểm của nguồn vốn này là tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu tài chính linh động hơn. Nếu doanh nghiệp đạt được mức doanh lợi cao hơn chi phí sử dụng vốn càng nhiều thì việc huy động vốn từ bên ngoài nhiều sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển mạnh hơn.
Nhược điểm: Doanh nghiệp phải trả lợi tức tiền vay và hoàn trả vay đúng thời hạn, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì khoản nợ phải trả trở thành gánh nặng và doanh nghiệp phải chịu rủi ro lớn.
Như vậy xuất phát từ những ưu nhược điểm trên ta thấy việc sử dụng kết hợp nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài một cách hợp lý sẽ đem lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh tế cao và rủi ro là thấp nhất.
Căn cứ vào thời gian huy động vốn:
Theo tiêu thức này có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp ra thành hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn có tính chất lâu dài và ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng, nguồn này được dùng cho việc hình thành tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho doanh nghiệp, nguồn vốn thường xuyên bao gồm nguồn vốn riêng và các khoản vay dài hạn.
+ Nguồn vốn tạm thời: Là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn doanh nghiệp sử dụng đáp ứng nhu cầu tạm thời, bất thường phát sinh trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định
Nguồn vốn = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Trong đó:
Vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn
Vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Việc phân loại nguồn vốn theo cách này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.1.3. Nguyên tắc huy động vốn kinh doanh
Trong quá trình tìm nguồn huy động vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Phải dựa trên cơ sở hệ thống pháp lý, chế độ chính sách của Nhà nước hiện hành. Nguyên tắc này vừa thể hiện sự tôn trọng pháp luật của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp nghiên cứu thêm các chính sách phù hợp, thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh và huy động vốn.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị trường xuất hiện nhiều phương thức, lãi suất huy động cũng như phương thức thanh toán khác nhau. Các hình thức huy động này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn hay dài hạn trong doanh nghiệp, phục vụ cho chương trình, dự án đầu tư theo chiều sâu hay chiều rộng. Tuỳ theo từng thời kỳ, tính chất đầu tư mà các doanh nghiệp tìm nguồn huy động vốn hợp lý với chi phí vốn là thấp nhất.
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, khi huy động vốn các doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý một số yêu cầu khác như điều kiện để vay vốn ngân hàng, điều kiện để phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Vốn huy động phải đảm bảo sử dụng có mục đích, có hiệu quả và phải đảm bảo khả năng thanh toán sau này.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Vốn là điều kiện cần cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường mục đích cao nhất của mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có của mình, trong đó sử dung có hiệu quả nguồn vốn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Để làm rõ khái niệm hiệu quả sử dụng vốn ta đi tìm hiểu các khái niệm liên quan như hiệu quả, hiệu quả kinh doanh.
Theo cách hiểu thông thường, hiệu quả là mối tương quan giữa đầu vào và đầu ra của một quá trình kinh tế – kỹ thuật nhằm đạt được những mục đích xác định.
Hiệu quả kỹ thuật là mối tương quan giữa đầu vào của các yếu tố sản xuất khan hiếm và sảm phẩm (hàng hoá, dịch vụ...) ở đầu ra. Mối tương quan này có thể đo lường theo hiện vật
Hiệu quả kinh doanh là mối tương quan giữa đầu vào và đầu ra của quá trình kinh doanh (hàng hoá, dịch vụ). Mối tương quan này được đo lường bằng thước đo tiền tệ.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào (các nguồn nhân tài, vật lực) của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí tiết kiệm nhất.
Khái niệm hiệu quả kinh doanh được dùng làm một tiêu chuẩn để xem xét các tài nguyên được phân phối ở mức độ tốt như thế nào.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được sử dụng nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Nói cách khác, mục đích của việc sử dụng vốn là thu lợi nhuận, cho nên hiệu quả sản xuất kinh doanh thường được đánh giá dựa trên so sánh tương đối giữa lợi nhuận và vốn bỏ ra hay hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh lợi tối đa với chi phí hợp lý .
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không những đảm bảo cho doanh nhiệp an toàn về mặt tài chính, hạn chế rủi do, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận mà còn giúp doanh nghiệp tăng uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Có thể nói rằng hiệu quả sử dụng vốn thực chất là thước đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực, tài chính của doanh nghiệp, đó là vấn đề cơ bản gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp .
Trong quá trình sử dụng vốn, để đạt hiệu quả cao doanh nghiệp cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Đảm bảo tính tiết kiệm, có nghĩa là vốn của doanh nghiệp phải được sử dụng hợp lý, đúng mục đích, tránh lãng phí vốn hoặc để vốn không sinh lời.
Thứ hai: Phải tiến hành đầu tư, phát triển cả chiều sâu và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh khi cần thiết.
Thứ ba: Doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu đề ra trong kế hoạch SXKD, hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu quan trọng nhất doanh nghiệp cần đạt tới.
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
· Vòng quay hàng tồn kho:
Số vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh số vòng luân chuyển hàng tồn kho trong một thời kỳ nhất định. Số vòng luân chuyển càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp mà vẫn đạt doanh số cao.
· Vòng quay các khoản phải thu:
Vòng quay các khoản phải thu
=
Doanh thu
Số dư bình quân các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu là tốt.
· Kỳ thu tiền trung bình:
Kỳ thu tiền trung bình
=
360
Vòng quay các khoản phải thu
=
Số dư bình quân các khoản phải thu x 360
Doanh thu
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền càng nhỏ.
· Vòng quay vốn lưu động:
Vòng quay vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng. Nếu số vòng quay càng nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
· Mức đảm nhiệm vốn lưu động:
Mức đảm nhiệm vốn lưu động
=
Vốn lưu động bình quân
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ, càng tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
· Tỷ suất lợi nhuận trên vốn lưu động:
Tỷ suất sinh lợi trên vốn lưu động
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn lưu động bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh một đồng vốn lưu động mang vào sản xuất kinh doanh trong kỳ sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tốt và ngược lại.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
· Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ là bình quân số học của nguyên giá TSCĐ đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao.
· Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể đảm bảo tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định ngày càng cao.
· Hàm lượng vốn cố định
Hàm lượng vốn cố định
=
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định càng cao.
· Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng vốn
Hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp có ý nghĩa then chốt và quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp phản ánh kết quả tổng hợp quá trình sử dụng toàn bộ vốn, tài sản. Các chỉ tiêu này phản ánh chất lượng và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm:
· Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
=
Doanh thu thuần
Vốn kinh doanh bình quân
Hiệu suất sử dụng tổng vốn cho biết một đồng vốn được doanh nghiệp đầu tư vào tài sản đem lại mấy đồng doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng vốn càng lớn, trong các điều kiện khác không đổi có nghĩa là hiệu quả quản lý toàn bộ tài sản càng cao.
· Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận được tạo ra khi bỏ ra một đồng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ việc sử dụng vốn chủ sở hữu càng hiệu quả.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
1.2.3.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nhân tố con người:
Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn, con người được đề cập đến ở đây là toàn bộ lực lượng lao động trong doanh nghiệp bao gồm các nhà quản lý doanh nghiệp và những người trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà quản lý đóng vai trò đầu tiên đối với hiệu quả sử dụng vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu nhà quản lý không có phương án sản xuất kinh doanh hữu hiệu, không bố trí hợp lý các khâu, các giai đoạn sản xuất, sẽ gây lãng phí về nhân lực, vốn, nguyên vật liệu… Điều này sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Trong quản lý tài chính, nhà quản lý doanh nghiệp phải xác định nhu cầu vốn kinh doanh, phải bố trí cơ cấu hợp lý, không để vốn bị ứ đọng, dư thừa, phải huy động đủ vốn cho sản xuất. Nếu vốn không đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất thì quá trình sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng. Nếu cơ cấu vốn không hợp lý, vốn đầu tư lớn vào các tài sản không sử dụng hoặc ít sử dụng, vốn trong quá trình thanh toán bị chiếm dụng sẽ tăng chi phí sản xuất, làm giảm lợi nhuận, giảm hiệu quả sử dụng vốn .
Cơ cấu vốn :
Cơ cấu vốn thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành vốn trong tổng vốn sử dụng. Cơ cấu vốn được xem xét theo nguồn vốn và các tiêu chí khác nhau.
Do chịu sự ảnh hưởng của nhân tố khác nên cơ cấu vốn trong doanh nghiệp khác nhau. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến cơ cấu vốn bao gồm các nhân tố sau:
- Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận: Ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của vốn huy động. Khi doanh thu ổn định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ đến hạn, khi kết quả kinh doanh có lãi sẽ có nguồn để trả lãi vay. Trong trường hợp này tỷ trọng của vốn huy động trong tổng số vốn của doanh nghiệp sẽ cao và ngược lại .
- Cơ cấu tài sản: Tài sản cố định là loại tài sản có thời gian thu hồi dài, do đó nó phải được đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn, ngược lại, tài sản lưu động sẽ được đầu tư vào một phần của vốn dài hạn, còn chủ yếu là vốn ngắn hạn .
- Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành: Những doanh nghiệp nào có chu kỳ kinh doanh dài, vòng quay vốn chậm thì cơ cấu vốn nghiêng về vốn chủ sở hữu, ngược lại những doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ, bán buôn… thì vốn tài trợ từ các khoản nợ sẽ chiếm tỷ trọng cao.
- Mức độ chấp nhận rủi do của người lãnh đạo: Trong kinh doanh phải chấp nhận rủi do, nhưng điều đó lại đồng nghĩa với cơ hội để gia tăng lợi nhuận. Tăng tỷ trọng của vốn vay nợ, sẽ tăng mức độ mạo hiểm.
- Doanh lợi vốn và lãi suất huy động: Khi doanh lợi vốn cao hơn lãi suất vốn vay sẽ lựa chọn hình thức tài trợ bằng vốn vay. Ngược lại khi doanh lợi vốn nhỏ hơn lãi suất vốn vay thì cấu trúc lại nghiêng về vốn chủ sở hữu.
- Thái độ của người cho vay: Thông thường người cho vay thích cơ cấu nghiêng về vốn của chủ sở hữu, với cấu trúc này thì doanh nghiệp có khả năng trả nợ đúng hạn, có sự an toàn về đồng vốn mà họ bỏ ra cho vay.
Cơ cấu vốn có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến chi phí vốn, đến khả năng kinh doanh và do đó ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Chính vì vậy mà cơ cấu vốn là nhân tố tuy chủ yếu tác động gián tiếp song rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Giải quyết tốt vấn đề cơ cấu vốn hợp lý chính là thực hiện tốt các mặt:
- Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cố định tích cực (vốn đầu tư vào tài sản cố định tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải...) và vốn cố định không tích cực (kho tàng, nhà xưởng, trụ sở văn phòng...)
- Một cơ cấu vốn hợp lý sẽ thúc đẩy đồng vốn vận động nhanh giữa các cao độ của quá trình sản xuất kinh doanh, không bị ứ đọng hay sử dụng sai mục đích.
Nhân tố chi phí vốn:
Vốn là nhân tố cần thiết của quá trình sản xuất. Cũng như bất kỳ yếu tố nào khác, để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí nhất định. Có thể hiểu chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn và chi phí mà doanh nghiệp phải trả cho việc huy động vốn như: Lãi, chi phí phát hành cổ phiếu...
Khi nói đến chi phí vốn thì mới thực sự thấy được sự quan trọng của một cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn lưu động, vốn cố định phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vốn. Vốn sẽ được lưu thông, quay vòng một cách hợp lý, giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong sử dụng vốn kinh doanh. Ngược lại khi cơ cấu vốn không hợp lý sẽ dẫn đến có phần vốn bị ứ đọng. Chi phí cơ hội trong việc sử dụng vốn sẽ bị lãng phí.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành sản xuất kinh doanh:
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mỗi ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm khác nhau về mặt kinh tế kỹ thuật như: Tính chất ngành nghề, tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Ảnh hưởng của tính chất ngành nghề đến hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở quy mô, cơ cấu vốn kinh doanh. Quy mô, cơ cấu vốn khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn, tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán, chi trả... do đó ảnh hưởng tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất thể hiện ở nhu cầu vốn và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất có tính thời vụ thì nhu cầu vốn lưu động giữa các quý trong năm thường biến động lớn, doanh thu bán hàng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng gặp khó khăn, ảnh hưởng tới chu kỳ thu tiền bình quân, tới hệ số vòng quay vốn... do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì nhu cầu vốn trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp lại thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp doanh nghiệp dễ dàng đảm bảo cân đối thu chi bằng tiền và đảm bảo nguồn vốn trong kinh doanh, vốn được quay nhiều vòng trong năm. Ngược lại những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sẩn phẩm có chu kỳ sản xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động tương đối lớn, vốn thu hồi chậm, quay vòng ít.
1.2.3.2 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh là tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố sau đây:
Sự ổn định của nền kinh tế:
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn kinh doanh. Những biến động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi do trong kinh doanh mà các nhà quản trị tài chính phải lường trước, những rủi ro đó có ảnh hưởng tới các khoản chi phí về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay tìm nguồn tài trợ.
Nếu nền kinh tế ổn định và tăng trưởng với một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn phải thu và các loại tài sản khác. Khi đó, các nhà quản trị tài chính phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó.
Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp:
Để tạo ra môi trường kinh tế ổn định, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nhà nước điều hành và quản lý nền kinh tế vĩ mô bằng các chính sách kinh tế vĩ mô. Với bất kỳ sự thay đổi nào trong chế độ chính sách hiện hành sẽ ảnh huởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Sự nhất quán trong chủ trương đường lối cơ bản của Nhà nuớc luôn là yếu tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh và có điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hệ thống tài chính tiền tệ, vấn đề lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khoá của chính phủ có tác động lớn đến quá trình ra quyết định kinh doanh và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất: ._.Lãi suất tín dụng là một công cụ chủ yếu để điều hành lượng cung tiền tệ, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi suất tăng làm chi phí vốn tăng, nếu doanh nghiệp không có vốn cơ cấu hợp lý, kinh doanh không hiệu quả thì hiệu quả sử dụng vốn nhất là phần vốn vay sẽ bị giảm sút. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là vấn đề quan trọng khi quyết định thực hiện một hoạt động đầu tư hay một phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tính toán xem liệu hoạt động đầu tư hay phương án sản xuất có đảm bảo được doanh lợi vốn lãi suất tiền vay hay không, nếu nhỏ hơn thì có nghĩa là không hiệu quả, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn. Đối với hoạt động đầu tư hay phương án sản xuất có sử dụng vốn đầu tư cũng phải tính đến chi phối vốn, nếu có hiệu quả thì mới nên thực hiện.
- Chính sách thuế: Thuế là công cụ quan trọng của nhà nuớc để điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Chính sách thuế của nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì mức thuế cao hay thấp sẽ làm cho phần lợi nhuận sau thuế nhiều hay ít, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các hệ thống tài chính trung gian là một nhân tố đáng kể tác động đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hoạt động tài chính nói riêng. Một thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung gian phát triển đầy đủ và đa dạng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn có chi phí rẻ, đồng thời doanh nghiệp có thể đa dạng các hình thức đầu tư và có cơ cấu vốn hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất trong việc sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố khác như:
+ Khoa học kỹ thuật và công nghệ
+ Sự ổn định chính trị xã hội trong nước và quốc tế.
+ Những rủi ro bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có thể gặp phải như thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt, chiến tranh.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu tác động đến công tác tổ chức sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng, thận trọng để phát huy những lợi thế và điều kiện thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra, đảm bảo việc tổ chức huy động vốn kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là tất yếu khách quan và xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, xuất phát từ mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh đều kỳ vọng vào việc tối đa hoá lợi nhuận, lợi nhuận là kết quả, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ là một trong số các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và là một hướng để nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hai là, xuất phát từ vai trò và vị trí của vốn kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, một doanh nghiệp không thể hoạt động nếu thiếu vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ quyết định kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, trong quá trình hoạt động và sản xuất kinh doanh, việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đã trở thành một trong số các mục tiêu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu bảo toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc bảo toàn vốn kinh doanh cũng là một vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, yêu cầu bảo toàn vốn để từ đó không chỉ dừng lại ở bảo toàn vốn mà còn mở rộng và phát triển quy mô vốn.
Bốn là, xuất phát từ yêu cầu hạch toán kinh doanh đầy đủ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải tuân theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh là: Kinh doanh phải lấy thu bù chi và phải có lợi nhuận. Nếu không đạt được yêu cầu này các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phá sản. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn có những biện pháp để bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Năm là, xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là vô cùng gay gắt. Doanh nghiệp nào tận dụng tối đa năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả vốn thì sẽ có điều kiện tốt để đứng vững trên thị trường. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo khả năng cạnh tranh và tạo những lợi thế nhất định đến doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, là điều kiện cấp thiết và là tiền đề để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.3.2. Các hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trực tiếp thông qua lợi nhuận thu được bởi đây chính là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, để có định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh thì phải theo hướng nâng cao khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp:
Tích cực tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm để tăng doanh thu.
Từ hai hướng cụ thể trên, mỗi doanh nghiệp tuỳ thuộc vào đặc điểm, ngành nghề, hình thức hoạt động, có thể tìm ra những biện pháp cụ thể, phù hợp để nâng cao quả sử dụng vốn kinh doanh. Có một số biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định nhu cầu vốn kinh doanh chính xác, đầy đủ và kịp thời. Nhu cầu vốn kinh doanh phải được xác định dựa trên quy mô kinh doanh, kế hoạch sản xuất làm cơ sở đảm bảo đưa ra kế hoạch huy động và sử dụng vốn phù hợp tránh tình trạng thiếu vốn gây ngưng trệ sản xuất hoặc thừa, thiếu vốn gây ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn.
Thứ hai, lựa chọn cơ cấu và hình thức huy động vốn kinh doanh theo hướng tích cực: Khai thác triệt để nguồn vốn bên trong để tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn, giảm thiểu rủi ro thanh toán và đảm bảo khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đồng thời tăng cường khai thác, huy động vốn từ nhiều nguồn bên ngoài để nâng cao khả năng sinh lời của đồng vốn.
Thứ ba, cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát để có thể nắm bắt được tình hình biến động về giá trị cũng như cơ cấu của tài sản nhằm hạn chế sự mất mát, thất thoát tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo vốn kinh doanh được bảo toàn về hiện vật.
Thứ tư, cần xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng tài sản trong doanh nghiệp làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
Thứ năm, thực hiện áp dụng các phương pháp phòng chống rủi ro bằng cách chủ động mua bảo hiểm cho tài sản và trích lập các quỹ dự phòng để đảm bảo nguồn tài chính bù đắp những rủi ro có thể xảy ra và bảo toàn được vốn kinh doanh cho doanh nghiệp.
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN
KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty CP kim khí An Bình.
Công ty Cổ phần Kim khí An Bình, tiền thân là Công ty Kim khí An Bình, được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy đăng ký kinh doanh Công ty Cổ phần theo số 0103010369 lần đầu ngày 21 tháng 12 năm 2005 (đăng ký sửa đổi lần thứ nhất ngày 13 tháng 6 năm 2007), bắt đầu đi vào hoạt động là một Công ty cổ phần chính thức vào ngày 01 tháng 01 năm 2006.
- Tên Công ty : Công ty Cổ phần Kim khí An Bình
- Tên giao dịch: An Binh Metal Corporation - AMC
- Trụ sở chính của Công ty đặt tại: Số 20 Tôn Thất Tùng, phường Khương Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Email : amc@hn.vnn.vn.
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế và sự chuyển đổi dần của nền kinh tế quốc dân từ tập trung bao cấp thành nền kinh tế thị trường, Công ty cũng dần ngày càng phát triển, mở rộng quy mô và thị trường kinh doanh - từ việc chỉ sản xuất và kinh doanh chỉ ở mức độ phục vụ cho ngành Thép thì đến nay Công ty đã mở rộng ngành nghề kinh doanh sang các lĩnh vực phục vụ như kinh doanh kho bãi… Với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO thì bộ máy của Công ty chuyển sang thành Công ty Cổ phần là một điều tất yếu, cần thiết và phù hợp với chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta, để bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế trong nước, khu vực và quốc tế.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của Công ty.
2.1.2.1. Chức năng.
Chức năng kinh doanh chủ yếu của Công ty được quy định rõ trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty Cổ phần do Sở Kế hoạch và Đầu tư phát triển thành phố Hà Nội cấp ngày 21 tháng 12 năm 2005, cụ thể như sau:
- Kinh doanh, xuất nhập khẩu kim khí, nguyên vật liệu phục vụ ngành thép; máy móc, thiết bị phụ tùng ô tô, xe máy; phương tiện bốc xếp, san ủi; kinh doanh vòng bị, vật liệu điện, dụng cụ cơ khí, các loại vật tư tổng hợp, thiết bị viễn thông, điện tử, điện lạnh, máy vi tính và các thiết bị ngoại vi;
- Sản xuất, gia công, chế biến các sản phẩm kim loại; sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; gia công, lắp ráp đóng mới các loại xe và dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng ôtô, xe máy;
- Kinh doanh các dịch vụ giao nhận, vận chuyển, kho bãi, kinh doanh bất động sản; khách sạn, nhà ở, cho thuê văn phòng và dịch vụ siêu âm; kinh doanh dịch vụ thể thao, ăn uống, du lịch (không bao gồm kinh doanh phòng Karaoke, vũ trường, quán Bar…);
- Đại lý mua bán, ký gửi các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh của Công ty.
Mặc dù Công ty đăng ký kinh doanh trên nhiều lĩnh vực nhưng nhiệm vụ chính của Công ty vẫn là sản phẩm và kinh doanh các sản phẩm thuộc lĩnh vực thép theo sự phân công của Tổng Công ty Thép Việt Nam.
2.1.2.2. Đặc điểm về bộ máy tổ chức quản lý của Công ty.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty là các phòng ban chức năng, để đảm bảo sự thống nhất, tự chủ, phối hợp nhịp nhàng của các phòng ban chức năng trong toàn Công ty với nhau. Với mô hình phân cấp chức năng trong quản lý thì Công ty đã tận dụng được trí tuệ của các cá nhân giỏi trong từng lĩnh vực cụ thể, giảm bớt được khối lượng công tác quản lý chung trong toàn Công ty của Tổng giám đốc. Tuy nhiên với mô hình này, Công ty gặp một số bất lợi trong quá trình quản lý đó là sẽ có người được giao cùng lúc nhiều nhiệm vụ khác nhau cùng lúc do vậy hiệu quả công việc sẽ không cao, không phù hợp với yêu cầu của người quản lý cấp cao. Bên cạnh đấy, với mô hình phân cấp chức năng trong quản lý đã vi phạm nguyên tắc tập trung trong một đầu mối quản lý của cấp lãnh đạo cao cấp. Cụ thể, mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty như sau:
Bảng 1.2: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban lãnh đạo công ty
Ban kiểm soát
Phòng tổ chức Nhân sự
Các đơn vị
trực thuộc
Phòng
kinh doanh
Phòng Tài chính - Kế toán
Các cửa hàng
* Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định các loại cổ phần của từng loại, quyết định mức cổ tức tăng hàng năm của công ty. Đại hội đồng cổ đông có nhiệm vụ thông qua định hướng phát triển của công ty. Hoạt động của Đại hội đồng cổ đông được quy định trong điều lệ của công ty và theo pháp luật Việt Nam.
* Hội đồng cổ đông: Là cấp quản trị cao nhất của công ty, được bầu ra trong cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị quyết định nội dung, chiến lược phát triển của công ty và điều hành mọi hoạt động của công ty theo luật định và theo điều lệ của công ty đã đề ra.
* Ban lãnh đạo Công ty: Là bộ phận trực tiếp mọi hoạt động của công ty, bao gồm Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc và kế toán trưởng của Công ty.
- Tổng giám đốc: Là người được bầu ra trong cuộc họp Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là người đại diện của công ty trước pháp luật và cũng là người thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao, về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó tổng giám đốc: Được Tổng giám đốc uỷ quyền và điều hành một số lĩnh vực cụ thể của công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Tổng giám đốc và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đã được giao.
- Kế toán trưởng: Là người được Tổng giám đốc bổ nhiệm, tham mưu cho Tổng giám đốc trong vấn đề quản lý tài chính cho công ty. Là người điều hành, chỉ đạo, tổ chức công tác kế hạch toán thống kê của công ty. Kế toán trưởng của công ty phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tổng giám đốc về báo cáo tài chính của công ty.
*Ban kiểm soát: Là bộ phận do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, là cơ quan giám sát mọi hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo công ty trong việc quản lý và điều hành công ty, thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính và rất nhiều lĩnh vực khác do pháp luật và điều lệ công ty quy định.
* Phòng Tổ chức - nhân sự: Gồm trưởng phòng và các phó phòng giúp việc. Đây là bộ phận có chức năng quản lý điều hành lĩnh vực sắp xếp tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty, công tác cán bộ, điều hành các công việc cụ thể liên quan đến cán bộ công nhân viên của công ty như tuyển dụng, đào tạo nghiệp vụ, lương thưởng…
* Phòng Tài chính - Kế toán: Gồm trưởng phòng và các phó phòng giúp việc. Đây là bộ phận có chức năng điều hành, quản lý tài chính kế toán của công ty, hướng dẫn, kiểm soát việc thực hiện chế độ kế toán của các đơn vị trực thuộc. Và định kỳ báo cáo tình hình tài chính kế toán lên các cấp lãnh đạo của công ty xem xét và quyết định.
* Phòng Kinh doanh gồm: Trưởng phòng và các phó phòng giúp việc. Đây là bộ phận có nhiệm vụ lập kế hoạch chiến lược kinh doanh của công ty và các kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn cụ thể trình lên tổng giám đốc xem xét và quyết định. Bên cạnh đấy, phòng còn chỉ đạo nghiệp vụ kinh doanh cho toàn Công ty và các đơn vị trực thuộc dưới sự chỉ đạo và tinh thần cảu các cấp lãnh đạo.
* Các đơn vị trực thuộc: Hiện nay Công ty có 11 xí nghiệp tại Hà Nội và một chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh. Trong các đơn vị trực thuộc thì công ty chỉ có 2 xí nghiệp sản xuất, còn lại là các đơn vị kinh doanh thương mại thuần tuý. Các đơn vị trực thuộc độc lập với nhau về mọi mặt nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định sản xuất kinh doanh của công ty và phải tuân theo quy định của pháp luật. Các đơn vị trực thuộc có giám đốc xí nghiệp và giám đốc chi nhánh do Tổng giám đốc bổ nhiệm. Các giám đốc xí nghiệp và chi nhánh đều chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kế hoạch hoạt sản xuất của công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và chi nhánh.
2.1.2.3. Thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh
Công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thép các sản phẩm thuộc ngành thép, nên khách hàng của công ty chủ yếu vẫn là các cá nhân và các tổ chức xây dựng. Bên cạnh đấy, các sản phẩm là thép tấm là thì công ty bán cho các nhà máy đóng tàu, các nhà máy sản xuất ô tô, xe máy; còn mặt hàng phôi thép công ty tổ chức trao đổi lấy hàng đối với các nhà máy cán thép để lấy thành phẩm làm sản phẩm kinh doanh của mình.
Công ty tổ chức nhập khẩu phôi thép của các bạn hàng nước ngoài như: Nga, Trung Quốc, Ukraina và nhập khẩu sản phẩm vòng bi của hãng KFB để bán trong nước. Công ty cũng kinh doanh các mặt hàng thép sản xuất trong nước, như nhập khẩu nguyên liệu thép xây dựng từ Công ty Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy liên doanh Việt - Úc, VPS và các sản phẩm ống thép VINAPIPE. Như vậy công ty kinh doanh chủ yếu trên thị trường trong nước với các sản phẩm từ thép, còn đối với thị trường nước ngoài thì công ty đóng vai trò là người mua các sản phẩm, nguyên liệu và phôi thép.
2.1.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
Có thể nói giai đoạn 2004-2007 là giai đoạn có tính chất quyết định cho quá trình phát triển kinh doanh của Công ty Cổ phần Kim khí An Bình. Trong giai đoạn này, Công ty chuyển mô hình hoạt động sang Công ty Cổ phần (năm 2006). Sự kiện này được coi là một bước ngoặt lớn trong lịch sử của Công ty.
Với xu thế phát triển của ngành thép nói riêng và của nền kinh tế nói chung, cùng với sự dẫn dắt của Tổng công ty thép Việt Nam, tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển. Sản lượng bán ra năm 2007 là 148.300 tấn, tăng 72.436 tấn (95,48%) so với năm 2006.
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2004 - 2007
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2004
Năm 2005
CL so vớinăm
trước
Năm 2006
CL so vớinăm
trước
Năm 2007
CL so vớinăm
trước
Tổng doanh thu
1.327.359
770.910
-556.654
663.203
-107.502
1.251.040
587.837
Doanh thu thuần
1.327.188
770.750
-556.643
663.203
-107.342
1.250.487
587.284
Giá vốn hàng bán
1.268.392
743.281
-525.111
637.110
-106.171
1.196.860
559.750
Lợi nhuận gộp
58.796
27.264
-31.532
26.093
-1.171
53.627
27.534
Doanh thu hoạt động tài chính
5.588
5.288
-1.849
6.770
3.031
9.546
2.776
Chi phí hoạt động tài chính
18.345
15.012
-3.333
15.240
228
15.905
665
Chi phí bán hàng
20.436
14.438
-6.194
14.426
184
21.296
6.870
Chi phí quản lý doanh nghiệp
17.478
10.680
-6.741
10.275
-462
16.080
5.805
Lợi nhuận thuần từ hoạt động KD
8.125
-7.373
-17.113
-7.078
1.910
9.892
16.970
Lợi nhuận khác
-3.094
-547
2.953
568
709
528
-40
Tổng lợi nhuận trước thuế
5.031
-7.920
-14.160
-6.510
2.619
10.420
16.930
Thuế thu nhập doanh nghiệp
1.078
-1.078
0
0
Lợi nhuận sau thuế
3.953
-7.920
-13.082
-6.510
2.619
10.420
16.930
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2004-2007
2.2. THỰC TRẠNG VỀ VỐN VÀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY CP KIM KHÍ AN BÌNH
2.2.1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
- Quy mô SXKD:
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Tổng tài sản năm 2006 giảm 121.876 triệu đồng (31,7%) so với năm 2005; Tổng tài sản năm 2007 tăng 156.677 triệu đồng (59,5%) so với năm 2006. Doanh thu năm 2006 giảm 107.707 triệu đồng (14%) so với năm 2005; Doanh thu năm 2007 tăng 587.837 triệu đồng (88,6%) so với năm 2006. Nguyên nhân của việc quy mô sản xuất và doanh thu năm 2006 giảm so với năm 2005 là do thị trường xây dựng trong những năm gần đây chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố có tác động tiêu cực, gây khó khăn cho việc huy động vốn. Mặt khác, giai đoạn này Công ty đang trong quá trình cổ phần hoá nên không hoàn toàn tập trung vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, sau một thời gian ổn định cơ chế hoạt động, nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của thị trường thép trong và ngoài nước, năm 2007, sản lượng bán ra đạt 148.300 tấn, tăng 72.436 tấn (95,48%) so với năm 2006.
Hiệu quả SXKD:
Sau khi được xử lý lỗ luỹ kế tại thời điểm chuyển sang cổ phần hoá (31/12/2005), năm 2006 kết quả hoạt động kinh doanh tiếp tục lỗ 6.510 triệu đồng. So với số lỗ thực năm 2005 (7.920) triệu đồng, năm 2006 số lỗ đã giảm nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả. Tổng giá trị mua vào năm 2006: 70.040 tấn (=57,9% kế hoạch năm 2006 và = 72,6% so với thực hiện năm 2005); bán ra năm 2006: 75.864 tấn (=60% kế hoạch năm 2006 và = 82% so với thực hiện năm 2005) - trong đó bán hàng tồn kho năm cũ có giá vốn cao gây lỗ: 9.101 tấn, bán hàng mua mới: 63.206 tấn.
Năm 2007, Lợi nhuận sau thuế đạt 10.420 triệu đồng, tăng 16.930 triệu đồng (260%) so với năm 2006. Sau khi giảm trừ lỗ luỹ kế năm 2006 (6.510 triệu đồng), lợi nhuận chưa phân phối năm 2007 còn 3.909 triệu đồng. Có thể thấy lợi nhuận năm 2007 tăng một cách đột biến. Hơn thế, năm 2006, tỷ lệ giá vốn trên doanh thu là 96,25%, tỷ lệ chi phí bán hàng + chi phí quản lý trên doanh thu là 3,5%; năm 2007, tỷ lệ giá vốn trên doanh thu là 95,71%, tỷ lệ chi phí bán hàng + chi phí quản lý trên doanh thu là 3%. Tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí cho thấy năm 2007, cùng với việc nắm được lợi thế nhu cầu và giá thép trong nước tăng cao, công ty đã tiết kiệm chi phí đầu vào, chi phí đầu ra, làm lợi nhuận tăng đột biến.
2.2.2. Tình hình tài chính của Công ty
2.2.2.1 Khái quát tình hình tài chính của Công ty.
Bảng 2.2 : Bảng cân đối kế toán các năm 2004-2007
Đơn vị tính: triệu đồng
2004
2005
2006
2007
A
TÀI SẢN NGẮN HẠN
319.627
345.052
226.593
389.822
I
Tiền và các khoản tương đương tiền
18.290
13.286
12.765
9.676
III
Các khoản phải thu
182.125
178.919
119.528
140.427
IV
Hàng tồn kho
116.089
151.234
94.038
191.906
V
Tài sản ngắn hạn khác
3.123
1.613
262
47.813
B
TÀI SẢN DÀI HẠN
48.746
39.927
36.510
30.187
I
Các khoản phải thu dài hạn
26.387
14.007
15.365
0
II
Tài sản cố định
18.324
22.749
20.844
29.393
IV
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
3.347
2.847
0
0
V
Tài sản dài hạn khác
688
324
301
794
Tổn cộng tài sản
368.373
384.979
263.103
420.009
A
NGUỒN VỐN
254.730
294.979
179.613
325.750
I
Nợ phải trả
254.730
294.979
179.613
319.440
II
Nợ dài hạn
0
0
0
6.310
B
Nguồn vốn chủ sở hữu
113.643
90.000
83.490
94.259
I
Vốn chủ sở hữu
113.641
90.000
83.490
93.909
II
Nguồn kinh phí quỹ khác
2
0
0
350
Tổng cộng nguồn vốn
368.373
384.979
263.103
420.009
Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Công ty các năm 2004-2007
- Tổng tài sản năm 2006 giảm 121.876 triệu đồng so với năm 2005, chủ yếu do giảm tài sản ngắn hạn (Các khoản phải thu giảm: 59.391 triệu đồng; hàng tồn kho giảm: 57.196 triệu đồng) và giảm tài sản dài hạn (chủ yếu do giảm tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn).
- Vốn luân chuyển (Vốn lưu động ròng) năm 2006: 46.980 triệu đồng, chiếm 20,73% vốn lưu động; năm 2007 là 70.382 triệu đồng, chiếm 18,05% vốn lưu động. Nếu loại trừ tài sản kém chất lượng ra khỏi tài sản có thì vốn luân chuyển năm 2007 chỉ còn 54.502 triệu đồng, chiếm 13,98 tổng vốn lưu động. Chỉ tiêu này dương biểu hiện tài sản cố định được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn ổn định, doanh nghiệp sử dụng vốn theo đúng nguyên tắc tài chính, không xảy ra tình trạng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư tài sản cố định. Vốn doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh ở mức khá đảm bảo tính ổn định tương đối của tài chính DN nhất là khả năng thanh toán ngắn hạn, tuy nhiên nếu loại trừ tài sản kém chất lượng thì vốn luân chuyển chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng vốn lưu động cho thấy chất lượng tài sản có của doanh nghiệp chưa cao (tài sản kém chất lượng chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng tài sản có, năm 2007 là 3,78%).
- Năm 2006, nợ phải trả giảm 115.366 triệu đồng (39,11%) so với năm 2005, cụ thể giảm vay và nợ ngắn hạn: (125.046 triệu đồng tương đương 51,53%), tuy nhiên phải trả người bán và phải trả người lao động tăng. Năm 2007, Nợ phải trả tăng 146.137 triệu đồng (81,12%). Cụ thể, tăng vay và nợ ngắn hạn: 88.071 triệu đồng (74,89%). Phải trả người bán và phải trả công nhân viên đều tăng.
- Do DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại nên tài sản cố định của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trên tổng nguồn vốn: năm 2006 là 7,94%; năm 2007 là 7,0%, chủ yếu là nhà kho, cửa hàng phục vụ kinh doanh. Cơ cấu vốn phù hợp với cơ cấu vốn chung của ngành, toàn bộ tài sản cố định được đầu tư từ vốn của doanh nghiệp.
- Sau khi được xử lý lỗ luỹ kế tại thời điểm chuyển sang cổ phần hoá (31/12/2005), năm 2006 kết quả hoạt động kinh doanh tiếp tục lỗ 6.510 triệu đồng. Năm 2007, lợi nhuận sau thuế sau khi đã bù đắp số lỗ luỹ kế trước đó đạt 3.909 triệu đồng. Như vậy hoạt động kinh doanh đang có chiều hướng tốt lên.
2.2.2.2. Phân tích các chỉ tiêu và đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu tài chính
Chỉ tiêu
ĐVT
2004
2005
2006
2007
I
Chỉ tiêu về tính ổn định
1.1
Hệ số thanh toán ngắn hạn
lần
1,25
0,92
1,038
1,22
1.2
Hệ số thanh toán nhanh
lần
0,73
0,58
0,65
0,62
1.3
Hệ số nợ so với vốn CSH
lần
2,24
4,463
4,143
3,46
1.4
Hệ số nợ so với tài sản
%
69
81,65
80,55
78,3
1.5
Hệ số tự tài trợ
%
31
18,35
19,45
22
1.6
Hệ số trang trải lãi vay
lần
1,48
II
Chỉ tiêu về sức tăng trưởng
2.1
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
%
26
(41)
(13,97)
88,64
2.2
Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận
%
(51)
(279)
39,76
III
Chỉ tiêu về tính hiệu quả hoạt động
3.1
Hệ số vòng quay tổng TS
lần
3,26
2,046
2,05
3,66
3.2
Thời gian dự trữ hàng TK
ngày
37
63
70
43,60
3.3
Thời gian thu hồi công nợ
ngày
53
80
43
36,79
3.4
Thời gian thanh toán công nợ
Ngày
35,52
34,69
IV
Chỉ tiêu về khả năng sinh lời
4.1
Tỷ suất lợi nhuận gộp
%
4,5
3
3,934
4,0
4.2
Hệ số lãi ròng
%
0,3
(1,184)
(1,0)
0,8
4.3
Suất sinh lời của tài sản (ROA)
%
1
(2,55)
(2,009)
2,5
4.4
Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
%
3,6
(8,327)
(7,797)
11,6
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 2004-2007
Ghi chú: - Các chỉ tiêu về tính ổn định được tính toán sau khi đã loại trừ tài sản kém chất lượng.
- Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời được tính toán trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng tài sản và nguồn vốn.
- Kỳ thu tiền bình quân chỉ tính cho nợ phải thu khách hàng
a, Các chỉ tiêu về tính ổn định
+ Hệ số thanh toán ngắn hạn: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn qua các năm ở mức ổn định, không quá cao và > 1, năm 2007 là 1,22 lần tăng so với năm 2006 nhưng không nhiều. Hệ số này đủ đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn nói chung đồng thời không thừa tiền nhàn rỗi. Thực tế, trong hai quý đầu năm 2007, do vốn lưu động luân chuyển chậm nên công ty chậm thanh toán nợ với ngân hàng ở một số khoản vay (chủ yếu do lượng hàng tồn kho năm 2006 chậm luân chuyển) nhưng công ty vẫn đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ của mình, không để phát sinh nợ quá hạn. Từ tháng 8/2007, công ty đã trả hết nợ vay gia hạn, không phát sinh nợ gia hạn mới, thậm chí còn thanh toán nợ trước hạn cho ngân hàng (cụ thể tính đến cuối tháng 12/2007, công ty đã trả hết nợ vay đến hạn tại thời điểm tháng 3/2008). Điều này cho thấy khả năng thanh toán nợ năm 2007 phát triển theo chiều hướng tốt.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Cuối năm 2007, hệ số khả năng thanh toán nhanh đạt 0,62, giảm 0,12 làn so với đầu năm. Nguyên nhân là do tốc độ tăng của nợ phải trả nhanh hơn so với tốc độ tăng của hàng tồn kho. Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn lưu động (49,23%). Nợ phải trả, đặc biệt là vay và nợ ngắn hạn tăng mạnh trong khi khả năng thanh khoản đối với các khoản phải thu khách hàng không cao sẽ tiềm ẩn nhiểu rủi ro khi các khoản nợ đến hạn cùng một thời điểm cũng như tại các thời điểm liên tiếp nhau.
+ Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu: năm 2006 là 4,143 lần (giảm: 0,32 so với năm 2005); năm 2007 là 3,46 lần (giảm 0,683 lần so với năm 2006). Hệ số này ở mức thấp hơn khi loại trừ tài sản chất lượng kém ra khỏi vốn chủ sở hữu. Hệ số này cũng cho thấy chất lượng tài sản có của công ty không cao, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ so với nợ phải trả. So với chỉ số bình quân ngành (cùng quy mô) thì hệ số này của công ty ở mức tương đối cao, điều này tiềm ẩn nhiểu rủi ro khi hoạt động kinh doanh không hiệu quả.
+ Hệ số tự tài trợ năm 2007 là: 22%, năm 2006 là 19,45% (Trên cơ sở chưa loại trừ tài sản kém chất lượng ra khỏi vốn chủ hữu). Từ thực trạng tài chính các DN Nhà nước hiện nay thì hệ số trên tương đối an toàn đối với Ngân hàng cấp vốn. Với tỷ lệ tự tài trợ giao động từ 28-31%, khách hàng là một doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính khá. Như vậy hệ số tự tài trợ của Công ty chưa thật cao. Tuy nhiên, sau khi loại trừ tài sản kém chất lượng ra khỏi tài sản có, hệ số này có thấp hơn. Vốn chủ sở hữu của DN đến 31/12/2007 là 93.909 triệu đồng (trong đó vốn đầu tư của chủ sở hữu là 90.000 triệu đồng; lợi nhuận chưa phân phối là 3.909 triệu đồng). Với lượng vốn trên DN có tính chủ động tài chính khá và đủ khả năng bù đắp rủi ro trong kinh doanh cũng như đảm bảo được khả năng thanh toán nợ.
+ Khả năng trang trải lãi vay: Hoạt động kinh doanh năm 2006 không thật hiệu quả, kết quả hoạt động kinh doanh nói chung lỗ 6.510 triệu đồng. Năm 2007, chỉ tiêu này đạt 1,64 và lợi nhuận sau thuế đã bù đắp được số lỗ của năm 2006. Kết hợp với hoạt động kinh doanh kho bãi khá hiệu quả, doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng trả lãi vay đầy đủ và đúng hạn.
b, Chỉ tiêu về tăng trưởng
+ Doanh thu năm 2006 đạt 663.203 triệu đồng, tiếp tục giảm 107.706 triệu đồng (13,97%) so với năm 2005. Doanh thu thực hiện năm 2006 đạt 60% kế hoạch năm 2006 và đạt 82% so với thực hiện năm 2005. Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bán ra năm 2006: 75.864 tấn, trong đó: Bán hàng tồn kho cũ năm 2005 chuyển sang 12.658 tấn (trong đó Huy động tồn kho cũ có giá vốn cao gây lỗ là 9.101 tấn, chiếm 72% lượng hàng tồn 2005 bán ra), và bán hàng mua mới là: 63.206 tấn (chiếm 83,31% tổng lượng hàng tiêu thụ). Nguyên nhân doanh thu giảm chủ yếu do đẩy mạnh tiêu thụ lượng hàng tồn kho giá vốn cao và do không tận dụng được cơ hội kinh doanh ở một số thời điểm giá thép tăng cao (thực tế lượng hàng mua vào năm 2006 là: 70.040 tấn, chỉ đạt 57,9% kế hoạch và lượng hàng mua mới bán ra là: 63.206 tấn, chỉ đạt 60% kế hoạch). Doanh thu năm 2007 đạt 1.251.040 triệu đồng, tăng 587.838 triệu đồng so với năm 2006 và đạt 120% kế hoặch năm 2007. Nguyên nhân tăng doanh thu do lượng hàng tiêu thụ trong năm tăng. Đây là tỷ lệ tăng trưởng không quá nóng do thị trường thép năm 2007 biến động theo chiều hướng có lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thép (cầu của thị trường thép tăng cao, giá thép cũng tăng mạnh do ảnh hưởng của thị trường thép thế giới và tác động của nhiều yếu tố. Doanh thu bị giảm trừ 552 triệu đồng do hàng bán bị trả lại. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doan._.đó kéo theo nhiều chi phí không cần thiết như chi phí bảo quản, kho bãi, đặc biệt là chi phí lãi vay ngân hàng làm vốn lưu động bị ứ đọng trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Mặc dù tồn tại này đã được khắc phục phần nào trong năm 2007, tuy nhiên kết quả đạt được chưa cao.
- Quy mô vốn tăng tỷ lệ thuận với tốc độ chu chuyển vốn là điều tất yếu. Mặt khác, tình trạng thiếu vốn của công ty dẫn đến tăng chi phí làm kết quả kinh doanh lỗ nhiều hơn.
- Công tác thu hồi công nợ chưa được quan tâm đúng mức và thực hiện chưa nghiêm ngặt; nợ khó đòi, quá hạn vẫn phát sinh qua các năm. Công ty đã thực hiện phân loại công nợ để theo dõi và quản lý nhưng chưa có những biện pháp và giải pháp rõ ràng để giải quyết triệt để công nợ khó đòi.
- Hệ thống nội quy, quy chế quản lý các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lý tài chính được hành nhiều nhưng không được xem xét cập nhật theo tình hình thực tế từng giai đoạn nên việc chỉ đạo điều hành còn mang tính chủ quan.
- Trình độ phân tích, dự báo thị trường của nhân viên kinh doanh còn nhiều hạn chế, còn bị động trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh. Lãnh đạo công ty chỉ dự đoán kế hoạch trong tương lai mà không chi tiết thành các kế hoạch tài chính cụ thể.
- Quản lý chi phí chưa hiệu quả, đặc biệt là các chi phí phát sinh khi dự trữ hàng tồn kho quá mức cần thiết.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty còn thấp. Trong tương lai, công ty cần định hướng lại và đưa ra các giải pháp giải quyết những tồn tại trên.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
3.1 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty
+ Sử dụng vốn hiệu quả là cơ sở để công ty bảo toàn và phát triển các nguồn vốn kinh doanh của mình.
+ Sử dụng vốn có hiệu quả hay không liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh, đến tình hình tài chính, khả năng cạnh tranh và uy tín của công ty.
+ Vốn không được sử dụng một cách hiệu quả sẽ làm suy giảm khả năng tạo vốn đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. Trước hết là sự suy giảm nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận do kết quả kinh doanh thấp và xa hơn nữa là việc giảm sút kinh doanh do tình hình tài chính của công ty.
Bên cạnh đó, thực tiễn sử dụng vốn kinh doanh của công ty trong thời gian qua mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng bộc lộ nhiều yếu kém và tồn tại đặt ra yêu cầu phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
3.1.2. Những định hướng của công ty trong thời gian tới
+ Ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, khắc phục hết lỗ luỹ kế và có lãi trong thời gian tới.
+ Kinh doanh đa dạng hoá các sản phẩm thép, bên cạnh đó chú trọng hoạt động đầu tư và cho thuê kho bãi.
+ Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tiêu thụ trong nước, chủ yếu là thị trường phía Nam, tăng cường hoạt động Maketing, xúc tiến thương mại, phát triển hệ thống mạng lưới tiêu thụ.
+ Giao dịch nhập khẩu và tiếp nhận các lô hàng nhập khẩu đã ký theo tiến độ hợp đồng, triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng giai đoạn; đẩy mạnh việc kinh doanh thép nội địa.
+ Phát huy cao độ mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, lấy hiệu quả kinh tế là thước đo chủ yếu cho sự phát triển bền vững của công ty, góp phần xây dựng và phát triển công ty trở thành một doanh nghiệp vị thế khá trên thị trường.
+ Doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng từ 20%-30%; lành mạnh hoá tài chính để có cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý
+ Không ngừng cải tiến mô hình quản lý sao cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ của chiến lược kinh doanh; đặc biệt trong việc đa dạng hoá chiến lược kinh doanh.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
Thực tiễn công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn kinh doanh tại công ty đã chứng minh những nỗ lực trong việc đưa ra các biện pháp nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, ,trong thời gian qua kết quả sản xuất kinh doanh của công ty nhìn chung chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh vẫn ở mức thấp và tồn tại nhiều yếu kém, hạn chế. Từ thực tiễn trên cùng với những kiến thức được trang bị trong quá trình học tập và nghiên cứu, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty, cụ thể như sau:
3.2.1. Giải pháp chung đối với công ty
3.2.1.1. Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế hoạch huy động và sử dụng vốn
Trong thời gian qua việc xây dựng kế hoạch kinh doanh chưa sát với thực tế biến động của thị trường, công tác xây dựng còn cứng nhắc thiếu linh hoạt. Vì vậy xây dựng kế hoạch kinh doanh khả thi sẽ là cơ sở quan trọng đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh. Xây dựng kế hoạch kinh doanh phải căn cứ vào thực tế thực hiện, phân tích và dự báo những biến động của thị trường thép thế giới và thị trường thép trong nước.
Việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn là một giải pháp tài chính hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, công ty tiến hành lập kế hoạch sản xuất kinh doanh nhưng chưa quan tâm đến việc lập các kế hoạch cụ thể về sử dụng vốn và cách thức huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong cả năm.
Về nguyên tắc, kế hoạch về sử dụng và phương thức huy động vốn phải được xây dựng trên cở sở thực tế về kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm tiếp theo, do đó đòi hỏi phải đúng, toàn diện và đồng bộ để tạo cơ sở cho việc tổ chức công tác sử dụng vốn kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Để đảm bảo yêu cầu của công tác lập kế hoạch, khi tiến hành thực hiện công ty cần phải chú trọng một số vấn đề sau:
Một là: Xác định chính xác nhu cầu về vốn tối thiểu cần thiết đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên liên tục không bị gián đoán, trong đó phải xác định được nhu cầu tăng đột biến trong những thời điểm biến động thuận lợi của giá thép trên thị trường để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Từ đó có biên pháp huy động vốn phù hợp nhằm cung ứng vốn một cách đầy đủ, kịp thời, tránh tình trạng dư thừa vốn gây lãng phí vốn không cần thiết nhưng cũng đảm bảo không bị thiếu vốn gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời huy động vốn với chi phí sử dụng tối ưu.
Hai là: Trên cơ sở nhu cầu vốn đã lập, công ty cần xây dựng kế hoạch cụ thể về việc huy động vốn, bao gồm việc xác định khả năng vốn hiện có, số vốn còn thiếu để lựa chọn nguồn tài trợ thích hợp với chi phí về vốn là thấp nhất giúp công ty có một cơ cấu vốn linh hoạt và tối ưu. Để tăng nguồn tài trợ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau:
- Trước hết, trong qúa trình tìm nguồn tài trợ công ty cần khai thác triệt để mọi nguồn vốn của mình, phát huy tối đa nội lực vì nguồn vốn từ bên trong doanh nghiệp luôn có chi phí sử dụng vốn thấp nhất nên mang lại hiệu quả cao nhất. Một trong những nguồn đó là vốn tích luỹ từ các lợi nhuận không chia và quỹ khấu hao TSCĐ để lại với mục đích tạo nguồn vốn tái đầu tư cho doanh nghiệp.
- Tăng cường huy động các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho các nhu cầu trước mắt về vốn lưu động, tận dụng tối đa các khoản nợ ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán như: Phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp NSNN chưa đến hạn nộp, áp dụng các hình thức tín dụng thương mại (mua chịu của người cung cấp)... Việc sử dụng các nguồn này sẽ giảm đáng kể chi phí huy động vốn do đó nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này chỉ mang tính chất tạm thời và doanh nghiệp cần chú ý điều hoà giữa nguồn vốn chiếm dụng được với các khoản vốn bị khách hàng chiếm dụng sao cho công ty không bị thua thiệt và luôn có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Trong quá trình huy động vốn, để đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển thì ngoài các nguồn vốn ngắn hạn đòi hòi công ty phải quan tâm đến việc tìm nguồn tài trợ dài hạn, đây là nguồn vốn tài trợ ổn định và lâu dài đảm bảo cho sự phát triển vững chắc của công ty. Hiện nay, toàn bộ tài sản cố định của công ty được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn vốn chủ sở hữu, tuy nhiên trong thời gian tới khi công ty triển khai xây dựng trụ sở để làm văn phòng cho thuê sẽ cần một lượng vốn dài hạn khá lớn. Trong 02 năm gần đây, kết quả hoạt động kinh doanh liên tục lỗ đã làm giảm đáng kể nguồn vốn chủ sở hữu, vì vậy để bổ sung vào các quỹ của công ty thì hoạt động kinh doanh phải hiệu quả. Trong thời gian tới có thể xem xét đến khả năng phát hành thêm cổ phiếu để tăng nguồn vốn chủ sở hữu của công ty lên mức hợp lý.
Ba là: Sau khi lập kế hoạch huy động vốn, công ty cần chủ động trong việc phân phối và sử dụng số vốn đã được tạo lập sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. Công ty cần căn cứ trên kế hoạch kinh doanh và dự báo những biến động của thị trường để đưa ra quyết định phân bổ vốn cả về mặt số lượng và thời gian, cụ thể cần dự trữ bao nhiêu hàng tồn kho là hợp lý và hiệu quả... Đồng thời, công ty cần có sự phân bổ hợp lý nguồn vốn dựa trên chiến lược phát triển. Từ kế hoạch tổng thể, công ty cần đưa ra các kế hoạch chi tiết. Để làm được điều này đòi hỏi công ty phải dựa vào hoạt động kinh doanh của những năm trước cũng như khả năng và tiềm lực của công ty trong năm tiếp theo để có thể xây dựng một kế hoạch chi tiết, cụ thể và sát thực tế nhất.
Có thể nói việc lập kế hoạch sử dụng và huy động vốn chính xác là một công việc khó khăn bởi ngoài các yếu tố chủ quan từ phía Ban lãnh đạo công ty còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như: tình hình biến động của thị trường, sự thay đổi cơ chế chính sách của Nhà nước, khả năng, uy tín của chính công ty... Thực tế, số vốn của công ty luôn có những sự biến động giữa các thời điểm trong năm, vì vậy, khi thực hiện trên cơ sở những kế hoạch đã đề ra cũng cần phải căn cứ vào tình hình thực tế để có những điều chỉnh thích hợp khi có những thay đổi không được dự báo trước. Cụ thể, nếu thiếu vốn công ty cần chủ động nhanh chóng tìm nguồn tài trợ bổ sung, nếu thừa vốn có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, góp vốn liên doanh... nhằm đảm bảo cho đồng vốn không ngừng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Do vậy, việc lập kế hoạch luôn là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý, sử dụng vốn nói riêng. Nếu làm tốt công tác này sẽ giúp công ty có một cơ cấu vốn linh hoạt và hiệu quả, giúp lành mạnh hoá tình hình tài chính của công ty, góp phần quan trọng vào sự phát triển của công ty trong thời gian tới.
3.2.1.2. Đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới công tác tổ chức cán bộ và tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty
Công tác quản lý, tổ chức có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Bộ máy tổ chức, cơ chế quản lý phải phù hợp sẽ phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các xí nghiệp kinh doanh, các phòng ban chức năng tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, làm hạn chế năng lực kinh doanh của công ty.
Đặc biệt trong thời gian tới công ty cần áp dụng cơ chế khoán kinh doanh đến từng xí nghiệp kinh doanh, điều này sẽ tạo ra tính chủ động và động lực khuyến khích các xí nghiệp thực hiện kinh doanh hiệu quả hơn.
Công ty cần tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên; nâng cao nghiệp vụ quản lý, trình độ của các cán bộ quản lý xí nghiệp. Cần xây dựng môi trường kinh doanh thích hợp, tạo cơ hội phát triển cho mỗi cá nhân nhằm phát huy khả năng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật mang lại lợi ích cho công ty. Thực hiện tốt chính sách khen thưởng bằng vật chất đối với cán bộ công nhân viên đem lại lợi ích cho công ty.
Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, do đó nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ quản lý là một biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh:
+ Cử cán bộ đi học tập kinh nghiệm, xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực toàn diện.
+ Có biện pháp khuyến khích vật chất, tinh thần nhằm phát huy tối đa năng lực của từng cán bộ; phát hiện và kịp thời bồi dưỡng tiềm năng sẵn có phục vụ công ty.
3.2.1.3. Quản lý chặt chẽ chi phí
Trong hoạt động kinh doanh, các khoản chi phí luôn phát sinh, vì vậy đòi hỏi công ty phải quản lý chi phí một cách chặt chẽ. Quản lý chặt chẽ chi phí sẽ là một điều kiện tiên quyết đảm bảo hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao. Để quản lý chi phí đạt hiệu quả cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Lập dự toán chi phí hàng năm: Công ty phải tính toán trước mọi chi phí cho sản xuất kinh doanh kỳ kế hoạch. Để làm được điều này đòi hỏi công ty phải có được một hệ thống các định mức chi phí hoàn chỉnh và phù hợp để làm cơ sở cho việc lập dự toán các khoản chi phí trong kỳ.
- Công ty cần tiến hành loại bỏ các chi phí bất hợp lý, hợp lệ trong quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo tiết kiệm trong chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn.
3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới bán hàng và đối tượng khách hàng
+ Cần thiết lập hệ thống cửa hàng bán lẻ trên khắp cả nước với các chinh sách bán hàng linh hoạt và mềm dẻo như: khuyến khích khách hàng thanh toán trước thời hạn bằng hình thức chiết khấu thanh toán; áp dụng giảm giá đối với khách hàng mua với số lượng lớn...
+ Các khách hàng của công ty hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với năng lực tài chính chưa thật cao. Do vậy, công ty cần hướng tới các công ty cổ phần, TNHH, tập đoàn lớn có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động kinh doanh ổn định, tăng trưởng bền vững.
3.2.1.5. Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sinh lời của đồng vốn, ngoài việc phát triển và duy trì hoạt động kinh doanh thế mạnh của mình, công ty nên mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực khác như: cho thuê kho bãi, mở rộng liên doanh, liên kết với các công ty có tiềm năng để tìm kiếm, đánh giá cơ hội đầu tư nhằm đạt được hiệu quả sinh lời cao, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên, công ty cần có kế hoạch và tính toán thận trọng, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư vào những dự án không hiệu quả.
- Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh theo hướng kết hợp kinh doanh nhiều loại thép, đặc biệt chú trọng vào một số loại thép có nhu cầu tiêu thụ cao trên thị trường.
- Đa dạng hoá hình thức kinh doanh nhằm mở rộng thị trường và giảm thiểu chi phí, cụ thể: tập trung vào các hoạt động kinh doanh truyền thống; môi giới và phát triển thương mại điện tử.
- Đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh nhằm bổ sung và mở rộng hoạt động kinh doanh đang có thế mạnh: thương mại, cho thuê kho bãi, liên kết với các doanh nghiệp sản xuất và khách hàng…
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Do đặc thù kinh doanh nên vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu vốn của công ty, trong đó phải kể đến là khoản mục các khoản phải thu và hàng tồn kho, đây cũng là nguyên nhân chính gây ra tình trạng ứ đọng vốn. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì buộc phải đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và sử dụng vốn lưu động.
3.2.2.1. Tăng cường công tác quản lý công nợ phải thu
Do thực hiện chính sách bán hàng chậm trả nên các khoản phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn lưu động của công ty, vì vậy quản lý tốt các khoản phải thu là biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty:
- Cần có các ràng buộc chặt chẽ khi ký kết các hợp đồng mua bán: Cần quy định rõ ràng thời gian và phương thức thanh toán đồng thời luôn giám sát chặt chẽ việc khách hàng thực hiện những điều kiện trong hợp đồng. Bên cạnh đó cũng cần đề ra những hình thức xử phạt nếu hợp đồng bị vi phạm để nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia hợp đồng; phải gắn trách nhiệm của khách hàng thông qua các hợp đồng, thông qua các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng, các điều kiện giao nhận, điều kiện thanh toán. Bên cạnh đó cần có những ràng buộc bán chậm trả để lành mạnh hoá các khoản nợ như: yêu cầu ký quỹ, bảo lãnh của Bên thứ ba (ngân hàng)... đồng thời thường xuyên thu thập các thông tin về khách hàng thông qua nhiều kênh cung cấp để có chính sách bán hàng phù hợp, hiệu quả.
- Trong công tác thu hồi nợ: Hàng tháng, công ty nên tiến hành theo dõi chi tiết các khoản phải thu, lập bảng phân tích các khoản phải thu để nắm rõ về quy mô, thời hạn thanh toán của từng khoản nợ cũng như có những biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán trước thời hạn bằng hình thức chiết khấu thanh toán cũng là một biện pháp tích cực để thu hồi các khoản nợ. Cần phân loại các khoản nợ và thường xuyên đánh giá khả năng thu hồi của các khoản nợ đó.
- Đối với những khoản nợ quá hạn, nợ đọng: Công ty cần phân loại để tìm nguyên nhân chủ quan và khách quan của từng khoản nợ, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế để có biện pháp xử lý phù hợp như gia han nợ, thoả ước xử lý nợ, giảm nợ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp. Đồng thời cũng cần có chính sách linh hoạt, mềm dẻo đối với các khoản nợ quá hạn và đến hạn. Đối với những khách hàng uy tín, truyền thống, trong trường hợp họ tạm thời có khó khăn về tài chính có thể áp dụng biện pháp gia hạn nợ. Còn đối với những khách hàng cố ý không thanh toán hoặc chậm trễ trong việc thanh toán thì công ty cần có những biện pháp dứt khoát, thậm chí có thể nhờ đến sự can thiệp của các toà kinh tế để giải quyết các khoản nợ.
- Thường xuyên làm tốt công tác theo dõi, rà soát, đối chiếu thanh toán công nợ để tránh bị chiếm dụng vốn, đồng thời đảm bảo khả năng thanh toán, có như vậy mới góp phần đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.2.2.2. Dự trữ hàng tồn kho hợp lý, tăng cường công tác quản lý hàng tồn kho
Kết quả kinh doanh liên tục lỗ trong những năm gần đây chủ yếu do dự trữ hàng tồn kho không hợp lý, cụ thể là việc xác định thời điểm dự trữ còn nhiều yếu kém, tồn tại. Vì vậy, để công tác dự trữ hàng tồn kho hợp lý quan trọng là phải thực hiện tốt công tác dự báo thị trường, phân tích và tính toán những biến động về giá thép trên thị trường. Cụ thể, bộ phận kế hoạch lập kế hoạch dự trữ phải chi tiết, cụ thể, đảm bảo sát với thực tế để hạn chế tới mức thấp nhất số vốn dự trữ, đồng thời xác định thời điểm dự trữ hàng tốt nhất. Đồng thời bộ phận tài chính có kế hoạch tìm nguồn tài trợ tương ứng.
Công ty cũng cần phải tiến hành kiểm kê, đối chiếu tình hình nhập tồn của các loại thép định kỳ nhằm làm cơ sở cho việc xác định mức dự trữ cần thiết cho kỳ tiếp theo.
3.2.2.3. Xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên một cách hợp lý
Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên sẽ giúp công ty có kế hoạch phân bổ, sử dụng vốn lưu động phù hợp, chủ động trong kinh doanh, tránh được tình trạng thiếu vốn trong kinh doanh, tránh để ứ đọng vốn, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết, công ty có thể sử dụng phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên sau:
Phương pháp gián tiếp
Đặc điểm của phương pháp gián tiếp là dựa vào kết quả thống kê kinh nghiệm về vốn lưu động bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm kế hoạch và khả năng tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
Công thức tính toán như sau:
M1
Vnc = VLĐ0 x x (1+t)
M0
Vnc: Nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch
M1, M0: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch và năm báo cáo.
VLĐ0: Số dư bình quân vốn lưu động năm báo cáo
t: Tỷ lệ giảm (hoặc tăng) số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo
Mức luân chuyển vốn lưu động được tính theo doanh thu bán hàng (doanh thu thuần). Nếu năm kế hoạch tốc độ luân chuyển vốn lưu động tăng sẽ làm cho nhu cầu vốn lưu động giảm bớt.
Trên thực tế, để ước đoán nhanh nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp tính toán căn cứ vào tổng mức luân chuyển vốn và số vòng quay vốn lưu động dự tính năm kế hoạch. Cách tính như sau:
M1
Vnc =
L1
Trong đó:
M1: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch
L1: Số vòng quay vốn lưu động năm kế hoạch
Việc dự tính tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch có thể dựa vào tổng mức luân chuyển vốn của kỳ báo cáo có xét tới khả năng mở rộng kinh quy mô kinh doanh trong năm kế hoạch. Tương tự số vòng quay vốn năm kế hoạch có thể được xác định căn cứ vào số vòng quay vốn lưu động bình quân của các doanh nghiệp trong cùng ngành hoặc số vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp kỳ báo cáo có xét tới khả năng tốc độ luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo.
Phương pháp gián tiếp có ưu điểm là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp.
Việc xác định nhu cầu vốn lưu động bằng phương pháp gián tiếp chỉ nên áp dụng trong trường hợp các mục tiêu của công ty và môi trường sản xuất kinh doanh trong năm kế hoạch là tương đối ổn định so với năm báo cáo. Nếu có biến động lớn về doanh thu và tình hình sản xuất kinh doanh nhu cầu vốn lưu động có thể được xác định theo công thức sau:
NC(VLĐ) = HTK + PTh - PTr
Trong đó:
NC(VLĐ): Nhu cầu vốn lưu động
HTK: Hàng tồn kho
PTh: Các khoản phải thu
PTr: Các khoản phải trả
Trên cơ sở nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong kỳ kế hoạch và căn cứ vào kế hoạch sản xuất, công ty xác định được kết cấu vốn lưu động hợp lý, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cho từng khoản mục theo xu hướng vận động của kết cấu vốn lưu động để xây dựng kế hoạch huy động vốn. Mỗi nguồn vốn có chi phí sử dụng vốn khác nhau, do đó việc huy động nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh phải được tính toán cụ thể để có chi phí huy động thấp nhất, hạn chế rủi ro và tạo ra một kết cấu vốn hợp lý. Trên cơ sở này, phòng kế toán xác lập được kế hoạch nguồn vốn lưu động, xác định được hạn mức tín dụng cần thiết.
Bên cạnh việc lập kế hoạch nguồn vốn lưu động, công ty cũng phải tiến hành kiểm tra và đánh giá nhu cầu vốn lưu động, từ đó có biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý vốn vượt so với kế hoạch để ngăn ngừa rủi ro do sử dụng vốn sai mục đích.
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
Do đặc thù kinh doanh nên vốn cố định chiếm tỷ trọng không cao trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhưng hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung.
Công ty cần có kế hoạch theo dõi tình hình sử dụng tài sản cố định để đảm bảo tài sản có hoạt động, được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
Lập kế hoạch đầu tư mua sắm, tăng giảm và khấu hao tài sản cố định hàng năm: Kế hoạch này phải xác định rõ nguồn vốn đầu tư vào TSCĐ, xác định danh mục, số lượng, giá trị của từng loại TSCĐ tăng, giảm trong năm; phân tích cụ thể TSCĐ do doanh nghiệp đầu tư và lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp.
- Hướng đầu tư vào TSCĐ đem lại hiệu quả cao nhằm phát huy hết hiệu suất sử dụng TSCĐ.
- Xác định loại TSCĐ chủ sở hữu và TSCĐ thuê đối với các nhu cầu phát sinh trong thực tế.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ AN BÌNH
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất: Hoàn thiện đầy đủ và đồng bộ cơ chế pháp luật, đặc biệt là các biện pháp bình ổn giá thép trên thị trường
- Thị trường thép trong nước chịu ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ bởi những biến động của thị trường thép thế giới, do vậy Nhà nước cần có những biện pháp hiệu quả ổn định giá thép, tránh để giá thép biến động quá lớn gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chính sách tín dụng: Lãi suất ngân hàng còn nhiều bất hợp lý, hành lang pháp chế còn chưa rõ ràng, gây không ít khó khăn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Các chính sách tín dụng cũng cần được sửa đổi đảm bảo tăng trưởng vững chắc cho các ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn.
Thứ hai: Phát triển mạnh hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp
- Khuyến khích phát triển loại hình công ty cổ phần: Cần có những chính sách khuyến khích loại hình doanh nghiệp này dưới các hình thức cụ thể như: miễn thuế trong thời gian cụ thể đối với các công ty cổ phần...
- Quan tâm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp lơn: Tạo ra sự bình đẳng trong các khu vực kinh tế, tránh tình trạng quá ưu tiên đến các doanh nghiệp lớn, tạo ra sự ỷ lại cho các doanh nghiệp lớn đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước.
- Tập trung tháo gỡ những rào cản hành chính của Doanh nghiệp; điều này sẽ góp phần đẩy nhanh sự phát triển của các doanh nghiệp, do đó gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của mình.
- Thiết kế các chính sách và công cụ hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với các định hướng phát triển và quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam gia nhập, đây là một tất yếu khách quan vì phải tạo ra sự phù hợp với các thể chế thì mới mong có sự hoà nhập và phát triển.
- Tạo thuận lợi cho các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, xã hội hoá các dịch vụ công...
- Phát triển và phát huy mạnh vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt về đại diện bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp, hỗ trợ, xúc tiến thương mại. Điều này đặc biệt cần thiết trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước một sự cạnh tranh ồ ạt, lấn sân từ các công ty nước ngoài. Vì vậy, yêu cầu là phải có một hiệp hội các doanh nghiệp trong cùng một ngành đứng ra liên kết để bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp.
Thứ ba: Cung cấp các thông tin dự báo thị trường thép trong và ngoài nước kịp thời, phù hợp với biến động thực tiễn thị trường trong ngắn hạn và dài hạn.
Cụ thể, Hiệp hội Thép cần có những thông tin kịp thời, phản ánh trung thực biến động thị trường thép đến các cơ quan chức năng. Trong đó quan trọng là các thông tin về cung cầu của thị trường, giá cả, xu hướng vận động của thị trường trong tương lai. Ngoài thông tin thị trường thép trong nước, doanh nghiệp cần có các thông tin về thị trường thép khu vực và quốc tế.
Bên cạnh chất lượng thì tốc độ thông tin cũng rất quan trọng. Thông tin cần được cung cấp một cách nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh những công cụ truyền thống, cần ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay, để mở rộng và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty luôn cần một lượng vốn lớn. Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn bên trong, công ty cũng rất cần huy động vốn từ các nguồn bên ngoài, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng phát triển khá mạnh cho phép công ty có thể huy động vốn với chi phí hợp lý. Sau đây là một số giải pháp ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể áp dụng để tạo ra điều kiện thuận lợi cho các công ty huy động vốn:
- Ngân hàng và tổ chức tín dụng cần linh hoạt và nhanh chóng thực hiện các thủ tục cho công ty vay vốn để công ty có thể chủ động vay vốn, nắm bắt cơ hội kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
- Ngân hàng và tổ chức tín dụng cần phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Ngân hàng và tổ chức tín dụng nên phân doanh nghiệp ra thành từng nhóm khách hàng để có thể áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt đối với mỗi doanh nghiệp. Cần ưu tiên hỗ trợ cho những doanh nghiệp mới thành lập nhưng có tiềm năng hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và những doanh nghiệp có quy mô lớn cũng như đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, thì rất cần có một mối liên kết chặt chẽ giữa các ngân hàng, các tổ chức tính dụng và các doanh nghiệp trong nước để có thể tạo ra được sức mạnh chiến thắng được sức cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển mạnh như hiện nay thì các doanh nghiệp đang đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ. Vấn đề đặt ra không chỉ là sự tồn tại mà còn phải phát triển, phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt. Vốn kinh doanh là một trong các yếu tố không thể thiếu đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Việc quản lý và sử dụng vốn luôn giữ một vai trò quan trọng trong công tác quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Là một Công ty thương mại chủ yếu kinh doanh các sản phẩm thuộc lĩnh vực thép, Công ty CP kim khí An Bình đã có những phát triển vượt bậc cả về chất lượng lẫn quy mô. Với tiềm năng của Công ty nói riêng và của ngành thép nói chung, Công ty CP kim khí An Bình hoàn toàn có thể từng bước khẳng định hơn nữa vị thế của mình trên thị trường trong nước cũng như bắt kịp vòng xoáy hội nhập quốc tế. Vì vậy, đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình” được nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra các những tồn tại trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của công ty và nguyên nhân của những tồn tại đó. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần kim khí An Bình.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do trình độ còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi các khiếm khuyết, tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và đồng nghiệp để có kiến thức toàn diện về đề tài đã nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Thị Thắng đã rất tận tình và có những chỉ dẫn thiết thực, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành bản luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn khoa sau đại học, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-13.doc