Chương 1
Vốn cố định và sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.1. Những vấn đề cơ bản về vốn cố định.
1.1.1. Tài sản cố định và vốn cố định.
1.1.1.1. Tài sản cố định.
Một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần phải có hai yếu tố là tư liệu sản xuất và sức lao động, trong đó tư liệu sản xuất dược chia thành tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm …..) c
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cao Su Sao Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác tư liệu lao động (máy móc thiết bị, nhà xưởng pương tiện vận tải …) là những công cụ mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng theo mục đích sử dụng của mình.
Bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh là các tài sản cố định (TSCĐ). Đó là tư liệu chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD) như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản chi phí đầu tư mua sắm các TSCĐ vô hình…Thông thường, tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
-Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường là từ một năm trở lên.
-Hai là phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức độ quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng cho từng quốc gia và có thể điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả của từng thời kỳ.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn trên được coi là những công cụ nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của doanh nghiệp là phức tạp hơn.
Trước hết, việc phân biệt giữa đối tượng lao động với các tư liệu lao động là TSCĐ của doanh nghiệp trong một số trường hợp không chỉ đơn thuần dựa vào đặc tính hiện vật, mà còn dựa vào tính chất và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bởi vì có thể cùng một tài sản ở trường hợp này người ta coi nó là TSCĐ nhưng ở trường hợp khác thì được coi là đối tượng lao động. Ví dụ : Máy móc thiết bị ,nhà xưởng mới hoàn thành, đang được bảo quản trong kho chờ tiêu thụ hoặc là các công trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao thì chỉ được coi là đối tượng lao động .
Hai là: Một số tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các tiêu chuẩn trên xong lại được tập hợp sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì hệ thống đó được coi là TSCĐ. Ví dụ : Trang thiết bị trong phòng thí nghiệm, vườn cây lâu năm ….
Ba là : Trong điều kiện phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ cũng như nét đặc thù trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn hai điều kiện trên và không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Ví dụ: chi phí mua bằng phát minh sáng chế, chi phí thành lập doanh nghiệp …
ở nước ta theo chế độ tài chính hiện hành (quyết định số 166/1999/ QĐ-BTC ngày 31/12/1999 ) quy định ở điều 4 mục II về nhận biết TSCĐ:
-Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ hữu hình:
Mọi tư liệu lao động là TSCĐ hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận riêng lẻ liên kết với nhau để thực hiện một chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì hệ thống đó không thể hoạt động được, nếu thoả mãn hai đồng thời cả hai tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là TSCĐ:
+ Có thời hạn sử dụng từ một năm trở lên.
+ Có giá trị từ 5.000.000 (Năm triệu đồng ) đồng trở lên.
Trường hợp hệ thống bao gồm nhiều tài sản riêng lẻ được liên kết với nhau, trong đó bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau nếu thiếu môt bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng TSCĐ đòi hỏi phải tách rời thì được coi là TSCĐ hữu hình độc lập (Ví dụ : Ghế ngồi, khung và động cơ …của máy bay). Đối với súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm thì từng con súc vật kia được coi là một TSCĐ hữu hình. Đối với từng mảnh vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn kia cũng được coi là một TSCĐ hữu hình.
-Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình.
Mọi khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra thoả mãn hai tiêu chuẩn đã quy định ở khoản 1 điều này mà không hình thành nên TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu khoản này không đồng thoả mãn cả hai tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp vào chi phí của doanh nghiệp.
Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ không đổi. Tuy nhiên, giá trị của nó lại được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phạn giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí SXKD của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được đem đi tiêu thụ.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, ta có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau:
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch từng phần vào giá trị sản phẩm trong chu kỳ sản xuất.
*Các tiêu thức phân loại TSCĐ:
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có các cách phân loại chủ yếu sau:
-Theo hình thái biểu hiện :
Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại :TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và tài sản không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình).
Phương pháp này giúp cho doanh nghiệp thấy được một cách tổng quát cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Từ đó doanh nghiệp có những lựa chọn về các dự án đầu tư hoặc có những điều chỉnh sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
-Theo mục đích sử dụng của TSCĐ:
Theo tiêu thức này toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại : TSCĐ dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh ; TSCĐ dùng cho hoạt động phúc lợi ,an ninh, sự nghiệp quốc phòng ; TSCĐ giữ hộ, bảo quản hộ cho nhà nước .
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý sử dụng TSCĐ theo mục đích sao cho nó đạt hiệu quả cao nhất.
-Theo công dụng kinh tế .
Căn cứ theo công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành các loại sau : nàh cửa vật kiến trúc ; máy móc thiết bị ;phương tiện vận tải truyền dẫn ;thiết bị, dụng cụ quản lý ; vườn cây lâu năm , súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm ; các loại TSCĐ khác.
-Theo tình hình sử dụng.
Căn cứ theo tình hình sử dụng TSCĐ người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành : TSCĐ đang sử dụng , TSCĐ chưa cần dùng TSCĐ chờ thanh lý.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng chúng.
-Theo nguồn hình thành.
Theo cách phân loại này TSCĐ bao gồm những loại TSCĐ sau: tacd hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp , TSCĐ hình thành từ nguồn tự bổ sung, TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay và TSCĐ hình thành từ liên doanh liên kết.
Theo cách phân loại này giúp doanh nghiệp biết được nguồn hình thành TSCĐ để có phương hướng trích và sử dụng khấu hao TSCĐ một cách hợp lý. Đông thời xác định tỉ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng số vốn kinh doanh để có biện pháp khai thác và sử dụng các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Mỗi cách phân loại trên đều cho phép đánh giá, xem xét cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau.Việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu TSCĐ là một việc làm cần thiết giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kết cấu TSCĐ sao cho có lợi nhất cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.1.1.2 .Vốn cố định của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư, lắp dặt hay xây dựng TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình được gọi là số vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi được vốn sau khi đã tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình.
Là số vốn ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố định( VCĐ ) nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng đến trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng rất lớn và chi phối đặc điểm luân chuyển và tuần hoàn vốn của doanh nghiệp ngư sau:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này là do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Hai là : Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia và nhiều chu kỳ sản xuất một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Từ những đặc điểm trên của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái và hiện vật của TSCĐ trong doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng luân chuyển khi TSCĐ hết thời gian sử dụng .
Việc nghiên cứu về TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp la cơ sở cho việc xem xét, quản lý sản xuất. Đồng thời, nó là cơ sở cho việc tổ chức huy động vốn của doanh nghiệp.
1.2. Sự cần thiết, phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở doanh nghiệp.
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó xuất phát từ những lý do chủ yếu sau:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp :Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá
nguồn tích luỹ để tái sản xuất của doanh nghiệp, lợi nhuận tác động nên hầu hết các mặt hoạt động của doanh nghiệp .Do đó, việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận sẽ đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp luôn luôn ổn định.Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng. Có như vậy, doanh nghiệp mới đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
- Xuất phát từ yêu cầu hạch toán kinh doanh đầy đủ của doanh nghiệp trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường: Từ khi chuyển sang nên kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải tuân theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Yêu cầu của nguyên tắc hạch toán kinh doanh là: Kinh doanh phải lấy thu bù chi và phải có lợi nhuận. Nếu không đạt được yêu cầu này các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phá sản. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn có những biện pháp để bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì một trong những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn cố định của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Như đã trình bày ở phần trước về TSCĐ của doanh nghiệp, nó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, nó góp phần giảm chi phí về tiêu hao nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm.Việc nâng cao năng lực sản xuất của TSCĐ sẽ góp phần làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định nâng lên. Khi hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng lên dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp cũng tăng lên.
Xuất phát từ những yêu cầu trên chúng ta thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết vì nó có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định phải bảo toàn được cả về mặt giá trị và hiện vật cua tài sản, tức là phải đảm bảo các TSCĐ của doanh nghiệp không hư hỏng trước thời hạn sử dụng, phải có kế hoạch sửa chữa kịp thời những TSCĐ khi chúng bị hư hỏng.
Cần có kế hoạch khấu hao đúng, chấp hành tốt việc trich lập quỹ khấu hao đúng mục đích nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất TSCĐ được kịp thời phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời cần thanh lý những TSCĐ không cần dùng nhằm tránh tình trạng ứ đọng vốn, có kế hoạch bảo quản sửa chữa máy móc thiết bị và đổi mới quy trình công nghệ.
Quản lý tốt TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng. Về khâu mua sắm cần chú ý đến tiến bộ khoa học kĩ thuật để tránh mua phải những TSCĐ lạc hậu và không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn sản xuất. Quy mô của vốn cố định và trình độ quản lý sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng đến trình độ trang bị kĩ thuật của doanh nghiệp. Do ở vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo một quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định được coi là một vấn đề vô cùng quan trọng của công tác quản trị tài chính
Như đã trình bày ở trên, vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Do vậy, vấn đề đặt ra với các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp là làm như thế nào để sử dụng vốn cố định có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp được biểu thị qua kết quả đạt được trong các quá trình sản xuất với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, trong đó kết quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả mặt kinh tế và xã hội. Hiệu quả kinh tế được biểu thị bằng các chỉ tiêu giá trị và hiện vật phản ánh kết quả kinh doanh trong một thời kỳ. Hiệu quả xã hội được biểu thị qua các mặt về đời sống xã hội và an ninh quốc phòng …
Do vậy, có thể nói rằng hiệu quả sử dụng vốn cố định là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình khai thác và sử dụng vốn cố định vào sản xuất với số vốn đã sử dụng để đạt được hiệu quả như trên.
Chính vì vây, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu tiên mà họ quan tâm đến là làm thế nào để đạt được hiệu quả cao cho đồng vốn mà họ bỏ ra để đầu tư. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
-Tỷ suất sinh lời vốn cố định : Là tỷ số sinh lời hoặc lợi nhuận ròng ( lợi nhuận sau khi đã trừ thuế thu nhập doanh nghiệp ) trong kỳ so với số dư VCĐ bình quân.
Lợi nhuận (hoặc lợi nhuận ròng ) trong kỳ
Tỷ suất sinh lời = -------------------------------------------------------
VCĐ Vốn cố định bình quân trong kỳ
Trong đó vốn cố định bình quân được tính như sau:
VCĐ đầu kỳ +VCĐ cuối kỳ
Vốn cố định bình quân = ----------------------------------------
trong kỳ 2
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân bỏ ra trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác hơn kết quả sử dụng vốn cố định giữa các thời kỳ cần xét đến hiệu quả sử dụng TSCĐ :
Lợi nhuận ( lợi nhuận ròng ) trong kỳ
Hiệu quả sử dụng = ----------------------------------------------
TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định : Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ. Nó được xác định như sau:
Doanh thu( doanh thu thuần ) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng = -----------------------------------------------
VCĐ Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Để đánh giá đúng mức kết quả quản lý của từng thời kỳ, chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định phải được xem xét trong mối quan hệ với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ :
Doanh thu( doanh thu thuần) trong kỳ Hiệu suất sử dụng = ------------------------------------------------
TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu ( doanh thu thuần ) doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn cố định, nó được xác định bởi công thức:
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Hàm lượng VCĐ = ------------------------------------------------
Doanh thu (doanh thu thuần) trong kỳ
Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên người ta sử dụng một số chỉ tiêu khác để phân tích :
Số tiền khấu hao luỹ kế
Hệ số hao mòn = --------------------------------------------------
TSCĐ Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân trực tiếp sản xuất: Chỉ tiêu này phản ánh giá trị TSCĐ được trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất .
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Hệ số trang bị = -------------------------------------------------
TSCĐ Số công nhân trực tiếp sản xuất
Từ những trình bày ở trên ta có thể rút ra nhận xét :
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định là việc khai thác hết công suất tối đa khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất của máy móc thiết bị, tận dụng tối đa giờ máy ….Từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho hiệu quả thu được trên một đồng vốn ngày càng tăng. Do đó, các doanh nghiệp phải nắm vững tình hình sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp mình để có các biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở doanh nghiệp.
- Lựa chọn đúng đắn phương án đầu tư xây dựng và mua sắm TSCĐ :
Đây là công việc hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Trước hết, muốn đầu tư mua sắm, xây dựng TSCĐ thìdoanh nghiệp phải điều tra nghiên cứu thị trường,xem xét phân tích và nắm bắt khả năng tiêu thụ sản phẩm của thị trường ,xem xét, phân tích và nắm bắt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, điều kiện cung cấp vật tư và khả năng tận dụng thời gian và công suất của TSCĐ.Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định đầu tư vào loại TSCĐ nào cho hợp lý và lựa chọn đối tác đầu tư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ tiến hành đầu tư, mua sắm TSCĐ khi thực sự cần thiết bởi như vậy sẽ giảm bớt được TSCĐ dự trữ (vốn cố định ) cũng có nghĩa là tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong sản xuất, hơn nữa do sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện nay. Do đó quá trình đầu tư mua sắm TSCĐ phải phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp trước khi thực hiện quá trình đầu tư, mua sắm TSCĐ đều phải căn cứ vàp thực trạng hiện có của doanh nghiệp mình, phải tính toán sắp xếp các loại TSCĐ hteo yêu cầu sản xuất chính, lập tỷ lệ cần thiết giữa phần TSCĐ theo công dụng, lập tỷ lệ phân phối theo yêu cầu công nghệ các loại TSCĐ giữa khâu sản xuất chính với sản xuất phụ trợ.
Việc đầu tư, mua sắm TSCĐ phải được tiến hành theo xu hướng : TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng ngày càng cao, TSCĐ dùng ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh có xu thế giảm. Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các loại TSCĐ, các khâu trong quy trình công nghệ trên tổng số TSCĐ hiện có trong doanh nghiệp để lập kế hoạch đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo máy móc thiết bị cũ, thải những TSCĐ mà chi phí sửa chữa phục hồi tài sản lớn hơn chi phí mua sắm mới. Đồng thời có kế hoạch đầu tư, mua sắm, thay thế từng phần hoặc toàn bộ TSCĐ. Xác định TSCĐ không cần dùng để thanh lý nhượng bán.
- Tổ chức quản lý và huy động tối đa TSCĐ vào hoạt động sảnxuất.
Sau khi đã lựa chọn đúng đắn phương án đầu tư, mua sắm TSCĐ và thực hiện quá trình đầu tư, mua sắm thì đây là bước công việc hết sức quan trọng nà có tính thực tế cao , nó liên quan trực tiếp đến vấn đề hiệu quả sử dụng TSCĐ. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các bước công việc sau đây:
Một là : Phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, khai thác tối đa công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất của máy móc thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, bảo đảm mức chi khấu hao phù hợp với giá thành sản phẩm.
Hai là : Cần xử lý nhanh các TSCĐ không cần dùng hoặc hư hỏng không sử dụng được nữa nhằm tránh lãng phí vốn của doanh nghiệp.
Ba là :Cần tiến hành phân cấp quản lý TSCĐ cho các phân xưởng, bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong quản lý, chấp hành nội quy, quy chế sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ và giảm tối đa thời gian ngừng làm việc để sửa chữa sớm hơn kế hoạch.
Bốn là : Phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định, quản lý chặt chẽ về mặt hiện vật, không để hư hỏng, mất mát TSCĐ. Trước thời hạn khấu hao hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo khung quy định của nhà nước và kịp thời điều chỉnh lại giá trị của TSCĐ khi trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao và giá thành nhằm bảo toàn vốn cố định của doanh nghiệp.
- Lựa chọn phương pháp khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao một cách hợp lý.
Trích khấu hao cơ bản là hình thức thu hồi vốn cố định để phục vụ cho quá trình tái tạo TSCĐ, nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên và liên tục và nâng cao hiệu quả đồng vốn bỏ ra. Với sự tiến bộ không ngừng của khoa học kĩ thuật hiện đại, hao mòn vô hình là một trong những vấn đề được tất cả những nhà quản trị tài chính quan tâm . Vấn đề đặt ra là phải làm sao để tránh được hao mòn vô hình, khắc phục được tình trạng TSCĐ phải thanh lý trước thời hạn sử dụng làm lãng phí vốn, có nghĩa là phải đẩy nhanh mức độ hoạt động của các TSCĐ để có thể khấu hao trước thời hạn và sử dụng chúng một cách hợp lý.
Theo Quyết định 166/1999/ QĐ-BTC ban hành ngày 30/12/1999 (thay thế quyết định 1062 ngày 14/11/1996 ) của Bộ Tài Chính đã giải quyết được vấn đề cơ bản : cho phép các doanh nghiệp được chủ động , linh hoạt trong việc trích khấu hao TSCĐ theo khung quy định và cho phép các doanh nghiệp được quyền giữ lại quỹ khấu hao để tái đầu tư TSCĐ. Quỹ khấu hao luỹ kế trong thời gian chưa đầu tư TSCĐ, doanh nghiệp có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao trên nguyên tắc hoàn quỹ.
Căn cứ vào quyết định về việc quản lý trích khấu hao TSCĐ và điều kiện thực tế sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và làm tốt công tác khấu hao TSCĐ, tính khấu hao một cách đúng đắn, chính xác, đồng thời sử dụng quỹ khấu hao một cách linh hoạt nhưng cuối cùng phải trở lại mục đích là tái sản xuất TSCĐ.
1.3. Vai trò của công tác quản trị tài chính đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.3.1. Mối quan hệ giữa công tác quản trị tài chính với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mục tiêu của họ là đạt lợi nhuận cao. Chính vì vậy, để đạt được lợi nhuận cao thì điều đầu tiên mà họ quan tâm là làm thế nào để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng, để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp các nhà quản trị phải có các lựa chọn, những quyết định và tổ chức việc thực hiên các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu của mình đã đề ra.
Quản trị tài chính là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện những quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp như : tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng tăng giá trị của doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Quản trị tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng. Nó có thể đưa ra các quyết định đầu tư dài hạn ( đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất …) nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, ngược lại việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh để đầu tư vào sản xuất kinh doanh nói chung và TSCĐ nói riêng
1.3.2. Vai trò của công tác quản trị tài chính đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Quản trị tài chính giữ một vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định nói riêng.
Vai trò của quản trị tài chính đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở doanh nghiệp.
- Huy động vốn đầu tư, kịp thời vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường nảy sinh nhu cầu về vốn để đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, việc lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp là hết sức cần thiết vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung và vốn cố định nói riêng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp có thể huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy, Vai trò của công tác quản trị tài chính là hết sức quan trọng trong việc lựa chọn các hình thức, phương pháp huy động vốn. Nếu doanh nghiệp có sự lựa chọn đúng đắn về nguồn vốn tài trợ để đầu tư vào TSCĐ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp qua đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng tăng lên.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả:
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng. Do đó, quản trị tài chính đóng vai trò quan trọng vào việc lựa chọn, đánh giá đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của các dự án đầu tư vào TSCĐ để từ đó có sự lựa chọn tối ưu. Nếu doanh nghiệp có sự lựa chọn công nghệ, thiết bị đúng đắn sẽ phát huy được hiệu quả, năng lực sản xuất của TSCĐ từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên,việc lựa chọn không đúng đắn các dự án đầu tư sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh gây ra tình trạng ứ đọng vốn, việc sử dụng không thu được hiệu quả cao
( - Giám sát, kiểm tra các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp )
CHƯƠNG II
Tình hình quản lý và sử dụng vốn cố định ở công ty Cao Su Sao Vàng
2.1. Khái quát về tình hình và đặc điểm của công ty Cao Su Sao Vàng.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Công ty Cao Su Sao Vàng là một Doanh Nghiệp nhà nước thuộc tổng công ty hóa chất Việt Nam do Bô Công quản lý.
Tên giao dịch: Sao Vàng Rubber Company.
Địa chỉ: 213 - Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội.
Công ty chuyên sản xuất, chế biến các mặt hàng từ cao su như: Săm lốp xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay, ủng cao su, ống cao su, gioăng cao su…
Nhà máy Cao Su Sao Vàng được khởi công xây dựng từ ngày 22/12/1958 cùng với nhà máy xà phòng, thuốc lá theo quyết định của Đảng và Nhà Nước.
Ngày 23/05/1960 nhà máy làm lễ cắt băng khánh thành và hàng năm lấy ngày này là ngày truyền thống, ngày kỉ niêm thành lập với cái tên gọi đầu tiên nhà máy Cao Su Sao Vàng Hà Nội - Một bông hoa hữu nghị của tình đoàn kết hữu nghị Việt - Trung bởi toàn bộ công trình này lằm trong khoản viện trợ của Đảng và Chính phủ Trung Quốc tặng nhân dân ta.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể khái quát thành những giai đoạn phát triển sau:
- Giai đoạn trước khi áp dụng cơ chế kinh tế mới (1960 - 1987).
Trong những năm đầu thành lập mặt hàng chủ yếu của công ty là săm lốp xe đạp các loại, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu phục vụ nhu cầu thị trường trong nước. Trong thời gian này nhà máy sản xuất theo kế hoạch của nhà nước và sản phẩm được nhà nước mang đi phân phối do vậy nhà máy chưa quan tâm đến mẫu mã, hình thức sản phẩm. Mặc dù trong thời gian này nhịp độ sản xuất luôn tăng trưởng, số lượng chất lượng không ngừng tăng lên song sản phẩm đơn điệu, chủng loại còn nghèo nàn ít được cải tiến vì không có sự cạnh tranh. Bộ máy quản lý công kênh, hoạt động kém hiệu quả thu nhập của người lao động thấp.
- Giai đoạn chuyển từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước (1988 đến nay).
Trong những năm 1988 - 1990 nhà máy trong thời kỳ quá độ chuyển đổi từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong thời gian này tuy gặp không ít khó khăn song với sự năng động, sáng tạo và truyền thống của công ty đã định hướng đúng chiến lược sản xuất kinh doanh cho nhà máy.
Từ năm 1990 đến nay, việc nâng cao chất lượng sản phẩm được thực hiện qua việc kiểm tra chặt chẽ tất cả các quá trình sản xuất. Cho đến nay công ty đã khẳng định được vị trí của mình là Doanh Nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, được tặng thưởng cờ và bằng khen của cấp trên. Từ những thành và để phù hợp với tình hình thực tế nhà máy đổi tên thành công ty Sao Vàng.
Nhờ vào thành tích đạt được trong kinh doanh liên tục trong các năm 1995 - 1998 công ty đã đạt được tốp ten sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng. Ngay 16/12/1999 công ty đã nhận được chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002 do BVQI vương quốc Anh cấp.
2.1.2. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cao Su Sao Vàng.
Như đã biết công ty Cao Su Sao Vàng là công ty chuyên sản xuất, chế biến và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng như: săm lốp xe đạp, xe máy, ô tô, ủng cao su, gioăng cao su… và một số mặt hàng khác theo đơn đặt hàng của đơn vị bạn như lốp máy bay…
Với tình hình cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt như hiện nay. Công ty phải đặt ra những nhiệm vụ mới để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Công ty không ngừng thực hiện việc nghiên cứu thị trường, thị hiếu của khách hàng nhằm nâng cao thị phần và mở r._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34472.doc