LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường với xu thế mở cửa, hội nhập, nhiều doanh nghiệp nước ta không thể trụ vững được do có sự cạnh tranh gay gắt không những trong mà còn ngoài nước. Xu thế ấy buộc các doanh nghiệp phải phát huy mọi lợi thế của mình, hợp lý hóa toàn bộ quá trình sản xuất – kinh doanh để không ngừng phát triển đi lên. Trong đó nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là vấn đề cần thiết nhất. Đó luôn là mục tiêu hàng đầu của các doan
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1824 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần May 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp, tiết kiệm chi phí sản xuất để nâng cao lợi nhuận, tạo thế cạnh tranh trên thị trường.
Với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta trong thời gian qua bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn yếu kém đã có không ít doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường. Công ty Cổ phần May 10 là một trong số không nhiều doanh nghiệp Nhà nước mới thực hiện cổ phần hoá, trong đó vốn Nhà nước chiếm 51%, có phương thức hoạt động khá hiệu quả. Các sản phẩm đang được ưa chuộng, Công ty đang có uy tín lớn trong ngành dệt may Việt Nam cũng như trên thế giới.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần May 10 được sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Vũ Duy Hào cùng các cán bộ và nhân viên phòng Tài chính kế toán em đã mạnh dạn chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10.
Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1 : Hiệu quả sử dụng tài sản tại doanh nghiệp
Chương 2 : Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10
CHƯƠNG 1
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản
1.1.1. Khái niệm tài sản
Xét trên phương diện tổng quát trong nền kinh tế, tài sản là tất cả những thứ mà khi mang ra thị trường sẽ có người sẵn sàng trả một số tiền nhất định hay chấp nhận trao đổi ngang giá với một thứ có giá trị tương đương để có được quyền sở hữu nó.
Đối với một doanh nghiệp, đã muốn thực hiện công việc đầu tư sinh lợi thì không thể bỏ qua việc đầu tư vào mua sắm hay tích luỹ tài sản. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng:
Tài sản là toàn bộ của cải vật chất được doanh nghiệp đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tài sản có thể là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ được trước và trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng có thể là những của cải mà thiên nhiên ban cho như đất đai, khoáng sản... thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định.
Trong nền kinh tế mới, các ngành nghề ngày càng đa dạng và phong phú, khái niệm tài sản càng được mở rộng. Bên cạnh tài sản hữu hình- có biểu hiện vật chất cụ thể, còn có tài sản vô hình như: các phát minh, sáng chế, thương hiệu, phần mềm, công nghệ...
Nói chung, tài sản là tất cả các nguồn lực có giá trị thị trường hay giá trị trao đổi thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Tài sản là yếu tố không thể thiếu trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại tài sản
Có nhiều cách để phân loại tài sản như:
Theo hình thái biểu hiện, tài sản bao gồm: Tài sản hữu hình và Tài sản vô hình.
Theo nguồn hình thành, tài sản bao gồm: Tài sản được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu và Tài sản được tài trợ bởi vốn nợ.
Theo đặc điểm về thời gian sử dụng, tài sản gồm: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn.
Theo tính chất tuần hoàn và luân chuyển, tài sản được chia thành: Tài sản cố định và Tài sản lưu động.
Trong đó, cách phân loại cuối là cách phân loại phổ biến nhất. Sau đây là những nghiên cứu khái quát về hai loại tài sản này.
1.1.2.1. Tài sản cố định
Muốn thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có nhất là tư liệu lao động. Căn cứ vào tính chất và vai trò tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất của doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó phù hợp với mục đích của mình. Trong doanh nghiệp, đối tượng lao động chính là nguyên nhiên vật liệu.
Tư liệu lao động là một hay nhiều vật làm thay đổi hình thức tự nhiên của đối tượng lao động, biến đối tượng lao động thành sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Tư liệu lao động bao gồm những công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản xuất.
Những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc điểm cơ bản là tham gia vào nhiều chu kì sản xuất, và có hình thái vật chất không thay đổi từ chu kì sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất được coi là tài sản cố định của doanh nghiệp.
Các tài sản được gọi là tài sản cố định của doanh nghiệp khi và chỉ khi tài sản đó hội tụ đủ đồng thời hai điều kiện:
Có thời gian sử dụng dài: Theo thông lệ quốc tế, thời gian sử dụng dài ở đây được xác định trên 1 năm.
Có giá trị lớn: ở nước ta hiện nay quy định là tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
Với quy định về tiêu chuẩn trên, nếu một số tư liệu lao động có giá trị nhỏ, thời gian sử dụng ngắn thì không được xếp vào tài sản cố định của doanh nghiệp. Nhưng nếu chúng được tập hợp đồng bộ thành một hệ thống cùng thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định, và thoả mãn cả hai điều kiện trên thì vẫn được coi là tài sản cố định.
* Đặc điểm tài sản cố định của doanh nghiệp
Một là, tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh, không thay đổi hình thái vật chất. Với đặc điểm này, các doanh nghiệp chỉ cần bỏ vốn ban đầu để đầu tư hình thành nên tài sản cố định, sau đó có thể khai thác sử dụng tài sản cố định trong thời gian dài.
Hai là, giá trị của tài sản cố định bị giảm dần do chúng bị hao mòn, biểu hiện là sự giảm dần về giá trị và giá trị sử dụng.
Có 2 loại hao mòn tài sản cố định là: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn do doanh nghiệp sử dụng và tác động của tự nhiên như bị rỉ sét, bị gãy hỏng, bị axid ăn mòn...Mặt khác, hao mòn vô hình lại xảy ra do tiến bộ khoa học - công nghệ, làm cho tài sản cố định bị giảm giá hoặc bị lỗi thời.Giá trị của tài sản cố định được chuyển dịch từng phần vào giá trị sản phẩm, dịch vụ. Phần giảm về giá trị này sẽ được hạch toán vào chi phí sản xuất và được hoàn lại khi sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ. Khi đó, doanh nghiệp sẽ trích lại thành quỹ khấu hao để tái đầu tư vào tài sản cố định.
Như vậy, ta có thể hiểu tài sản cố định của doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kì sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kì sản xuất.
* Phân loại tài sản cố định
Tài sản cố định trong doanh nghiệp thường được phân loại thành:
Tài sản cố định phục vụ cho mục đích kinh doanh.
Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng.
Tài sản cố định bảo quản hộ, cất giữ hộ.
Việc phân loại ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý và sử dụng tài sản cố định, ở đây chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu tài sản cố định phục vụ mục đích kinh doanh kiếm lời. Loại này bao gồm:
Tài sản cố định vô hình: những tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ thể.
Tài sản cố định hữu hình: những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể. Loại tài sản cố định này được chia thành các loại sau:
+ Loại 1 : Nhà cửa vật kiến trúc: là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng, như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường sá, cầu cống,
+ Loại 2 : Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ, những máy móc khác,...
+ Loại 3 : Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải,…
+ Loại 4 : Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ cho quản lý, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi,…
+ Loại 5 : Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ , súc vật làm việc, súc vật cho sản phẩm như đàn ngựa, đàn voi, đàn bò.
+ Loại 6 : Các loại tài sản cố định khác: là toàn bộ các tài sản chưa liệt kê vào các loại nêu trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.
1.1.2.2. Tài sản lưu động
Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động gồm những đối tượng lao động và tư liệu lao động không thoả mãn điều kiện về giá trị và thời gian trên đây. Đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản phẩm, thông qua quá trình sản xuất đối tượng lao động đã biến thành thực thể của sản phẩm. Do đó, nó chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất mà thôi; đến chu kì sản xuất sau, muốn tạo sản phẩm mới cần phải sử dụng đối tượng lao động mới. Như vây, có thể hiểu:
Tài sản lưu động là những tài sản ngấn hạn, thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh và chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh.
* Đặc điểm của tài sản lưu động
- là tài sản ngắn hạn, không ngừng luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, do đó có tính thanh khoản cao nhất.
- chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh, không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
* Phân loại tài sản lưu động
Căn cứ vào vai trò của tài sản lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động trong doanh nghiệp được phân chia thành :
Loại 1: Tài sản lưu động trong quá trình dự trữ sản xuất: bao gồm nguyên nhiên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ ting thay thế, vật đóng gói, công cụ lao động.
Loại 2: Tài sản lưu động trong quá trình sản xuất: bao gồm sản phẩm đang chế tạo dở dang trong quá trình sản xuất, bán thành phẩm, chi phí chờ phân bổ.
Loại 3: Tài sản lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm thành phẩm, các khoản phải thu và tiền.
Căn cứ theo hình thái biểu hiện, tài sản lưu động gồm:
Tiền và các chứng khoán ngắn hạn.
Các khoản phải thu.
Hàng tồn kho
Tài sản lưu động khác.
Căn cứ theo nguồn hình thành, tài sản lưu động được tài trợ bởi 2 nguồn chính là: nguồn nợ ( nợ ngắn hạn, nợ dài hạn) và vốn chủ sở hữu.
1.1.3. Quản lý tài sản trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Quản lý tài sản cố định
Do những đặc điểm trên, việc quản lý tài sản cố định cần phải thực hiện trên 2 phương diện: quản lý hiện vật và quản lý giá trị.
* Quản lý hiện vật
Phương thức quản lý này yêu cầu doanh nghiệp phải tiến hành phân loại tài sản cố định theo những tiêu thức khác nhau, để từ đó có những biện pháp quản lý và sử dụng tài sản cố định có hiệu quả hơn.
Ngoài ra, việc đảm bảo quản lý một cách liên tục và có hệ thống cũng rất quan trọng. Muốn vậy, doanh nghiệp phải đảm bảo quản lý sổ sách kế toán theo dõi được hiện trạng của tài sản cố định theo phương thức hợp lý như: theo dõi số lượng, giá trị tài sản; công suất của máy so với công suất thiết kế; tình trạng máy so với chất lượng sản phẩm sản xuất; tình trạng bảo dưỡng, sửa chữa máy,...
* Quản lý về mặt giá trị
Phương thức quản lý này gắn liền với công việc tính khấu hao tài sản cố định và quản lý, sử dụng quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao mòn là một vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Có 2 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự giảm dần về giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định là:
Do quá trình sử dụng và do tác động của môi trường, hình thái vật chất của tài sản cố định bị tác động như: bị biến dạng, gãy hỏng,...gọi là hao mòn hữu hình.
Do tiến bộ của khoa học - công nghệ, làm cho tài sản cố định bị giảm giá hoặc bị lỗi thời, như: làm xuất hiện nhiều tài sản cố định có năng lực như tài sản cũ nhưng giá rẻ hơn, hoặc dây chuyền công nghệ bị lạc hậu so với sự tiến bộ khoa học kĩ thuật,...gọi là hao mòn vô hình.
Do tài sản cố định bị hao mòn nên trong mỗi chu kì sản xuất nên người ta tính chuyển một lượng giá trị tương đương với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, bộ phận tiền này được trích lại một quỹ nhằm tái sản xuất tài sản cố định, công việc đó gọi là khấu hao tài sản cố định. Như vậy, đối với doanh nghiệp, việc tính toán mức khấu hao tài sản một cách chính xác và phù hợp với thực trạng kinh doanh là rất quan trọng.
Phương pháp trích khấu hao thông thường được sử dụng tại các doanh nghiệp chủ yếu là 2 phương pháp: khấu hao theo đường thẳng và khấu hao gia tốc giảm dần.
* Phương pháp trích khấu hao theo đường thẳng
Nội dung chính của phương pháp này là trích một lượng khấu hao cho tài sản cố định bằng nhau ở mỗi kì, do đó phương pháp này còn được gọi là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian.
Theo phương pháp này, khấu hao tài sản cố định được tính theo công thức:
NG
MKH =
T
Trong đó:
MKH : Mức khấu hao năm t
NG : Nguyên giá tài sản
T : Thời gian sử dụng định mức tài sản cố định, có 2 loại: thời gian sử dụng định mức về kĩ thuật và về kinh tế.
Nguyên giá của tài sản cố định được xác định như sau:
NG = NGB - D + C1
Trong đó:
NGB : Giá mua ghi trên hoá đơn
D : Chiết khấu mua hàng
C1 : Chi phí vận chuyển lắp đặt và chạy thử lần đầu
Đối với tài sản cố định cho thuê tài chính, nguyên giá tài sản phản ánh ở đơn vị thuê tài sản cố định là giá trị hiện tại của các khoản chi trong tương lai, được xác định như sau:
+ Nếu hợp đồng thuê tài sản cố định có quy định tỷ lệ lãi suất phảI trả theo năm:
NG =
Trong đó :
NG : Nguyên giá tài sản cố định thuê tài chính.
G : Giá trị các khoản chi bên thuê phảI trả mỗi năm theo hợp đồng thuê.
i : lãi suất vay vốn tính theo năm ghi trong hợp đồng thuê.
N : Thời hạn thuê theo hợp đồng thuê tài sản cố định.
+ Nếu trong hợp đồng không quy định lãi suất thì tỷ lệ lãi suất được xác định theo lãi suất vay vốn trên thị trường nhưng không vượt quá trần lãi suất cơ bản do Ngân Hàng Nhà nước công bố cho từng kì hạn vay vốn tương ứng.
+ Nếu trong hợp đồng thuê tài sản cố định đã xác định tổng số tiền bên đi thuê phải trả cho cả giai đoạn thuê, trong đó ghi rõ số tiền lãi phải trả cho mỗi năm thì ở đơn vị thuê, nguyên giá tài sản cố định thuê tài chính được xác định là:
NG =
Trong đó:
: Tổng số nợ phải trả theo hợp đồng thuê
I : Số tiền lãi phải trả mỗi năm
n : Số năm thuê tài sản
Tính khấu hao theo phưong pháp đường thẳng có ưu điểm là: đơn giản và dễ tính. Tuy nhiên do mức khấu hao tính được là số cố định và đều đặn hàng năm nên khả năng thu hồi vốn chậm và tài sản cố định không thể tránh khỏi bị hao mòn vô hình.
* Phương pháp khấu hao gia tốc giảm dần, có 2 cách tính:
+ Tính khấu hao theo giá trị còn lại: Theo cách này, mức khấu hao tài sản cố định hàng năm được tính theo công thức:
MKH(t) = TKH(đc) x GTCL(t)
Trong đó:
MKH(t) : Mức khấu hao năm thứ t
GTCL(t) : giá trị còn lại của tài sản cố định năm thứ t
TKH(đc) = TKH x hệ số điều chỉnh.
Hệ số điều chỉnh luôn được xác định lớn hơn 1 và thời gian sử dụng tài sản cố định càng dài thì hệ số điều chỉnh càng lớn. Do vậy, TKH(đc) thường lớn hơn TKH ( tỷ lệ khấu hao thường).
Tính khấu hao theo giá trị còn lại có ưu điểm là: trong vài năm đầu doanh nghiệp có thể thu hồi vốn nhanh, do đó có khả năng tái tạo được tài sản cố định và tránh được sự giảm giá do hao mòn vô hình.
+ Tính khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần: Theo cách này, để tính mức khấu hao tài sản cố định hàng năm người ta sử dụng công thức:
MKH(t) = TKH(t) x NG
T(t)
Với : TKH(t) =
T(i)
Trong đó:
TKH(t) : Tỷ lệ khấu hao năm thứ t
NG : Nguyên giá tài sản cố định
n : Thời gian phục vụ của tài sản cố định
T(t) hoặc T(i) : Số năm còn lại của tài sản cố định từ năm thứ t hoặc thứ i đến hết thời hạn phục vụ (n)
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là với 1 mức nguyên giá cố định, số tiền khấu hao hàng năm của tài sản cố định phụ thuộc vào sự biến động của tỷ lệ khấu hao. Phương pháp này có ưu điểm là: phản ánh chính xác hơn mức độ hao mòn của tài sản, hạn chế được rủi ro do ảnh hưởng của hao mòn vô hình, nhưng nhược điểm của nó là: tính toán khấu hao phức tạp, phí khấu hao không đều qua các năm. Khi áp dụng phương pháp này, doanh nghiệp cần chú ý tới khả năng trang trải chi phí kinh doanh của mình.
Ngoài ra, còn có các phương pháp tính khấu hao khác như:
+ Khấu hao tăng dần.
+ Khấu hao tính một lần khi kết thúc dự án.
+ Khấu hao toàn bộ ngay lập tức khi dự án mới đi vào vận hành tạo ra thu nhập.
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, phương pháp trích khấu hao theo đường thẳng được áp dụng nhiều nhất.
Trên phương diện doanh nghiệp, quản lý tài sản cố định còn phải xem xét đến việc quản lý số khấu hao luỹ kế hay còn gọi là tổng số dư của quỹ khấu hao. Mục đích của việc tạo lập quỹ khấu hao là để tái đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên, khi tài sản cố định còn chưa dược khấu hao hết, chưa được thay mới thì khấu hao được tích luỹ ,và doanh nghiệp có quyền sử dụng số khấu hao luỹ kế đó cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Với doanh nghiệp Nhà nước thì việc sử dụng số khấu hao luỹ kế cần tuân theo các quy định về chế độ tài chính hiện hành của Nhà nước.
Quản lý quá trình mua sắm, sửa chữa, nhượng bán và thanh lý tài sản cố định phải được thực hiện thông qua nghiên cứu dự án đầu tư của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Quản lý tài sản lưu động
Quản lý tài sản lưu động bao gồm các nội dung chủ yếu là: quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao, quản lý các khoản phải thu, quản lý dự trữ, tồn kho.
a) Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp tại ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên liệu, mua tài sản cố định, trả nợ... Tiền mặt bản thân nó là một tài sản không sinh lãi, do đó trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải nắm giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên, việc nắm giữ tiền mặt trong kinh doanh cũng là một vấn đề cần thiết vì những lý do sau:
Đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày.
Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp
Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được các luồng tiền vào và ra.
Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng
Quản lý tiền mặt bao gồm quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ tới việc quản lý các loại tài sản gắn với tiền mặt như các loại chứng khoán thanh khoản cao. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Như vậy, doanh nghiệp có thể dùng các chứng khoán có tính thanh khoản cao để duy trì lượng tiền mặt ở mức độ mong muốn.
Có nhiều phương pháp để có thể xác định được lượng dự trữ tiền mặt tối ưu, trong đó có 2 phương pháp khá phổ biến đó là áp dụng mô hình đặt hàng hiệu quả nhất EOQ và mô hình quản lý tiền mặt Miller Orr.
* Mô hình đặt hàng hiệu quả EOQ
Mô hình này dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt để chi trả một cách đều đặn. Chi phí cho việc lưu giữ tiền mặt ở đây là chi phí cơ hội, là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất đi. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán các chứng khoán. Khi đó ta có thể áp dụng mô hình EOQ, lượng tiền mặt dự trữ tối ưu để tổng chi phí nhỏ nhất là:
M* =
Trong đó:
M* là lượng tiền mặt tối ưu
Mn là tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
i là lãi suất
Cb là chi phí cho một lần bán chứng khoán
* Mô hình quản lý tiền mặt Miller Orr
Mô hình không xác định điểm dự trữ tiền mặt tối ưu mà xác định khoảng cách giữa giới hạn trên và giới hạn dưới của dự trữ tiền mặt. Mô hình xác định giới hạn trên làm điểm mua chứng khoán, giảm dự trữ tiền mặt; xác định giới hạn dưới làm điểm bán chứng khoán, tăng dự trữ tiền mặt.
3 Cb x Vb
d = 3 x ( x ) 3/ 4
4 i
Trong đó:
d : Khoảng cách giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng
tiền mặt dự trữ
Cb : Chi phí mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán
Vb : Phương sai thu chi ngân quỹ
i : Lãi suất
Mô hình này có ưu điểm là đã tính đến phương sai thu chi ngân quỹ, nghĩa là tính đến chênh lệch thu chi ngân quỹ từng lần và thu chi ngân quỹ bình quân. Ngoài ra, mô hình còn đưa ra điểm giới hạn trên và điểm giới hạn dưới cụ thể để doanh nghiệp có thể tham khảo và quyết định.
b) Quản lý các khoản phải thu
* Chính sách tín dụng thương mại
Các khoản phải thu thực chất là tín dụng thương mại của doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khác. Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là việc không thể thiếu. Tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện trên những đặc điểm sau:
Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng.
Tín dụng thương mại làm giảm được chi phí tồn kho của hàng hoá.
Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng hiệu quả hơn và hạn chế phần nào về hao mòn vô hình.
Tín dụng thương mại làm tăng chi phí quản lý, chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân quỹ.
Xác suất không trả tiền của người mua làm cho lợi nhuận ròng bị giảm, do đó thời hạn tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn.
Do có những ưu điểm và hạn chế như trên của tín dụng thương mại, doanh nghiệp trước khi quyết định cấp tín dụng thương mại cần phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, cụ thể hơn là khả năng trả nợ của khách hàng. Đồng thời với việc phân tích khả năng tín dụng, phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị cũng rất quan trọng , dựa vào tính NPV của luồng tiền.
* Theo dõi các khoản phải thu
Theo dõi các khoản phảI thu giúp cho doanh nghiệp có thể thay đổi được chính sách tín dụng thương mại kịp thời và phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Thông thường người ta dựa vào các chỉ tiêu và phương pháp sau:
Kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu tiêu thụ bình quân ngày
Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời vì khi đó vốn của doanh nghiệp đã bị ứ đọng ở khâu thanh toán.
Sắp xếp tuổi của các khoản phải thu
Nhà quản lý cần sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp thu nợ đúng hạn.
Xác định số dư khoản phải thu
Sử dụng phương pháp này, doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy được các khoản nợ tồn đọng của khách hàng.
Trên đây là một số phương pháp chung nhất quản lý các khoản phải thu, doanh nghiệp cần lựa chọn biện pháp thích hợp để điều chỉnh kịp thời, hợp lý, đảm bảo tận dụng tối đa được những mặt tích cực của chính sách tín dụng thương mại.
c) Quản lý dự trữ, tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của tài sản lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm rất cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng hoá tồn kho có 3 loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Doanh nghiệp không thể sản xuất đến đâu, mua hàng đến đó mà cần có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. Doanh nghiệp không thể dự trữ quá ít vì sẽ làm cho quá trình sản xuất – kinh doanh bị gián đoạn, cũng không thể dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi phí và gây ứ đọng vốn.
Thông thường vấn đề quan trọng nhất trong quản lý dự trữ của doanh nghiệp là quản lý nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất. Có nhiều phương pháp để quản lý nguyên vật liệu dự trữ, nhưng phổ biến nhất là 2 phương pháp: phương pháp cổ điển (mô hình EOQ) và phương pháp dự trữ bằng 0.
* Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả EOQ ( Economic Odering Quantity)
Mô hình EOQ
Mô hình này được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Theo mô hình này, để tổng chi phí dự trữ là thấp nhất thì khối lượng đặt hàng mỗi lần là:
Q* =
Trong đó:
Q* là lượng hàng đặt mỗi lần
D là toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng trong một năm
C1 là chi phí lưu kho đơn vị
C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng
Điểm đặt hàng mới
Bên cạnh việc xác định khối lượng nguyên vật liệu mỗi lần đặt, doanh nghiệp còn cần xác định thời điểm đặt hàng.
Thời điểm đặt hàng mới = Sản lượng nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày x Độ dài thời gian giao hàng.
Lượng dự trữ an toàn
Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến đổi không ngừng, do đó để đảm bảo tính ổn định cho việc sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng này phụ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp.
Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
* Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hành lấy trực tiếp những hàng hoá và sản phẩm dở dang của các doanh nghiệp khác mà không cần dự trữ.
Sử dụng phương pháp này sẽ giúp doanh nghiệp giảm tới mức thấp nhất chi phí cho dự trữ bởi dự trữ của doanh nghiệp gần như bằng 0. Tuy nhiên, đây chỉ là một phương pháp quản lý được áp dụng trong một số loại dự trữ nào đó của doanh nghiệp và phải kết hợp với các phương pháp quản lý khác.
Để quản lý tài sản lưu động tốt thì trước tiên doanh nghiệp cần tìm cho tài sản lưu động của mình một nguồn tài trợ với chi phí thấp nhất, đặc biệt là nguồn tài trợ đó phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, dự trữ tài sản của doanh nghiệp.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
Trong bất kì lĩnh vực nào, hiệu quả luôn là tiêu chí được xem xét hàng đầu. Đối với Chính phủ, hiệu quả kinh tế- xã hội là cái đích cần đạt đến. Còn đối với doanh nghiệp thì đó lại là hiệu quả kinh tế.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là khái niệm phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với mục tiêu xác định do con người đặt ra.
Xét trên phương diện một doanh nghiệp, bỏ ra các nguồn lực đầu tư vào các loại tài sản để nhằm mục đích kiếm lời thì hiệu quả sử dụng tài sản luôn là điều các doanh nghiệp phải trăn trở.
Có thể hiểu rằng:
Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản trong doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Khi thực hiện hoạt động đầu tư sinh lợi không cá nhân cũng như tổ chức nào lại không muốn một đồng vốn đầu tư của mình sinh ra thật nhiều đồng lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng tài sản được đánh giá dựa vào tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và được chi tiết hơn là tỷ lệ lợi nhuận trên từng loại tài sản. Tỷ lệ này cho biết mức độ đóng góp của tài sản vào lợi nhuận thu được, và phản ánh một đồng tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nói một cách khác, hiệu quả sử dụng tài sản là chỉ tiêu đánh giá một cách chính xác và rõ ràng về trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh.
Xuất phát từ đặc diểm của từng loại tài sản trong doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng tài sản có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Từ đặc điểm tài sản lưu động là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất nên: hiệu quả sử dụng tài sản lưu động thể hiện ở khả năng đánh đổi giữa tính thanh khoản và khả năng sinh lời của tài sản lưu động.
Còn tài sản cố định lại có đặc điểm là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài, do đó hiệu quả sử dụng tài sản cố định thể hiện ở khả năng khai thác tính năng kinh tế kĩ thuật của tài sản cố định và khả năng bố trí lực lượng lao động sao cho đạt lợi ích lớn nhất từ việc sử dụng tài sản đó.
Hiệu quả sử dụng tài sản có quan hệ đến hiệu quả sử dụng tất cả các yếu tố cấu thành nên tài sản đó, cho nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi sử dụng tất cả các yếu tố của tài sản một cách hợp lý nhất.
Để đảm bảo đạt hiệu quả sử dụng tài sản cao, doanh nghiệp cần chú ý xem xét một số mặt sau:
Một là, phải đảm bảo khả năng sinh lời và khả năng sản xuất, công suất sử dụng của tài sản ở mức cao và không ngừng tăng so với toàn ngành và các thời kỳ khác.
Hai là, khả năng tiết kiệm tài sản cao và ngày càng tăng, giúp doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí mà lợi nhuận vẫn tăng, vẫn đảm bảo được nhu cầu vốn đầu tư cho sản xuất.
Ba là, tốc độ luân chuyển tài sản lưu động cao. Doanh nghiệp phải đảm bảo đẩy nhanh khả năng thu hồi vốn , tiếp tục tái đầu tư cho kì sản xuất tiếp theo, thay mới tài sản cố định khi đã hết thời gian khấu hao, và nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh sinh lời.
Bốn là xác định được một cơ cấu tài sản tối ưu, đây vẫn luôn là vấn đề khó khăn đối với doanh nghiệp.
1.2.2 . Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
Mục tiêu của hoạt động kinh doanh là thu lợi. Để đạt được mức lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp luôn luôn không ngừng nâng cao trình dộ quản lý sản xuất kinh doanh. Trong đó công tác quản lý và sử dụng tài sản có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, sử dụng tài sản hiệu quả đồng nghĩa với :
Thứ nhất, đảm bảo được khả năng tự chủ, linh hoạt về tài chính cho doanh nghiệp, góp phần giảm rủi ro trong kinh doanh. Tài sản được sử dụng có hiệu quả tức là doanh nghiệp sẽ không phải đi vay nhiều, khả năng thanh toán ở mức có thể chủ động được, không bị động khi các tình huống bất ngờ xảy ra.
Thứ hai là tiết kiệm được các nguồn lực, tăng hiệu quả kinh tế. Rõ ràng, sử dụng tài sản hiệu quả thì nguồn lực doanh nghiệp cần bỏ ra đầu tư vào sản xuất là ít hơn để tạo ra cùng một đồng lợi nhuận. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh được nâng cao, tạo tiền đề cho một hình ảnh tốt đẹp trong mắt khách hàng cũng như trong mắt các nhà cung cấp, nhà tài trợ, mặt khác còn góp phần bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp.
._. Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản đồng nghĩa với việc tốc độ quay vòng vốn được tăng cao, doanh nghiệp sẽ tận dụng được thêm nhiều cơ hội trong kinh doanh.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản chính là tăng hiệu quả kinh doanh nói chung cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Xét trên phương diện xã hội, các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp Nhà nước, chỉ được coi là hoạt động có hiệu quả khi kết hợp được hài hoà giữa tính kinh tế và tính xã hội trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cũng là tăng cường sự gắn bó giữa doanh nghiệp với thị trường, vừa góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội cần thiết như: bảo đảm thoả mãn nhu cầu của các thành viên trong doanh nghiệp về thu nhập, việc làm ổn định, bảo vệ quyền lợi cho đối tác, người tiêu dùng,...
Rõ ràng, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp hiện nay.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản
Để đánh giá về tình hình sử dụng tài sản nói chung, các chỉ tiêu sau thường được sử dụng:
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng Doanh thu thuần
=
tổng tài sản tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản cho biết một đơn vị tài sản tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao thì tài sản càng được sử dụng có hiệu quả.
* Hệ số doanh lợi:
Hệ số doanh lợi Lợi nhuận sau thuế
=
(ROA) tổng tài sản
Hệ số doanh lợi ( ROA: Return on assets) cho biết một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao cho thấy cách quản lý tài sản của doanh nghiệp càng có hiệu quả.
Theo phương pháp Dupont, ta có thể phân tích ROA thành các chỉ tiêu tài chính khác để thấy được tác động của từng nhân tố tới hệ số doanh lợi.
LNST LNST DT
ROA = = x = PM x AU
TS DT TS
Trong đó:
LNST : lợi nhuận sau thuế
TS : tổng tài sản
DT : doanh thu thuần
Như vậy, hệ số doanh lợi phụ thuộc vào 2 nhân tố sau:
+ PM : doanh lợi tiêu thụ, phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. PM tăng thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu- chi phí có hiệu quả.
+ AU : hiệu suất sử dụng tổng tài sản trong doanh nghiệp.
* Hệ số sinh lợi tổng tài sản:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Hệ số sinh lợi tổng tài sản =
tổng tài sản
Hệ số sinh lợi tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận trước thuế và lãi vay, chỉ tiêu này càng cao cho thấy doanh nghiệp quản lý tài sản càng có hiệu quả.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định
* Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng TSCĐ Doanh thu( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
=
trong 1 kỳ TSCĐ sử dụng bình quân trong 1 kỳ
Tài sản cố định bình quân trong 1 kỳ là bình quân số học của nguyên giá tài sản cố định có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Với khấu hao luỹ kế cuối kỳ trước chuyển sang.
Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất của tài sản cố định, một đơn vị tài sản cố định được sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn, hiệu suất sử dụng tài sản cố định càng cao.
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
=
vốn cố định trong 1 kỳ Vốn cố định bình quân trong 1 kỳ
Vốn cố định bình quân trong 1 kỳ là bình quân số học của vốn cố định có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Vốn cố định đầu (hoặc cuối kỳ) là hiệu số của nguyên giá tài sản cố định có ở đầu (hoặc cuối kỳ).
Khấu hao luỹ kế đầu kỳ là khấu hao luỹ kế cuối kỳ trước chuyển sang.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định cho biết một đơn vị vốn cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định càng cao.
* Hàm lượng vốn, tài sản cố định
Vốn (hoặc TSCĐ) sử dụng bình quân trong kỳ
Hàm lượng vốn, TSCĐ =
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đơn vị doanh thu cần sử dụng bao nhiêu đơn vị vốn, tài sản cố định. Hàm lượng vốn, tài sản cố định càng nhỏ chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn, tài sản cố định càng cao.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng VCĐ Lợi nhuận ròng( lợi nhuận sau thuế)
=
trong 1 kỳ Vốn cố định sử dụng bình quân trong 1 kỳ
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận ròng( lợi nhuận sau thuế ). Hiệu quả sử dụng vốn cố định càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản càng cao.
Lợi nhuận sau thuế trong trường hợp này là phần lợi nhuận được tạo ra từ việc trực tiếp sử dụng tài sản cố định, không kể các khoản lãi do các hoạt động khác tạo ra: hoạt động tài chính, góp vốn liên doanh...
* Công suất sử dụng tài sản cố định
Công suất sử dụng CSTT TGSDTT
= hay
TSCĐ CSTK TGCLĐ
Công suất sử dụng tài sản cố định có thể được đo bằng 2 cách, đó là so sánh công suất thực tế đạt được( CSTT) với công suất thiết kế( CSTK), hoặc so sánh thời gian sử dụng máy thực tế( TGSDTT) với thời gian của 1 ca máy ( TGCLĐ).
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng khai thác tính năng kinh tế, kĩ thuật của máy móc thiết bị và khả năng bố trí lao động của doanh nghiệp. Nếu sử dụng máy móc không đủ công suất thiết kế không những làm tăng mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, mà còn làm giảm tuổi thọ của máy. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp có được kế hoạch quản lý và sử dụng tài sản một cách hợp lý.
1.2.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau đây:
* Chu kì vận động của tiền mặt
Chu kì vận động của tiền mặt là độ dài thời gian từ khi thanh toán khoản mục nguyên vật liệu đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán sản phẩm cuối cùng.
Đây là chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động vì trình tự vận động của tài sản lưu động có liên quan đến toàn bộ chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Chu kì vận động của tiền mặt = Thời gian vận động của nguyên vật liệu + Thời gian thu hồi khoản phải thu – Thời gian chậm trả khoản phả trả.
Thời gian vận động Hàng tồn kho
=
của nguyên vật liệu Mức bán mỗi ngày
Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho.
Thời gian thu hồi Khoản phải thu x 365
=
những khoản phải thu Mức bán hàng trong năm
Mục tiêu của doanh nghiệp là rút ngắn chu kì vận động của tiền mặt càng nhiều càng tốt mà không có hại cho sản xuất. Khi đó lợi nhuận sẽ tăng lên và chu kì càng dài, thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài sẽ càng lớn; mỗi nguồn tài trợ đều phát sinh một chi phí, do đó lợi nhuận sẽ giảm.
* Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động (vòng quay tài sản lưu động)
Vòng quay TSLĐ Doanh thu thuần trong kỳ
=
trong kỳ TSLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu trên cho biết một đơn vị tài sản lưu động (TSLĐ) tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu. Vòng quay tài sản lưu động càng lớn thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
* Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Hiệu quả sử dụng Lợi nhuận sau thuế
=
TSLĐ trong kỳ TSLĐ bình quân trong kỳ
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cho biết một đơn vị tài sản lưu động tạo ra bao nhiêu đơn vị lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động càng có hiệu quả.
* Mức đảm nhiệm tài sản lưu động
Mức đảm nhiệm TSLĐ bình quân trong kỳ
=
TSLĐ Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này thể hiện muốn tạo ra được một đơn vị doanh thu thuần, doanh nghiệp cần sử dụng bao nhiêu đơn vị tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiêu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
* Vòng quay dự trữ, tồn kho
Vòng quay Giá vốn hàng hoá
=
dự trữ, tồn kho Tồn kho bình quân trong kỳ
Hàng tồn kho bình quân là bình quân số học của vật tư hàng hoá dự trữ đầu và cuối kỳ.
Vòng quay dự trữ, tồn kho phản ánh số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này giúp các nhà quản trị tài chính xác định được mức dự trữ vật tư, hàng hoá hợp lý trong chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Kỳ thu tiền bình quân
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
Tổng số ngày trong 1 kỳ
Kỳ thu tiền bình quân =
Vòng quay khoản phải thu trong kỳ
Vòng quay Doanh thu bán hàng trong kỳ
=
khoản phải thu trong kỳ Các khoản phải thu bình quân
Các khoản phải thu bình quân là bình quân số học của các khoản phải thu ở đầu và cuối kỳ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
1.3.1. Các yếu tố ngoài doanh nghiệp
1.3.1.1. Sự quản lý của Nhà nước
Sự quản lý của Nhà nước có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ rệt qua một số mặt sau.
Thông qua hành lang pháp lý về kinh tế của Nhà nước. Nhà nước đã xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế để điều chỉnh hành vi của mọi cá nhân, tổ chức tham gia sản xuất kinh doanh. Do đó, việc quản lý, sử dụng tài sản của các doanh nghiệp này dù có hiệu quả hay không thì cũng phải được xây dựng trên cơ sở tuân thủ đầy đủ những quy định, nguyên tắc do Nhà nước đặt ra. Cụ thể là những quy định của Nhà nước về quản lý tài chính doanh nghiệp; chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định; chế độ quản lý các khoản phải thu, dự trữ tồn kho và tiền mặt; phương pháp hạch toán tại doanh nghiệp. Tuỳ vào từng nước, tuỳ từng giai đoạn mà mức độ ảnh hưởng của hành lang pháp lý của Nhà nước tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là khác nhau.
Mặt khác, thông qua các chính sách này, Nhà nước có thể định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển theo mục tiêu Nhà nước đã xác định trong từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau.
1.3.1.2. Các nhân tố thuộc tầm vĩ mô
Mỗi doanh nghiệp chỉ là một cá thể đơn lẻ trong nền kinh tế. Những thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô luôn luôn tác động đến doanh nghiệp như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát, biến động của lãi suất, tỷ giá,... Chẳng hạn khi lạm phát tăng, giá các mặt hàng tăng đột biến, giá nguyên nhiên vật liệu tăng, chi phí tăng gây khó khăn cho doanh nghiệp không những trong khâu sản xuất mà còn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp do lợi nhuận ròng bị giảm.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị trường quốc tế. Sự thay đổi trong chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn về chính trị hay kinh tế trong khu vực và trên thế giới tác động ngay đến giá cả nguyên vật liệu đầu vào, và cả giá bán của sản phẩm. Lợi nhuận ròng mà doanh nghiệp đạt được sẽ giảm.
Rõ ràng, chính sách thương mại quốc tế của nước mình đối với các nước trong khu vực và trên thế giới, giữa các nước với nhau; đồng thời những biến đổi trong nền kinh tế toàn cầu là những nhân tố ảnh hưởng một cách trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nó có thể gây khó khăn mà cũng có thể tạo ra những thuận lợi cho doanh nghiệp.
1.3.2. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp
1.3.2.1. Yếu tố con người
Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội, đóng vai trò quyết định thành công của mọi công việc. Nói đến tác động của yếu tố con người tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, cần xem xét 2 nhóm đối tượng chính sau:
Thứ nhất là những nhà quản lý doanh nghiệp. Đó là những người đưa ra các quyết định cho doanh nghiệp, trong đó có các quyết định về quản lý và sử dụng tài sản. Những quyết định này ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Với trình độ sử dụng và quản lý vốn cao, nhà quản lý có thể có những quyết định hợp lý, biện pháp phù hợp với tình hình thực tế để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và giảm đi những chi phí không cần thiết.
Thứ hai là những người lao động. Người lao động là những người không có quyền ra các quyết định trong hoạt động của doanh nghiệp nhưng lại là những người trực tiếp thực hiện những quyết định đó. Đây chính là một trong những nguồn vốn quý nhất của doanh nghiệp. Trình độ và kinh nghiệm của họ sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, và từ đó tác động tới hiệu quả sử dụng tài sản.
1.3.2.2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đặc điểm sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất là loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm riêng về ngành nghề sản xuất nên đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động khác nhau, theo đó các biện pháp quản lý và sử dụng tài sản cũng khác nhau. Doanh nghiệp sản xuất sẽ phải đầu tư vào tài sản cố định nhiều hơn là doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do tỷ trọng tài sản cố định và lưu động khác nhau nên hệ số sinh lợi của tài sản cũng khác nhau
Thứ hai là đặc điểm sản phẩm. Doanh nghiệp có đặc điểm sản phẩm khác nhau sẽ có đối tượng khách hàng khác nhau, do đó chính sách tín dụng thương mại khác nhau, dẫn đến tỷ trọng các khoản phải thu cũng khác nhau. Sản phẩm được cung cấp là vô hình hay hữu hình. Nếu sản phẩm là hàng hoá có giá trị lớn, là nguyên vật liệu đầu vào cho doanh nghiệp khác, khách hàng là những công ty bán buôn, công ty phân phối, công ty lớn thì sẽ bị chiếm dụng vốn nhiều. Và ngược lại, nếu sản phẩm là hàng tiêu dùng cuối cùng, khách hàng là những người bán lẻ thì vốn của doanh nghiệp sẽ bị chiếm dụng ít.
Thứ ba là trình độ công nghệ. Nếu doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại thì sẽ giảm được định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho sản xuất, giảm sản phẩm dở dang, chu kì sản xuất được rút ngắn, giảm lượng phế phẩm và hạ giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm... Do đó, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp được nâng cao.
Thứ tư là chu kì sản xuất kinh doanh. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu chu kỳ sản xuất ngắn thì doanh nghiệp sẽ thu hồi được vốn nhanh, vốn lưu động quay vòng nhanh, từ đó có điều kiện để tái đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng tài sản được nâng cao.
1.3.3.3. Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng tài sản. Ta cần xem xét theo 2 khía cạnh:
* Hoạt động quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Điều này được thể hiện thông qua các mặt như đánh giá nhu cầu tài sản, lựa chọn phương án đầu tư,... Trong đó có một số hoạt động sau ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp:
Thứ nhất, kế hoạch hoá tài chính. Mọi hoạt động trong doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao thì không thể thiếu việc xây dựng kế hoạch trước đó. Cũng như vậy, kế hoạch hoá tài chính mà cụ thể hơn là xây dựng kế hoạch quản lý và sử dụng tài sản là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục thì trước hết phải đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu về tài sản, tiếp đến là sử dụng sao cho tiết kiệm, và hiệu quả, tránh gây lãng phí. Kế hoạch hoá tài chính không chỉ thể hiện mục tiêu, chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, mà còn quyết định việc doanh nghiệp sẽ sử dụng tài sản như thế nào.
Thứ hai, hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp. Quản lý tài sản bao gồm quản lý tài sản cố định và quản lý tài sản lưu động. Nhưng quan trọng nhất là các biện pháp mà doanh nghiệp sử dụng để tăng cường khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở sử dụng các tài sản của mình.
Một trong số các chính sách, biện pháp được các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và khá phổ biến hiện nay là chính sách chiết khấu thanh toán. Cơ sở của chính sách này là cho khách hàng giữ lại một phần nghĩa vụ phải trả của mình nhằm khuyến khích hoạt động thanh toán nhanh. Mục tiêu là rút ngắn chu kì sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn, do đó làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
* Các hoạt động quản lý khác của doanh nghiệp
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới mục tiêu, định hướng phát triển chung của doanh nghiệp. Vì vậy, hiệu quả sử dụng tài sản cũng chịu sự tác động rất lớn của các cơ chế quản lý khác trong doanh nghiệp, các cơ chế này được thực hiện có hiệu quả thì hoạt động quản lý và sử dụng tài sản cũng mới có điều kiện để hoàn thiện và ngược lại.
Chẳng hạn công tác hạch toán kế toán phải chính xác, nhanh chóng thì các nhà quản lý vốn của doanh nghiệp mới có được những số liệu kịp thời về tình hình tài chính của doanh nghiệp và có các tác động hợp lý và hiệu quả.
Trên đây là những nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phát huy triệt để thế mạnh của mình và đặt ra được những biện pháp cụ thể, hợp lý, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể nhằm chiến thắng trong cạnh tranh, đạt được mục tiêu lợi nhuận đã đặt ra.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10
2.1. Tổng quan về Công ty Cổ phần May 10
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần May 10
Tên gọi : Công ty Cổ phần May 10
Tên giao dịch quốc tế: GAMENT 10 JOINT STOCK COMPANY
Tên viết tắt : Garco 10.
Trụ sở chính : Sài Đồng - Gia Lâm - Hà Nội.
Tổng số cán bộ công nhân viên : 5680 người
Điện thoại : 04 8276923 - 04 8276932
Fax : 04 8276925 - 04 8750064
E-mail : ctmay10@garco10.com.vn
Website : www.garco10.com
Diện tích : 28255 m2
Công ty Cổ phần May 10 là một doanh nghiệp cổ phần 51% vốn Nhà nước thuộc Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, được thành lập từ năm 1946 với tiền thân là các xí nghiệp may quân trang của quân đội mang bí số X1, X30, AM, BK1... Đến tháng 11 năm 1992 xí nghiệp May 10 được chuyển thành Công ty May 10 với quyết định thành lập số 266/CNN-TCLĐ do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ Đặng Vũ Chư ký ngày 24/3/1993. Và đến 1/1/2005, đứng trước những thách thức, cơ hội của thị trường may mặc trong nước và quốc tế, chủ trương của Đảng và nhà nước cũng như tình hình nội tại của Công ty, Công ty May 10 đã chuyển thành Công ty cổ phần May 10 theo quyết định số 105/QĐ- BCN ký ngày 05/10/04 của BCN.
Có thể nói, nhờ những quyết sách đúng đắn nên cho tới nay, năm nào May 10 cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Thực hiện phân phối lao động, chăm lo và không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Do đạt được được những thành tích đó, Công ty cổ phần May 10 đã vinh dự được tặng thưởng nhiều huân huy chương, cờ thi đua, bằng khen và danh hiệu các loại.
2.1.2. Đặc điểm tổ chức và quản lý
Bộ máy quản lý của Công ty khá gọn nhẹ, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh hiệu quả. Lãnh đạo Công ty là Ban giám đốc bao gồm một tổng giám đốc, một phó tổng giám đốc và ba giám đốc điều hành, dưới nữa là các phòng ban chức năng.
Đại hội đồng cổ đông: thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản.
Hội đồng quản trị: là cơ quan cao nhất của Công ty có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích và quyền lợi của Công ty.
Ban kiểm soát: do Đại hội cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra tính trung thực, hợp lý, hợp pháp trong quản lý điều hành hoạt động kinh doanh của Công ty.
Tổng giám đốc: Là là người quản lý cao nhất trong công ty, phụ trách chung các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, trực tiếp chỉ đạo một số phòng ban chức năng; đồng thời là người đại diện hợp pháp của Công ty trong các quan hệ giao dịch kinh doanh.
Phó tổng giám đốc: Giúp điều hành công việc ở các xí nghiệp thành viên 1 2, 3; các phòng kinh doanh, phòng kế hoạch, phòng QA.
Ba giám đốc điều hành: là người giúp Tổng giám đốc điều hành công việc ở khối phục vụ và các xí nghiệp địa phương, xí nghiệp liên doanh.
Văn phòng công ty: Là đơn vị tổng hợp vừa có chức năng giải quyết về nghiệp vụ quản lý sản xuất kinh doanh vừa làm nhiệm vụ phục vụ về hành chính và xã hội.
Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ tham mưu cho Ban giám đốc và điều hành việc tổ chức kinh doanh thương mại tại thị trường trong nước và ngoài nước.
Phòng kỹ thuật: là phòng chức năng tham mưu giúp việc Tổng giám đốc quản lý công tác thiết kế sản phẩm, đưa ra và theo dõi kỹ thuật qui trình sản xuất sản phẩm.
Phòng tài chính kế toán: Có chức năng tổ chức điều hành toàn bộ công tác kế toán, tài chính trong Công ty; tham mưu giúp việc tổng giám đốc về công tác tài chính kế toán của Công ty.
Phòng kế hoạch: là bộ phận tham mưu của cơ quan Tổng giám đốc quản lý công tác kế hoạch sản xuất; xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư sản xuất.
Phòng chất lượng (QA) có chức năng tham mưu và giúp việc cho cơ quan Tổng giám đốc trong công tác quản lý toàn bộ hệ thống chất lượng của Công ty theo tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9002; duy trì và đảm bảo hệ thống chất lượng có hiệu quả.
Phòng kho vận: Có nhiệm vụ kiểm tra, tiếp nhận nguyên vật liệu, viết phiếu xuất kho, nhập kho các loại.
Ban đầu tư phát triển: Có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm tòi để nhập, bảo dưỡng các thiết bị máy móc, xây dựng các công trình... nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trường công nhân kỹ thuật may thời trang: là đơn vị trực thuộc Cơ quan Tổng giám đốc, có chức năng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công nhân viên.
Các xí nghiệp may thành viên: Có nhiệm vụ cắt may từ vải thành sản phẩm hoàn chỉnh nhập kho.
+ Xí nghiệp 1, 2, 5 (cùng xí nghiệp may Thái Hà) chuyên sản xuất áo sơmi
+ Xí nghiệp 3 (cùng xí nghiệp may liên doanh Phù Đổng) chuyên sản xuất comple, veston
+ Xí nghiệp 4 (cùng các xí nghiệp địa phương) chuyên sản xuất quần âu và áo jacket
- Xí nghiệp địa phương và liên doanh ( XN ĐP và LD): 6 xí nghiệp địa phương, là những đơn vị trực thuộc công ty, được trang bị một hệ thống và quy trình công nghệ hiện đại, có nhiệm vụ sản xuất một số loại sản phẩm nhất định. Và 1 xí nghiệp liên doanh: May Phù Đổng
- Các phân xưởng phụ trợ:
+ Phân xưởng cơ điện: Có chức năng cung cấp năng lượng, bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị, chế tạo công cụ thiết bị mới.
+ Phân xưởng thêu - giặt - dệt: Thực hiện các bước công nghệ thêu, giặt sản phẩm và tổ chức triển khai dệt nhãn mác sản phẩm.
+ Phân xưởng bao bì: Sản xuất và cung cấp hòm hộp carton, bìa lưng, khoanh cổ, in lưới trên bao bì, hòm hộp carton cho Công ty và khách hàng.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh
Sau khi cổ phần hoá Công ty thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực sau:
- Kinh doanh sản xuất sản phẩm may mặc; trong đó sản xuất chủ yếu là áo jacket, comple, quần áo lao động, phụ liệu ngành may và đặc biệt sản phẩm mũi nhọn là áo sơ mi nam theo ba phương thức:
+ Nhận gia công toàn bộ theo hợp đồng: công ty nhận nguyên vật liệu, phụ liệu do khách hàng đưa sang theo hợp đồng rồi tiến hành gia công thành sản phẩm hoàn chỉnh và giao cho khách hàng. Sản phẩm sản xuất theo hình thức này chiếm khoảng 50% số lượng sản phẩm sản xuất của Công ty.
+ Sản xuất hàng xuất khẩu dưới dạng FOB: căn cứ vào hợp đồng tiêu thụ sản xuất đã ký với khách hàng, Công ty tự sản xuất và xuất sản phẩm cho khách hàng theo hợp đồng.
+ Sản xuất hàng nội địa: thực hiện toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh từ đầu vào, đến sản xuất tiêu thụ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu trong nước.
- Xuất khẩu các sản phẩm may mặc do Công ty sản xuất ra thị têuờng quốc tế;
- Nhập khẩu nguyên phụ liệu, thiết bị, vật tư ngành Dệt-May;
- Kinh doanh hàng thủ công mĩ nghệ, hàng công nghệ thực phẩm, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác;
- Đào tạo nghề và hợp tác xuất khẩu lao động.
Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần May 10 trong những năm gần đây.
Với sự nỗ lực của Ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty cổ phần May 10 đã từng bước đi lên, vững bước trên thị trường, điều đó thể hiện qua một số chỉ tiêu kinh tế mà Công ty đã đạt được trong vài năm gần đây.
Bảng 1 : Một số chỉ tiêu đạt được trong những năm gần đây
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Sản lượng sản xuất
Sản phẩm
1,170,000
1,430,000
1,642,000
Tổng doanh thu
Triệu đồng
352,742
458,668
483,162
Lao động
Người
6,315
7,050
7,235
Thu nhập BQ
(Người/Tháng)
Triệu đồng
1.30
1.35
1.38
LãI ròng
Triệu đồng
4.415
5.004
14.834
Vốn kinh doanh
Triệu đồng
39,064
43,047
44,436
( Nguồn :Các báo cáo năm 2003, 2004, 2005 của Công ty cổ phần May 10)
Bảng 2 : Các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh
ĐVT: VNĐồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng doanh thu
352,742,531,800
458,668,221,244
483,162,811,060
1
Doanh thu thuần
351,759,112,032
457,529,330,537
483,130,549,892
2
Giá vốn hàng bán
285,301,645,052
386,518,584,627
408,636,383,780
3
Lợi tức gộp (=1-2)
66,457,466,980
71,010,745,910
74,494,166,112
4
Chi phí bán hàng
16,726,864,165
20,809,378,488
17,745,967,092
5
Chi phí quản lý DN
43,136,014,153
43,585,663,010
42,402,043,164
6
Lợi tức thuần (=3-4-5)
6,594,588,662
6,615,704,412
14,346,155,856
7
Thu nhập hoạt động tài chính
524,173,205
337,997,976
638,205,712
8
Chi phí hoạt động tài chính
1,493,756,684
1,250,470,943
394,223,808
9
Lợi tức hoạt động tài chính (=7-8)
(969,583,479)
(912,472,967)
243,981,904
10
Lợi tức bất thường
49,029,979
317,582,578
243,981,904
11
Tổng lợi nhuận trước thuế (=6+9+10)
5,674,035,162
6,020,814,023
14,834,119,664
12
Thuế thu nhập doanh nghiệp
(22.18%)
(16.87%)
-
1,258,406,265
1,015,820,729
-
13
Lợi nhuận sau thuế (=11-12)
4,415,628,897
5,004,993,294
14,834,119,664
( Nguồn :Báo cáo Tài chính năm 2003, 2004, 2005 của Công ty cổ phần May 10)
Nhận xét: Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của công ty ngày càng tăng. Doanh thu, lợi nhuận, thu nhập người lao động tăng lên đáng kể. Tình hình sản xuất kinh doanh nhìn chung có xu hướng tốt, qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10
Để đánh giá được thực trạng sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10, cần phải kết hợp tìm hiểu tình hình thực tế của Công ty, sử dụng các số liệu thống kê đồng thời có phương pháp phân tích hợp lý.
Một số số liệu về chỉ tiêu tài sản được tính bình quân trong từng năm: 2003, 2004 và 2005 dưới đây sẽ cho ta có được những nhận xét một cách thực tế và khách quan về tình hình sử dụng tài sản của Công ty trong những năm gần đây.
Bảng 3 : Các chỉ tiêu về tình hình tài sản bình quân mỗi năm
ĐVT: VNĐồng
TÀI SẢN
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
2
3
4
A-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
107,168,908,183
108,172,283,336
107,355,742,793
I-Tiền
15,024,203,623
15,558,395,723
15,283,196,664
1-Tiền mặt
1,697,888,913
1,698,769,210
1,699,273,446
2-Tiền gửi ngân hàng
13,326,314,710
13,859,626,513
13,583,923,218
II-Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
0
0
0
III-Các khoản phải thu
52,579,920,434
54,758,585,196
48,380,045,899
1-Phải thu khách hàng
48,242,627,315
47,155,944,051
41,583,843,442
2-Trả trước người bán
146,916,271
168,953,712
649,199,738
3-Thuế GTGT được khấu trừ
1,649,776,049
1,897,242,456
1,234,345,626
5-Phải thu nội bộ khác
0
0
0
4-Phải thu khác
2,941,886,995
5,536,444,977
4,912,657,093
5-Dự phòng các khoản phải thu khó đòi
(401,286,196)
0
0
IV-Hàng tồn kho
38,531,341,288
36,515,186,685
36,491,285,779
1-Hàng mua đang đi đường
0
0
0
2-Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
17,173,567,769
16,485,731,323
16,342,118,690
3-Công cụ, dụng cụ trong kho
717,893,169
698,471,803
632,117,569
4-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
7,172,683,592
7,041,322,011
7,034,352,266
5-Thành phẩm tồn kho
11,012,245,433
9,840,682,520
9,452,476,589
6-Hàng hoá tồn kho
19,473,337
17,367,104
16,388,533
7-Hàng gửi đi bán
5,327,472,045
4,552,720,486
5,122,309,720
8-Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
(2,891,994,057)
(2,121,108,562)
(2,108,477,588)
V-Tài sản lưu động khác
1,033,442,838
1,340,115,732
7,201,214,451
1-Tạm ứng
332,668,534
694,447,616
2,179,505,400
2-Chi phí trả trước
381,187,788
438,621,087
2,338,000,145
3-Chi phí chờ kết chuyển
319,586,516
207,047,029
2,683,708,906
4-Các khoản cầm cố, ký quỹ, ký cược ngắn hạn
0
0
0
VI-Chi sự nghiệp
0
0
0
1-Chi sự nghiệp năm trước
0
0
0
2-Chi sự nghiệp năm nay
0
0
0
B. Tài sản cố định, đầu tư dài hạn
88,020,240,649
95,237,077,078
91,515,929,163
I-Tài sản cố định
81,042,707,812
91,258,882,623
82,920,506,430
1-Tài sản cố định hữu hình
81,042,707,812
91,258,882,623
81,428,877,304
-Nguyên giá
161,655,071,253
196,259,051,011
185,026,864,883
-Giá trị hao mòn luỹ kế
(80,612,363,441)
(105,000,168,388)
(103,597,987,579)
2-Tài sản cố định thuê tài chính
0
0
0
3-Tài sản cố định vô hình
0
0
1,491,629,126
-Nguyên giá
0
0
1,686,042,987
-Giá trị hao mòn luỹ kế
0
0
(194,413,861.00)
II-Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
1,105,419,708
1,105,419,708
1,985,434,697
III-Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
4,798,998,954
265,813,483
4,694,349,234
IV-Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
265,788,583
265,788,583
265,788,583
V- Chi phí trả trước dài hạn
807,325,592
2,341,172,681
1,649,850,219
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
195,189,148,832
203,409,360,414
198,871,671,956
( Nguồn :Báo cáo Tài chính năm 2003, 2004, 2005 của Công ty cổ phần May 10)
2.2.1. Thực trạng hiệu quả sử dụng tổng tài sản
Để tìm hiểu về hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần May 10, trước hết cần tìm hiểu về tình hình tổng tài sản và phần đóng góp của tài sản trong lợi nhuận của Công ty.
Tổng tài sản của Công ty nhìn chung có xu hướng tăng qua các năm. Số liệu bảng 1 cho thấy năm 2003, tổng tài sản của doanh nghiệp là 195,189 tỷ đồng đến năm 2004 tăng lên thành 203,409 tỷ đồng, tăng 4,21% so với năm 2003. Năm 2005, tổng tài sản là 198,871 tỷ đồng, giảm 2,23% so với năm 2004, nhưng vẫn cao hơn năm 2003. Như vậy, tổng tài sản của doanh nghiệp tăng với tốc độ không đều qua các năm. Năm 2005, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nên tổng tài sản có xu hướng giảm. Nhìn chung, tổng tài sản dao động với số lượng không lớn. Số liệu ban đầu đã cho ._.g hoạt động quản lý và sử dụng tài sản, Công ty May 10 cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Sử dụng tài sản cần tuân theo qui định của pháp luật, qui chế chung của ngành dệt may. Các nguyên tắc quản lý tài chính do Tổng Công ty Dệt May Việt Nam qui định cần được chấp hành nghiêm chỉnh trong hoạt động quản lý và sử dụng tài sản của Công ty. Ngoài ra, cần thống nhất với các nguyên tắc quản lý tài sản mà Bộ Tài chính ban hành, tất cả các hoạt động quản lý tài sản nói riêng và toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của Công ty phải được thực hiện hợp pháp.
Mặt khác, công tác quản lý tài chính cần phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời trong mọi thời điểm. Hạch toán ngoài việc không được sai sót còn phải đảm bảo có sự phối hợp, đối chiếu với các bộ phận khác trong Công ty chẳng hạn như với bộ phận kinh doanh để số liệu luôn sát với thực tế. Quỹ khấu hao tài sản cố định phải được trích đúng và đủ, đảm bảo cho việc tái đầu tư của Công ty.
Bên cạnh đó, phải luôn có kế hoạch sử dụng, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng tài sản sao cho hợp lý và khoa học trên cơ sở tiết kiệm các nguồn lực. Thực hiện được như vậy mới đảm bảo được suất sinh lời của tài sản luôn ở mức cao.
Ngoài ra, các biện pháp phòng ngừa được rủi ro phải luôn được chú trọng, bởi hoạt động sản xuất kinh doanh bản thân nó luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro, chưa kể đến những rủi ro tác động từ nền kinh tế vĩ mô như: rủi ro do sự biến động của tỷ giá, sự biến động của lãi suất thị trường,...
Những nguyên tắc trên chỉ là tương đối, trong việc quản lý và sử dụng tài sản, các nhà quản lý Công ty còn cần phải linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra trong kinh doanh. Đó cũng là một yếu tố khá cần thiết cho sự thành công.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10
Qua thời gian thực tập tại Công ty, trên cơ sở những nhận xét, đánh giá về ưu nhược điểm của hoạt động quản lý và sử dụng tài sản tại Công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa mảng hoạt động này ở Công ty:
3.2.1. Đổi mới và nâng cấp tài sản cố định
Trong hoạt động quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp, đổi mới và nâng cấp tài sản là một trong những vấn đề đáng quan tâm hàng đầu.Do vậy, Công ty muốn đạt được hiệu quả sử dụng tài sản thì cần có các giải pháp tăng cường đổi mới và nâng cấp tài sản cố định.
Đổi mới và nâng cấp không chỉ gồm hoạt động mua sắm, đầu tư mới tài sản cố định định kì, như mua sắm máy móc, thiết bị, công cụ dùng cho sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ,... mà còn bao gồm cả hoạt động sửa chữa, nâng cấp, bảo trì, bảo dưỡng tài sản cố định. Quá trình này nhằm đảm bảo cho tài sản cố định luôn được vận hành tốt và càng tốt hơn nữa, nhằm khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị. Nếu như việc đầu tư mới, mua sắm mới chỉ nhằm mục tiêu đổi mới, hiện đại hoá tài sản cố định, bổ sung các tài sản đã hết khấu hao, cần thanh lý.
Ngoài ra, đổi mới, nâng cấp tài sản cố định còn đề cập đến việc phải xử lý dứt điểm những tài sản không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý bằng cách nhượng bán, thanh lý hoặc sửa chữa để đưa vào vận hành; nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tái đầu tư tài sản cố định. Có như vậy thì chất lượng tài sản cố định của Công ty sẽ được nâng cao, không còn những tài sản kém chất lượng, không đạt hiệu quả, nhàn rỗi, từ đó tiết kiệm được vốn. Muốn thực hiện được giải pháp trên, trước hết Công ty cần có biện pháp kiểm kê, phân loại tài sản định kì hàng tháng, quí ,năm.
Mặt khác, khi có nhu cầu về đổi mới tài sản cố định thì công ty cần phải lập ra một hội đồng thẩm định có trách nhiệm tìm hiểu, đánh giá các tài sản đó nhằm tìm ra tài sản phù hợp nhất cho hoạt động của công ty tại thời điểm đang xét. Sự đánh giá này cần dựa trên các tiêu chuẩn như: thời gian sử dụng, nguyên giá, công suất, chế độ bảo hành...
Công ty cũng cần xem xét việc nên mua hay thuê tài sản. Bởi khi mua tài sản đòi hỏi công ty phải có đủ vốn để đầu tư, còn khi thuê tài sản thì công ty không cần phải huy động vốn đầu tư nhưng sẽ phải trả chi phí thuê thường là khá cao.
Việc đổi mới và nâng cấp tài sản cố định cần được tiến hành định kì ở Công ty. Xen kẽ hoạt động này sẽ là quá trình quản lý và sử dụng tài sản cố định, quá trình này đòi hỏi cần có hiệu quả. Muốn vậy, Công ty cần bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, nhằm khai thác tối đa công suất máy móc, thiết bị nhằm đạt năng suất cao trong sản xuất. Bên cạnh đó, Công ty phải có kế hoạch quản lý chặt chẽ về mặt hiện vật, không để mất mát hoặc hư hỏng tài sản cố định trước thời hạn khấu hao. Hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ do Nhà nước qui định và điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao vào giá thành sản phẩm, nhằm bảo toàn vốn cố định.
3.2.2. Giảm lượng hàng tồn kho
Hàng tồn kho là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong công tác sản xuất cũng như kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì kho dự trữ vừa là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho khâu sản xuất, cũng là nơi để chu chuyển thành phẩm nhập kho cũng như xuất kho của doanh nghiệp. Chính vì thế, hàng tồn kho là một yếu tố không thể tách rời đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào.
Tuy nhiên, tại Công ty Cổ phần May 10 tình trạng hàng tồn kho đang chiếm một tỷ trọng 18,35% tương đối cao trong tổng tài sản và chiếm tỷ trọng 7.55% doanh thu thuần. Giảm thiểu hàng tồn kho sẽ giúp cho vòng quay vốn lưu động tăng lên. Việc giảm giá trị hàng tồn kho, đặc biệt là nguyên vật liệu và thành phẩm sẽ giúp doanh nghiệp giảm được các chi phí lưu kho, cũng như sự mất giá vô hình của sản phẩm may mặc vốn rất nhanh bị lạc hậu so với thị trưòng. Kết quả là Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí, tăng lợi nhuận, tăng khả năng thanh toán và tiết kiệm được các nguồn lực để đầu tư vào các hoạt động cần thiết khác.
Công ty cần thực hiện các giải pháp sau :
- Nâng cao hiệu quả công tác Maketing trong đó đặc biệt phải chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường, sản phẩm và chính sách bán hàng. Khi đó vòng quay hàng tồn kho sẽ giảm đi khiến cho giá trị hàng tồn kho giảm tối thiểu theo mức mà doanh nghiệp mong muốn. Cụ thể một bộ phận Maketting sẽ được tăng cường thêm, với cách thức maketing chuyên nghiệp hơn. Hiện nay, Công ty đang thực hiện dự án tư vấn bán hàng có doanh số tăng 5% và chi phí bán hàng giảm 10% so với giá mà Công ty đã ký kết với đối tác.
- Do đặc thù của doanh nghiệp chủ yếu sản xuất các sản phẩm công nghiệp nên nguyên vật liệu cung ứng dựa trên đơn đặt hàng của khách hàng hoặc chính khách hàng là người cung cấp. Nghiên cứu một cơ cấu hàng tồn kho phục vụ dự trữ cho sản xuất một cách hợp lý phải dựa vào những nhận định về giá cả trên thị trường, cũng như mục tiêu mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn. Để từ đó có một cơ cấu hàng lưu kho tối ưu, giúp cho việc giảm thiểu các chi phí và tổn thất phát sinh, đồng thời giúp doanh nghiệp có điều kiện tốt thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận trong kỳ kinh doanh của mình.
- Kiểm tra đánh giá những hàng hoá, thành phẩm không còn khả năng sinh lời trên thị trường, cần phải thanh lý nhanh để tận dụng nguồn vốn sử dụng cho mục đích khác.
- Đối với những hàng hoá bị trả lại thì áp dụng những chính sách giảm giá: treo biển giảm giá ở tất cả những đại lý trong nước,có chính sách chiết khấu cho các đại lý phù hợp hơn.
3.2.3. Tăng cuờng quản lý công nợ
Thực tế, trong hoạt động sản xuất kinh doanh không thể không có hiện
tượng chậm thanh toán (nợ) để đảm bảo thực hiện hợp đồng hoặc các ràng buộc khác. Nếu ở mức độ trong thời gian cho phép thì là điều có thể chấp nhận được, nhưng khi các khoản nợ này không được thanh toán đúng hạn thì Công ty cần phải đốc thúc việc trả nợ để đảm bảo tình tài chính của doanh nghiệp được khả quan và cân đối.
Hiện tại, các khoản phải thu của Công ty chiếm 45,07% trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Như vậy, nợ của khách hàng chiếm tỷ trọng cao có thể làm mất an toàn và ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của Công ty. Các khoản công nợ nếu không được theo dõi sát, quản lý chặt chẽ sẽ gây khó khăn cho việc thu hồi nếu gặp các khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của Công ty.
Để quản lý tốt các khoản công nợ, Công ty cần nắm được thực trạng các khoản phải thu theo từng đối tượng khách hàng, so sánh với chính sách tín dụng thương mại theo khía cạnh giới hạn nợ và thời hạn nợ. Trên cơ sở đó, Công ty sẽ biết được khoản nợ nào là quá hạn, khoản nợ nào là chưa đến hạn thanh toán. Từ đó tiến hành phân loại nợ để quản lý chặt chẽ và khoa học hơn.
Với những khoản nợ đã quá hạn thanh toán Công ty phải đưa ra những biện pháp thu hồi nợ thích đáng như : nhắc nợ khách hàng thường xuyên, dùng các chính sách chiết khấu thanh toán sớm, đa dạng hoá các phương thức thanh toán,... nhằm khuyến khích khách hàng trả nợ, đảm bảo thu hồi được vốn.
Trong đó, thành lập tổ thu hồi công nợ là có thể nói là một giải pháp cụ thể và khá hiệu quả trước mắt. Việc thành lập tổ công nợ chuyên theo dõi và thu hồi các khoản công nợ sẽ tạo điều kiện theo dõi sát hơn và có các biện pháp kịp thời, thích hợp đối với từng đối tượng; đồng thời tham mưu cho các nhà quản lý Công ty để có biện pháp thích hợp đảm bảo vốn không bị chiếm dụng quá nhiều và quá lâu, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh chung của Công ty.
Tổ Công nợ được thành lập phải bao gồm cán bộ kinh doanh, nhân viên kế toán công nợ, nhân viên pháp chế và một số bộ phận liên quan. Tổ công nợ sẽ tiến hành phân loại các đối tượng nợ dựa trên dặc điểm riêng của khách hàng và bằng cách thu thập các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể dựa trên tuổi của các khoản nợ để tiến hành phân loại nợ, từ đó dễ dàng quản lý, xây dựng kế hoạch và các biện pháp, phương thức đòi nợ thích hợp .
Đối với các khoản nợ của khách hàng khó đòi thì cần kết hợp với các cơ quan tư vấn có kinh nghiệm trong lĩnh vực để thu hồi vốn nhanh và hiệu quả nhất.
Đối với các khoản công nợ phải trả của Công ty thì cần thực hiện chuyển nợ định kì, tổ chức theo dõi đầy đủ và chính xác, lập kế hoạch trả nợ.
3.2.4. Xây dựng kế hoạch ngân quỹ hiệu quả
Để đảm bảo được khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của Công ty, hoạt động quản lý tiền hay còn gọi là quản lý ngân quỹ luôn được các nhà quản lý Công ty chú trọng. Trước tình hình tỷ trọng tiền trên tổng tài sản còn chiếm khá cao, Công ty cần đưa ra được hướng giải quyết hợp lý, một trong những giải pháp cần thiết nhất là phải xây dựng được kế hoạch ngân quỹ hiệu quả.
Muốn vậy, Công ty phải đảm bảo xây dựng được kế hoạch ngân quỹ thoả mãn những nguyên tắc sau:
Thứ nhất là đảm bảo được khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí. Kế hoạch được xây dựng phải đảm bảo được tính chủ động của Công ty trong mọi hoạt động thanh toán, không để xảy ra rủi ro gây mất uy tín của Công ty trước khách hàng, hoặc Công ty phải tìm kiếm nguồn tài trợ cho hoạt động thanh toán trong thòi gian rất ngắn.
Thứ hai là dự trữ tiền ở mức tối thiểu cần thiết, dựa trên cơ sở tối thiểu hoá lượng tiền nhàn rỗi, tiền tồn đọng. Tiền để không nhàn rỗi, không sinh lời có thể coi là lãng phí nguồn lực, dù gửi ở Ngân hàng thì suất sinh lời vẫn kém và chịu nhiều rủi ro như biến động lãi suất thị trường. Giảm lượng tiền tồn đọng nghĩa là đẩy nhanh tốc độ quay vòng tiền, sẽ khiến cho hiệu quả sử dụng vốn tăng, hiệu quả sử dụng tài sản theo đó cũng tăng lên.
Thứ ba là đảm bảo được tính chính xác, không được sai sót, như thiếu các khoản thu, chi,... Để xây dựng được một kế hoạch ngân quỹ chính xác cần dựa trên sự nghiên cứu trên tầm vĩ mô, xem xét các khoản phải thu, phải trả của Công ty trong kì trước, để có thể dự báo cho kì tiếp theo.
Thứ tư là kế hoạch ngân quỹ được xây dựng phải hạn chế được rủi ro. Nhà quản lý phải quan tâm đến những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán, hoạt động kinh doanh,... để có mức dự phòng phù hợp.
Nội dung của kế hoạch ngân quỹ bao gồm phần thu, phần chi và phần cân đối thu chi. Trong đó, hai nội dung đầu là quan trọng nhất. Để xây dựng được kế hoạch ngân quỹ hiệu quả, ngoài đạt được những yêu cầu kể trên, Công ty còn cần phải phân công chuyên trách, hướng dẫn cụ thể, chi tiết tới từng bộ phận, từng đơn vị. Mặt khác, việc xây dựng và thực hiện tốt các kế hoạch có liên quan trực tiếp, như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch nhập nguyên nhiên vật liệu,... cũng là giải pháp hết sức quan trọng để Công ty xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch ngân quỹ.
3.2.5. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Con người là yếu tố chủ chốt, quyết định thành công trong mọi hoạt động. Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động, không thể không quan tâm tới yếu tố con người trong Công ty, mà giải pháp hiệu quả có ý nghĩa lâu dài là nâng cao trình độ nguồn nhân lực.
Nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở đây không chỉ có tăng cường công tác đào tạo, chuyên sâu, đa dạng hoá các phương pháp đào tạo dạy nghề, đa dạng hoá các lĩnh vực đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ban đầu cho người lao động; mà còn có ý nghĩa là Công ty luôn luôn phải chú trọng vào việc đào tạo lại, nâng cao tay nghề cho người lao động. Điều đó có thể thực hiện bằng cách Công ty thường xuyên mở các lớp đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, nhằm đảm bảo cho người lao động cập nhật được những kiến thức mới, những tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới. Có như vậy, chất lượng sản phẩm Công ty sẽ luôn luôn được cải tiến, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường, thị phần được bảo đảm.
Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giảng viên đào tạo phải luôn được nâng cao, Công ty có thể định kì cử họ đi học các lớp bồi dưỡng chuyên sâu ở trong nước và quốc tế để nâng cao tay nghề, kinh nghiệm cũng như chất lượng đào tạo.
Nâng cao trình độ nguồn nhân lực cũng không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, mà còn có ý nghĩa nâng cao trình độ của cả các cán bộ quản lý. Để từ đó, công tác quản lý của Công ty sẽ diễn ra có hiệu quả hơn, chuyên trách hơn đối với từng bộ phận. Chức năng quản lý được nâng cao thì chức năng hoạt động cũng được cải thiện. Các cán bộ quản lý cũng phải thường xuyên được đào tạo lại, nâng cấp về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời Công ty cần có kế hoạch ứng dụng những phần mềm quản lý, công nghệ quản lý mới, tiên tiến để có thể nâng cao được hiệu quả tổ chức quản lý trong Công ty.
Ngoài ra, Công ty cũng cần tuyển dụng thêm lao động có trình độ cao vào các vị trí còn yếu kém trong Công ty như nhân viên xuất nhập khẩu, nhân viên thiết kế...
3.2.6. Mở rộng thị trường tiêu thụ
Tìm kiếm thị truờng tiêu thụ là vấn đề hết sức quan trọng đối với việc tồn tại và phát triển của Công ty. Hiện nay, Công ty đã thiết lập được thị trường tiêu thụ ỏ hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng của khu vực phía Nam còn bị hạn chế, cho đến nay mới đóng góp trên 10% tổng doanh thu nội địa của toàn công ty.
Đối với thị trường thế giới, lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may theo CEPT/AFTA của các nước ASEAN, sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty trong khu vực. Trong khi đó, do Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, nên các Công ty dệt may Việt Nam sẽ vẫn chịu sự điều tiết bằng hạn ngạch từ các nước nhập khẩu phát triển, đồng thời có thể phải chịu thuế suất cao từ các thị trường này, kể cả sau năm 2004 khi việc thực hiện ATC/ WTO hoàn tất. Đây là một bất lợi lớn cho May 10 trong việc cạnh tranh với các Công ty may mặc nước ngoài về cả lượng xuất khẩu và thị trường.
Vì vậy, để mở rộng thị trường tiêu thụ, Công ty cần có những chiến lược kinh doanh phù hợp để cạnh tranh với các Công ty may khác như sau:
Chiến lược sản phẩm
Ngoài việc đầu tư, cải tiến công nghệ sản xuất; nâng cao tay nghề cho công nhân; kiểm tra nghiêm ngặt việc thực hiện hệ thống tiêu chuẩn đối với từng loại sản phẩm; Công ty nên:
Liên tục cải tiến mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt chú trọng chất liệu bởi hầu hết các khách hàng đều mong đợi chất liệu tốt, chỉ sau kiểu dáng thời trang. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần nghiên cứu sở thích, tập quán, truyền thống văn hoá của thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ đó có thể thiết kế những kiểu dáng, mẫu mã phù hợp.
Sản xuất những sản phẩm cao cấp dành cho những người có thu nhập cao, bên cạnh đó cũng nên sản xuất những sản phẩm dành cho những người có thu nhập trung bình.
Chiến lược giá cả
Công ty cần tiếp tục nghiên cứu và tìm cách hạ giá bán sản phẩm bằng cách:
Hạn chế nhập nguyên vật liệu, phụ liệu từ nước ngoài, tăng cường sử dụng nguyên phụ liệu trong nước có chất lượng tương đương; từ đó để hạ giá thành sản phẩm đồng thời giúp cho các ngành công nghiệp khác trong nước có thị trường tiêu thụ.
Có mức chiết khấu hợp lý và linh hoạt đối với những khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán nhanh.
Riêng đối với thị trường các nước trên thế giới, Công ty cần phải chú ý đến những qui định của nước nhập khẩu về giá cả của hàng hoá khi nhập khẩu vào nước họ. Chẳng hạn như Luật chống bán phá giá của Mỹ - một công cụ bảo vệ nền sản xuất trong nước, bảo vệ sức cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất ở nước họ.
Chiến lược phân phối và truyền thông
Tăng số lượng đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại khu vực phía Nam và cố gắng phát triển các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở khắp các nước trên thế giới, nhằm giúp cho người tiêu dùng tiếp cận được dễ dàng với sản phẩm của Công ty.
Có những phương thức giao hàng linh hoạt, ví dụ như nếu khách hàng có yêu cầu Công ty sẽ chuyển đến tận nơi theo thoả thuận nếu chi phí cho việc giao hàng đó không quá cao.
Tăng cường hoạt động Marketing, tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị sản phẩm thông qua việc tham gia hội chợ, triển lãm, qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, truyền hình...
3.2.7. Nâng cao chất lượng công tác tài chính kế toán
Công tác tài chính kế toán là hoạt động chuyên trách của phòng Tài chính- Kế toán, có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng quản lý tài sản của Công ty. Để công tác này được thực hiện tốt hơn nữa, em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Một là Công ty cần tổ chức phối hợp giữa các phòng ban một cách nhịp nhàng hơn như:
+ Phối hợp giữa phòng Kinh doanh với phòng Tài chính kế toán trong khâu cung cấp nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào và tiêu thụ thành phẩm nội địa.
+ Giữa phòng Kế hoạch và phòng Tài chính kế toán trong hoạt động giao dịch với khách hàng nước ngoài và tiêu thụ xuất khẩu.
+ Phòng Tổ chức và phòng Tài chính kế toán trong việc tính lương cũng như các khoản phụ cấp cho người lao động,...
Hai là Công ty cần mở các lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ, nghiệp vụ kế toán, tài chính cho các cán bộ kế toán, cán bộ tài chính.
Đầu năm 2005, Công ty đã mua mới và đưa vào sử dụng phần mềm kế toán mới, với nhiều tính năng, tiện ích và ưu điểm vượt trội. Nhưng cho đến nay, do trình độ còn hạn chế nên phòng Tài chính kế toán của Công ty mới chỉ chính thức sử dụng hoàn chỉnh và thường xuyên một phần của chương trình phần mềm đó. Như vậy, biện pháp cấp thiết hiện nay là nâng cao trình độ cho các cán bộ kế toán, cập nhật được cách sử dụng và khai thác hết được tính năng ưu việt của phần mềm trên.
Ba là xây dựng một đội ngũ cán bộ tài chính chuyên trách. Hiện nay, chức năng tài chính của phòng tài chính kế toán chưa được thể hiện rõ rệt, chủ yếu mới thực hiện được chức năng hạch toán kế toán. Như vậy, việc cần thiết và khá quan trọng là phải thiết lập một bộ phận tài chính riêng biệt, chuyên trách về vấn đề quản lý tài chính cho công ty. Nhiệm vụ của bộ phận này chủ yếu sẽ là: xây dựng các kế hoạch tài chính dài hạn, nắm bắt và xử lý các vấn đề tài chính ngắn hạn, báo cáo và chịu trách nhiệm trước ban Giám đốc về tình hình tài chính của công ty.
Thực hiện được những biện pháp trên, Công ty sẽ có được số liệu kế toán hoàn chỉnh, chi tiết và sát với thực tế hơn, tránh được việc chậm các báo cáo tài chính.
3.2.8. Xây dựng cơ chế khen thưởng, khuyến khích hợp lý đối với người lao động
Cơ chế khen thưởng trong mọi doanh nghiệp luôn là cơ chế khuyến khích đối với người lao động, khích lệ người lao động ổn định công việc và hăng hái làm việc, yên tâm đóng góp sức mình cho sự phát triển của doanh nghiệp. Có thể nói đó là cơ chế tạo động lực, tạo niềm tin trong công việc cho người lao động.
Do vậy, Công ty cần tăng cường và hoàn thiện cơ chế khen thưởng theo hướng khuyến khích mọi người thi đua sản xuất, hoàn thành tốt các nhiệm vụ và chỉ tiêu được giao, đồng thời có cơ chế thưởng phù hợp đối với những sáng kiến tốt, giúp tăng hiệu quả hoạt động của Công ty. Chẳng hạn lập ra các phong trào thi đua sản xuât giỏi, giải thưởng sáng tạo thiết kế sản phẩm của Công ty,... Nhưng khi thực hiện chính sách này còn cần phải đảm bảo sự công bằng, không có sự ưu tiên, phân biệt. Nếu không sẽ dẫn đến mất hiệu quả của chính sách.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
Trong những năm gần đây, ngành may mặc là ngành có tốc độ phát triển cao, thu hút lực lượng lao động lớn, xuất khẩu ngành may không những đem lại ngoại tệ mà còn giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp để hỗ trợ sự phát triển ngành dệt may Việt Nam.
Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành dệt may (nhằm đảm bảo nguồn cung đầu vào cho ngành may) bao gồm:
- Cho miễn thuế thu nhập doanh nghiệp để tái đầu tư vào ngành dệt.
- Có cơ chế cho vay ưu đãi, có thời gian ân hạn, lãi suất thấp.
- Cho sử dụng nguồn vốn ODA vào các dự án xử lý môi trường cho các cụm công nghiệp dệt tập trung mới và các cơ sở dệt lớn hiện có.
Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp dệt may tập trung:
- Cho miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm chi phí hạ tầng trong 5 năm đầu.
- Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm dệt may
Trước hết là cho các doanh nghiệp may được quyền xuất khẩu trực tiếp và giảm các thủ tục hành chính gây phiền hà. Đồng thời tạo môi trường xuất khẩu bằng cách gia nhập vào các tổ chức quốc tế như tổ chức thương mại quốc tế (WTO),khu vực mậu dịch tự do AFTA...
Chính sách tài chính tiền tệ ổn định duy trì lợi thế cạnh tranh so với các nước xuất khẩu ngành này.
Nhà nước cũng cần đề xuất các nhu cầu ưu đãi về thuế xuất khẩu doanh nghiệp có thể giảm giá hàng và tăng lợi nhuận, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công cho xuất khẩu. Tránh tình trạng gây khó khăn làm cho kế hoạch và tiến độ thực hiện hợp đồng may gia công và xuất khẩu chậm.
Nhà nước nên thành lập quỹ trợ giúp nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp về vốn, để các doanh nghiệp mạnh dạn chủ động xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn và mở rộng thị trường
Bên cạnh đó, Nhà nước còn cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xúc tiến thị trường mới và tổ chức khu trưng bày sản phẩm miễn phí cho các doanh nghiệp tại các thị trường lớn.
Ngoài những chính sách trên, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cho doanh nghiệp. Cụ thể là Nhà nước cần hoàn thiện qui chế quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản cố định, và đơn giản hoá các thủ tục mua sắm, thanh lý tài sản, tạo diều kiện choa doanh nghiệp nhanh chóng đầu tư, nâng cấp tài sản.
Mặt khác, Chính phủ cần thành lập văn phòng chuyên trách về chương trình phát triển ngành dệt may cấp quốc gia với sự tham gia của các bộ ngành liên quan đến hoạch định, thực hiện, theo dõi các chính sách phát triển ngành dệt may Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong chiến lược tăng tốc.
Về vấn đề thực hiện luật pháp, vấn đề nạn buôn lậu và nạn vi phạm về bản quyền, mẫu mã đang lan tràn, đã từng đẩy các doanh nghiệp may trong nước vào thế không cạnh tranh nổi. Để bảo vệ sản phẩm trong nước, người tiêu dùng, và các doanh nghiệp dệt may làm ăn chân chính, Nhà nước phải chấn chỉnh kịp thời các tệ nạn này để ngành may tiếp tục phát triển.
3.3.2. Kiến nghị đối với Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
Tổng công ty Dệt May phải xác định được phương hướng phát triển trong giai đoạn sắp tới bằng các kế hoạch ngắn, trung và dài hạn như sau:
Thứ nhất, đối với ngành dệt may thì đội ngũ công nhân có vị trí rất quan trọng. Nó là yếu tố đầu vào trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt nó tạo ra lợi thế cạnh tranh.Ví dụ các doanh nghiệp nước ngoài khi ký hợp đồng may gia công hoặc xuất khẩu thì đã so sánh rất kỹ yếu tố này ở các thị trường khác nhau. Điều đó cho thấy nếu muốn phát triển ngành này thì Tổng công ty phải đào tạo đội ngũ người lao động. Tổng công ty tổ chức một số trường dạy nghề may cho công nhân.
Thứ hai, cũng giống như lực lượng lao động, thiết bị công nghệ là một yếu tố đầu vào quan trọng. Chúng ta không thể tự nghiên cứu chế tạo các loại máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại phục vụ cho ngành may. Trong khi đó trên thị trường quốc tế lại rất nhiều và thay đổi thường xuyên. Nếu để các doanh nghiệp tự tìm mua thiết bị công nghệ sẽ rất dễ bị lừa hoặc mua với giá cao.
Để có thể đảm bảo mua đúng, mua đủ và không bị lãng phí Tổng công ty phải thành lập nhóm kỹ thuật để tư vấn nhập máy móc thiết bị mới. Bằng cách này Công ty có thể kiểm soát hoạt động nhập máy móc thiết bị của các doanh nghiệp.
Thứ ba, Tổng công ty cần phải đầu tư nhiều hơn cho ngành dệt. Trong những năm qua, ngành may đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, ngược lại ngành dệt lại gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy các doanh nghiệp may chủ yếu sử dụng vải, nguyên liệu từ nước ngoài nên xảy ra hiện tượng giá thành sản phẩm cao, có lúc thiếu vải để may...Để ngành may phát triển ổn định thì ngành dệt cũng phải phát triển theo.
Thứ tư Tổng Công ty nên sớm hoàn thiện qui chế quản lý tài chính ban hành nội bộ theo hướng cụ thể, hợp lý, và có chiều sâu, để các Công ty may trực thuộc Tổng Công ty có được nguyên tắc, chuẩn mực quản lý tài chính thống nhất. Để hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý tài sản nói riêng thu được hiệu quả ngày càng cao.
Thứ năm, để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, thì Tổng Công ty dệt may cần có những biện pháp nhằm tạo thế cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam trên thương trường. Trong đó, hoạt động Marketing đóng vai trò khá quan trọng. Tổng công ty nên thành lập nhóm nghiên cứu chiến lược và nghiên cứu thị trưòng trong nước và nước ngoài, những kết quả nghiên cứu này Tổng công ty phối hợp với các doanh nghiệp để triển khai.
3.3.3. Kiến nghị đối với các ngành có liên quan
Trước hết là vấn đề buôn lậu. Nạn buôn lậu lan tràn đã từng đẩy các doanh nghiệp may trong nước vào thế không cạnh tranh nổi với các sản phẩm nhập lậu. Nguyên nhân là hàng nhập lậu không chịu thuế nên bán giá thấp. Chính vì vậy hàng nhập lậu đã và đang chiếm lĩnh thị trường nước ta.
Vấn đề tiếp theo là nạn vi phạm về bản quyền, mẫu mã. Trên thị trường hàng may mặc nói riêng và cụ thể là mặt hàng áo sơ mi thì hiện tượng sử dụng nhãn mác của các Công ty may lớn là rất phổ biến và khó kiểm soát. Bất cứ mẫu mã nào trên thị trường tiêu thụ được đều có thể bị sản xuất theo.
Đứng trước thực trạng đó, đòi hỏi các ngành liên quan như ngành thuế, hải quan, công an, cục quản lý thị trường... không thể không có biện pháp ngăn ngừa tệ nạn trên. Muốn vậy phải có đuợc sự phối kết hợp ăn ý giữa các ngành, các cơ quan với nhau để cùng ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu quả, tạo điều kiện cho ngành dệt may nói riêng và tất cả các ngành nói chung cùng phát triển đi lên.
KẾT LUẬN
Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, trừ những hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo mục đích sinh lời ngoài việc tìm kiếm nguồn huy động vốn ra, quan trọng nhất là phải sử dụng vốn, tài sản đó hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và làm tăng giá trị chủ sở hữu. Chính vì vậy mà bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường đều phải chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần May 10, em đã có được những hiểu biết khá sâu sắc về thực tế hoạt động này tại Công ty. Hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty hiện đang được duy trì khá ổn định, ở mức trung bình, tuy nhiên công tác quản lý và sử dụng tài sản vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhận xét và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty. Em mong rằng những định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và sử dụng tài sản của Công ty.
Với thời gian thực tập hạn chế, và chưa có kinh nghiệm thực tế, do vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cán bộ, nhân viên phòng Tài chính – Kế toán và những ý kiến đóng góp của thầy cô để em có được những kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn về thực tiễn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tư số 33/2005/TT- BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/04/2005 hướng dẫn một số điều tại Quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
2. Quyết định số 206/2003/ QĐ- BTC của Bộ Tài chính ngày 12 tháng 12 năm 2003 về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.
3. Nghị định số 199/2004/NĐ- CP của Chính phủ ngày 03 tháng 12 năm 2004 về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
4. Các báo cáo tài chính các năm 2003, 2004, 2005 và kế hoạch đến năm 2010 của Công ty Cổ phần May 10.
5. Trang web của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
6. Quản trị tài chính doanh nghiệp - PGS.TS. Vũ Duy Hào, NXB Thống kê Hà Nội năm 2000.
7. Tài chính doanh nghiệp - TS. Lưu Thị Hương , NXB Thống kê Hà Nội năm 2003.
8. Phân tích quản trị tài chính - Nguyễn Tấn Bình , NXB Thống kê Hà Nội năm 2003.
9. Luật Doanh nghiệp Nhà nước và những văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2000.
10. Báo Tài Chính Doanh nghiệp, báo Thị trường tài chính, Thời báo kinh tế.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36470.doc