LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản lưu động là một bộ phận cấu thành tất yếu nên tổng tài sản của doanh nghiệp, nó giúp cho mọi hoạt động sản xuất diễn ra trôi chảy vận động thuờng xuyên liên tục tất cả vì mục tiêu hiệu quả sản xuất và lợi nhuận cho doanh nghiệp
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố để tạo ra sản phẩm, dịch vụ…Để có được các yếu tố cần thiết trên cho quá trình s
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng tại sản lưu động của nhà máy cơ khí chính xác 29, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm: Tài sản lưu động và tài sản cố định.Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà tỷ trọng của tài sản lưu động và tài sản cố định trong tổng tài sản là khác nhau. Việc tổ chức quản lý tài sản lưu động cho sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động và vấn đề sử dụng tài sản lưu động sao cho có hiệu quả là một nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng cũng như yêu cầu thực tế về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp, đồng thời qua thời gian thực tập tại Nhà máy cơ khí chính xác 29 em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của nhà máy cơ khí chính xác 29
ĐỀ TÀI GỒM 3 CHƯƠNG
Chương 1: Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Nhà máy cơ khí chính xác 29
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Nhà máy cơ khí chính xác 29
CHƯƠNG 1: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP
Khái quát về doanh nghiệp
Khái niệm về doanh nghiệp
Ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ khác nhau, tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà pháp luật quy định mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thích hợp. “ Mục đích chính sách kinh tế Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - Kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm: cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”
Nhóm chủ thể kinh doanh quan trọng nhất, là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật kinh tế đó là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải cá nhân.
Ở Việt Nam, theo luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Phân loại doanh nghiệp
* Phân loại theo nguồn gốc tài sản đầu tư vào doanh nghiệp ( theo hình thức sở hữu tài sản )
Theo tiêu chí này, doanh nghiệp ở nước ta được chia thành nhiều loại doanh nghiệp. Trong mỗi loại doanh nghiệp có những mô hình hoạt động cụ thể.
1. Công ty: Có các loại công ty là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn ( Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) và công ty hợp danh.
2. Doanh nghiệp tư nhân: là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước
3. Doanh nghiệp Nhà nước: Có những hình thức tổ chức hoạt động như sau:
Công ty Nhà nước : Công ty nhà nước độc lâp và Tổng công ty Nhà nước
Công ty cổ phần: Công ty cổ phần Nhà nước (100% vốn Nhà nước ) và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước.
4. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Hình thức thành lập và hoạt động là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
5. Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ( doanh nghiệp đoàn thể )
6. Hợp tác xã: Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, ngoài mục tiêu kinh tế còn có những mục tiêu xã hội rất thiết thực trong điều kiện của nền kinh tế nước ta nên có những đặc điểm riêng trong việc thành lập, quản lý hoạt động và chế độ tài chính. Tuy vậy, trong hoạt động, “ Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp…”
* Phân loại theo giới hạn trách nhiệm
Theo giới hạn trách nhiệm, các doanh nghiệp được chia thành hai loại. Thứ nhất là những doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Thuộc loại này là Công ty hợp danh, các doanh nghiệp tư nhân. Trong kinh doanh, các doanh nghiệp này phải chịu trách nhiệm vô hạn, đặc biệt là trong trường hợp doanh nghiệp này bị tuyên bố phá sản. Thứ hai là những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Theo quy định hiện hành thì đó là tất cả những doanh nghiệp còn lại theo cách phân loại phần trên, trừ công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân thuộc loại trách nhiệm hữu hạn.
*Phân loại theo hình thức pháp lý của các tổ chức kinh doanh
Nếu xem xét doanh nghiệp từ ý nghĩa là một chủ thể pháp lý và thực tiễn của Việt Nam, khái quát lại có các mô hình cơ bản là:
+ Công ty cổ phần.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
+ Công ty hợp danh
+ Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty Nhà nước, trước hết là Công ty Nhà nước độc lập thực chất là một loại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Ngoài ra, từ nhu cầu liên kết,liên doanh đã dần dần xuất hiện sự liên kết, chi phối giữa nhiều chủ thể kinh doanh theo mô hình nhóm Công ty. Thực tiễn cũng dặt ra nhu cầu liên kết, liên doanh như vậy trong các khu vực kinh tế và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tài sản lưu động trong doanh nghiệp
Khái niệm, đặc điểm tài sản lưu động của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào, với nhiệm vụ chủ yếu là tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể tiến hành một, một số hoặc tất cả các công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Qúa trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham ra vào một chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh, một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất - kinh doanh nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản của doanh nghiệp được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. quản lý sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi.
Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.
Như vậy, tài sản lưu động được biểu hiện bằng thước đo giá trị gọi là vốn lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thường xuyên liên tục.
Vốn lưu động là thể hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Mặt khác, tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà sự vận động của vốn lưu động cũng khác nhau. Ta có thể khái quát đặc điểm vận động của vốn lưu động trong doanh nghiệp qua các sơ đồ sau:
* Đối với doanh nghiệp sản xuất:
T – H…sản xuất…H’ - T’
* Đối với doanh nghiệp thương mại thuần tuý:
T – H – T’
* Đối với các tổ chức tín dụng trung gian
T – T’
Qua đó, có thể thấy tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Tại một thời điểm sẽ tồn tại đồng thời các bộ phận vốn lưu động dưới các hình thái khác nhau. Điều này có nghĩa là xét trong một vòng tuần hoàn cô lập tài sản lưu động chuyển từ hình thái này sang hình thái khác. Song khi xét tại một thời điểm tài sản lưu động lại tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong từng khâu.
Do bị chi phối bởi đặc điểm của tài sản lưu động nên vốn lưu động của doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
+ Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái biểu hiện
+ Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm.
+ Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vai trò của tài sản lưu động:
Chúng ta có thể thấy rằng, các loại tài sản lưu động chiếm một phần khá lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp . Quản trị và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động với đặc điểm về khả năng chuyển đổi của mình có thể giúp doanh nghiệp thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường cũng như các nhu cầu tài chính trong các hệ kinh tế.
Việc sử dụng và quản lý tài sản lưu đông một cách có hiệu quả giúp doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, dễ dàng ứng phó được với các biến động bất lợi trên thị truờng đồng thời làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh do đó làm gia tăng lợi nhuận.
Quy mô của tài sản lưu động quyết định trực tiếp đến quy mô sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại nó làm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp nhờ cơ chế dự trữ khả năng tài chính trong các mối quan hệ đối ngoại, tận dụng được nhiều cơ hội trong kinh doanh và khả năng cung cấp tín dụng cho khách hàng. Đó là các công cụ có hiệu quả trong cơ chế canh tranh hiện nay.
1.1.3.2 Phân loại tài sản lưu động trong doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại tài sản lưu động có thể dựa vào hình thái biểu hiện, theo nguồn hình thành, nhưng thông thường người ta thường sử dụng cách phân loại theo vai trò của tài sản lưu động. Theo cách phân loại này, tài sản lưu động được chia thành 4 loại đó là:
* Tiền mặt và chứng khoán thanh khoản
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ…
Tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp thậm chí tỷ lệ sinh lời trên tiền giấy của doanh nghiệp và tiền trên tài khoản bảo chi có tỷ lệ sinh lời bằng không. Trong khi đó, sức mua của tiền tệ luôn có khuynh hướng giảm do chịu ảnh hưởng của lạm phát, bởi vậy có thể nói tỷ lệ sinh lời thực, trực tiếp của tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có tỷ lệ âm.
Động cơ chủ yếu của việc nắm giữ tiền là để làm thông suốt quá trình tạo ra các giao dịch kinh doanh. Bởi nếu sử dụng một loại tài sản khác có thanh khoản thấp có thể làm các chi phí giao dịch cao, mất nhiều thời gian hơn đối với một giao dịch kinh doanh thông thường. Động cơ giữ tiền mặt có thể coi là động cơ kinh doanh.
Một động cơ quan trọng khác đối với việc nắm giữ tiền mặt là động cơ phòng ngừa: Tiền mặt được tồn trữ nhằm duy trì khả năng thanh khoản chung cho doanh nghiệp tại mọi thời điểm.
Thông thường ngoài việc nắm giữ tiền mặt, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các loại chứng khoán ngắn hạn, có tính thanh khoản cao chẳng hạn như trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu, thương phiếu ngắn hạn… khác với tiền mặt ngoài khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh chóng với chi phỉ rẻ, chứng khoán ngắn hạn còn đóng vai trò trong việc đem lại thu nhập cho doanh nghiệp mà tiền mặt không có được. Khi có nhu cầu tiền mặt, doanh nghiệp sẽ bán số chứng khoán ngắn hạn đổi lấy tiền mặt dễ dàng.
* Hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những “bước đệm” cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho của doanh nghiệp có 3 loại: Nguyên liệu thô, sản phẩm dở dang trên dây chuyền và sản phẩm hoàn thành. Trong sản xuất nếu doanh nghiệp mua nguyên liệu không đáp ứng với thực tế sản xuất như là mua quá nhiều hay quá ít đều không đạt hiệu quả tối ưu. Bởi nếu dự trữ nguyên liệu quá lớn sẽ phải chi ra nhiều chi phí lưu kho bảo quản hàng hoá bị mất mát, hỏng hóc… Mặt khác nếu nguyên vật liệu không đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất dẫn đến sản xuất gián đoạn và làm tăng những chi phí không cần thiết và không đạt hiệu quả cao.
Do đó doanh nghiệp sẽ có lợi khi mua vừa đủ nguyên liệu để tạo ra một
“miếng đệm an toàn” giữa cung ứng và sản xuất. Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên liệu nằm lại từ công đoạn của dây chuyền chế tạo. Thông thường, không có sự đồng bộ hoàn toàn giữa các công đoạn sản xuất của doanh nghiệp, bởi các bộ phận sản xuất không thể có cùng công suất hoạt động tại mọi thời điểm. Bởi vậy mỗi công đoạn sản xuất đều có một lượng tồn kho riêng trong quá trình sản xuất nếu không có một lượng nguyên liệu hay bán thành phẩm dự trữ nào đó thì một công đoạn sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào công đoạn đứng trước nó. Do đó các nguyên vật liệu tồn kho có tác dụng tạo ra sự thông suốt và tính hiệu quả trong quá trình sản xuất. Quy trình công nghệ sản xuất càng dài và công đoạn sản xuất càng nhiều sẽ dẫn đến nhu cầu tồn kho càng lớn.
Cuối cùng, sản phẩm hoàn thành tồn kho tạo thành “khoảng an toàn cần thiết’ giữa sản xuất và tiêu thụ. Những doanh nghiệp có đặc điểm kinh doanh mang tính mùa vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thường có khối lượng sản phẩm hoàn thành tồn kho lớn, bởi nhu cầu đối với sản phẩm trong mùa tiêu thụ vượt quá năng lực sản xuất của doanh nghiệp và ngược lại. Do đó các doanh nghiệp này cần có sản phẩm dự trữ.
Bên cạnh tác dụng duy trì khả năng hoạt động thông suốt của dây chuyền sản xuất và các hoạt động phân phối, các loại hàng hoá tồn kho còn có tác dụng ngăn chặn những bất trắc trong sản xuất.
* Các khoản phải thu
Để thắng lợi trong sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các đối thủ, ngoài các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, dịch vụ thì một việc không thể thiếu là bán chịu. Đây là hành động mà nguời mua chưa trả tiền ngay khi nhận được đơn hàng. Hình thức mua bán chịu này gọi là tín dụng thương mại. Nó thể hiện sự tin tưởng lẫn nhau giữa người mua và người bán, là cơ sở cho mối quan hệ làm ăn lâu dài. Tuy nhiên quy mô các khoản phải thu ra sao, thời hạn tín dụng như thế nào phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quy mô doanh nghiệp, nhu cầu sản phẩm trên thị trường
trong từng thời kỳ lẫn chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn thu được tiền ngay, bởi vừa an toàn và đỡ mất thời gian lẫn chi phí đòi nợ. Tuy nhiên, với doanh nghiệp có tình hình tài chính mạnh, có uy tín hơn hoặc thị trường đang dư thừa hàng hoá lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ dễ dàng bán hàng trả chậm, còn trong nhiều trường hợp hàng hoá khan hiếm thì khó có cớ gì doanh nghiếp nới lỏng chính sách tín dụng thương mại.
Tài sản lưu động khác
Bên cạnh các tài sản lưu động như trên, doanh nghiệp còn có các tài sản lưu động khác như:
Chi phí trả trước: Là những chi phí mà thực tế doanh nghiệp đã chi nhưng chưa được tính là chi phí trong kỳ:
Tạm ứng : Là số tiền doanh nghiệp chi trước cho cán bộ công nhân viên khi đi công tác, trước khi nhận lương.
Thế chấp: Là tài sản được doanh nghiệp đưa ra để đảm bảo để vay vốn
Ký cuợc: Là tiền đặt cược của doanh nghiệp khi thuê tài sản.
Ký quỹ: Là tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp gửi để làm tin
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là chỉ tiêu trong phân tích tài chính của doanh nghiệp phản ánh tình hình tài sản lưu động của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh với chi phí bỏ ra thấp nhất.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là chỉ tiêu chất lượng phản ánh doanh nghiệp có những cố gắng trong việc cải tiến kỹ thuật và phương pháp quản lý tiên tiến nhằm đáp ứng mọi khả năng về vốn cho sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động đuợc biểu hiện bằng mối quan hệ giữa kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh với số tài sản lưu động đầu tư cho doanh nghiệp trong một chu kỳ nhất định.
Kết quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sử dụng TSLĐ =
Tài sản lưu động
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là doanh thu đạt được hay lợi nhuận đạt được trong kỳ, còn tài sản lưu động là số bình quân trong kỳ được tính bằng cách:
TSLĐ đầu kỳ + TSLĐ cuối kỳ
TSLĐ bình quân trong kỳ =
2
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động có quan hệ đến hiệu quả các yếu tố cấu thành nên tài sản lưu động do vậy làm cho doanh nghiệp chỉ đạt hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố của tài sản lưu động một cách hợp lý.
Thông thường quan điểm của các doanh nghiệp về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động thể hiện ở các mặt sau đây:
- Khả năng sản xuất và khả năng sinh lời của tài sản lưu động trong sản xuất kinh doanh phải cao hơn so với các thời kỳ khác nhau, có nghĩa là phải đảm bảo một đơn vị tài sản lưu động mang lại lợi ích tối đa không những bảo toàn đuợc vốn mà phải phát triển đuợc vốn.
- Khả năng tiết kiệm cao: Sử dụng tài sản lưu động một cách tiết kiệm cũng là một chỉ tiêu thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản lưu động nó giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất tăng lơị nhuận .
-Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động cao giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh khả năng thu hồi vốn, tiếp tục tái đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo, nắm bắt kịp
các cơ hội kinh doanh có khả năng sinh lời.
- Xây dựng được một cơ cấu vốn tối ưu là tiềm lực vững chắc cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một phạm trù rộng bao gồm nhiều mặt, bản thân yếu tố này lại bị chi phối bởi yếu tố khác. Bởi vậy, để đánh giá một cách chính xác có cơ sở khoa học về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động nói riêng thì doanh nghiệp phải dựa trên nguồn thông tin từ nhiều hướng như từ các báo cáo tài chính . Dựa trên nền tảng cơ bản đó, các nhà kinh tế xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử dụng tài sản lưu động .
Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó công tác quản lý và sử dụng tài sản lưu động là một bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp chính là các đơn vị trực tiếp tác động nhằm sử dụng và khai thác mọi tiềm năng để sản xuất kinh doanh các sản phẩm và hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, tích luỹ cho nền kinh tế. Chính vì vậy việc quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên của doanh nghiệp hợp lý và tiết kiệm không những đem lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp mà còn là nhân tố quan trọng đóng góp cho sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
Đảm bảo khả năng tự chủ và linh hoạt về tài chính của doanh nghiệp, giảm bớt rủi ro kinh doanh. Việc kinh doanh hiệu quả tạo ra một tiền đề tốt một hình ảnh đẹp đối với khách hàng và nhà cung cấp. Hiện nay các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh trước nhà nước, các khoản bao cấp truớc đây bị cắt giảm nên sử dụng hiệu quả tài sản lưu động giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn.
Các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhà nước, chỉ được coi là hoạt động có hiệu quả khi nó kết hợp hài hoà tính kinh tế và tính xã hội trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng làm tăng cường sự gắn bó của doanh nghiệp với thị trường, vừa góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội cần thiết như bảo vệ và thoả mãn các nhu cầu của các thành viên trong doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, của nguời tiêu dùng và đóng góp cho ngân sách quốc gia.
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động giúp doanh nghiệp có thể quay vòng vốn nhanh từ đó tận dụng được thêm nhiều cơ hội trong kinh doanh. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình khai thác sử dụng tài sản lưu động vào sản xuất với số tài sản lưu động đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh. Trong đó quản lý và sử dụng tài sản lưu động là bộ phận rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, từ đó thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khai thác được các tiềm năng sẵn có, biết doanh nghiệp mình đang ở giai đoạn nào của quá trình phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác … Thông qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, doanh nghiệp sẽ đề ra được những biện pháp thiết thực để tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp, ta thường dùng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hay không còn thể hiện ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp là nhanh hay chậm. Vốn lưu động có tốc độ luân chuyển càng nhanh chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được đo bằng 2 chỉ tiêu: số lần luân chuyển và kỳ chu chuyển.
Số lần luân chuyển: Phản ánh số vòng quay của vốn lưu động thực hiện được trong một thời kỳ nhất định M
Công thức: L =
VL Đ
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ
M: Doanh thu theo giá vốn đạt được trong kỳ
VLĐ: Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này càng cao cho thấy khả năng tổ chức vốn lưu động và hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao 360
Kỳ luân chuyển vốn lưu động: Công thức: K =
L
Trong đó:
K : Kỳ luân chuyển vốn lưu động
L: Số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một vòng quay của vốn lưu động trong kỳ. Nếu K càng lớn thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng thấp và ngược lại.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn lưu động
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong một doanh nghiệp ở mức độ cao hơn, người ta sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn lưu động. Tức là bằng cách xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế ) mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ với vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Công thức:
Lợi nhuận trước thuế ( Hoặc sau thuế )
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lời của vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng tốt.
Hệ số phục vụ của vốn lưu động:
Doanh thu thực hiện trong kỳ
Hệ số phục vụ Của VLĐ =
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng VLĐ doanh nghiệp bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao.
Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động:
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm của VLĐ =
Tổng doanh thu ( Doanh thu thuần )
Thực hiện trong kỳ
Chỉ tiêu này cho ta biết được để thu về được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả.
Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán :
Hệ số thanh toán hiện thời:
Tổng tài sản lưu động
Hệ số thanh toán hiện thời =
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán
Hệ số thanh toán nhanh:
Tổng TSL Đ - V ốn hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào bán tài sản dự trữ. Hệ số này càng cao càng tốt.
Hệ số thanh toán tức thời:
Tiền + Các khoản tương đương tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán lập tức tại thời điểm xác định, tỷ lệ này không phụ thuộc vào các khoản phải thu và dự trữ
Số vòng quay các khoản phải thu:
Doanh thu thuần
Số vòng quay các khoản phải thu =
Số dư bình quân các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ thu hồi các khoản phải thu của doanh nghiệp, nó cho biết chính sách tín dụng của doanh nghiệp về thời hạn tín dụng và khả năng quản lý nợ phải thu của doanh nghiệp.
Kỳ thu tiền bình quân:
Số dư bình quân các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = x 360
Doanh thu thuần bình quân 1 ngày
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu các khoản phải thu. Kỳ thu tiền bình quân càng thấp chứng tỏ tốc độ luân chuyển nợ phải thu càng cao và ngược lại.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chịu rất nhiều tác động làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Để phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực tác động đến quá trình tổ chức và sử dụng vốn cuả doanh nghiệp, nhất thiết các nhà quản trị doanh nghiệp phải nắm được những nhân tố tác động đó.Các nhân tố này được chia thành 2 nhóm chủ yếu sau:
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là những nhân tố thuộc về bản thân của mỗi doanh nghiệp: Các quyết định của bộ máy lãnh đạo trong việc lựa chọn phương án đầu tư cũng như trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý vốn trong doanh nghiệp thành thạo hay yếu kém còn nhiều sai hở…đây là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu đông trong doanh nghiệp
- Các chính sách tài chính của doanh nghiêp : Mỗi nhà quản trị doanh nghiêp lại có chính sách tài chính khác nhau , có thể theo chính sách tài chính thận trọng hay liều lĩnh Do các quyết định đưa ra chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và tình hình thị trường của các nhà quản lý do vậy mà nhu câù tài sản lưu động thừa hoặc thiếu . Trong việc quản lý tài sản lưu động người theo chính sách bảo thủ sẽ giữ nhiều tiền mặt, dự trữ nhiều hàng tồn kho, nguyên vật liệu như vậy sẽ đảm bảo nhu cầu thanh toán cho doanh nghiệp nhưng đồng vốn sẽ hoạt động không hiệu quả. Còn nhà quản lý mà dự trữ tiền mặt và hàng tồn kho ít sẽ quay vòng nhanh vốn nhưng khi có nhu cầu thanh toán họ sẽ gặp phải những khó khăn.
- Trình độ công nghệ: Việc áp dụng công nghệ hiện đại , doanh nghiệp có thể giảm được tiêu hao nguyên vật liệu trong sản xuất, giảm được lượng phế phẩm, nâng cao chất lượng và hạ giá thánh sản phẩm, rút ngắn chu kỳ sản xuất, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm … nhờ vậy hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp được nâng lên
- Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh: Hoạt động sản xuất kinh doanh cũng quyết định đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh theo mùa vụ thì khi tới gần mùa vụ sẽ phải dự trữ nhiều hàng hoá do vậy sẽ làm tăng chi phí dự trữ lưu kho, bảo quản hàng hoá. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá mà nguyên vật liệu là từ tự nhiên thì quá trính sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch hoá nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
- Trình độ nguồn nhân lực: Đây chính là một trong nguồn vốn quý nhất của doanh nghiệp. Trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ lao động trong doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và năng xuất lao động và từ đó tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Đối với đội ngũ lao động gián tiếp, nếu họ tạo được niềm tin với công nhân bố trí lao động hợp lý thì năng lực của công nhân sẽ phát huy tối đa. Các nhà quản lý chính là những người thay mặt doanh nghiệp trực tiếp ra quyết định về việc sử dụng tài sản lưu động. Với trình độ quản lý vốn cao kinh nghiệm già dặn, nhà quản lý có những quyết định hợp lý sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động và giảm được chi phí.
Trên đây là những nhân tố chủ quan quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp . Doanh nghiệp cần tận dụng những thế mạnh của mình để có thể chiến thắng trong cạnh tranh và đạt được mục tiêu đề ra. Trong thực tế, các doanh nghiệp muốn quản lý vốn tốt và sử dụng hiệu quả tài sản lưu động của đơn vị mình mỗi doanh nghiệp cần đề ra các biện pháp cụ thể trên cơ sở các._. giải pháp chung cho từng loại hình doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh.
1.3.2. Những nhân tố khách quan
Doanh nghiệp luôn tồn tại và phát triển với sự tương tác với môi trường xung quanh và nó chịu sự tác động của những quy luật trong môi trường. Để không bị đào thải, doanh nghiệp luôn phải tìm cách thích nghi với môi trường do đó mỗi doanh nghiệp phải nhận biết được điều đó để tìm các biện pháp chính sách, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp nhằm phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.
Môi trường kinh tế:
Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền dẫn đến giá cả vật tư hàng hoá tăng làm tài sản lưu động bay hơi dần theo tốc độ trượt giá của đồng tiền.
Biến động cung cầu hàng hoá tác động đến khả năng huy động yếu tố đầu vào cho sản xuất cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn kinh doanh.
Mức độ cạnh tranh của tất cả các lĩnh vực trong hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải tìm cách thu hút khách hàng như tạo ra các ưu đãi, bán chịu, chính sách tiếp thị …, cũng như luôn phải dự trữ một lượng tiền mặt, hàng tồn kho để chớp lấy cơ hội khi cần thiết. Điều đó khiến cho chi phí của doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Do vậy doanh nghiệp phải tìm biện pháp sử dụng vốn thích hợp để tăng năng xuất rút ngắn thời gian sản xuất làm tăng vòng quay của đồng vốn.
Các nhân tố về khoa học kỹ thuật: Sự phát triển về khoa học công nghệ không những làm thay đổi về số lượng, chất lượng hàng hoá mà còn làm phát sinh những nhu cầu mới thay thế các nhu cầu tiêu dùng cũ do đó mà yêu cầu về hàng hoá dịch vụ của khách hàng ngày càng cao. Do vậy, doanh nghiệp cần điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Ngoài ra nhân tố này còn ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của tiền mặt chu kỳ sản xất khả năng tiêu thụ sản phẩm …, thậm chí nó còn ảnh hưởng đến hàng hoá dự trữ như chống hao mòn hư hại hoặc làm hàng hoá dự trữ giảm giá do lỗi thời. Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ, các doanh nghiệp thường có xu hướng tăng tiền mặt giảm tồn kho để nắm bắt cơ hội kinh doanh.
Môi trường tự nhiên, chính trị, văn hoá – xã hội :
Môi trường tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đến tài sản lưu động nó tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sản phẩm của doanh nghiệp và có thể cả về nhu cầu về sản phẩm đó. Hơn nữa nếu môi trường tự nhiên không thuận lợi thì doanh nghiệp phải tăng dự trữ và bảo hiểm hàng tồn kho khiến cho chi phí gia tăng làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh.
Môi trường chính trị ổn định cũng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Môi trường văn hoá xã hội đặc biệt là dân số và thói quen tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Dân số tăng sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hoá thúc đẩy sản xuất kinh doanh tăng doanh số hàng bán và làm giảm hàng tồn kho.
- Chính sách vĩ mô của nhà nước; Hệ thống pháp luật cũng như chế độ chính sách của Nhà nước tác động đến toàn bộ nền kinh tế nói chung và tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng đặc biệt là tới chiến lược dài hạn của doanh nghiệp.
.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TẠI NHÀ MÁY CƠ KHÍ CHÍNH XÁC 29
2.1. Khái quát về nhà máy cơ khí chính xác 29
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy cơ khí chính xác 29
Nhà máy Cơ khí chính xác 29 thành lập ngày 15/1/1971, có chức năng nhiệm vụ là sản xuất, nghiên cứu chế thử, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20, tình hình của cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta rất quyết liệt. Ở miền Nam, Mỹ đang thực hiện nhiều thủ đoạn nhằm đè bẹp cách mạng và tinh thần đấu tranh của đồng bào ta. Còn ở miền Bắc thì chúng tăng cường đánh phá hết sức ác liệt bằng máy bay các loại, để với mục đích là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến lớn ở miền Nam.
Trước bối cảnh đó, ngày 13/7/1965 Đảng và nhà nước ta đã ký kết với chính phủ Trung quốc về viện trợ và xây dựng cho Việt Nam 08 Nhà máy quốc phòng. Trong đó theo thiết kế Nhà máy Cơ khí chính xác 29 hiện nay là công trình thứ 5, nên lúc đó có tên gọi là công trình 6505.
Cho tới tháng 7/1970 sau khi có gợi ý của cục Quân giới, phía Trung Quốc đồng ý và thống nhất lấy địa điểm Voi đầm thuộc xã Đội Bình - Huyện Yên Sơn Tỉnh Tuyên Quang là nơi xây dựng công trình 6505. Đây là một thung lũng rừng rậm, có đồi núi bao quanh, rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của thời kỳ chiến tranh.
Để triển khai mặt bằng chuẩn bị cho tiếp nhận công trình 6505, ngày 15/1/1971 cục Quân giới đã có quyết định số 81 /QĐ về thành lập Ban chỉ huy công trường 6505 có tên gọi là: V129, trực thuộc Ban kiến thiết cơ bản - Cục Quân Giới. Lực lượng và biên chế ban đầu của Công trường chỉ có 3 trung đội và 40 học sinh lao động phổ thông chuyển từ Z113 sang, sau đó từng bước được tiếp nhận thêm nhiều cán bộ chủ chốt từ Z113 và các nơi khác chuyển về
Trong giai đoạn đầu của nhà máy, tức là thời kỳ 1971 đến 1977, nhiệm vụ đầu tiên của công trường V129 là phối hợp với chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức di dời dân đi nơi khác.
Giải quyết xong việc di dân và ổn định chỗ ở, công trường đã tiến hành mở đường giao thông ra với quốc lộ 2, đồng thời cho phát quang 6 quả đồi lớn nhỏ để cắm mốc các khu vực theo thiết kế xây dựng của Trung quốc.
Ngày 11/1/1977 Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật đã có quyết định số 07 về chuyển công trường V129 – nguyên trực thuộc Ban chỉ đạo kiến thiết cơ bản thành Nhà máy Z129 trực thuộc Tổng cục kỹ thuật, với nhiệm vụ trước mắt là Tiếp tục hoàn thành xây dựng cơ bản, lắp đặt hoàn thiện các máy móc thiết bị, mặt bằng sản xuất để đưa vào chế thử và sản xuất theo dây chuyền khép kín, đảm bảo và phát triển đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Ngày 13/7/1993 nhà máy được chính phủ ra quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước mang tên: Nhà máy cơ khí chính xác 29 và là nhà máy công ích loại I do Tổng cục công nghiệp quốc phòng quản lý.
Nhà máy cơ khí chính xác 29 từ chỗ thiết kế ban đầu chỉ chuyên sản xuất vài ba mặt hàng quân sự thì nay đã chế tạo, sửa chữa, cải tiến nghiên cứu chế thử thành công nhiều loại vũ khí, khí tài, kể cả các loại vũ khí hiện đại trang bị cho quân đội. Hàng kinh tế ban đầu chỉ có một loại là đồng hồ quả lắc thì nay đã có trên 100 loại thuộc nhiều mặt hàng khác nhau có mẫu mã đẹp, chất lượng cao và có uy tín trên thị trường.
Qua 37 năm xây dựng và phát triển Nhà máy cơ khí chính xác 29 được tặng Huân chương chiến công hạng Ba, hạng Nhì, hạng Nhất và Cờ thi đua luân lưu của Tổng cục công nghiệp quốc phòng của Bộ Quốc phòng và Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt năm 2000 Nhà máy được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức (chức năng ,nhiệm vụ, nhân sự của các phòng ban phân xưởng, Ban Giám đốc)
* Cơ cấu tổ chức
Mô hình quản lý theo phương pháp trực tuyến giúp việc cho Giám đốc có các phó Giám đốc và các phòng ban chức năng. Mối quan hệ là cấp trên, cấp dưới, mệnh lệnh và phục tùng. Mối quan hệ giữa các phòng ban với nhau là mối quan hệ phối hợp. Giữa phòng ban với các phân xưởng sản xuất là mối quan hệ phối hợp và truyền đạt những chỉ thị, mệnh lệnh của Giám đốc đến các quản đốc phân xưởng.
Cơ cấu tổ chức gồm:
- Giám đốc
- Phó Giám đốc kỹ thuật
- Phó Giám đốc chính trị
- Phó Giám đốc kinh doanh
- Có 11 phòng ban chức năng
- Có 9 phân xưởng
* Chức năng nhiệm vụ của nhà máy:
+ Thực hiện chức năng quản lý doanh nghiệp quốc phòng và tổ chức điều hành trực tiếp các phòng ban, phân xưởng thực hiện tốt chức năng được giao.
+ Nhà máy Cơ khí chính xác 29 là doanh nghiệp quốc phòng an ninh thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ: Chế thử, sản xuất, sửa chữa cải tiến các mặt hàng quân sự (vũ khí) phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
+ Thực hiện quan điểm của bộ quốc phòng và Tổng cục kết hợp giữa quốc phòng với kinh tế, nhằm khai thác mọi nguồn lực sẵn có của nhà máy, đảm bảo việc làm, tiền lương thu nhập cho người lao động, giữ gìn và phát triển đội ngũ cho trước mắt và lâu dài.
* Chức năng nhiệm vụ của Ban Giám đốc, các phòng ban phân xưởng
Giám đốc:
Giám đốc là người chỉ huy cao nhất của nhà máy, chịu trách nhiệm trước Đảng uỷ, Thủ trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Đảng uỷ nhà máy các mặt công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà máy. Trực tiếp chỉ đạo các mặt công tác, gi ám sát và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy
Phó Giám đốc chính trị:
Phó Giám đốc chính trị phụ trách công tác Đảng, công tác chính trị, cùng tập thể thường vụ , Đảng uỷ xây dựng đội ngũ cán bộ trong nhà máy.
Phó Giám đốc kỹ thuật :
Phó giám đốc kỹ thuật giúp Giám đốc về công tác khoa học, công nghệ tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới.Trực tiếp chỉ đạo phòng Kỹ thuật, phòng Kiểm nghiệm, phòng Cơ điện và chỉ đạo khâu điều độ sản xuất.
Phó Giám đốc kinh doanh
Phó Giám đốc kinh doanh được Giám đốc giao nhiệm vụ giúp Giám đốc về công tác cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng cơ bản. Trực tiếp chỉ đạo phòng tiêu thụ, bộ phận vật tư, kho tàng thuộc phòng kế hoạch.
Phòng kế hoạch
Tham mưu cho Giám đốc về quy hoạch, kế hoạch sản xuất kinh doanh, quản lý cấp phát vật tư và điều độ sản xuất và công tác thị trường, tiêu thụ sản phẩm kinh tế, tìm việc làm cho nhà máy.
Phòng tổ chức lao động:
Tham mưu giúp việc cho Giám đốc về tổ chức lao động - tiền lương, chính sách xã hội, huấn luyện đào tạo
Phòng kế toán – tài chính:
Giúp Giám đốc về công tác tài chính, hạch toán kế toán theo quy định của nhà nước và quân đội đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh
Phòng kỹ thuật :
Giúp Giám đốc về công tác thiết kế, chế thử sản phẩm (cả hàng quân sự và hàng kinh tế)
Lập quy trình sản xuất sản phẩm.Triển khai thực hiện các quy định cấp nhà máy,cấp tổng cục và công tác tiêu chuẩn hoá .Trực tiếp chỉ đạo phân xưởng chế tạo dụng cụ,quản lý cấp phát dụng cụ cho sản xuất.
Phòng cơ điện:
Có nhiệm vụ quản lý máy móc thiết bị,năng lượng hơi nước. Lập kế hoạch sửa chữa,bảo dưỡng máy móc thiết bị. Trực tiếp chỉ đạo phân xưởng cơ điện và quản lý kho cơ điện.
Phòng kiểm nghiệm
Đảm nhiệm toàn bộ công tác chất lượng sản phẩm trong nhà máy, từ khâu nguyên vật liệu đến khi sản phẩm được tiêu thụ.
Phòng chính trị:
Thực hiện chức năng công tác Đảng,công tác chính trị, hoạt động theo điều lệ quy định đối với các tổ chức quần chúng.
Phòng hành chính - Hậu cần:
Giúp Giám đốc nhà máy về việc tổ chức nhà ăn ca, Trực tiếp chỉ đạo nhà khách và đội tuần tra, canh gác bảo vệ tài sản của nhà máy. Duy trì trật tự an ninh trong khu vực nhà máy.
Trường mầm non:
Có nhiệm vụ nuôi dậy các cháu tại nhà trẻ, lớp mẫu giáo theo từng độ tuổi
Ban đầu tư phát triển sản xuất:
Có nhiệm vụ Xây dựng các dự án đầu tư phát triển sản xuất cho nhà máy
Ban an toàn:
Là cơ quan tham mưu và trực tiếp tổ chức quản lý công tác kỹ thuật an toàn ,vệ sinh lao động,phòng chống cháy nổ ,thực hiện công tác bảo hộ lao động trong toàn nhà máy.
Cơ cấu sản xuất:
Dưới cấp nhà máy là các phân xưởng sản xuất. Các đơn vị sản xuất trực thuộc sự quản lý trực tiếp của nhà máy được phân thành 7 phân xưởng sản xuất chính, 2 phân xưởng sản xuất phụ trợ và một phân xưởng mộc xây dựng, mỗi phân xưởng đảm nhiệm một chức năng nhiệm vụ khác nhau .Phân xưởng A1 chịu trách nhiệm về mặt điện nước, sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị, Phân xưởng A2 là phân xưởng chuyên chịu trách nhiệm về phần dụng cụ các khuôn mẫu chế thử, Phân xưởng A3 đến phân xưởng A5 là phân xưởng gia công cơ khí.Phân xưởng A6 là phân xưởng mạ, phân xưởng A7 chịu trách nhiệm tổng lắp, phân xưởng A8 là phân xưởng nhựa chuyên sản xuất các mặt hàng nhựa và hòm hộp bao gói.
2.1.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 năm
Nhà máy cơ khí chính xác 29 được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1971cơ sở hạ tầng cũng như máy móc thiết bị đến nay đã xuống cấp song với sự nỗ lực của Đảng uỷ ban Giám đốc cùng tập thể cán bộ công nhân viên, phát huy thế mạnh đạt được, khắc phục những hạn chế Nhà máy dang vững bước tiến lên trong chặng đường mới.
Qua bảng trên ta thấy:
Doanh thu thuần tăng 5.506.000 nghìn đồng (ng đ ) ở năm 2006 và tăng 17.131.000 ngđ ở năm 2007 tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,48 % và 16,19% trong đó đáng chú ý là tốc độ tăng doanh thu ở năm 2007 lớn, đây là sự cố gắng vượt bậc của nhà máy trong thời gian gần đây khẳng định sự lớn mạnh và trưởng thành về quy mô, nhà máy có chiến lược kinh doanh mới, mở mang được nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm.Trong cơ cấu mặt hàng tạo nên doanh thu của nhà máy, phải kể đến mặt hàng ngành điện như: Đèn cao áp, chiếu sáng, đèn trang trí, thiết bị điện năm 2007doanh thu của nhóm mặt hàng này tăng đột biến do tính năng và chất lượng, mẫu mã liên tục được đổi mới cũng như tính năng sử dụng được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận.
- Cùng với việc tăng doanh thu thuần, các khoản chi phí tạo ra doanh thu cũng tăng lên tương ứng
+ Giá vốn hàng bán tăng 3.999.898 ngđ ở năm 2006 và 12.946.502 ngđ ở năm 2007 tỷ lệ tăng là 4,85% ở năm 2006 và 14,97% năm 2007. Tỷ lệ tăng giá vốn hàng bán nhỏ hơn tỷ lệ tăng doanh thu cho ta thấy việc sử dụng các yếu tố đầu vào và các chi phí sản xuất là hợp lý có hiệu qủa. Nhà máy quan tâm tới các định mức kinh tế kỹ thuật phấn đấu giám chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm, cũng như kiểm soát được giá cả các vật tư đưa vào sản xuất, cắt giảm các khoản chi phí trung gian ...tiến tới mục tiêu hạ giá thành sản phẩm. Kết quả này đánh giá việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà máy chặt chẽ và có hiệu quả.
+ Chi phí quản lý kinh doanh tăng 2.029.840 ngđ năm 2006 và 1.725.000ngđ ở năm 2007 tỷ lệ tăng là 23,18% năm 2006 và 15,99% năm 2007 những nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí quản lý kinh doanh năm 2006 là do nhà máy còn duy trì tỷ lệ lao động quản lý ở mức độ cao gây tăng chi phí tiền lương cho bộ phận quản lý gián tiếp, đến năm 2007 tỷ lệ chí phí này giảm xuống do nhà máy đã bố trí xắp xếp lại số lao động dôi dư chuyển sang các bộ phận khác do
vậy mà áp lực về quỹ tiền lương trong chi phí này được giảm đáng kể. Đây là một bước đột phá trong lĩnh vực quản lý nguồn lực lao động vì mục tiêu thu nhập và lợi nhuận của nhà máy.
+ Chi phí tài chính tăng 516.097ngđ năm 2006 và 693.643 ngđ năm 2007 tương ứng với tỷ lệ tăng là 8% năm 2006 và 9,9% năm 2007 điều này cũng giải thích rằng khi quy mô sản xuất được mở rộng nhu cầu vốn kinh doanh cũng tăng lên. Để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà máy cần sử dụng vốn đi vay có hiệu quả, huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi, đẩy mạnh công tác thu hồi vốn bị chiếm dụng để giảm tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi, đẩy mạnh công tác thu hồi vốn bị chiếm dụng, giảm tối đa số dư nợ các khoản vay tư các tổ chức tín dụng
Kết quả của việc sử dụng các nguồn lực được phản ánh tổng quát ở chỉ tiêu lợi nhuận đạt được. Qua 3 năm cho thấy năm 2006 lợi nhuận giảm 1.030.747 ngđ, năm 2007 tăng lên 1.766.537 ngđ với tỷ lệ giảm là 38,6% và tăng 207,6%. Năm 2006 có sự giảm về lợi nhuận là do cơ cấu doanh thu mặt hàng có tỷ lệ lợi nhuận cao giảm. ( Nhóm mặt hàng có tỷ lệ lợi nhuận cao chủ yếu là sản phẩm quốc phòng, mà doanh thu của mặt hàng này tuỳ theo mức chỉ tiêu phân bổ của ngân sách nhà nước) làm cho lợi nhuận bình quân nhà máy giảm tương ứng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2006 là 1,55%, sang năm 2007 lợi nhuận tăng gấp 2 lần một phần do doanh thu hàng quốc phòng tăng làm tăng lợi nhuận, một phần do sản lượng hàng kinh tế tiêu thụ mạnh, các chi phí trung gjan giảm do vậy mà tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu tăng lên 2,77%
Nhìn vào nguồn vốn kinh doanh của nhà máy cho thấy nếu năm 2005,2006 1 đồng nguồn vốn kinh doanh tạo ra 1,39 đồng doanh thu thì năm 2007 1 đồng nguồn vốn kinh doanh tạo ra 1,48 đồng doanh thu. Như vậy chứng tỏ nhà máy đã có nhiều biện pháp quản lý tài chính tốt, sử dụng tối đa các nguồn vốn để tạo ra doanh thu rút ngắn vòng quay của đồng vốn.Từ những cố gắng đó đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện thu nhập bình quân liên tục được
tăng lên các năm 2006, 2007 tạo ra không khí làm việc hăng say trong toàn thể cán bộ công nhân viên, không ngừng có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại lợi ích cho nhà máy.
Tóm lại trong 3 năm gần đây nhà máy đã không ngừng tăng trưởng về quy mô sản xuất và đạt được những thành tựu đáng kể về chỉ tiêu lợi nhuận, trong thời gian tới nhà máy cần phát huy hơn nữa những gì đạt được phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, không ngừng mở rộng kênh phân phối sản phẩm mới vì mục tiêu phát triển lâu dài của Nhà máy.
2.2 Thực trạng về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Nhà máy
2.2.1.Thực trạng tài sản lưu động của Nhà máy
+ Những thuận lợi và khó khăn của Nhà máy
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh không có một doanh nghiệp nào có thể tồn tại độc lập, tất cả đều nằm trong một tổng thể, trong sự hài hoà của các mối quan hệ xã hội. Đối với mỗi doanh nghiệp để đạt được thành công thì doanh nghiệp phải luôn luôn tận dụng những yếu tố thuận lợi, cũng như tìm cách khắc phục những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh Nhà máy cơ khí chính xác 29 đã có nhiều thuận lợi song gặp không ít khó khăn:
Những thuận lợi:
Về mặt pháp lý, Nhà máy cơ khí chính xác 29 là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân. được mở tài khoản tại ngân hàng, nhờ ngân hàng là trung tâm giao dịch thanh toán thu chi nội, ngoại tệ trong thanh toán với các đối tác. Được Nhà nước và các cơ quan hữu quan giúp đỡ trong việc mở rộng xây dựng trụ sở, cơ sở sản xuất kinh doanh, mở các đại lý văn phòng ở các tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán hàng, mở rộng thị trường.
Nhà máy có tiềm năng về nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ , năng động và yêu công việc.Toàn Nhà máy có 612 cán bộ công nhân viên trong
đó có trình độ đại học và trên đại học là 125 người, trình độ cao đẳng là 45 người, lao động kỹ thuật là 442 người. Đây là lực lượng quan trọng góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Nhà máy.
Tình hình chính trị của đất nước ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, nền kinh tế có bước phát triển nhanh bền vững. Nhà máy có truyền thống đoàn kết, khắc phục khó khăn, luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ chỉ đạo của Thủ trưởng Tổng cục và các cơ quan cấp trên, cùng với sự hợp tác của đơn vị bạn. Năm 2006 nhà máy thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2007 tăng 63% so với năm 2006. Trong đó hàng quốc phòng chiếm 86,22%.
Một nhân tố thuận lợi khác là do Nhà máy được thành lập từ khá lâu nên đã có một thị trường ổn định.Thương hiệu sản phẩm cơ khí chính xác đã trở nên quen thuộc dối với người tiêu dùng. Điều này giúp Nhà máy giảm bớt được áp lực do cạnh tranh mang lại và cũng giảm bớt được chi phí quảng cáo. Vốn lưu động sử dụng vào sản xuất kinh doanh dễ mang lại hiệu quả hơn. Đó là những điều kiện thuận lợi để nhà máy tập trung phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Những khó khăn:
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi kể trên Nhà máy cũng gặp không ít những khó khăn như:
- Là Nhà máy cơ khí, nhiệm vụ quốc phòng được giao nhiều chủng loại (14 mặt hàng), ngoài ra còn sản xuất nhiều chi tiết hàng quốc phòng nhỏ lẻ cho các nhà máy bạn, hàng kinh tế chưa có mặt hàng chủ công mũi nhọn, còn phụ thuộc nhiều vào khách hàng.
- Nền kinh tế với xu thế hội nhập đặt ra cho nhà máy nhiều cơ hội cũng như thách thức. Giá cả vật tư luôn biến động, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp, thương hiệu, mẫu mã, chất lượng ngày càng tăng đòi hỏi Nhà máy phải có một bộ máy quản lý giỏi, tâm huyết, có kinh nghiệm thực tế mới
có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng tăng. Đây là một trong những khó khăn và thách thức lớn nhất đối với Nhà máy hiện tại và tương lai.
- Nhận thức về thực hiện nhiệm vụ của một số ít cán bộ công nhân viên còn hạn chế, năng lực quản lý và tổ chức sản xuất của một số bộ phận có mặt chưa theo kịp so với yêu cầu nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và xây dựng đời sống xã hội của Nhà máy.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định và một nguồn tài trợ tương ứng . Một cơ cấu vốn hợp lý, có sự kết hợp giữa nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu chi phí sử dụng vốn, đảm bảo cho việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất.
Qua biểu 2.2 ta th ấy
Nhìn vào cơ cấu tài sản ta thấy tổng tài sản của Nhà máy năm 2007 so với năm 2006 đã tăng 6.515 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 8,6%. Nó đã thể hiện sự mở rộng quy mô vốn kinh doanh của Nhà máy.
Tài sản lưu động của Nhà máy tăng 2.055 triệu đồng so với năm 2006 tương ứng với tỷ lệ tăng là 6 % trong đó chủ yếu là khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền (tăng 3.680 triệu đồng tương ứng tỷ lệ tăng 88,82% ). Tiền và tương đương tiền tăng với tỷ lệ rất lớn so với năm 2006, điều này làm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh.
Hàng tồn kho năm 2007 so với năm 2006 tăng 365,0 triệu đồng, tỷ lệ tăng 3,1% .Như vậy tỷ lệ thành phẩm tồn kho năm 2007 đã tăng lên so với năm 2006 nhưng tỷ lệ này tăng không đáng kể . Cũng cần nói đến rằng trong năm 2007 nhà máy đã mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh , số lượng sản phẩm tiêu thụ nhanh do vậy mà số lượng sản phẩm sản xuất cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên giá trị
hàng tồn kho còn lớn ( Chủ yếu là nhóm hàng đèn chiếu sáng, thiết bị diện) do vậy mà nhà máy xem xét lại việc tiêu thụ sản phẩm của mình đã thực sự hợp lý chưa và tìm kiếm nguyên nhân tại sao lượng thành phẩm tồn kho lại tăng lên so với năm 2006. Từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhất để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy.
Trong năm 2007, Nhà máy cũng đã mở rộng chính sách tín dụng thương mại nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và đã có dấu hiệu tốt các khoản phải thu của khách hàng đã giảm xuống 11,7 % tỷ trọng các khoản phải thu chiếm trong tổng tài sản lưu động. năm 2006 chiếm tỷ trọng 53,7% đến năm 2007 chỉ còn 44,59 % trong tổng tài sản . Điều này cho thấy, Nhà máy đã có những cố gắng rất tích cực trong việc thu hồi công nợ song cũng cần có biện pháp cụ thể để quản lý số vốn bị chiếm dụng này một cách hiệu quả hơn nữa.
Về tài sản cố định: Trong năm 2007, tài sản cố định của Nhà máy đã tăng lên 10,6%. Nguyên nhân do doanh nghiệp có đầu tư thêm một số máy móc thiết bị nhằm cải tiến , nâng cao năng xuất cũng như chất lượng sản phẩm đạt hiệu quả. sản xuất cao hơn.: Máy tiện kim loại , máy mài, phương tiện vận tải phục vụ sản xuất.
* Cơ cấu nguồn tài trợ tài sản lưu động của Nhà máy cơ khí chính xác 29
Bất kỳ một loại tài sản lưu động nào hình thành và phát triển cũng được tạo nên bởi m ột nguồn tài trợ nào đó , nguồn tài sản lưu động tài trợ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng nó quyết định đến quy mô của tài sản lưu động ở nhà máy. Trong năm 2007 nguồn vốn chủ yếu hình thành nên tài sản lưu động là nguồn vốn ngắn hạn.
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn tài trợ tài sản lưu động của Nhà máy năm 2007
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: 34.023 triệu đồng
44,73%
A. Nguồn vốn ngẵn hạn: 41.494 triệu đồng
54,55%
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn:
42.038 triệu đồng
55,27%
B. Nguồn vốn dài hạn: 34.567 triệu đồng
1. Nợ dài hạn: 3.415,52 triệu đồng
2. Vốn chủ sở hữu: 31.151,48 triệu đồng
45,45%
Cộng : 76.061 triệu đồng
100%
Cộng: 76.061 triệu đồng
100%
(Trích số liệu từ bảng cân đối kế toán năm 2007)
Qua bảng cơ cấu nguồn tài trợ tài sản lưu động trên ta thấy: Nhà máy cơ khí chính xác 29 đã sử dụng chính sách tài trợ chưa đảm bảo an toàn về mặt tài chính..
Tại thời điểm cuối năm 2007, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là 34.023 triệu đồng chiếm 44,73% Tổng tài sản: Tài sản cố định và đầu tư dài hạn là 42.038 triệu đồng chiếm 55,27% Tổng tài sản. Còn về nguồn vốn: nguồn vốn ngắn hạn 41.494 triệu đồng chiếm 54,55% tổng nguồn vốn: còn vốn dài hạn 34.567 triệu đồng chiếm 45,45 % tổng ngồn vốn. Như vậy ta thấy : 100% tài sản lưu động được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn, tài sản cố định được tài trợ bằng 100% nguồn vốn dài hạn và phần còn lại của vốn ngắn hạn. mà nguyên tắc cân bằng tài chính đòi hỏi tài sản cố định chỉ được tài trợ bởi một phần của nguồn vốn dài hạn; chỉ một phần tài sản lưu động được tài trợ bởi nguồn ngắn hạn. Do đó, chính sách tài trợ của Nhà máy chưa đảm bảo an toàn cao về mặt tài chính.
2.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Nhà máy
* Cơ cấu tài sản lưu động và nguồn hình thành tài sản lưu động của nhà máy
Tài sản lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp. Thông qua quá trình luân chuyển tài sản lưu động, có thể đánh giá kịp thời việc mua sắm, dự trữ sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Mặt khác, tài sản lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh việc sư dụng vật tư có tiết kiệm hay không, thời gian vốn nằm ở khâu sản xuất và khâu lưu thông có hợp lý hay không.
Kết cấu tài sản lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các loại tài sản , các khoản tài sản lưu động chiếm trong tổng tài sản . Phân tích kết cấu tài sản lưu động có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường quản lý tài sản lưu động, giúp doanh nghiệp thấy được tình hình phân bổ và tỷ trọng của mỗi loại vốn trong các giai đoạn luân chuyển, từ đó xác định được trọng điểm quản lý tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua sự thay đổi kết cấu tài sản lưu động trong những thời kỳ khác nhau, ta có thể thấy được những biến đổi về mặt chất lượng trong công tác quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Qua bảng 2.4. ta thấy:
Tổng quy mô tài sản lưu động của Nhà máy tăng từ 34.023 triệu đồng năm 2006 lên 36.078 triệu đồng năm 2007, tương ứng với tỷ lệ tăng là 6,04%. Tài sản lưu động của từng khâu cũng có những biến động:
Tài sản lưu động trong khâu dự trữ giảm tương đối từ 5.286 triệu đồng xuống 4.347 triệu đồng (giảm 939 triệu đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm 17,76%. Tỷ trọng của tài sản lưu động trong khâu này cũng giảm: năm 2006 tỷ trọng là 15,54% năm 2007 tỷ trọng là 12,05%. Nguyên nhân của sự giảm đó hoàn toàn là do dự trữ nguyên vật liệu giảm. Việc giảm dự trữ nguyên vật liệu chưa thể nói là không hợp lý vì đặc thù sản xuất kinh doanh của Nhà máy là không theo mùa vụ nên việc dự trữ quá nhiều cũng không cần thiết. Nếu giảm dự trữ ở mức phù hợp, vừa đáp ứng đủ nhu cầu, vừa giảm lượng vốn bị ứ đọng, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tài sản lưu động ở khâu sản xuất giảm cả về quy mô và tỷ trọng. mặt khác,tỷ trọng tài sản lưu động trong khâu sản xuất rất nhỏ so với tổng giá trị tài sản lưu động năm2006 là 1,58% năm 2007 là 1,06%. Do đó sự biến động tài sản trong khâu sản xuất không ảnh hưởng nhiều đến kết cấu tài sản lưu động.
Tài sản lưu động trong khâu lưu thông: Tỷ trọng tài sản lưu động trong khâu lưu thông chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của Nhà máy.Năm2006 là 82,88 %, năm 2007 là 86,9%. Nguyên nhân là Nhà máy đã cung cấp một lượng tín dụng rất lớn cho khách hàng làm cho các khoản phải thu chiếm tới 51,31% lượng vốn thanh toán . Các khoản phải thu của nhà máy còn chiếm tỷ lệ rất cao, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro không an toàn về mặt tài chính, vốn trong thanh toán bị chiếm dụng lớn , mắt khác nhà máy vẫn còn số dư nợ ở 1 số đơn vị khách hàng còn cao như công ty Thiết bị điện công nghiệp Hà Nội có số dư nợ cuối năm 2007 là 4.500.000 ngđ, công ty cổ phần thuơng mại Nguyên Hưng là 3.569.850 ngđ nhưng đây cũng là những khách hàng truyền thống và tiêu thụ lớn của nhà máy . Nhà máy cần có nhiều biện pháp để giảm số dư nợ xuống mức thấp mà làm sao vẫn giữ được các bạn hàng. Mặt khác, vốn còn nằm trong thành phẩm khá cao, chiếm 23,25% tổng tài sản trong khâu lưu thông.
Qua nghiên cứu khái quát về kết cấu tài sản lưu động, ta thấy tài sản lưu động chủ yếu nằm trong khâu lưu thông (đặc biệt còn tồn đọng ở khoản phải thu của khách hàng) là chưa hợp lý. Tài sản lưu động trong khâu sản xuất và dự trữ sản xuất chiếm tỷ trọng quá nhỏ so với tài sản lưu động trong khâu lưu thông. Chúng ta cần chú ý, Nhà máy cơ khí chính xác 29 là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, sản phẩm của nhà máy có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, liên tục. Nếu ứ đọng vốn quá nhiều ở khâu lưu thông sẽ khiến cho Nhà máy không thể thu hồi vốn lưu động nhanh chóng được, gây cản trở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. đây là một hạn chế lớn của Nhà máy.
* Tình hình quản lý vốn bằng tiền của nhà máy
Tiền là tài sản linh động, dễ dàng chuyển hoá thành các loại tài sản khác, giúp doanh nghiệp có thể tận dụng các cơ hội kinh doanh. Ngược lại, tiền cũng dễ dàng là đối tượng dễ gây ra thất thoát, tham nhũng. Do đó nhà máy cần phải quản lý chặt chẽ vốn bằng tiền. Vốn bằng tiền còn phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp tại thời điểm đó. Ứng với mỗi quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi thường xuyên phải có một quy mô tương ứng để đảm bảo khả năng thanh toán cũng như đảm bảo tình hình tài chính của Nhà máy.
Chúng ta xem xét tình hình quản lý vốn bằng tiền của Nhà máy cơ khí chính xác 29 trong 2 năm qua.
Bảng 2.5 : Tình hình quản lý vốn bằng tiền
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ trọng
( %)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
lệ (%)
1. Tiền mặt
1.022.890
24,69
1.566.000
20,02
543.110
53
2.Tiền gửi ngân hàng
3.120.110
75,31
6.257.000
79,98
3.136.890
100,5
Tổng
4.143.000
100
7.823.000
100
3.680.000
89
( Trích số liệu từ bảng cân đối kế toán năm 2006, 2007)
Qua bảng trên ta thấy, tổng vốn bằng tiền năm 2007 tăng lên 3.680 triệu đồng tương ứng tỷ lệ tăng 88,82%,Cơ cấu tiền mặt và tiền gửi có sự biến động mạnh
Để thấy rõ chất lượng của công tác quản lý vốn bằng tiền, chúng ta nghiên cứu khả năng thanh toán của Nhà máy
Bảng 2.6: Một số chỉ tiêu thanh toán của Nhà máy
Đơn vị tính:Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Tỷ lệ %
1. Tổng tài sản
76.06._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7881.doc