Chương I
lý luận chung về hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
I. Khái niệm hiệu quả kinh doanh và ý nghĩa của nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh:
Ngày nay, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất. Bởi vì ở mỗi một lĩnh vực khác nhau, xem xét trên các góc
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh tại Công ty giầy Cẩm Bình Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ khác nhau thì người ta có những cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề hiệu quả. Như vậy, ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có những khái niệm khác nhau về hiệu quả, mặc dù có sự thống nhất trong quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế,song rất khó tìm thấy sự thống nhất trong quan điểm về hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm vi kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp .
Hiệu quả sản xuất kinh doanh: dưới giác độ của doanh nghiệp thì ta có khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh có bản chất của hiệu quả kinh tế và cũng có bản chất của hiệu quả xã hội.
-Wohe và doring đưa ra hai khái niệm hiệu quả tính bằng đơn vị hiện vật và tính bằng đơn vị giá trị hoàn toàn khác nhau:
“Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hện vật (chiếc,kg…)và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị…)được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật hoặc được gọi là năng suất’’ và “Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về giá trị nếu một giá trị sản lượng có thể đạt được bằng nhiều sự kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau và để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền”. Để hiểu rõ hơn về vấn đề hiệu quả thì chúng ta xem xét các vấn đề hiệu quả ở trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với các lĩnh vực này là 3 phạm trù hiệu quả: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
1.1.1.Hiệu quả kinh tế:
Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả phản ảnh những kết quả kinh tế tổng hợp như là: doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản lượng công nghiệp... nếu ta xét theo từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế là thể hiện trình độ và sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó phản ảnh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào quá trình kinh doanh.
Cũng giống như một số chi tiết khác hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Nói một cách khác, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế phản ánh về mặt định lượng và định tính trong sự phát triển kinh tế.
Nhìn ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp riêng lẻ hiệu quả kinh tế được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ các mặt của cả một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Cụ thể là:
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong suốt qúa trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì chúng ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng các phương pháp định lượng thành các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể và từ đó có thể tính toán so sánh được, lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù cụ thể nó đồng nhất và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu... Ngoài ra nó còn được biểu hiện mức độ phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh. Lúc này thì phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trìu tượng và nó phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu quả kinh doanh thống nhất với hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ và khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau:
- Kết quả tăng, chi phí giảm:
- Kết qủa tăng, chi phí giảm nhưng tốc độ tăng của chi phí giảm nhỏ hơn tốc độ tăng của kết quả.
Nói tóm lại ở tầm vĩ mô hiệu qủa kinh doanh phản ánh đồng thời các mặt của quá trình sản xuất kinh doanh như: kết quả kinh doanh, trình độ sản xuất tổ chức sản xuất và quản lý, trình độ sử dụng của yếu tố đầu vào.. đồng thời nó yêu cầu sự phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tếv à là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong thời kỳ. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, đây là mục tiêu cơ bản nhất của doanh nghiệp.
1.1.2. Hiệu qủa chính trị và hiệu quả xã hội:
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu qủa xã hội và hiệu quả chính trị là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển đầu nước một cách toàn diện và bền vững. Đây là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân ... thực tế ở các nước tư bản chủ nghĩa đã cho thấy các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế mà không đặt vấn đề hiệu quả chính trị xã hội đi kèm và dẫn đến tình trạng: thất nghiệp, khủng hoảng có tính chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo quá lớn... Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chính sách cụ thể để đồng thời tăng hiệu quả kinh tế kèm với tăng hiệu quả chính trị xã hội. Tuy nhiên, chúng ta không thể chú trọng một cách thái quá đến hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội
Một bài học rất lớn từ thời kỳ chế độ quan liêu bao cấp để lại đã cho chúng ta thấy rõ được điều đó.
1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Bản chất của hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hôị, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Mục tiêu của doanh nghiệp là để tồn tại trong điều kiện bình thường đòi hỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra thu nhập về hàng hoá dịch vụ , đủ bù đắp chi phí đã chi ra để sản xuất hàng hoá dịch vụ đó .Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiệp là phải đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng .Mục tiêu này đòi hỏi kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ đủ bù đắp chi phí đã chi ra mà còn tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu lực của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và phải loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. Sự phát triển của các yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:
Trong qúa trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt lẫn nhau. Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động một cách có hiệu quả hơn.
Để thấy được ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường trước hết chúng ta phải nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá. Nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào một ý kiến chủ quan nào. Bởi vì thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Ngoài ra thị trường còn có một vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng hoá. Thông qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các qui luật vận động của hàng hoá, giá cả, tiền tệ... Như các qui luật giá trị, qui luật thặng dư, qui luật giá cả, qui luật cạnh tranh... Các qui luật này tạo thành hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là cơ chế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường được hình thành bởi sự tác động tổng hợp trong sản xuất và trong lưu thông hàng hoá trên thị trường. Thông qua các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nó tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành. Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối lại các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu nhất.
Tóm lại, với sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để tạo ra được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định cho mình một phương thức hoạt động riêng, xây dựng các chiến lược, các phương án kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả.
Cụ thể là doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên cả hai thị trường đầu vào và đầu ra để tạo được một kết quả cao nhất và kết quả này phải không ngừng phát triển nâng cao cả về mặt chất và mặt lượng.
Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua:
Thứ nhất: nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra sự tích luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong qúa trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích luỹ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng qui luật phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiệp mục tiêu lúc này không còn là đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo có tích luỹ đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng, phù hợp với qui luật khách quan và một lần nữa nâng cao hiệu quả kinh doanh được nhấn mạnh.
Thứ hai: nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là các doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao...
Thứ ba: việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không
ngừng nâng cao hiêụ quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp
II. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là yêu cầu quan trọng và là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong qúa trình kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Để đạt được hiệu qủa nâng cao đòi hỏi phải có các quyết định chiến lược và quyết sách đúng trong qúa trình lựa chọn các cơ hội hấp dẫn cũng như tổ chức, quản lý và điều khiển hoạt động kinh doanh cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm đó là nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp (nhân tố khách quan) và nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp (nhân tố chủ quan). Mục tiêu của quá trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích lựa chọn các phương án kinh doanh phù hợp. Tuy nhiên việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cần phải được thực hiện liên tục trong suốt qúa trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng khách quan:
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh:
Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nhân tố môi trường kinh doanh bao gồm nhiều nhân tố như là: Đối thủ cạnh tranh, thị trường, cơ cấu ngành, tập quán, mức thu nhập bình quân của dân cư...
* Đối thủ cạnh tranh: Bao gồm các đối thủ cạnh tranh sơ cấp (cùng tiêu thụ các sản phẩm đồng nhất) và các đối thủ cạnh tranh thứ cấp (sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm có khả năng thay thế). Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vì doanh nghiệp lúc này chỉ có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu tăng vòng quay của vốn, yêu cầu doanh nghiệp phải tổ chức lại bộ máy hoạt động phù hợp tối ưu hơn, hiệu quả hơn để tạo cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá cả, chất lượng, chủng loại, mẫu mã... Như vậy đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra sự tiến bộ trong kinh doanh, tạo ra động lực phát triển của doanh nghiệp. Việc xuất hiện càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ càng khó khăn và sẽ bị giảm một cách tươngđối.
* Thị trường: Nhân tố thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Nó là yếu tố quyết định qúa trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Đối với thị trường đầu vào: cung cấp các yếu tố cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... Cho nên nó tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm, tính liên tục và hiệu quả của qúa trình sản xuất. Còn đối với thị trường đầu ra quyết định doanh thu của doanh nghiệp trên cơ sở chấp nhận hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường đầu ra sẽ quyết định tốc độ tiêu thụ, tạo vòng quay vốn nhanh hay chậm từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân dân cư: Đây là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết định mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng... Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và nghiên cứu làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng, mức thu nhập bình quân của tầng lớp dân cư. Những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất cũng như công tác marketing và cuối cùng là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường: Đây chính là tiềm lực vô hình của doanh nghiệp tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, nó tác động rất lớn tới sự thành bại của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sự tác động này là sự tác động phi lượng hoá bởi vì chúng ta không thể tính toán, định lượng được. Một hình ảnh, uy tín tốt về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá, dịch vụ chất lượng sản phẩm, giá cả... là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp mặt khác tạo cho doanh nghiệp một ưu thế lớn trong việc tạo nguồn vốn, hay mối quan hệ với bạn hàng... Với mối quan hệ rộng sẽ tạo cho doanh nghiệp nhiều cơ hội, nhiều đầu mối và từ đó doanh nghiệp lựa chọn những cơ hội, phương án kinh doanh tốt nhất cho mình.
Ngoài ra môi trường kinh doanh còn có các nhân tố khác như hàng hoá thay thế, hàng hoá phụ thuộc doanh nghiệp, môi trường cạnh tranh... nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến nó để có những cách ứng xử với thị trường trong từng doanh nghiệp từng thời điểm cụ thể.
1.2. Nhân tố môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố như thời tiết, khí hậu, mùa vụ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý...
* Nhân tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ: các nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến qui trình công nghệ, tiến độ thực hiện kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng mang tính chất mùa vụ như nông, lâm, thủy sản, đồ may mặc, giày dép... Với những điều kiện thời tiết, khí hậu và mùa vụ nhất định thì doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện đó. Và như vậy khi các yếu tố này không ổn định sẽ làm cho chính sách hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định và chính là nhân tố đầu tiên làm mất ổn định hoạt động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: Nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên thiên nhiên, với trữ lượng lớn và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất nằm trong khu vực này mà có nhu cầu đến loại tài nguyên, nguyên vật liệu này cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nhân tố vị trí địa lý: Đây là nhân tố không chỉ tác động đến công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tác động đến các mặt khác trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Giao dịch, vận chuyển, sản xuất... các nhân tố này tác động đến hiệu quả kinh doanh thông qua sự tác động lên các chi phí tương ứng.
1.3. Môi trường chính trị - pháp luật:
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị - pháp luật chi phối mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi của môi trường chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho một nhóm doanh nghiệp này nhưng lại kìm hãm sự phát triển nhóm doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này nó tác động trực tiép đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì môi trường pháp luật ảnh hưởng đến mặt hàng sản xuất, ngành nghề, phương thức kinh doanh ... của doanh nghiệp. Không những thế nó còn tác động đến chi phí của doanh nghiệp cũng như là chi phí lưu thông, chi phí vận chuyển, mức độ về thuế... đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn bị ảnh hưởng bởi chính sách thương mại quốc tế, hạn ngạch do nhà nước giao cho, luật bảo hộ cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Tóm lại môi trường chính trị - luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách tác động đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua hệ thống công cụ luật pháp, cộng cụ vĩ mô...
*Môi trường văn hoá -xã hội.
-Điều kiện xã hội ,tình trạng việc làm,trình độ giáo dục,phong cách lối sống, tôn giáo, những đặc điểm truyền thống,tâm lý, xã hội…Mọi yếu tố môi trường văn hoá xã hội đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực hoặc không tích cực. Trình độ văn hoá cao sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao và có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức cần thiết nên có tác động tích cực tới việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại.Phong cách sống công nghiệp tạo thuận lợi cho việc thực hiện kỷ luật lao động, tạo diều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế và ngược lại.
*Môi trường công nghệ.
-Tình hình nghiên cứu và triển khai khoa học kỹ thuật mới, mức đầu tư cho khoa học và công nghệ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển công nghệ của mỗi doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một môi trường công nghệ phát triển cho phép các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc nghiên cứu ứng dụng các công nghệ thích hợp vào sản xuất kinh doanh. ở nước ta hiện nay môi trường công nghệ còn chưa phát triển các chính sách vĩ mô của nhà nước lại ưu tiên ứng dụng các kỹ thuật hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới hơn là nghiên cứu cơ bản, đây chính là nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp ở nước ta gặp khó khăn trong việc áp dụng các công nghệ sản xuất trong nước, bởi vì họ chỉ có thể nhập các công nghệ tiên tiến, hiện đại của các nước khác, trong rất nhiều trường hợp do thiếu hiểu biết, thiếu trình độ (hoặc do nhiều nguyên nhân khác ) nên công nghệ nhập về đều đã nỗi thời và lạc hậu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
*Môi trường kinh tế.
-Tăng trưởng kinh tế quốc dân, các chính sách kinh tế của chính phủ, lạm phát, biến động tiền tệ, hoạt động sản xuất của các đối thủ cạnh tranh, luôn luôn là các nhân tố tác động trực tiếp tới các quyết định cung cầu của từng doanh nghiệp và từ đó tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến các kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Nhìn chung, các nhân tố về môi trường bên ngoài tạo ra cả cơ hội lẫn nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp . Môi trường kinh doanh tồn tại một cách khách quan gây ra những khó khăn và những điều kiện thuận lợi tác động tới hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Các nhân tố chủ quan:
Các nhân tố chủ quan trong doanh nghiệp chính là thể hiện tiềm lực của một doanh nghiệp. Cơ hội, chiến lược kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn phụ thuộc chặt chẽ vào các yêú tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Tiềm lực của một doanh nghiệp không phải là bất biến có thể phát triển mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi toàn bộ hay bộ phận. Chính vì vậy trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp luôn phải chú ý tới các nhân tố này nhằm nâng cao hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp hơn nữa.
2.1. Nhân tố vốn:
Đây là một nhân tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối, đầu tư có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh.
Yếu tố vốn là yếu tố chủ chốt quyết định đến quy mô của doanh nghiệp và quy mô có cơ hội có thể khai thác. Nó phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp và là sự đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh doanh.
2.2. Nhân tố con người.
Trong kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật sự của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các nguồn lực khai thác mà họ đã có và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ... một cách có hiệu quả để khai thác vượt qua cơ hội. Nhân tố con người được đặt ở vị trí hàng đầu trên cả vốn và tài sản, quyết định sức mạnh của một doanh nghiệp, quyết định sẽ thành công của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.3. Nhân tố trình độ kỹ thuật công nghệ:
Trình độ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho phép doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng hàng hoá, năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Các yếu tố này tác động hầu hết đến các mặt về sản phẩm như: đặc điểm sản phẩm, giá cả sản phẩm, sức cạnh tranh của sản phẩm. Nhờ vậy doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình, tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Ngược lại với trình độ công nghệ thấp thì không những giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn giảm lợi nhuận, kìm hãm sự phát triển. Nói tóm lại, nhân tố trình độ kỹ thuật công nghệ cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận từ đó tăng hiệu quả kinh doanh.
2.4. Nhân tố tổ chức quản lý:
Nhân tố này là sự biểu hiện của trình độ tổ chức sản xuất nó đảm bảo cho tính tối ưu trong tổ chức dây chuyền sản xuất, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức độ tối đa các yếu tố công nghệ sản xuất. Ngoài ra nó còn thể hiện sự phù hợp về cơ cấu bộ máy kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là, nó biểu hiện trình độ phối hợp của các bộ phận trong doanh nghiệp trên cơ sở tương hỗ lẫn nhau dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực đầu vào tối ưu nhất.
Nhân tố này còn cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định về chỉ đạo sản xuất kinh doanh chính xác và kịp thời, tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.5.Nhân tố về vận dụng các đòn bẩy kinh tế:
Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu và bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh.
III. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh
1. Các quan điểm cơ bản trong đánh giá hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp không những có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau mà còn phản ánh trình độ vận dụng các yếu tố đó. Vì vậy trong quá trình đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta phải quán triệt một số quan điểm sau:
-Thứ nhất: phải đảm bảo tính toàn diện và tính bộ phận trong quá trình nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bởi theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự kết hợp hài hoà giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận với hiệu quả kinh doanh toàn doanh nghiệp.
-Thứ hai: phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
-Thứ ba: phải đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị xã hội với nhiệm vụ kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bởi vì đây chính là nhu cầu, điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.
-Thứ tư: đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh phải căn cứ vào hai mặt hiện vật lẫn giá trị của hàng hoá. Mặt hiện vật thể hiện ở số lượng của hàng hoá dịch vụ còn mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của sản phẩm, của kết quả chi phí bỏ ra. Như vậy, việc căn cứ vào kết quả cuối cùng về cả mặt hiện vậ._.t lẫn giá trị trong đánh giá hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp:
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Cũng có thể nói rằng, các doanh nghiệp có đạt được các chỉ tiêu này mới có thể đạt được các chỉ tiêu về kinh tế. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp:
Hệ số sử dụng lao động:
Hệ số sử dụng lao động
=
=
Tổng số lao động được sử dụng
Tổng số lao động hiện có
Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động của doanh nghiệp đã được sử dụng hết chưa, tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực lao động của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lao động trong doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu năng suất lao động:
Năng suất lao động
=
=
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Tổng số lao động trong kỳ
- Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân cho 1 lao động:
=
Chỉ tiêu này cho thấy với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ.
2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:
- Hệ số sử dụng số lượng tài sản cố định:
tổng tài sản cố định được sử dụng
Hệ số sử dụng tài sản cố định =
tổng tài sản hiện có
- Sức sản xuất của vốn cố định:
doanh thu tiêu thụ trong kỳ
Sức sản xuất vốn cố định =
Vốn cố định bình quân trong kỳ
- Sức sinh lời của vốn cố định
lợi nhuận trong kỳ
Sức sinh lời vốn cố định = x 100
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị
công suất thực tế máy móc thiết bị
Hệ số sử dụng công suất =
máy móc thiết bị
công suất thiết kế
2.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Sức sản xuất của vốn lưu động:
doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng đồng vốn lưu động tăng.
- Sức sinh lợi của vốn lưu động:
lợi nhuận trong kỳ
Sức sinh lời vốn lưu động = x 100
Vốn cố định trong kỳ
Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt. Chứng tỏ hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn lưu động.
- Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, có khi là hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Do đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết việc ách tắc, đình trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp. Thông thường người ta sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp.
+ Số vòng quay của vốn lưu động:
doanh thu trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của vốn lưu động bình quân trong kỳ. Chỉ số này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại.
+ Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay:
Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay
365 ngày
=
Số vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết thời gian để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian này càng nhỏ thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại.
+ Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động:
vốn lưu động bình quân trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm của =
Doanh thu tiêu thụ(trừ thuế)
2.4. Nhóm chỉ tiêu dánh giá hiệu quả tổng hợp:
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau và so sánh trong doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả cao hơn hay không.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu:
lợi nhuận trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = x 100
Doanh thu trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu:
lợi nhuận ròng
Tỷ suất lợi nhuậntheo = x 100
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ lợi ích của chủ sở hữu.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất:
lợi nhuận trong kỳ
tỷ suất lợi nhuận theo = x 100
vốn sản xuất vốn kinh doanh bỏ trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng vào các yếu tố vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt điều này chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí:
lợi nhuận trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận = x 100
theo chi phí tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất. Nó cho thấy vói một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận tăng nhanh hơn tốc độ tăng chi phí.
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí sản xuất.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Doanh thu trên một đồng =
Chi phí sản xuất tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất:
doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Doanh thu trên một đồng vốn =
Sản xuất vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Với chỉ tiêu này cho ta thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Công thức xác định các chỉ tiêu trên được hệ thống theo biểu sau đây:
Biểu số 01. Biểu Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
Tên chỉ tiêu
Công thức xác định
1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
Tổng số lao động được sử dụng
Tổng số lao động hiện có
-Hệ số sử dụng lao động
-Năng suất lao động
Doang thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Tổng số lao động trong kỳ
-
2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
x 100
Công suất thực tế máy móc thiết bị
Công suất thiết kế máy móc thiết bị
3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Sức sản xuất vốn lưu động
Doanh thu tiêu thụ SP trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Sức sinh lời vốn lưu động
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động
Doanh thu trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay
365 ngày
Số vòng quay của vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Doanh thu trong kỳ
4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp
x 100
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn
chủ sở hữu
Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
x 100
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn
sản xuất
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn bình quân trong kỳ
Doanh thu trên một đồng
vốn sản xuất
Doanh thu trên một đồng
chi phí sản xuất
x 100
Tỷ suất lợi nhuận theo
chi phí
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng chi phí
Tổng doanh thu
Tổng chi phí
Tổng doanh thu
Vốn kinh doanh
3. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Do yêu cầu của sự phát triển bền vững trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh phải đạt hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt được hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau:
3.1. Tăng thu ngân sách:
Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt... Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân.
3.2. Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động:
Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo tình trạng kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
3.3. Nâng cao đời sống người lao động:
Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội...
Chương II: Tình hình thực hiện vấn đề hiệu quả kinh doanh ở Công ty giày Cẩm Bình hải dương
I.Tổng quan về Công ty cổ phần giày Cẩm Bình Hải Dương.
1- Quá trình hình thành
* Tên đơn vị: Công ty Cổ phần Giầy Cẩm Bình Hải Dương
* Ngày thành lập: 01/03/1988
* Ngày chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần: 30/9/2000
* Địa chỉ: Km7 đường Hải Dương - Hà Nội.
Công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình Hải Dương tiền thân là "xí nghiệp dệt Hải Dương". Được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương thành lập theo quyết định số 16/QĐ-UB ngày 20/04/1998 với cơ sở hạ tầng là trường Đảng cũ của tỉnh được cải tạo và trang bị 50 máy dệt, nhà máy dệt 8-3 Hà Nội có nhiệm vụ chủ yếu là dệt khăn bông xuất khẩu theo hiệp định số 19/5 sang thị trường Đông Âu. Có nhiều biến động do tác động của việc chuyển đổi cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Các nhà máy xí nghiệp nói chung gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển hướng kinh doanh và tìm thị trường tiêu thụ. Trong thực trạng đó xí nghiệp dệt Hải Hưng cũng nằm trong thị trường đó, xí nghiệp mất một thị trường lớn, ảnh hưởng đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dệt.
Với tình hình đó cuối năm 1992 đầu năm 1993 do yêu cầu của công tác quản lý sản xuất của thị trường đặt ra như chất lượng sản phẩm, khối lượng sản phẩm tiêu thu, giá thành, giá bán... và được sự đồng ý của Sở Công nghiệp Nhà nước theo Quyết định 338 của Thủ tướng chính phủ, xí nghiệp đã chuyển đầu tư cải tiến bộ máy quản lý, đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, như máy may công nghiệp chuyển từ mô hình xí nghiệp dệt thành mô hình công ty, với nhiều phân xưởng sản xuất " Công ty dệt may Cẩm Bình Hải Hưng" theo quyết định thành lập số 109/QĐ-UB ngày 30/10/1992 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Hưng. Mặt hàng chủ yếu của công ty là dệt vải bạt phục vụ cho ngành sản xuất Giầy vải xuất khẩu như công ty Giầy Thượng Đình. Công ty Giầy Nhân sinh Hải Phòng và quần áo các loại sang thị trường Châu Âu.
Ngày 13/2/1995 UBND tỉnh Hải Hưng đã ký quyết định số 166/QĐ-UB cho phép công ty đầu tư lắp đặt hai dây chuyền sản xuất giầy thể thao xuất khẩu với phương thức trả chậm tiền máy móc thiết bị và sửa chữa xây dựng lại hệ thống nhà xưởng phù hợp với quy mô sản xuất mới.
Tháng 08/1995 hai dây chuyền sản xuất giầy thể thao đi vào hoạt động tạo việc làm cho 1500 lao động trong và ngoài tỉnh, sản lượng hàng năm đạt từ 100.000 đến 120.000 đôi giầy thể thao xuất khẩu, xuất đi nhiều nước trên thế giới, nhưng thị trường chính vẫn là Châu Âu, đây là mặt hàng chủ đạo của công ty trong thời gian này.
Ngày 06/10/2000 Quyết định của UBND tỉnh và Sở Công nghiệp cho doanh nghiệp cổ phần hoá để tất cả tập thể CBCN trong công ty góp vốn và có trách nhiệm xuất kinh doanh để khỏi lãng phí nguyên vật liệu.
Trong quá trình phát triển đi lên, bằng nỗ lực phấn đấu của toàn bộ CBCN trong công ty, quản lý tốt sản xuất kinh doanh, nắm bắt kịp thời nhu cầu và diễn biến của thị trường, nên sản phẩm của công ty sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Do vậy luôn luôn hoàn thành kế hoạch đạt mức doanh thu lợi nhuận cao, nộp ngân sách nhà nước, tăng tích luỹ, phát triển sản xuất và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín thị trường cạnh tranh và đặc biệt đảm bảo mức thu nhập thoả đáng cho CBCNV của công ty, bên cạnh đó Công ty cổ phần giày Cẩm Bình rất chú trọng tới nguồn nhân lực, Công ty đã xác định lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Hiện nay tổng số lao động của Công ty là 2156 người trong đó có 87% lực lượng lao động trẻ khoẻ, có đủ trình độ tiếp thu những công nghệ sản xuất tiên tiến. Trong những năm gần đây Công ty đã không ngừng nâng cao và cải thiện điều kiện làm việc. Đối với các phòng ban và nghiệp vụ nhân viên được làm việc trong điều kiện khá tốt. Có đầy đủ thiết bị văn phòng, kể cả hệ thống thông tin liên lạc, từng phòng có gắn máy điều hoà nhiệt độ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp được làm việc trong môi trường an toàn có đủ hệ thống chiếu sáng, quạt máy và đủ máy móc chuyên dùng thay thế cho những công việc nặng nhọc. Hiện nay Công ty có 5 dây chuyền sản xuất và 16.225 m2 nhà xưởng.
Về thu nhập của người lao động: đây là một trong những mục tiêu cơ bản hàng đầu của Công ty. Trong những năm gần đây Công ty không ngừng nâng cao và cải tiến đời sống người lao động, lương tháng bình quân năm 1999 là 602.000. đồng, năm 2000 là 610.000 đồng năm 2001 là 595.000 đồng, năm 2002 là 605.000 đồng và năm 2003 là 620.000 đồng.
Như vậy do chú trọng tới việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại và không ngừng phát triển nguồn nhân lực của mình, nên đến nay sản phẩm của Công ty ngày càng được nâng cao, đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại, khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm. Sản phẩm của Công ty đã có mặt ở nhiều nơi trên thị trường thế giới như thị trường EU, úc, Bắc Mỹ...
Tài sản Công ty giày Cẩm Bình:
Với quá trình phát triển như vậy tính đến năm 2003 quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty là:
- Tổng số vốn kinh doanh: 20.198.725.000 đồng
- Vốn vay: 9.269.187.000 đồng
- Vốn tự bổ sung: 11.929.538.000 đồng
2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty:
2.1. Chức năng:
Công ty cổ phần giày Cẩm Bình có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các loại giầy dép xuất khẩu. Phạm vi kinh doanh XNK của Công ty là:
* Xuất khẩu: Các loại giầy dép và mặt hàng Công ty sản xuất ra.
* Nhập khẩu: vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất của Công ty.
Công ty thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập trên cơ sở lấy thu bù chi, khai thác các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của đất nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
2.2. Nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của Công ty được thể hiện:
- Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật pháp.
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Sở công nghiệp giải quyết các vấn đề vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tuân thủ luật pháp nhà nước về quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng liên quan đến sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng đổi mới trang thiết bị tự bù đắp chi phí, tự cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.
- Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả nâng cao các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm do Công ty sản xuất ra. kinh doanh nhằm tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
- Quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và theo kịp sự đổi mới của đất nước.
II.Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Công ty giày Cẩm Bình Hải Dương
1. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Công ty:
Xuất phát từ tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu của thị trường và để phù hợp với sự phát triển của mình, Công ty đã không ngừng nâng cao, hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lý của Công ty được chia làm 3 cấp: Công ty, Xưởng - Phân xưởng sản xuất. Hệ thống lãnh đạo của Công ty bao gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc trong việc tiến hành chỉ đạo quản lý.
- Ban giám đốc gồm:
+ giám đốc
+ Phó giám đốc thường trực
+ Phó giám đốc phụ trách sản xuất
- Hệ thống các phòng ban bao gồm:
+ Phòng hành chính
+ Phòng tổ chức lao động
+ Phòng tài vụ kế toán
+ Phòng kế hoạch -xuất nhập khẩu
+ Phòng cung ứng vật tư
+ Phòng KCS
+ Phòng kỹ thuật
Mô hình tổ chức quản lý của Công ty là mô hình trực tuyến, chức năng. Đứng đầu là giám đốc Công ty sau đó là các phòng ban nghiệp vụ và sau là các đơn vị thành viên trực thuộc.
bộ máy quản lý của công ty cổ phần giầy cẩm bình hải dương có thể khái quát bằng biểu sau:
giám đốc
phó giám đốc phụ trách sản xuất
phó giám đốc kỹ thuật phụ trách an toàn, hành chính
phòng kế hoạch xuất nhập khẩu
ban cơ điện
phòng vật tư
phòng hành chính
phòng kế toán tài vụ
phòng tổ chức lao động
phòng kcs kỹ thuật
px
chặt
px
may i
px
may ii, iii
px
gò thể thao
Hình 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty
- Giám đốc: 03 người (01 giám đốc + 02 phó giám đốc)
Trong đó: Trình độ chuyên môn chính trị:
- Giám đốc: Đại học kinh tế lao động, cao cấp lý luận chính trị
- Phó giám đốc thường trực: Đại học tâm lý quản lý
- Phó giám đốc phụ trách sản xuất: Đại học tại chức cơ khí chế tạo.
- Hội đồng quản trị: 07 người (01 chủ tịch HĐQT +01 phó chủ tịch HĐQT + 05 uỷ viên HĐQT).
Trong đó: Chủ tịch HĐQT trực tiếp làm giám đốc công ty.
Phó chủ tịch HĐQT kiêm trưởng phòng vật tư.
- Ban kiểm soát: 03 người (01 trưởng ban + 02 uỷ viên)
Trưởng ban: Đại học Bách khoa (khoa công nghệ kéo sợi)
- Công ty có: 18 phòng, ban, phân xưởng.
+ Phòng ban: Phòng tổ chức lao động, phòng hành chính, phòng tài vụ, phòng vật tư, phòng kế hoạch - xuất nhập khẩu, phòng KCS, phòng Kỹ thuật, ban bảo vệ, ban cơ điện).
+ Phân xưởng: phân xưởng may I, may II phân xưởng chặt, phân xưởng đế giầy, phân xưởng gò thể thao I, II, phân xưởng chuẩn bị, phân xưởng thêu vi vính.
2.2- Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban.
Thẩm quyền của giám đốc, là người đại diện hợp pháp của công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước về mọi hoạt động kinh doanh của công ty, đồng thời cũng chịut trách nhiệm trước toàn thể cán bộ nhân dân viên của công ty vì các vấn đề đảm bảo quyền lợi của người lao động, giám đốc là người cao nhất trong phạm vi công ty, có toàn quyền quyết định và là người quyết định và là người quyết định cuối cùng các vấn đề quan trọng trong phạm vi công ty.
Thẩm quyền của các phó giám đốc là những người có quyền sau giám đốc thay mặt giám đốc điều hành những mảng do Giám đốc giao phó, uỷ quyền.
Phó giám đốc hành chính: chỉ đạo, kiểm tra các mặt công tác hành chính, tổ chức sử dụng và quản lý lao động một cách có hiệu quả.
Phó giám đốc sản xuất: phụ trách toàn bộ lĩnh vực sản xuất, thay mặt giám đốc điều hành sản xuất công ty, đảm bảo cho quá trình sản xuất thực hiện đúng tiến bộ, cân đối sản xuất nhịp nhàng giữa các phân xưởng.
Phòng Tài vụ: Phụ trách nhiệm thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến tình hình thu chi trong công ty, thực hiện hạch toán kế toán các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, phòng tài vụ có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các chính sách, chế độ tài chính, thể lệ kế toán của nhà nước, phản ánh thường xuyên kịp thời toàn bộ hoạt động kinh tế, tài chính giúp cho giám đốc nắm bắt kịp thời tình hình tài chính của công ty.
Phòng hành chính: thay mặt cho công ty trong việc tham gia các phong trào văn hoá, xã hội, trong hoạt động đối nội cũng như đối ngoại của công ty, có nhiệm vụ chăm lo, phục vụ các điều kiện làm việc cho các phòng ban.
Phòng tổ chức: có nhiệm vụ quản lý toàn bộ hồ sơ nhân sự, bố trí sắp xếp, tuyển chọn công nhân tham mưu cho lãnh đạo về quản lý đào tạo cán bộ, công nhân viên, đồng thì đưa ra các chế độ lương, đơn giá lương cho người lao động.
Phòng vật tư: lập kế hoạch cung ứng vật tư, chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp vật tư kịp thời cho sản xuất.
Phòng kế hoạch, xuất nhập khẩu: Tổng hợp, xây dựng kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đồng thời triển khai kế hoạch, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch đến từng phân xưởng. Các nhân
viên xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm về các thủ tục nhập vật tư về phục vụ sản xuất và xuất hàng khi đến thời hạn giao hàng.
Phòng kỹ thụât - KCS: Xây dựng cải tiến quy trình công nghệ sản xuất, tổng hợp đưa vào thực tiễn các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phụ trách các vấn đề về mặt kỹ thuật sản xuất: Bộ phận KCS có nhiệm vụ kiểm tra, nghiệm thu chất lượng sản phẩm trên từng công đoạn xử lý kịp thời những khiếm khuyết.
Ban cơ điện (cơ khí): Có nhiệm vụ sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị.
2.3. Mô hình tổ chức sản xuất
Xuất phát từ đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất giầy thể thao là quy trình sản xuất phức tạp kiểu liên tục. Việc sản xuất sản phẩm giầy thể thao phải trải qua nhiều công đoạn. Để tổ chức sản xuất hoàn toàn phù hợp với quy trình sản xuất sản phẩm, công ty cổ phần giầy Cẩm Bình Hải Dương đã tổ chức việc sản xuất ở các xưởng sản xuất, mỗi xưởng thực hiện một hoặc hai công đoạn. Và toàn bộ quy trình sản xuất giầy thể thao được thực hiện ở 3 xưởng sản xuất như sau:
Xưởng chặt: Xưởng này được chia làm hai bộ phận:
Bộ phận cán: Gồm 95 người được chia làm 3 tổ, bộ phận này có nhiệm vụ còn một số nguyên liệu cần phải áp dính vào nhau trước khi đem chặt.
Bộ phận chặt: Gồm 150 người được chi làm 3 tổ, bộ phận này có nhiệm vụ nhận nguyên liệu đã cán cho bộ phận cán chuyển sang để chặt thành các chi tiết nhỏ của một đôi giầy.
Xưởng may: Xưởng may có số công nhân nhiều nhất gồm 1.000 người được chia thành 3 phân xưởng nhỏ đó là phân xưởng may I, phân xưởng may II, phân xưởng may III và bộ phận thuê các chi tiết từ xưởng chặt và thêu trang trí theo mẫu giầy sau đó chuyển sang xưởng may. Các phân xưởng may có nhiệm vụ nhận những chi tiết của một đôi giầy do bộ phận thêu chuyển sang cùng với vật liệu phụ khác như chỉ may... từ khơ để may thành các đôi mũ giầy.
Xưởng gò ráp: Gồm 250 người được chia thành hai chuyền, mỗi chuyền có 3 tổ. Xưởng có nhiệm vụ nhận đế và các chất phụ da từ kho, chủ yếu là keo, nhận các đôi mũ giầy từ xưởng may chuyển sang để gò thành các đôi giầy hoàn chỉnh, xưởng này còn có bộ phận chuyên đóng gói giầy và nhập kho thành phẩm được gọi là bộ phận đóng hộp để việc quản lý sản xuất ở từng xưởng được chặt chẽ, Công ty bố trí ở mỗi xưởng một quản đốc, một phó quản đốc, một kế toánvà một thống kê xưởng. Các nhân viên xưởng này có nhiệm vụ theo dõi, giám sát và đôn đốc sản xuất, đảm bảo đúng tiến độ sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như việc quản lý chi phí, tình trang lãng phí các yếu tố sản xuất.
Ngoài các xưởng trực tiếp sản xuất sản phẩm còn có một số bộ phận gián tiếp phục vụ sản xuất như: Bộ phận cơ điện, xưởng cơ khí...
2. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty:
Ngành giầy là ngành công nghiệp nhẹ, sản phẩm của ngành vừa phục vụ cho sản xuất, vừa phục vụ cho tiêu dùng. Đối tượng phục vụ của ngành giầy rất rộng lớn bởi nhu cầu về chủng loại sản phẩm của khách hàng rất đa dạng cho các mục đích khác nhau.
Sản phẩm giầy, là sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của mọi đối tượng khách hàng. Mặt khác sản phẩm giầy phụ thuộc nhiều vào mục đích sử dụng và thời tiết.
Sản phẩm chính của Công ty là giầy dép các loại dùng cho xuất khẩu. Đây là mặt hàng dân dụng phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, mùa vụ, và kiểu dùng thời trang.
Vì vậy đòi hỏi sản phẩm của công ty phải có chất lượng cao, do máy móc công nghệ của Côngty được đầu tư hiện đại, nên kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm ở Công ty đã được thiết kế ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu thị trường và khách hàng.
Sản phẩm giầy thể thao của Công ty có các loại cỡ khác nhau rất đa dạng và phong phú từ giầy cho trẻ em đến người lớn với các loại cỡ khác nhau với màu sắc phong phú như: đỏ, đen, trắng, na vi, vàng ...
Vì thế, trong điều kiện hiện nay sản phẩm của công ty đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng Công ty đã tung ra thị trường những mặt hàng giầy dép chủ yếu sau:
-Giầy thể thao xuất khẩu các loại
- Giầy, dép nữ thời trang cao cấp
- Giầy giả da xuất khẩu các loại
- Dép giả da xuất khẩu các loại
Do có sự cải tiến về công nghệ sản xuất cũng như làm tốt công tác quản lý kỹ thuật nên sản phẩm của Công ty có chất lượng rất tốt. Sản lượng của Công ty ngày càng tăng nhanh, biểu hiện khả năng tiêu thụ sản phẩm lớn.
Đặc điểm sản phẩm của Công ty có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Đặc biệt sản phẩm của Công ty là xuất khẩu, đây là một đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
3. Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công
Quy trình sản xuất giầy thể thao là quy trình phức tạp kiểu chế biến liên tục không bị giãn đoạn về mặt thời gian, Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình Hải Dương sử dụng nguyên vật liệu chính là các loại da (da trắng, da đen, da vàng, da nâu ...) các loại giả da, đế cao su... được nhập từ Hàn Quốc. Ngoài ra còn rất nhiều nguyên liệu phụ và các phụ gia khác như: Tấm trang trí, đệm đế, mút xốp, keo, dung dịch... Một số phải nhập từ Hàn Quốc, còn lại Công ty tìm các nguồn lực trong nước để tiết kiệm chi phí.
. Hiện nay, dây chuyền sản xuất chủ yếu của Công ty đều nhập từ Đài Loan, Hàn Quốc, phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam về kỹ thuật và sử dụng nhân công nhiều.
Đến nay Công ty đã đầu tư 5 dây chuyền sản xuất, công suất 2,5 triệu đôi/năm trong đó gồm 1 dây chuyền sản xuất giầy dép thời trang, 4 dây chuyền sản xuất giầy thể thao, Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ giầy vào form, các dây chuyền có tính tự động hoá. Trong công xưởng công nhân không phải đi lại, hệ thống băng chuyền cung cấp nguyên vật liệu chạy đều khắp nơi. Chính đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất này đảm bảo cho dây chuyền sản xuất cân đối, nhịp nhàng cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất. Nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty giày Cẩm Bình có thể biểu diễn theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 01: Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất giầy thể thao của Công ty
Nguyên liệu
Bồi
Chặt
Thêu
Đế
May
Gò ráp
Đóng hộp
Kho thành
phẩm
Quy trình sản xuất giầy thể thao có thể được hiểu như sau:
Chặt: Nguyên liệu lấy từ kho của Công ty, đó là các loại da, giả da, xốp... được đưa vào các máy chặt theo các cỡ dao khác nhau của từng cỡ giầy thành những chi tiết của một đôi giầy. Có một số nguyên liệu như các loại vải cần phải qua công đoạn bồi (hay còn gọi là cán) để gia công cho áp dính vào nhau sau đó mới đem chặt.
May: Các chi tiết nhỏ được chuyển sang xưởng thêu để thêu chi tiết tùy theo từng mẫu đôi giầy sau đó chuyển sang xưởng may thành các đôi giầy. Việc may do các công nhân xưởng may thực hiện bằng ác máy khấu chuyên dùng cho việc máy giầy thể thao.
Gò: Đế giầy lấy từ kho được kết hợp với các đôi mũ giầy, dùng các chất phụ gia chủ yếu là keo để gò thành các đôi giầy hoàn chỉnh sau cùng các đôi giầy được đóng thành hộp và nhập kho thành phẩm, việc đóng hộp sử dụng các nguyên liệu như giầy nhét, bìa cát tông, băng dính...Công đoạn cuối cùng kiểm nghiệm chất lượng và đóng gói.
4. Đặc điểm về lao động:
Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó Công ty đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo số lượng, chất lượng lao động sẽ mang lại hiệu quả cao vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, hệ số sử dụng lao động, hiệu quả máy móc thiết bị. Do đó trong những năm qua Công ty đã không ngừng chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Điều này ta có thể thấy qua biểu sau:
Biểu 03. Cơ cấu lao động của Công ty
Năm
Tổng số CBCNV
Trình độ đại học (người)
Trình độ trung cấp (người)
Bậc thợ bình quân
Số đào tạo huấn luyện (người)
Số thợ giỏi (người)
1999
1200
14
32
2,1/6
645
64
2000
1420
39
48
2,6/6
1029
75
2001
1655
49
48
2,78/6
1085
88
2002
1694
62
46
2,83/6
1.126
132
2003
1699
80
76
2,9/6
1617
150
Ngày mới chuyển công ty số cán bộ công nhân viên của Công ty chỉ có 650 người, do nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động nên số lượng lao động Công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của Công ty là 1699 người trong đó 87% lực lượng lao động của Công ty là những người trẻ khoẻ, có trình độ văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiên tiến. Lao động trực tiếp của Công ty là 1490 người chiếm 87,7% tổng số lao động. Hầu hết công nhân của Công ty đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn của ngành. Số công nhân có trình độ tay nghề bậc 6/7 là 117 người chiếm 6,9%, trình độ bậc 5/7 là 133 người chiếm 7,8%, trình độ tay nghề 3/7 là 426 người chiếm 25%. Số còn lại là lao động thủ công đã qua lớp đào tạo tay nghề từ 3-6 tháng do Công ty tổ chức. Số lao động gián tiếp là 209 người chiếm 12,3%, tổng số lao động toàn Công ty trong đó 80 người đã tốt nghiệp đại học, 129 người đã tốt nghiệp trung cấp hoặc sơ cấp. Bậc thợ bình quân của Công ty qua các năm ngày càng tăng chứng tỏ chất lượng lao._.hu vực thị trường này sẽ chiếm 55% thị trường xuất khẩu.
+ Thị trường Bắc Mỹ trong đó chú trọng thị trường Canada. Dự định đến năm 2005 chiếm khoảng 32% thị trường xuất khẩu của Công ty.
v. Định hướng phát triển sản phẩm.
Sản phẩm luôn là nhân tố có ảnh hưởng lón dẫn tới chiến thắng trong cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế đặc biệt với sản phẩm giầy, người tiêu dùng luôn đòi hỏi phải có những sản phẩm không chỉ có chất lượng cao mà còn phải có mẫu mã phù hợp với thị hiếu về thời trang của khách hàng. Nắm được điều đó Công ty đã xác định các mục tiêu về chính sách sản phẩm của mình như sau:
- Mặt hàng giầy dép xuất khẩu là mặt hàng chiến lược nó sẽ đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Cải tiến mẫu mã, tăng cường chất lượng là một giải pháp mang tính sống còn để tồn tại và phát triển.
- Trên các thị trường khác nhau, Công ty sẽ tập trung tiêu thụ các mặt hàng khác nhau, có lượng tiêu thụ ổn định và các mặt hàng có nhu cầu lớn nhằm khai thác triệt để tiềm năng của thị trường…
2. Kế hoạch sản xuất năm 2005.
Kế hoạch sản xuất năm 2005 của Công ty được thể hiện ở biểu sau:
Biểu 12:
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
Tổng Doanh thu
- Doanh thu xuất khẩu
Triệu đồng
Triệu đồng
87.614
75.280
Giầy dép các loại:
trong đó xuất khẩu gồm:
- Giầy thể thao
- Giầy vải.
1000 đôi
1000 đôi
1000 đôi
1000 đôi
4.680
4.446
2.875
1.805
( Nguồn: kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2000 của công ty giày Cẩm Bình)
II. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty giầy Cẩm Bình.
Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân tạo nên những thuận lợi, khó khăn và những tồn tại. Từ đó có những biện pháp hạn chế những tồn tại, tháo gỡ khó khăn, khai thác triệt để các thuận lợi. Có thể đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở Công ty giầy Cẩm Bình.
Biện pháp 1: Thành lập bộ phận marketing, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động marketing càng giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động marketing và nghiên cứu thị trường là mục tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới. Hiệu quả của công tác này được nâng cao có nghĩa là Công ty càng mở rộng được nhiều thị trường, sản phẩm tiêu thụ nhiều góp phần năng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu thị trường nên trong giai đoạn hiện nay cũng như những năm sau Công ty giầy Cẩm Bình phải xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể về việc nghiên cứu thị trường.
Thực tế hiện nay, Công ty chưa có một phòng riêng biệt nào đứng ra đảm trách về công tác marketing. Các hoạt động marketing của Công ty chủ yếu do phòng kế hoạch - Xuất nhập khẩu cùng với ban giám đốc xúc tiến và đảm nhiệm. Công tác nghiên cứu thị trường còn manh mún, chưa mang tính chất hệ thống. Chính vì vậy biện pháp thành lập và đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường là vấn đề cấp thiết. Biện pháp này có ý nghĩa quan trọng để tăng cường công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Đối với biện pháp này Công ty phải thực hiện theo các bước sau: Trước tiên là phải thành lập phòng marketing sau đó xây dựng các chiến lược nghiên cứu thị trường:
1.1. Thành lập phòng marketing:
Để công tác nghiên cứu thị trường được tổ chức có hệ thống, có hiệu quả thì Công ty phải thành lập phòng marketing. Ta có thể thiết lập mô hình phòng marketing với sơ đồ như sau:
Sơ đồ 04: Phòng marketing trong tương lai.
Trưởng phòng Marketing
Nhân viên quản lý sản phẩm cũ mới
Nhân viên quản lý N/c marketing
Nhân viên quản lý tiêu thụ
Nhân viên quản lý quảng cáo và kích thích tiêu thụ
Nhân viên quản lý hành chính Marketing
Việc tổ chức phòng marketing theo sơ đồ này có ưu điểm đơn giản về mặt hành chính. Với mỗi mảng của marketing đều có chuyên gia phụ trách, song để hoạt động marketing thực sự mang lại hiệu quả thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa những người phụ trách các mảng khác nhau, đòi hỏi mỗi người phải nắm được nhiệm vụ riêng của mình và nhiệm vụ chung của toàn phòng. Chính vì vậy nhân viên phải là người có trình độ, hiểu biết về nghiên cứu thị trường, có kinh nghiệm. Phòng marketing có nhiệm vụ thu thập và điều tra các thông tin về thị trường, các đối thủ cạnh tranh,...
1.2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường:
Sau khi thành lập phòng Marketing Công ty phải xây dựng một hệ thống nghiên cứu thị trường hoàn chỉnh. Việc xây dựng và thực hiện công việc của hệ thống nghiên cứu này phải do phòng Marketing thực hiện.
- Công ty phải thành lập quỹ cho hoạt động nghiên cứu thị trường đây là công việc đầu tiên rất quan trọng, là nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường.
- Xác định nguồn thông tin mục tiêu xây dựng hệ thống thu thập thông tin đầy đủ về thị trường như các mặt:
+ Môi trường pháp luật các nước, chính sách ưu đãi của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển, các tập quán thông lệ quốc tế, tâm lý và tập quán tiêu dùng ở các quốc gia.
+ Thông tin về các hãng kinh doanh trên thế giới, các mối quan tâm và chiến lược kinh doanh trong những năm tới và các vấn đề khác như tỷ giá, hoạt động của các ngân hàng,...
+ Có đội ngũ cán bộ giỏi làm công tác nghiên cứu, phân tích thị trường. Qua đó các nhân viên thu thập thông tin, phân tích đánh giá các loại nhu cầu sản phẩm, thị hiếu từng khu vực.
Sau khi nghiên cú thị trường, phân tích đánh giá nhu cầu sản phẩm trên thị trường. Công ty áp dụng vào sản xuất thử, bán thử trên thị trường kèm theo các giải pháp trợ giúp như khuyến mại, quảng cáo, xúc tiến bán hàng,... Qua đó Công ty tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu thị trường thông qua khả năng thâm nhập đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng của các loại sản phẩm mới hay của kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Công tác nghiên cứu thị trường giúp cho Công ty quan hệ trực tiếp với các Công ty thương mại trên thế giới hay các đại lý, tránh việc xuất khẩu sang các thị trường qua các nước trung gian như hiện nay Công ty đang áp dụng qua: Đài Loan, Thái Lan,...dần dần tiến tới thành lập mạng lưới phân phối tiêu thụ trên các thị trường, tự do chủ động kinh doanh. Như vậy, sẽ giảm được các chi phí bán hàng, giao dịch từ đó tăng lợi nhuận tăng hiệu quả kinh doanh.
Công ty cần phải thoátt khỏi tình trạng khách hàng chủ động tìm đến nêu giá, nếu Công ty chấp nhận thì sẽ ký mua hàng với hình thức này khách hàng thường ép giá. Công ty nên lập dự toán số đơn hàng mà Công ty có quan hệ lâu dài với các Công ty và khách hàng vãng lai để chủ động sản xuất. Nếu khắc phục được tình trạng này sẽ giúp Công ty ổn định được quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn làm được như vậy Công ty phải tăng cường thiết kế mẫu mã đổi mới công nghệ nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Mặc dù hiện nay đã có quan hệ với nhiều người nhưng mối quan hệ này chưa rông và chặt chẽ. Tương lai muốn mở rộng thị trường, quan hệ chặt chẽ với các đối tác cần phải thực hiện các biện pháp sau:
+ áp dụng mọi biện pháp giữ vững thị trường và khách hàng quan trọng khách hàng lớn, các đầu mối trung chuyển hàng hoá. Nghiên cứu để hình thành nên các cam kết với khách hàng có quan hệ thường xuyên nhằm đảm bảo hai bên phát triển cùng có lợi.
+ Công ty quan tâm đến việc mở rộng thị trường ở các nước có buôn bán với Việt Nam trong đó tập trung vào EU và Bắc Mỹ tuy nhiên phải tránh tình trạng quá lệ thuộc vào một thị trường để tránh được những rủi ro do sự biến động, phụ thuộc vào một thị trường. Ngoài ra, công ty nên nghiên cứu mở rộng sang các nước SNG và Đông Âu đây là những thị trường tiềm năng lớn có nhu cầu nhập hàng hoá giầy dép cao.
+Cần thường xuyên quan hệ với các cơ quan ngoại giao, thương vụ, văn phòng đại diện, các tổ chức làm công tác thương mại và đối ngoại tại Việt Nam và nước ngoài để tìm kiếm khách hàng.
- Tham gia hội chợ triển lãm chuyên ngành, qua đây tiếp xúc với khách hàng tiềm năng và nhu cầu khách hàng. Đồng thời đây là cơ hội để khách hàng hiểu biết hơn nữa về sản phẩm của công ty, từ đó gợi mở nhu cầu, biến nhu cầu thành sức mua thực tế.
- Việc giữ vững và mở rộng thị trường gắn liền với việc thường xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá, xây dựng giá cả cạnh tranh và các điều kiện khác theo yêu cầu và tập quán của khách hàng.
- Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường, phải thể hiện được thông qua các chỉ tiêu phát triển của công ty hiện nay như là: tỷ lệ tăng doanh thu hàng năm phát đạt trên 30% trong đó doanh thu, lợi nhuận từ các hoạt động xuất khẩu chiếm trên 90%, như vậy, để hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường công ty phải đưa ra các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường như:
- Tốc độ tăng doanh thu là bao nhiêu?
- Tốc độ tăng lợi nhuận là bao nhiêu?
- Tỷ trọng các loại thị trường: thị trường trọng điểm, thị trường bổ sung.
- Tỷ lệ lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu so với tổng lợi nhuận và doanh thu của công ty?
Biện pháp 2: Xây dựng chính sách sản phẩm hợp lý.
Xu hướng kinh doanh có hiệu quả nhất đối với các doanh nghiệp là đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất trên cơ sở tập trung chuyên môn hoá một số mặt hàng mũi nhọn. Tập chung chuyên môn hoá cho phép các doanh nghiệp khai thác lợi thế và mặt hàng, giá cả, chất lượng. Đa dạng hoá cho phép doanh nghiệp khai thác giảm rủi ro khi có biến động bất lợi về mặt hàng nào đó. Với chiến lược kinh doanh này doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế Công ty giầy Cẩm Bình chủ yếu tập trung vào sản xuất kinh doanh giầy thể thao và một số giầy dép giả da với mẫu mã đơn điệu (chủ yếu là do khách hàng cung cấp). Trong những năm tới Công ty nên tập chung vào sản xuất nhiều loại mặt hàng đa dạng về kích cỡ, chủng loại phong phú, thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đặc điểm sản phẩm giầy luôn có sự thay đổi mẫu mã. kiểu dáng và chu kỳ vòng đời sản phẩm ngắn, sự thay đổi về mẫu mã lại không cần thay đổi công nghệ nhiều. Công ty nên thường xuyên thay đổi mẫu mã sản phẩm dựa trên cơ sở thay đổi mầu sắc, kiểu dáng. Sự thay đổi này được thực hiện đơn giản chỉ cần sử dụng các loại nguyên vật liệu khác.
Vì vậy, để khai thác hết tiềm năng của các đoạn thị trường, cần xây dựng những chính sách đa dạng hoá sản phẩm một cách khả thi, mở rộng tuyến sản phẩm.
v.Căn cứ xây dựng chính sách sản phẩm:
Để xây dựng được một chính sách sản phẩm hợp lý, trước hết Công ty phải dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, phân tích vòng đời giá cả của sản phẩm, phân tích nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường. Một chính sách sản phẩm được coi là đúng đắn khi nó giúp Công ty sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng, số lượng, mức giá được thị trường chấp nhận, đảm bảo cho Công ty có sự tiêu thụ chắc chắn, có lợi nhuận và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty.
v.Các chính sách thực hiện:
Dựa vào nội lực thực tế của mình trong những giai đoạn nhất định thì cần phải có một chiến lược cụ thể phù hợp với từng giai đoạn. Đối với Công ty giầy Cẩm Bình trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện chiến lược sản phẩm sau:
-Thứ nhất Công ty phải không ngừng thay đổi mầu mã của hàng hoá sao cho phục vụ được các yêu cầu đa dạng của khách hàng. Những mẫu mã mới phải được thiết kế dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường sao cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng ở từng khu vực. Chẳng hạn, khách hàng ở Châu Âu thích những sản phẩm cao cấp dùng đơn giản nhẹ nhàng nhưng lại nhưng lại đòi hỏi nguyên liệu cao cấp và quá trình sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, khách hàng Châu Mỹ thì tiêu dùng các loại sản phẩm từ cao cấp, trung bình, đến rẻ tiền...Để có được nhiều loại mẫu mã phù hợp với từng sở thích Công ty nên phát động các cơ sở sản xuất thiết kế mẫu mới và khuyến khích quyền lợi cho những người thiết kế mẫu mới.
- Thứ hai, Công ty nên tập chung vào những sản phẩm không chỉ đáp ứng được nhu cầu thị trường khu vực mà còn có thể đáp ứng được nhu cầu nhiều cấp khác nhau theo hướng:
+ Những sản phẩm trung bình: dùng nguyên liệu rẻ để sản xuất, những sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp.
+ Những sản phẩm cao cấp: dùng nguyên liệu tốt để sản xuất, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
+Công ty nên chú trọng hơn nữa trong việc sản xuất giầy giả da, giầy nam, giầy trẻ em. Hiện nay Công ty mới chỉ tập chung vào việc sản xuất, xuất khẩu sản phẩm giầy thể thao.
- Thứ ba, chất lượng sản phẩm quyết định uy tín kinh doanh vì vây, Công ty phải chú trọng đến vấn đề chất lượng và coi đây là vấn đề then chốt.
Tóm lại, trong chính sách sản phẩm có rất nhiều vấn đề cần giải quyết như chất lượng sản phẩm, sự cải tiễn mẫu mã,... nếu công ty giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Biện pháp 3: Xây dựng chính sách giá cả hợp lý.
Giá cả sản phẩm không chỉ là phương tiện tính toán mà còn là công cụ bán hàng. Chính vì lý do đó, giá cả là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty.
Hiện nay giá cả của công ty căn cứ vào:
+ Giá thành sản xuất chế biến sản phẩm.
+ Mức thuế nhà nước quy định.
+ Quan hệ cung cầu trên thị trường.
Chính sách giá hiện nay của công ty đang áp dụng đó là áp dụng chung một mức giá cho một loại sản phẩm ở những thị trường khác nhau. Ví dụ như giày thể thao xuất khẩu trực tiếp là 2,3 USD/đôi, dép giả da xuất khẩu trực tiếp là 2,1 USD/đôi, giầy giả da là 3,4 USD/đôi. Với chính sách giá này công ty gặp phải những khó khăn không nhỏ trong việc mở rộng thị trường. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt hơn. Công ty có thể xây dựng một chính sách giá như sau:
Đối với những đoạn thị trường có mức thu nhập bình quân dân cư cao như là thị trường EU, thị trườngBắc Mỹ công ty có thể định một mức giá cao hơn. Còn đối với những đoạn thị trường có mức thu nhập bình quân dân cư thấp như là thị trường nội địa hoặc những thị trường mới thâm nhập thì công ty nên định giá thấp hơn. Việc định giá ở các đoạn thị trường khác nhau như vậy sẽ giúp cho sản phẩm của công ty phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán ở mỗi một đoạn thị trường nhất định. Từ đó sẽ kích thích tiêu thụ mở rộng thị trường. Chính những sản phẩm có mức giá cao sẽ bù đắp chi phí cho những sản phẩm có mức giá thấp hơn, nếu áp dụng chính sách này sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của công ty.
Ngoài ra tuỳ theo sự biến động của các yếu tố mà mức giá được điều chỉnh theo từng thời điểm. Việc xác lập một chính sách giá hợp lý phải gắn với từng giai đoạn, mục tiêu của chiến lược kinh doanh, chu kỳ sống của sản phẩm đối với từng khu vực thị trường, từng đối tượng khách hàng. Ngoài ra chính sách giá cũng không tách rời với chính sách sản phẩm của công ty. Cụ thể là:
- Thứ nhất, một mức giá cao hơn được áp dụng với một thị trường nhất định, khi sản phẩm có vị trí đứng chắc trên thị trường hay sản phẩm có chất lượng cao.
- Thứ hai, một mức giá thấp hơn khi sản phẩm đang ở giai đoạn suy thoái, khi công ty đang có ý định xâm nhập thị trường, theo đuổi mục tiêu doanh số.
- Thứ ba, Công ty nên thực hiện nhiều mức giá đối với các loại sản phẩm khác nhau ở các loại thị trường khác nhau.
Một điều đáng lưu ý là giá cả sản phẩm phải tính đến yếu tố cạnh tranh. Do đó phải phân tích, lựa chọn nghiên cứu kỹ khi đặt giá, tránh bị ép giá thua thiệt trong cạnh tranh.
Biện pháp 4: Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là nhân tố hàng đầu và quan trọng về sự tồn tại và phát triển của Công ty, điều đó thể hiện ở chỗ:
- Chất lượng sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, là nhân tố tạo dựng uy tín, danh tiếng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
- Tăng chất lượng sản phẩm tương đối với tăng năng suất lao động xã hội, nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng tiết kiệm tài nguyên, giảm chi phí sản xuất. Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Chất lượng sản phẩm là công cụ có nghĩa quan trọng trong việc tăng cường và nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình từ chuẩn bị sản xuất đến sản xuất và nhập kho thành phẩm. Vì vậy, trong quá trình sản xuất cần phải thực hiện các biện pháp quán triệt nghiệp vụ để kiểm tra chất lượng sản phẩm, Công ty cần phải thực hiện đầy đủ các bước của công đoạn sản xuất.
a. Toàn bộ nguyên vật liệu sản xuất như cao su, hoá chất, keo...cần được kiểm tra theo các tiêu chuẩn kiểm tra nguyên vật liệu của nhà nước (TCVN ) hoặc tiêu chuẩn ngành.
b. Khi hỗn luyện cao su phải lấy mẫu kiểm tra nhanh về:
- Độ dẻo
- Độ chín sống
- Độ biến mầu của cao su.
c. Với vải đã bồi cần kiểm tra:
- Mức bám dính vải với vải
- Mức bám dính mút với vải.
- Độ thấm keo lên mặt vải.
- Vải tráng keo có đều hay bị loang ố.
d. Kiểm tra các loại keo:
- Keo dùng cho bồi, tráng vải
- Keo dùng cho gò giầy
- Keo dùng dán pho mũi
e. Kiểm tra công nghệ sản xuất
- Các chi tiết của giầy dập ra có đúng mẫu không
- Có đúng mầu sắc và đủ chi tiết trong một đôi không
- Kiểm tra xem nồi lưu hoà có đủ nhiệt độ, áp lực, thời gian lưu hoá.
f. Kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Tất cả các sản phẩm sản xuất ra đều đưa lên băng chuyền lưu hoá song cần phải kiểm tra trước khi đưa vào túi.
Để thực hiện được các yêu cầu đặt ra về chất lượng cần phải có những biện pháp, chính sách, mục tiêu về chất lương, Công ty cần phải:
- Tập trung đầu tư đổi mới cơ sở cũng như công nghệ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng lực sản xuất.
- Xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức việc đào tạo mới và đào tạo nâng cao cho công nhân lao động.
- Tuyển dụng những kỹ sư giỏi về kỹ thuật, hoá chất, cao su và những thợ có kinh nghiệm về ngành giầy.
- Ban hành quy chế nghiêm ngặt trong kỹ thuật sản xuất.
- Ban hành những quy chế khuyến khích người lao động trong việc tăng năng suất lao động cũng như việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Công ty với nhà cung ứng trên nguyên tắc bảo đảm về tiến độ thời gian, chất lương, số lượng.
Biện pháp 5. Tăng cường tạo vốn.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và vốn chuyên dùng khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh. Đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng vốn một cách hợp lý, hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ chính sách quản lý tài chính của nhà nước.
Một thực tế là Công ty hiện nay đang gặp khó khăn về vốn. Vốn góp phần rất quan trọng vào sự thành công hay thất bại và mang lại lợi nhuận cao hay thấp. Hiện nay tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn của Công ty còn cao chiếm trên 36% điều này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty vì vậy Công ty cần phải tăng nhanh nguồn vốn chủ sở hữu của mình lên.
v.Các hình thức tạo vốn.
Do thiếu vốn như vậy, Công ty phải huy động vốn từ mọi nguồn có thể được và có biện pháp để sử dụng có hiệu quả. Công ty có thể sử dụng các hình thức tạo vốn sau:
- Thứ nhất: Công ty có thể huy động bằng nguồn vốn vay trả chậm, các tổ chức, đơn vị kinh tế khác và của các cán bộ công nhân viên trong Công ty.
- Thứ hai: Để sử dụng vốn có hiệu quả, Công ty phải giải quyết tốt các công việc như thu hồi nợ từ các đơn vị khác. Giải phóng hàng tồn kho không dự kiến, chú ý đầu tư chiều sâu, đầu tư vào những hoạt động có khả năng đem lại hiệu quả và thu hồi vốn nhanh.
- Thứ ba: Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động có tác dụng làm giảm nhu cầu về vốn, cho phép làm ra nhiều sản phẩm hơn nữa. Cụ thể:
+ Với một số vốn không tăng có thể tăng được doanh số hoạt động từ đó tạo điều kiện tăng lợi nhuận nếu như doanh nghiệp tăng được tốc độ luân chuyển, xuất phát từ công thức ta có:
Vốn lưu động
x hệ số luân chuyển
Tổng số doanh =
thu thuần bình quân
Như vậy trong điều kiện vốn không đổi, nếu tăng được hệ số luân chuyển sẽ tăng được tổng doanh thu.
Chẳng hạn năm 2003 hệ số luân chuyển là 4,5 ( vòng ) thì tổng doanh thu sẽ = 4,5*20.929,17 = 94.181,27 triệu đồng chứ không chỉ là 85.995 triệu đồng.
+ Với một số vốn lưu dộng ít hơn nếu tăng tốc độ luân chuyển thì sẽ đạt được doanh số như cũ.
Ta thấy nguyên nhân ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển của vốn là các nguyên nhân sau:
- Tình hình thu mua, cung cấp, dự trữ nguyên vập liệu.
- Tiến độ sản xuất.
- Tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
- Tình hình thanh toán công nợ...
Để tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm rút bớt số vốn và thời gian vốn lưu lại ở từng khâu từng giai đoạn trong quá trình kinh doanh. Nếu Công ty thực hiện được các biện pháp này thì sẽ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn góp phần nâng cao hiệu quả của Công ty.
Nói tóm lại với điều kiện hiện nay để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn thì Công ty cần phải có các biện pháp huy động vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn bằng cách giảm các chi phí thu mua, cung cấp nguyên vật liệu kịp thời nhằm giảm thời gian dự trữ nguyên vật liệu, tránh được tình trạng ứ đọng vốn. Điều độ quá trình sản xuất phù hợp với tốc độ tiêu thụ sản phẩm tránh được tình trạng tồn kho không dự kiến, giảm được hiện tượng ứ đọng vốn. Những điều này Công ty có thể thực hiện được trong tầm tay, góp phần quan trọng vào nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Ngoài việc sử dụng vốn có hiệu quả Công ty cần phải biết tiết kiệm chi tiêu chống lãng phí trong chi phí hành chính, tập trung vốn có trọng điểm.
Biện pháp 6: áp dụng các hình thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng lao động.
Con người luôn là yếu tố chung tâm quyết định tới sự thành công hay thất bại của bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Con người tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm .... Chính vì vậy, trong bất kỳ chiến lược phát triển của bất kỳ Công ty nào cũng không thể thiếu con người được.
Công ty giầy Cẩm Bình có rất nhiều những người thợ giỏi, những người quản lý giàu kinh nghiệm và tay nghề cao. Song cùng với thời đại kỹ thuật khoa học công nghệ cao thì dần dần Công ty sẽ phải sử dụng những máy móc thiết bị hiện đại đòi hỏi người công nhân phải có trình độ, hiểu biết để có thể làm chủ và vận hành được các trang thiết bị công nghệ mới.
v.Phương thức tiến hành.
Việc xác định nhu cầu giáo dục đào tạo dựa trên cơ sở kế hoạch nguồn nhân lực để thực hiện các mục tiêu chiến lược của Công ty. Căn cứ vào yêu cầu từng bộ phận cụ thể mà lập ra kế hoạch đào tạo, tập chung nâng cao chất lượng sản phẩm, trang bị kiến thức kỹ thuật phục vụ cho việc áp dụng qui trình máy móc, thiết bị mới đầu tư. Nhu cầu đào tạo của Công ty bắt nguồn từ đòi hỏi về năng lực và trình độ cần đáp ứng để thực hiện nhiệm vụ và tương lai. Do đó, việc xác định nhu cầu đào tạo phải do trực tiếp các phòng ban chức năng tiến hành dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc Công ty qua khảo sát về trình độ hiểu biết năng lực và khả năng đáp ứng của CBCNV dưới hình thức phỏng vấn trực tiếp và các phiếu điều tra cho phép các phòng ban chức năng xác định nhu cầu giáo dục, đáo tạo. Phòng tổ chức tổng hợp các nhu cầu đó đồng thời dựa trên các yêu cầu thực hiện mục tiêu chiến lược để xây dựng kế hoạch đào tạo. Quá trình giáo dục đào tạo và phát triển nhân viên có thể được khái quát theo sơ đồ sau
Sơ đồ 05:
Phỏng vấn khảo sát CBCNV
Nhu cầu cần đào tạo của các phòng ban, PX
Tổng hợp và phân loại nhu cầu cần đào tạo, P.Tổ chức
Phiếu điều tra
Thiết kế qui trình đào tạo cụ thể. Ban lãnh đạo Công ty
Tổ chức các khoá đào tạo.
Phòng tổ chức
XD kế hoach đào tạo
Đánh giá hiệu quả của hoạt động đào tạo
Xây dựng kế hoạch đào tạo nhân sự
v. Các hình thức đào tạo.
Căn cứ vào sơ đồ này và tuỳ theo tình hình thực tế, nhiệm vụ thực tế, nhiệm vụ của Công ty điều chỉnh cho hợp lý. Song để giải quyết tình hình thực tại Công ty cần thực hiện các chính sách đào tạo sau:
- Đào tạo cán bộ chủ chốt của Công ty bằng chương trình ngắn hạn và dài hạn do các trường đại học tổ chức. Cử cán bộ tham gia vào cuộc hội thảo trong và ngoài nước để học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.
- Mời các chuyên gia nước ngoài nói chuyện chuyên đề, giảng dạy về thiết kế mẫu và các sản phẩm trên thị trường thế giới.
- Tổ chức học tập trong nội bộ: về nội qui lao động, tổ chức thi tay nghề cho CBCNV.
- Tổ chức thi tuyển các vị trí cán bộ quản lý, công nhân sản xuất theo đúng qui trình và yêu cầu của công việc.
Nếu đề ra được chiến lược đúng đắn về con người, Công ty sẽ tận dụng được sức lực, trí tuệ của mọi thành viên cùng thực hiện công việc biến các mục tiêu về phát triển, mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty thành hiện thực.
III. Kiến nghị với Nhà nước và các cấp lãnh đạo:
Những năm qua và trong một vài năm tới ngành Da- Giầy có tốc độ tăng trưởng khá cao( từ 30%- 40%). Song hiện nay chưa có qui hoạch của Nhà nước nên việc đầu tư manh mún tràn lan, có tác động không tốt đến hiệu quả chung của ngành, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa khai thác năng lực hiện có( đầu tư song thiếu hoặc không có việc làm) nhiều dự án mới vẫn tiếp tục ra đời, cạnh tranh với nhau, gây thiệt hại cho phía Việt nam và tạo lợi thế cho đối tác nước ngoài. Đề nghị ngành và nhà nước có biện pháp hạn chế đầu tư tràn lan không có hiệu quả.
Là ngành thu hút nhiều lao động đem lại nhiều ngoại tệ cho nhà nước, vốn đầu tư ít nhưng hiệu quả xã hội lớn. Những năm qua Nhà nước đã ban hành một số cơ chế chính sách và giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp đỡ căng thẳng về vốn. Để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn đề nghị nhà nước tiếp tục xem xét để cấp bổ sung vốn lưu động và có cơ chế ưu tiên các doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Để bảo hộ và phát triển sản xuất trong nước, đề nghị nhà nước cần có biện pháp kiên quyết hơn ngăn chặn hàng nhập lậu của Trung Quốc đang tràn vào thị trường nội địa cạnh tranh bất bình đẳng về giá cả (do nhập lậu) với các sản phẩm trong nước.
Để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy trong cơ chế thị trường hiện nay, đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước cần có sự phối hợp chặt chẽ để ban hành một chính sách về thuế hải quan thương mại hoàn chỉnh và đồng bộ sát với thực tế hơn.
Nhà nước cần có chính sách trợ cấp xuất khẩu đối với các đơn vị xuất khẩu nói chung như đơn vị xuất khẩu giầy nói riêng như lập quĩ hỗ trợ xuất khẩu, giảm thuế đến miễn thuế xuất khẩu khuyến khích đầu tư mặt hàng này.
Cần có chính sách ưu tiên về tín dụng đối với các đơn vị kinh doanh xuất khẩu giầy, cụ thể là hạ lãi suất ngân hàng cho những cơ sở này.
Nhà nước nên thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu mặt hàng giầy dép với nhiệm vụ theo dõi sản xuất phát hiện kịp thời khó khăn, thuận lợi để giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất để nhà nước điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp. Hiệp hội chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai thác thị trường hiện có mở rộng thị trường mới.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ ngành giầy trong việc tìm kiếm thị trường mới, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh với các thị trường SNG, Đông Âu để hạn chế rủi ro của sự biến động thị trường và tránh sự phụ thuộc vào một thị trường trọng điểm.
Tóm lại, để nghành giày Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước từ việc tạo ra chính sách về đầu tư, về vốn
đến những chính sách thị trường, hợp tác quốc tế, quản lý ngành…Để kích thích các ngành phát triển sản xuất theo định hướng của nhà nước.
Kết luận
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay của cơ chế thị trường thì mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh đều đang đứng trước khó khăn và thử thách lớn trong việc làm thế nào để tồn tại và phát triển được trước các đối thủ cạnh tranh. Những khó khăn và thử thách này chỉ có thể giải quyết được khi doanh nghiệp chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty giầy Cẩm Bình là một trong những doanh nghiệp được thành lập trong thời gian chuyển tiếp giữa cơ chế kế hoạch hoá tập trung với cơ chế thị trường. Đây là một thời kỳ hết sức khó khăn cho các doanh nghiệp nói chung và Công ty giầy Cẩm Bình nói riêng. Nhưng do nhận thức được vai trò và ý nghĩa quyết định của công tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong việc tồn tại và phát triển của Công ty, cho nên trong thời gian vừa qua Công ty đã không ngừng tìm tòi, phát huy nỗ lực của mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thực tế cho thấy Công ty giầy Cẩm Bình đã đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh hết sức khắc nghiệt này. Điều này chứng tỏ Công ty giầy Cẩm Bình là một trong những doanh nghiệp có độ nhạy bén, linh hoạt cao,hoạt động một cách có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên để đứng vững và phát triển trong tương lai đòi hỏi Công ty phải không ngừng tìm tòi các biện pháp quan tâm một cách thích đáng trong công tác nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Với đề tài: " Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty giầy Cẩm Bình " nhằm mục đích trình bày vai trò và ý nghĩa của công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời phân tích những thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty trong thời gian gần đây. Những tồn tại, thành tích đạt được trên cơ sở phân tích các vấn đề thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty giầy Cẩm Bình đề tài đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên với thời gian và kiến thức, thực tiễn có hạn cho nên trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có đóng góp ý kiến của thầy cô và ban đọc
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS. NGUYễN Thị Hường các thầy cô khoa quản trị kinh doanh cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty đã tận tình hướng dẫn, giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0270.doc