Nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt may Hà Nội

Lời nói đầu Từ khi nền kinh tế thị trường phát triển, các doanh nghiệp nhà nước cũng dần dần hoạt động một cách thụ động chỉ tiêu sản lượng sản xuất và đầu ra của sản phẩm đều do nhà nước trực tiếp chỉ định mà cụ thể là do kế hoạch của các cấp bộ, ngành chủ quản. Cung cách làm việc đó trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh có sự tham gia điều tiết của nhà nước là không còn phù hợp nữa. Trong cơ chế mới này các doanh nghiệp nhà nước cũng như các tư nhân nhất thiết phải hoạt động một cách linh

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt, trực tiếp, tiếp cận thị trường, cải tiến chất lượng mẫu mã và hạ giá thành sản phẩm. Có như vậy mới tạo được uy tín trên thương trường và tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình. Đây là luận điểm hoàn toàn đúng đắn, vừa có cơ sở lý luận và thực tế cho thấy hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nền kinh tế thị trường của mọi doanh nghiệp là một đơn vị sản phẩm hàng hoá với mục đích để bán và kiếm được nhiều lời. Do vậy trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn liền với việc xác định phương án của sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó chúng ta cần phải có một quá trình thử nghiệm, tích luỹ kinh nghiệm thông qua việc sắp xếp sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng cao tay nghề cán bộ CNV nhanh chóng tạo nguồn vốn ngoại tệ cho đất nước nhằm tạo điều kiện du nhập kỹ thuật công nghệ tiên tiến, giải quyết công ăn việc làm góp phần làm ổn định và từng bước nâng cao đời sống cho nhân dân. Công ty Dệt may Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty Dệt may Hà nội, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất đã và đang làm ăn có hiệu quả. Công ty chuyên sản xuất hàng may mặc đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Là một đơn vị hạch toán độc lập trong cơ chế thị trường do sự cạnh tranh nên việc nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, bảo đảm thu bù chi và có lãi là một vấn đề tối quan trọng có thể giúp công ty tiếp cận thị trường và khai thác những lợi thế của mình. Qua đó nới rộng hợp tác quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Công ty còn sản xuất các loại sản phẩm như: các loại sợi đơn, sợi xe có chất lượng cao, các loại vải dệt kim, thành phẩm các loại khăn bạt lều xuất khẩu. Công ty ngày càng được mở rộng cả trong nước và nước ngoài. Với những kiến thức đã học ở trường và những hiểu biết thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại công ty Dệt may Hà nội để thấy được những khó khăn, điểm mạnh, điểm yếu để nâng cao hiệu quả và phát huy, sử dụng các nguồn nhân, tài, nội lực để đưa ngành công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ tay nghề phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy em chọn chuyên đề: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt may Hà nội làm luận văn tốt nghiệp. Do trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên trong bản chuyên đề này không thể không thiếu những sai sót. Vì vậy, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo về chuyên môn để em có thêm những hiểu biết, kinh nghiệm trong việc hoàn thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Dương Chí Thảo cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên Công ty Dệt may Hà nội đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đợt thực tập này. Phần I cơ sở lý luận về hiệu qủa của sản xuất kinh doanh của công ty. I.Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: 1.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 2.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh: Hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài vật lực sẵn có của công ty để tạo ra được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh mà cụ thể là trong quá trình sản xuất, phân phối lưu thông và mới chỉ đáp ứng phần nào yêu cầu tiêu dùng cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đóng góp được tạo ra ở mức độ nào với giá thành như thế nào là vấn đề cần phải xem xét thì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra chất lượng. Mặt khác nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ, vì vậy con người luôn quan tâm tới việc làm sao cho với khả năng hiện có lại làm ra được nhiều sản phẩm. Trong công tác quản lý kinh tế, phạm trù hiệu quả kinh tế luôn phải được đặt ra đúng với tầm quan trọng của nó vì trong một chế độ xã hội, tốc độ phát triển của nền kinh tế, nhịp độ nâng cao về mức sống về vật chất và tinh thần của nhân dân không hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế. Tuy vậy, hiệu quả không phải là vấn đề đã được giải quyết triệt để và được quan niệm một cách thống nhất trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Thật khó mà xác định đánh giá mức độ đạt hiệu quả kinh tế khi bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện cụ thể. Vì vậy hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế là một vấn đề không những về lý luận mà còn rất cần thiết đối với hoạt động thực tiễn sẽ tăng thêm nhận thức về tầm quan trọng cách tính toán, cũng như xác định yêu cầu đối với việc đề cập ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả của lao động xã hội, được xét bằng cách so sánh giữa lực lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do đó thước đo của hiệu quả và sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên các nguồn lực sẵn có. Như vậy, đứng trên góc độ của nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của một doanh nghiệp luôn luôn gắn chặt với hiệu quả kinh tế của xã hội. Mang lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị và phải đảm bảo mang lại hiệu quả cho ngành, cho địa phương và cơ sở. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa đầu vào và đầu ra, giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu lại. Hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế. Về mặt thời gian: Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, trong từng thời kỳ kinh doanh không được là giảm sút hiệu quả kinh tế của các giai đoạn, các thời kỳ và các kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ vì những lợi ích trước mắt mà quên đi những lợi ích lâu dài. Trong thực tế kinh doanh điều này rất dễ xẩy ra khi con người khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lao động. Không thể coi là việc giảm chỉ để tăng thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường tự nhiên, cải tạo đất đai bảo đảm cân bằng hệ sinh thái, đổi mới kỹ thuật, nâng cao trình độ người lao động... cũng không thể coi là hiệu quả được khi xoá bỏ hợp đồng với khách hàng tín nhiệm để chạy theo hợp đồng khác có nhiều lợi nhuận hơn nhưng không ổn định. *Về mục không gian: HĐKD chỉ có thể coi là đạt được một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận phân xưởng tổ lại, hiệu quả và không ảnh hưởng tới hiệu quả chung. Mỗi hiệu quả từ một giải pháp kinh tế, tổ chức kỹ thuật hay hoạt động nào đó trong từng đơn vị nội bộ hoặc toàn đơn vị nếu không làm tổn hại đến hiệu qủa chung thì mới được coi là hiệu quả, mới trở thành mục tiêu phấn đấu về tiêu chuẩn đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Điều đó đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp phải đảm bảo nâng cao hiệu qủa kinh tế cảu cả nước cả địa phương và đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các tỉnh. *Về mặt định lượng: hiệu quả kinh tế phải được thể hiện ở mức tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa các chi phí kinh doanh mà thực chất là hao phí thời gian để tạo ra 1 đơn vị sản phẩm đồng thời khả năng sẽ có làm ra nhiều sản phẩm có ít hơn và tốc độ tăng hao phí xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải tăng hơn mức tăng của tổng sản phẩm xã hội. Tên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả đem lại cho xã hội, hiệu quả cao cho doanh nghiệp, cho cá nhân doanh nghiệp chưa đủ mà còn đòi hỏi mang laị hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả của xã hội (cả về mặt kinh tế lẫn về mặt xã hội) gắn chặt hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả của toàn xã hội là 1 đặc trưng riêng, có thể nói là ưu việt của nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội. *Về định tính: hàng kinh tế phải gắn chặt giữa hiệu quả về chính trị xã hội. Mục tiêu kinh tế phải bị chi phí bởi hiệu quả chính trị và xã hội. Bản thân 2 mặt “chính trị” và “xã hội” có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Bởi vậy vừa tính hiệu quả kinh tế ra khỏi hiệu quả chính trị và xã hội là không đúng đắn, là xa rời bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong trường hợp kinh tế và chính trị là 2 mặt có tính chất quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, mặc dù xét về kinh tế nó chưa hoàn toàn thỏa mãn. Biểu hiện tập chung nhất của hiệu quả là lợi nhuận của doanh nghiệp. Có thể nói mục tiêu số 1 của kinh doanh là lợi nhuận, lợi nhuận chi phối toàn bộ quá trình kinh doanh và không có lợi nhuận thì không có kinh doanh. Để đạt được hiệu quả cao nhất trên cùng một cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư, tiền vốn, lao động cần thiết phải nắm được các nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ xu hướng ảnh hưởng của từng nguyên nhân đến hiệu quả công việc của mình. II.Phương pháp đánh giá hiệu quả hành động sản xuất kinh doanh 1-Quan điểm cơ bản trong việc đánh giá trong việc sản xuất kinh doanh. Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh thường được biểu hiện thành các chỉ tiêu kinh tế dưới sự tác động của các nguyên tố. Do đó khi phân tích kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ta mới phân tích tới quá trình định tính, cần phải lượng hoá các chỉ tiêu là nhân tố ở những trị số xác định. Vì vậy để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách đúng đắn nhằm rút ra những thiếu sót, những hướng đi mới, cần phải có một hệ thống phương pháp đánh giá một cách khoa học để rút ra những kết luận về những hiện tượng và quá trình kinh tế. +Phương pháp chi tiết: Chi tiết các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Các chỉ tiêu biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành bộ phận biểu hiện chi tiết về một khía cạnh nhất định của kết quả kinh doanh. phân tích chi tiết các chỉ tiêu cho phép đánh giá một cách chính xác cụ thể kết quả kinh doanh đạt được. Khi phân tích kết quả sản xuất ta chỉ có chỉ tiêu giá trị sản lượng được chi tiết theo các bộ phận sau: giá trị thành phẩm làm bằng nguyên liệu của doanh nghiệp, giá trị sản phẩm dở dang, giá trị sản phẩm tự chế. Chi tiết thời gian kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Trong sản xuất kinh doanh kết quả đạt được trong từng thời kỳ khác nhau là khác nhau. Thậm chí chi tiết theo thời gian giúp ta đánh giá được nhịp điệu, tốc độ phát triển của kinh doanh qua từng thời kỳ. +Phương pháp so sánh: là đối chiếu, các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lưỡng hoá để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu. Nó cho phép ta tổng hợp được những nét chung, tách ra được những nét riêng của các hiện tượng so sánh. Trên cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay không hiệu quả để tìm ra các giải pháp hợp lý cho từng trường hợp cụ thể, thông qua phương pháp so sánh chúng ta thấy được sự tăng trưởng và phát triển hay là những bước đi thụt lùi đối với một số hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy trong phương pháp này ta phải so sánh mức hiệu quả giưã các năng lực như thế nào. Có nhiều phương pháp so sánh khác nhau nhưng bắt buộc phải xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện so sánh và mục tiêu so sánh. +So sánh các số liệu thực hiện với số liệu hơn trước để đánh giá mức độ biến động so sánh mục tiêu đề ra +So sánh số liệu kỳ này so với số liệu của kỳ trước giúp ta nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của hiện tượng +So sánh số liệu cuả thời gian này so với số liệu cùng kỳ của thời gian trước để thấy được nhịp điệu kinh doanh trong từng khoảng thời gian. +So sánh số liệu của doanh nghiệp mình với số liệu của doanh nghiệp khác tương đương hay doanh nghiệp điển hình hay doanh nghiệp thuộc đối thủ cạnh tranh giúp ta đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay thì việc xem xét hiệu quả kinh tế trong sự so sánh là một điều rất quan trọng ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là cho phép ta tách ra được những nét chung, những nét riêng của các hiện tượng được so sánh trên cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay yếu kém để từ đó tìm ra các giải pháp tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể. III.Hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở phân tích từng phần, sau đó tổng hợp lại và hướng vào mục tiêu chung của hiệu quả là lợi nhuận, trên cơ sở đó rút ra những nhận định đúng đắn về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm những bước sau: -Đánh giá chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp -Đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh -Phân tích hiệu quả tiêu dùng của sản xuất kinh doanh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận 1.Chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể được tính theo cách sau *Hiệu quả sản xuất kinh doanh tính theo dạng hệ số Theo cách tính này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tính bằng cách lấy tổng gía trị đầu ra (kết quả sản xuất kinh doanh) trừ đi toàn bộ chi phí đầu vào) Hqsxkd = Kết quả đầu ra – chi phí đầu vào *Hiệu quả sản xuất kinh doanh tính theo dạng tỷ lệ: Hqsxkd = Với chỉ tiêu này phản ảnh kết quả cuối cùng đạt được trên một đồng chi phí bỏ ra. Như vậy cách tính thứ hai đã khắc phục được nhược điểm của cách tính thứ nhất. Không thể nó còn tạo điều kiện nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách toàn diện hơn, cách tính này cho phép đánh giá hiệu quả toàn bộ chi phí đã chi ra, bao gồm cả chi phí lao động sống, lao động vật hoá để đạt được kết quả cuối cùng là lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh. *Tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Cũng có thể nói rằng doanh nghiệp có đạt được những tiêu chuẩn này mới có thể đạt được các tiêu chuẩn về kinh tế, chính trị xã hội. Hệ thống tiêu chuẩn gồm -Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường phải tuân theo sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo hệ thống pháp luật hiện hành -Phải kết hợp hài hoà giữa 3 loại lợi ích cá nhân, tập thể và Nhà nước. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại tới lợi ích tập thể và lợi ích xã hội -Lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá -Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp (C+M) tính trên một lao động phải thường xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này phản ánh chính xác hiệu quả kinh doanh và hiệu quả lao động, một yếu tố quyết định nhất, loại trừ ảnh hưởng được yếu tố C trong giá trị của hàng hoá. Sử dụng tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu chuẩn hiệu quả của nền sản xuất xã hội là tính thu nhập quốc dân theo đầu người... Tiêu chuẩn thu nhập thuần tuý tính trên một lao động được xác định như sau: TNbq = Trong đó TNbq: Thu nhập thuần tuý bình quân tính /1 lao động (Ci+Vi+Mi) x Qi-CiQi: Giá trị của 1 sản phẩm loại i Qi: Sản lượng sản phẩm hàng hoá loại i Ci: Giá trị tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất 1 loại sản phẩm i Tđ: Sản lượng lao động sử dụng trong kinh doanh +Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh: Năng suất lao động = Chỉ tiêu trên phản ánh sự tác động của các biện pháp biến việc sử dụng số lượng và chất lượng lao động để tăng nhanh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên đơn vị chi phí về lao động. +Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tư liệu, máy móc thiết bị trong sản xuất kinh doanh: Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị = (Tổng giá trị thiết bị) Chỉ tiêu này cho thấy trình độ sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh sự tác động của các biện pháp đến việc sử dụng các yếu tố về kỹ thuật nhất là máy móc thiết bị, trang bị công nghệ. Với chỉ tiêu này sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát được sự tiêu hao vật tư, nguyên liệu của mình, vì nếu như máy móc thiết bị quá cũ thì việc tiêu hao vật tư, nguyên liệu sẽ nhiều hơn đưa đến giá thành sản phẩm sẽ tăng cao. Như vậy nhờ chỉ tiêu trên mà thấy được công suất, hiệu quả hoạt động của máy móc để từ đó có hướng đầu tư tài sản cố định cho thích hợp như các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị trong doanh nghiệp. +Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng đối tượng vật tư, nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh Hiệu suất sử dụng vật tư-NVL = Đây là chỉ tiêu khá quan trọng vì với chỉ tiêu này phản ánh giá trị tổng sản lượng của doanh nghiệp đạt được là bao nhiêu/1 đồng giá trị vật tư, nguyên vật liệu bỏ ra, điều này có ý quyết định đến giá thành sản phẩm. Hiện nay để cạnh tranh được trên thương trường thì một trong những mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là hạ giá thành sản phẩm, muốn vậy phải kiểm soát được chi phí đầu vào nắm được việc tiêu hao nguyên liệu. Vì vậy với chỉ tiêu này sẽ giúp các doanh nghiệp đánh giá được mức tiêu hao nguyên vật liệu như thế nào trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. +Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn -Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất: Hiệu suất đồng vốn sản xuất = Các chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn trên đây mang tính chất chung cho tổng vốn sản xuất bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Nó cho biết một đơn vị vốn bỏ ra sản xuất kinh doanh thì làm ra được mấy đơn vị sản lượng. III.Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh Không ngừng nâng cao hiệu quả không chỉ là một mối quan tâm hàng đầu của bất kể xã hội nào mà còn là mối quan tâm của bất kể ai, khi làm bất cứ việc gì. Đây cũng là vấn đề bao trùm xuyên suốt và thể hiện chất lượng của toàn bộ quá trình quản lý kinh tế. Bởi vì suy cho cùng quản lý kinh tế đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất của mọi quá trình, của mỗi giai đoạn trong kinh doanh. Tất cả những cải tiến, những đổi mới về nội dung, phương pháp, biện pháp quản lý chỉ thực sự mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi nó làm tăng được kết quả kinh doanh và qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh Đối với một doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất lượng, phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hiện nay, yếu tố cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trước hết hoạt động sản xuất kinh doanh của nó phải thực sự có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao thì lợi nhuận thu được càng nhiều, doanh nghiệp càng có điều kiện mở mang và phát triển, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ mới, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Phân tích đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là điều nghiên cứu nội dung kết cấu và các mối quan hệ qua lại giữa các số liệu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng những phương pháp khoa học nhằm thấy được hoạt động chất lượng của các nguồn năng lực sản xuất tiềm năng, trên cơ sở đó tìm ra được những mặt mạnh, mặt yếu để đề ra những biện pháp khắc phục và khai thác một cách có hiệu quả tổng thể các nguồn lực, tài lực, vật lực hiện có của một doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế đang ở giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liệu bao cấp sang cơ chế thị trường nước ta hiện nay, vấn đề hàng đầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế. Đề đạt được hiệu quả kinh tế cao đứng vững và phát triển trên thị trường doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi biến động và kết quả kinh doanh như: Tình hình sản xuất, tiêu thụ, diễn biến thị trường, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng hợp lý lao động, vật tư, tài sản cố định, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; hạ giá thành, tăng lợi nhuận kinh tế. Công tác trên chỉ thực sự tốt khi dựa trên cơ sở phân tích hiệu quả kinh tế. Như vậy nếu không tiến hành phân tích hoạt động kinh tế thì không thể quản lý được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích và đánh giá hiệu quả là công cụ không thể thiếu được, là một giai đoạn của quá trình quản lý là cơ sở để đề ra quyết định đúng đắn của các cấp quản lý. -Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội nói chung của từng doanh nghiệp nói riêng là một yêu cầu cảu quy luật tiết kiệm. -Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh thực sự là việc tổ chức và quản lý sản xuất có hiệu quả và hợp lý giữa các yếu tố sản xuất. Để không ngừng thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, với quy mô ngày càng tăng, việc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Đặc biệt trong sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh tế cho bộ phận sản xuất thực chất là làm tăng hiệu quả sản xuất (tăng khối lượng sản phẩm hàng tiêu thụ, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cán bộ, công nhân viên) tạo ra trên một đơn vị chi phí sản suất (lao động, vật tư, tiền vốn) hay tiết kiệm đủ cho một đơn vị kết quả sản xuất hữu ích. + Về nhân lực + Về máy móc thiết bị + Về nguyên liệu -Nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu cuối cùng của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu để tạo điều kiện đầu vào giảm xuống và việc quản lý các yếu tố trong quá trình sản xuất làm sao cho hạ giá thành sản phẩm và cuối cùng làm tăng kết quả đầu ra là công việc hết sức cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Chỉ có nâng cao được hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp mới tồn tại và có khả năng mở rộng sản xuất. Do đó khi xem xét, đánh giá hiệu quả cần phải đảm bảo đầy đủ những quan điểm cơ bản sau: + Đảm bảo sự thống nhất giưã nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất từ mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước, trước hết thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp vì đó là nhu cầu và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá. + Đảm bảo sự kết hợp hài hoá lợi ích và xã hội; lợi ích tập thể và lợi ích người lao động. Quan điểm này đòi hỏi sự nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ lợi ích trên, trong đó lợi ích của người lao động được xem là động lực trực tiếp: Bởi lẽ người lao động là yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả kinh doanh mang lại phải được thoả mãn cho nhu cầu người lao động, cho tập thể, cho Nhà nước. + Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh: Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá cảu ngành, của địa phương, của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét, đánh giá hiệu quả kinh doanh phải coi trọng tất cả các hoạt động, lĩnh vực của quá trình kinh doanh và xem xét đầy đủ mối quan hệ, tương quan qua lại của các tổ chức. +Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh: Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy mới có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn đảm bảo lòng tin cho người lao động, hạn chế được những rủi ro, tổn thất. +Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán đánh giá hiệu quả một mặt phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã tiêu thụ và giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo giá cả thị trường, mặt khác phải tính đủ chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá đó. Ngoài ra còn đòi hỏi các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn, hợp lý sản lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm khi cần thiết trong quá trình kinh doanh tiếp theo. Phần II Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty dệt may Hà Nội. I.Quá trình hình thành và phát triển của công ty Dệt May Hà Nội: 1.Khái quát về công ty Dệt May Hà Nội. -Tên đầy đủ về doanh nghiệp: Công ty Dệt May Hà Nội -Tên giao dịch: Hanosimex -Tên giám đốc: Phạm Hoàng Ân -Địa chỉ: Số 1 Mai Động-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội -Điện thoại: 8624619- FAX: 844.8622334 -Email: hanosimex ha.ma.vn -Giấy phép thành lập số: 105927, ngày cấp: 2-4-1993 -Vốn pháp định: 128.239.554.910đ -Vốn điều lệ: 161.304.334.701đ -Vốn kinh doanh: 161.304.334.701đ -Số lượng nhân viên: 5200 người -Ngành nghề kinh doanh: +Mặt hàng kinh doanh: sợi, vải dệt kim, vải dệt trơn, vải sản phẩm may. +Xuất khẩu: Sợi vải dệt trơn, sản phẩm may, khăn +Nhập khẩu: Hoá chất-thuốc nhuộm, bông xơ, phụ tùng. -Tài khoản tiền Việt: 710 A00022 Ngân hàng công 2 quận Hai Bà Trưng-Hà Nội. -Tài khoản ngoại tệ: 710 D00022 Ngân hàng ngoại tệ -Doanh thu xuất khẩu 1999: 178.645 triệu đồng. -Đã được cấp chứng chỉ IS0-90002 2.Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty Tiền thân của Công ty Dệt May là Xí nghiệp Dệt May Hà Nội. Ngày 7-4-1978: Tổng công ty nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng unionmatex (CHLB Đức) chính thức ký hợp đồng xây dựng nhà máy Sợi Hà Nội. Tháng 12/1979 khởi công xây dựng nhà máy Tháng 1/1982 công nhân, kỹ sư Việt Nam cùng với các chuyên gia CHLB Đức, Bỉ, Hà Lan, ITalia bắt đầu lắp đặt thiết bị công nghệ và phụ trợ. Tháng 10/1982 những chiếc máy kéo đầu tiên của phân xưởng sợi II (sợi bông) đã bắt đầu hoạt động với một dây truyền công nghệ cao bao gồm 31 máy chải, 11 máy ghép, 10 máy thô, 65 máy sợi con, 10 máy ống, 3500 cột sợi với công suất thiết kế 4000 tấn/năm sản xuất ra các loại sợi bông có chỉ số Nm 54, Mn 40, Nm 41. Phấn khởi trước những thành tích đạt được, cán bộ CNV nhà máy ra sức thi đua hoàn thành một lúc hai nhiệm vụ: vừa tiến hành lắp ráp phân xưởng sợi I (sợi pha), vừa chuẩn bị lao động để phân xưởng sợi pha bước vào hoạt động Tháng 6/1983 phân xưởng sợi pha bắt đầu hoạt động với dây chuyền sản xuất bao gồm 40 máy chải, 20 máy ghép, 118 sợi con, 13 máy ống, 450.000 cọc sợi với công suất thiết kế 4000 tấn/năm, sản xuất ra các loại sợi Fa chỉ số Nm 76, Nm 102. Cùng với hai phân xưởng chính, các phân xưởng động lực và phân xưởng cơ khí cũng đi vào hoạt động phục vụ hỗ trợ cho ba phân xưởng chính. Ngày 21/11/1984 hoàn thành các hạng mục cơ bản và chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lý và điều hành. Tháng 10/1985 nhà máy thành lập thêm phân xưởng sản xuất phụ để tận dụng bông phế bị loại ra trong quá trình sản xuất chính để sản xuất khăn bông với sản lượng 4000 c/năm. Tháng 12/1989 Nhà máy thành lập thêm phân xưởng dệt kim ra đời. Dây chuyền sản xuất bao gồm nhiều loại máy với chất lượng cao, có công suất 190.000 sản phẩm quần áo các loại/năm và 300 tấn vải các loại. Tháng 4/1990 Bộ kinh tế đối ngoại cho phép nhà máy được kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp tên giao dịch đối ngoại là hanoximex. Ngày 30/4/1991 căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất theo quyết định số 138/QĐ, và 139/QĐ đổi tên Nhà máy Sợi Hà Nội thành Xí nghiệp liên hợp sợi-dệt kim Hà Nội. Từ đó các phân xưởng trở thành các nhà máy trực thuộc Xí nghiệp liên hợp. Tháng 6/1993 xây dựng dây chuyền dệt kim số II và tháng 3/1994 đưa vào sử dụng. Ngày 19/5/1993 khánh thành nhà máy Dệt Kim Tháng 10/1993 Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định sát nhập nhà máy sợi (Vinh-Nghệ An)vào Xí nghiệp liên hiệp. Tháng 1/1995 khởi công xây dựng nhà máy thuê Đông Mỹ. Tháng 3/1995 Công ty Dệt Hà Đông cũng chính thức trở thành nhà máy thành viên của Xí nghiệp liên hiệp. Ngày 2/9/1995 khánh thành nhà máy thuê Đông Mỹ. Xí nghiệp liên hiệp đã đưa thêm một nhà máy thành viên vào hoạt động. Để phù hợp với cơ chế quản lí và thuận tiện trong việc giao dịch điều hành. Tháng 6/1995 Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định đổi tên Xí nghiệp liên hiệp sợi-Dệt kim Hà Nội thành Công ty Dệt Hà Nội (tên giao dịch là hanosimex) nay là Công ty Dệt May Hà Nội Như vậy cho đến nay Công ty Dệt May Hà Nội có 8 nhà máy thành viên (trong đó nhà máy Dệt Kim gồm 2 thành viên nhỏ là nhà máy Dệt Nhuộm và nhà máy May Hà Nội) và một tổ dịch vụ và sản xuất xây dựng. Với thiết bị công nghệ hiện đại, đội ngũ công nhân lành nghề, vì vậy sản phẩm của công ty luôn đạt chất lượng cao, được tặng thưởng nhiều huy chương vàng, bạc, và bằng khen tại hội chợ triển lãm kinh tế kỹ thuật hàng năm và được khách hàng đánh giá cao. XSản phẩm của công ty được xuất sang nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, CHLB Đức, Thuỵ Sĩ ... tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt tới 10 tỷ USD. Nhiều năm qua công ty luôn duy trì được sản xuất và tái sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, có uy tín với khách hàng trong nước và nhiều công ty trên thế giới. Công ty luôn mở rộng hình thức kinh doanh mua bán gia công, trao đổi hàng hoá sẵn sàng hợp tác với bạn hàng trong nước và ngoài nước để đầu tư máy móc hiện ddại, tăng sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh nên mở rộng dây chuyền kéo sợi và dệt kim. 3.Chức năng và nhiệm vụ, đặc điểm của công ty. +Công ty Dệt May Hà Nội là một đơn vị lớn của ngành may Việt Nam, được trang bị toàn bộ thiết bị cust ITalia, CHLB Đức, Bỉ, Hàn Quốc, Nhật Bản v.v.. Công ty Dệt May Hà Nội có chức năng chính sau đây: -Công ty chuyên sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các sản phẩm có chất lượng cao như các loại sợi, sản phẩm dệt kim ... -Công ty chuyên nhập các loại bông sơ phụ tùng thiết bị chuyên ngành hoá chất thuốc nhuộm -Bên cạnh đó, công ty có thêm chức năng là thực hiện các hoạt động thương mại, dịch vụ có liên quan đến hoạt động của công ty, trực tiếp tham gia mua bán với các đối tác nước ngoài (nếu có) điều kiện thuận lợi cho phép. +Nhiệm vụ: Trong thời kì bao cấp, công ty sản xuất các loại sợi bông, sợi pha cung cấp cho các đơn vị trong ngành dệt. Do đó, nhiệm vụ chủ yếu cảu công ty là: -Lập kế hoạch sản xuấ._.t kinh doanh theo hướng dẫn của Bộ Công nghiệp nhẹ. -Tiếp nhận nguyên vật liệu theo kế họach được phân phối bằng lệnh của Bộ. -Sản xuất theo kế hoạch đã định trước về số lượng, chủng loại. -Xuất bán cho các đơn vị trong ngành theo kế hoạch của Bộ Từ năm 1989, sau hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ VI chuyển sang cơ chế thị trường, công ty được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, công ty không còn thụ động nhập kế hoạch từ cấp trên mà chủ động tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng sản xuất các sản phẩm mà thị trường yêu cầu và khách hàng đặt mua. Nhờ vào đó có quyền phát huy làm chủ tập thể, sáng tạo trong kinh doanh công ty đã tự vươn lên khẳng định cho mình nhiệm vụ sau: -Tìm hiểu thị trường, xác định các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu. -Tổ chức sản xuất theo nhu cầu đặt hàng của khách hàng. -Phấn đấu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm giảm chi phí sản xuất bằng mọi biện pháp có thể. -Chú trọng mở rộng thị trường hiện có và tạo thị trường mới cung ứng trong nước và nước ngoài. -Chú trọng phát triển mặt hàng xuất khẩu, qua đó mở rộng sản xuất tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty với mặt hàng chủ lực là sản phẩm dệt kim trên cơ sở số lượng, chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế. II.Bộ máy quản lý tổ chức của công ty: 1.Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty: Sơ đồ tổ chức công ty Đệt may Hà Nội. Ban giám đốc Phụ trách sản xuất tiêu thụ Phụ trách Tài chính Phụ trách Chất lượng SP Phụ trách QT đời sống Phòng SX-KD Phòng KT-TC Phòng XNK Cửa hàng TM-DV Phòng Tổ chức LĐ Phòng kỹ thuật đầu tư Xí nghiệp Dịch vụ Trung tâm KCS Phòng y tế Nhà trẻ Phòng bảo vệ Quân sự Nhà máy Sợi I Nhà máy Sợi II Nhà máy Sợi Vinh Nhà máy thêu Đông Mỹ Nhà máy Động lực Nhà máy Dệt nhuộm N/máy dệt Hà Đông Nhà máy Cơ khí Nhà máy may Hà Nội Tổng hợp lại công ty có 11 phòng ban chức năng và 8 nhà máy thành viên, các nhà máy trực thuộc công ty cũng có cơ cấu sản xuất và quản lý riêng nhưng chịu sự lãnh đạo chung của Tổng Giám đốc. -Tổng Giám đốc: có quyền điều hành cao nhất trong công ty chịu trách nhiệm chung về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty; Trực tiếp chỉ đạo các phòng ban, nhà máy. -Phó Giám đốc: có nhiệm vụ giúp Tổng Giám đốc điều hành công ty theo sự ủy quyền của Tổng Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về những công việc của mình thực hiện, thay mặt và điều hành công ty khi Tổng Giám đốc đi vắng. Chức năng nhiệm vụ phòng ban: -Phòng sản xuất kinh doanh: có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn( các chiến lược sản xuất) nhiệm kỳ các hợp đồng với khách hàng trong nước. Tổ chức thực hiện các định mức lao động, chỉ đạo các hệ thống tiêu thụ sản phẩm, nắm chắc giá cả đầu vào cũng nhu đầu ra và những biến động trên thị trường, làm tham mưu cho giám đốc khi đàm phán với bạn hàng, đảm bảo mua bán với giá cả hợp lý, quản lí hàng hoá xuất nhập. -Phòng Xuất nhập khẩu: nghiên cứu thị trường nước ngoài giao dịch với khách hàng nước ngoài. Nhập thiết bị để đáp ứng nhu cầu cuả công ty, xuất bán sản phẩm ra nước ngoài, ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu. -Phòng Kế toán tài chính: quản lý nguồn vốn, quỹ, công ty thực hiện công tác tín dụng, kiểm tra phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phụ trách cân đối thu chi, báo cáo quyết toán. Tính và trả lương cho cán bộ công nhân viên chức, thực hiện thanh quyết toán với khách hàng và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo luật kế toán thống kê và chế độ lương theo quy định của nhà nước. -Phòng Kỹ thuật-đầu tư: lập nên các dự án đầu tư, duyệt các thiết kế mẫu của các khách hàng, duyệt phiếu công nghệ may, đồng thời có nhiệm vụ xây dựng các định mức. Quản lý toàn bộ các định mức kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu kỹ thuật của toàn công ty. -Phòng Tổ chức lao động: tổ chức cán bộ, công tác tiền lương, tiền thưởng của toàn công ty. Tổ chức tuyển dụng, bố trí đào tạo, nâng cao nâng bậc, bồi dưỡng kỷ luật khen thưởng. -Trung tâm KCS: phụ trách về công nghệ dệt kim, công nghệ sợi, chất lượng sản phẩm dệt sợi, may mặc, kiểm tra nguyên liệu đầu vào, thử nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm. -Trung tâm Y tế: kiểm tra khám chữa bệnh cho công nhân viên, khám chữa bệnh nghề nghiệp, điều trị cấp cứu tai nạn lao động xẩy ra. -Trường Mầm non: chăm sóc nuôi dậy giáo dục các trẻ em là con em cán bộ công nhân viên của công ty. -Phòng Bảo vệ quản sự: có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty, bảo vệ an ninh trật tự làm nghĩa vụ quan sự của phòng. III.Dây chuyền kết cấu công nghệ và kết cấu sản xuất. Công ty Dệt May Hà Nội có nhiều loại dây chuyền dùng để sản xuất 3 loại mặt hàng chính: sợi sản phẩm dệt kim, khăn bông. Các dây chuyền này chủ yếu là dây chuyền sản xuất liên tục (bố trí mặt bằng định hướng theo sản phẩm). Hiện nay, tại nhà máy sợi I, sợi Vinh đều có một dây chuyền vừa sản xuất sợi chải kỹ vừa sản xuất sợi chải thô. Tại nhà máy sợi II cũng có dây chuyền sản xuất trên đồng thời có cả dây chuyền sản xuất sợi phế OE và từ những loại sợi chải kĩ và chải thô có thể kết hợp để sản xuất sợi đơn chải thô và sợi đơn chải kĩ (cotton hoặc PEco) và sợi xe. +Dây chuyền sản xuất sợi đơn chải thô (điển hình là sợi Ne 32 Cot CTDK) Sợi phế OE Thành phẩm con Sợi Bông được cotton Bông Bông phế Máy ống Máy sợi con Không lọc Máy ghép Máy Bông Máy xử lý Bông phế Dùng đánh ống Thành phẩm đã xe Sợi Máy ống Đậu Sợi ống Sợi đánh Máy đánh ống Bông cotton Máy xe Máy đậu xe Chập 2,3 Phẩm Thành Thô Sợi Sợi con Máy thô Máy sợi con Máy ống Cứu Ghép Thô Các chải được xé chộn Bông đã Máy ghép Máy chải thô Máy bông Bông cotton (Đã được đánh ống) + Dây chuyền sản xuất sợi xe (điển hình là lợi Ne45/2 (65/35)DK + Dây chuyền sản xuất sợi fế OE +Dây chuyền sản xất sợi Fecô chải thô (sợi NE 45 (83/17) CTDK) Máy bông cotton Máy chải Thô cotton Máy Bông P.E Máy chải Thô Fe Máy ghép Fecô đợt 1 . 2 . 3 Máy ống Máy con Máy thô Máy Dệt kim Xử lý Hoàn tất Cắt May áo dệt kim Bông cotton Bông đã được Xé chộn Sợi FE Sơ đã được Xé trộn Cứu chải Cái Ghép Thành phần Sợi Feco Sợi con Sợi thô Vải mộc Vải thành Phẩm Sợi + Dây chuyền sản xuất sản phẩm Dệt kim Kết cấu sản xuất là việc mô tả mối liên hệ giữa các bộ phận sản xuất về quá trình làm việc theo dòng thời gian sản phẩm liên tục. Kết cấu này có liên quan một phần tới dây chuyền sản xuất và cộng nghệ sản phẩm. Cơ khí Kho nguyên liệu Động lực Sợi I Sợi II Sợi Vinh Dệt kim Dệt Hà Đông May thêu Kho thành phẩm IV.Quy mô và năng lực sản xuất của công ty: 1.Cơ cấu lao động và việc sử dụng lao động của công ty: 1.1-Lao động: Cũng như các công ty dệt may khác, công ty Dệt May Hà Nội, nơi có lực lượng lao động đông đảo và lao động nữ chiếm đa số khoảng 70% là lao động chính của những bộ phận sản xuất trực tiếp. Số lao động trực tiếp tham gia vào sản xuất là khoảng 90%, lao động gián tiếp là khoảng 10%, bao gồm quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật, nhân viên hành chính và nhân viên khác phục vụ sản xuất. Lao động của công ty có thợ bậc bình quân là 4,05 điều naỳ phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Bởi vì công việc của ngành dệt may nói chung và của công ty Dệt May Hà Nội nói riêng có độ phức tạp về kỹ thuật của công việc không cao, phù hợp với những công nhân có tay nghề thấp vì vậy công nhân bậc 3 và bậc 4 chiếm tỉ trọng cao. Bên cạnh đó với tỉ lệ lao động gián tiếp là 8,4%. Cho thấy công ty có bộ máy quản lý gọn nhẹ và phù hợp. Biểu 1: Cơ cấu lao động của công ty năm 1999 Phân loại lao động Phân loại lao động Số lượng (người) Tỉ trọng (%) I.Pân theo giới tính 5218 100% 1.Lao động nam 1249 23,9 2.Lao động nữ 3969 76,1 II.Phân theo chức năng 5218 100% 1.Lao động gián tiếp 438 8,4 2.Lao động trực tiếp 4780 91,6 III.Phân theo trình độ 5218 100% 1.Đại học 688 13,2 2.Trung cấp, cao đẳng 170 3,2 3.Công nhân 4360 83,6 -Bậc 2 90 2,1 -Bậc 3 1350 3,1 -Bậc 4 1654 37,9 -Bậc 5 855 19,6 -Bậc 6 345 7,9 -Bậc 7 66 1,5 1.2.Tình hình máy móc thiết bị sản xuất tại công ty: Tình hình chung về máy móc thiết bị ngành dệt nước ta là có giá trị lớn, dây chuyền công nghệ dài và phức tạp nên mức độ đổi mới công nghệ chậm. Công ty Dệt May Nội cũng ở tình trạng đó: Chủng loại máy móc thiết bị công ty rất lớn tại mỗi nhà máy, vấn đề sử dụng khác nhau tuỳ thuộc vào kế hoạch sản xuất để huy động. Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau thì vấn đề sử dụng thiết bị cũng khác nhau. Trong dây chuyền sản xuất mỗi loại sản phẩm có mỗi loại sẽ có một số công đoạn chính, khi tính năng lực sản xuất phải cân đối giữa các công đoạn. Các máy móc mà công ty đang dùng có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau và được trang bị tại các nhà máy như sau: -Tại nhà máy sợi Vinh: các thiết bị hoàn toàn là do Đức sản xuất vào đầu những năm 1970 và một số đã khấu hao hết. -Tại nhà máy sợi I và 2: hầu hết các máy được sử dụng từ những năm 1980, nhà máy sử dụng được 90% công suất máy. Biểu 2: Máy móc thiết bị tại nhà máy sợi I và II. TT MMTS SL N/M Sợi I SL N/M Sợi II Tổng Số máy Công Suất Năm sử Dụng Nước Sản xuất 1 Dây bông 2 2 4 90% 1965 Đức 2 Máy chải 24 24 48 90% 1972 Đức 3 Máy ghép 26 16 42 90% 1976 Đức+Italia 4 Máy thô 12 8 20 90% 1972 Đức 5 Máy Sticon 111 65 176 90% 1982 Đức 6 Máy ống 16 10 26 90% 1982 Đức 7 Máy đậu 2 1 3 90% 1982 Tr.Quốc 8 Máy xe 9 10 19 90% 1976 Tr.Quốc 9 ẩng xếp 2 2 90% 1989 Tr.Quốc 10 Máy cuộn mới 2 1 3 90% 1982 Đức+Italia 11 Máy chải kỹ 13 13 90% 1989 Đức+ý+Nhật Tổng số 217 140 357 Biểu 3: Máy móc thiết bị nhà máy dệt nhuôm và nhà máy may TT Máy móc thiết bị Năm sử dụng Số lượng Nước sản xuất 1 Máy cắt 1980 815 Tiệp Khắc,Ba Lan,Trung Quốc 2 Máy may 1990 800 Nhật Bản(Juki,Yamato) 3 Máy thêu 1990 820 Nhật Bản 4 Máy sử lí 1989 20 Hàn Quốc 5 Máy dệt 1982 32 Nhật Bản Tổng số máy 2775 Các máy phục vụ cho công đoạn cắt đều có thời gian sử dụng khá lâu, chủ yếu khi mua đã là máy cũ, ngoài ra các máy cắt lúc không đồng bộ, được sản xuất từ nhiều nước khác nhau, điều này có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. So với các loại máy cắt thì máy may, máy thêu mới hơn rất nhiều và được trang bị khá đồng bộ: chủ yếu là của hãng Juki, Yamato ... Đặc biệt có hai máy thêu tự động với nhiều giá thuê mới được trang bị là một trong những thế hệ máy mới hiện đại nhất thế giới. Tại nhà máy may: các máy móc trang bị tương đối mới chủ yếu từ năm 1990 và 1992. Hiện tình hình thiết bị sản xuất khăn bông là ít khả quan nhất. Sản xuất khăn bông chỉ diễn ra tại nhà máy dệt Hà Đông với những máy móc thiết bị đã khá lạc hậu và xuống cấp. Chúng chủ yếu là do Tiếp Khắc (cũ) sản xuất vào những năm 1970. Do đó năng lực sản xuất sản phẩm khăn bông thấp, đồng thời chất lượng sản phẩm cũng không được đảm bảo. So với toàn ngành, thiết bị của công ty được coi là trung bình tiên tiến và mức độ tự động hoá là 30%, và cơ khí hoá là 70% cho nền hoạt động sản xuất của công ty so với quy định chung là chưa cao. 1.3-Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty. Vốn là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức. Nếu doanh nghiệp có nhiều vốn sẽ chủ động hơn việc thu hút vốn đầu tư từ ngân sách, từ vay ngân hàng, tự bổ xung vốn từ hoạt động của công ty luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp. Công ty Dệt May Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có số lượng vốn tương đối lớn do công ty có 8 nhà máy thành viên và một tổ hợp dịch vụ sản xuất. Bảng 4: Cơ cấu vốn của công ty Dệt May Hà Nội. Đơn vị : đồng Năm Vốn 1997 1998 1999 ± % ± % ± % Tổng số vốn 160.273 100 161.373 100 161.974 100 Vốn lưu động 59.514 37,13 51.525 31,9 61.234,4 37,8 Vốn cố định 100.759 62,87 109.848 68,1 100.739,6 62,2 Nguồn báo cáo tài chính các năm. Như vậy: Vốn sản xuất kinh doanh của công ty là tương đối lớn; vốn cố định cũng lớn do công ty là doanh nghiệp sản xuất chủ yếu cho nên thường xuyên có sự đầu tư vào máy móc thiết bị nhà xưởng và các cơ sở vật chất kỹ thuật khác. Vấn đề sử dụng vốn luôn được công ty xem xét, tính toán kỹ lưỡng để nhằm bảo toàn và phát triển vốn. Do vậy công ty đã đặt ra những nguyên tắc cơ bản sau để quản lý vốn có hiệu quả. -Sử dụng vốn có mục đích: nghĩa là công ty sử dụng vốn chủ yếu do hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, ngoài mục đích này ra công ty hạn chế sử dụng vốn cho các công việc khác. -Sử dụng vốn có hiệu quả: vốn phải được phân bổ một cách hợp lý trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, ưu tiên cho việc phát triển các mặt hàng chủ lực, bảo đảm sử dụng vốn sẽ đem lại hiệu quả tối đa, có thể tái đầu tư cho mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động và cải tạo đời sống cho cán bộ CNV. -Sử dụng vốn hợp pháp: Công ty thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách, luật pháp về kinh tế và lao động của nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, thanh toán kịp thời với người lao động + Tài sản của công ty: là toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. Máy móc mà công ty sử dụng có nguồn gốc từ nhiều quốc gia khác nhau với nhãn hiệu của Đức, Nga, Nhật, Italia, Trung Quốc, Bỉ. Thiết bị máy móc là một bộ phận quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm về mặt giá trị máy móc thì máy móc chiếm tỉ lệ cao 67% vốn cố định. Vì vậy vấn đề sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả luôn được công ty quan tâm. V.Một số chỉ tiêu chủ yếu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua. Biểu 5: Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh qua Các chỉ tiêu đơn vị 1997 1998 1999 So sánh TH99/TH98 So sánh TH99/KH99 KH TH KH TH KH TH Ch.lệch % Ch.lệch % Giá trị tổng sản lượng Tr.đ 400000 418344 400000 402674 422000 428000 25326 106,3 6000 101,4 Tổng doanh thu Tr.đ 36900 375799 370000 379898 400000 438407 58609 115,4 38407 109,6 Nộp ngân sách Tr. đ 10500 11783 8500 8696 3744 5548 -3148 63,8 1804 148,2 Lợi nhuận Tr. đ 3850 3946 2762 4205 500 2500 -1705 59,5 2000 500 Kim ngạch xuất khẩu USD 13000000 14012736 13800000 13667296 13500000 14000000 332704 102,4 500000 103,7 Sợi các loại USD 94596 759 313346 Sản phẩm dệt kim USD 11120200 9694371 10896124 Sản phẩm khăn USD 2142530 2010403 2011686 Sản phẩm lều bạt USD 46126 1961763 753122 Các sản phẩm khác USD 609284 25719 Sản lượng sản phẩm chênh: TH97/KH97 (%) TH98/KH98 (%) TH99/KH99 (%) TH99/TH98 (%) 1.Sợi Tấn -Sợi đơn Tấn 8173 8826,87 8762 9178 9672 10097 108 104,7 104,4 110 -Sợi xe Tấn 1396 1553,62 1695 1808 1580 1693 111,3 106,7 107,1 93,6 2.Sản phẩm dệt kim Sp 5000000 4820678 5200000 5200000 4576430 4688901 96,4 100 102,5 90,2 -Xuất khẩu Sp 3276336 2890009 2900000 4002867 4002867 100 100 138 -Nội địa Sp 1544342 2309991 2300000 473563 586034 99,6 123,7 25,5 3.Vải thành phẩm Kg 336090 1474104 1475540 1558741 1595096 100 102,3 108,1 4.Sản phẩm khăn Chiếc 6700000 6789601 3882617 4299932 6494850 8022404 101,3 110,7 123,5 186,6 -Xuất khẩu Chiếc 5399966 5733900 6169809 -Nội địa Chiếc 1389635 760956 1852595 5.Lều bạt xuất khẩu Chiếc 5492 52144 51936 41564 41588 99,6 100 80,1 -Về chỉ tiêu “giá trị tổng sản lượng” so với kế hoạch 422000 tr. đồng thì thực hiện là 428000 tr. đồng, vượt mức kế hoạch là 6000 tr.đồng (vượt mức 1,4%) Chỉ tiêu “doanh thu” so với kế hoạch là 400000tr.đồng thì thực hiện là 438407 tr. đồng, vượt mức kế hoạch là 38047 tr.đồng (vượt 9,6%) Chỉ tiêu “nộp ngân sách” công ty đã nộp 5548 tr.đồng so với kế hoạch đặt ra là 3744 tr.đồng thì vượt là 1804 tr.đồng (vượt 48,2% Tình hình sản xuất các sản phẩm chính trong năm 1999 đạt vượt mức so với kế hoạch đề ra. do thị trường tiêu thụ của công ty ngày càng mở rộng thu hút được nhiều khách hàng đến với sản phẩm cuả công ty. Như sợi đơn kế hoạch sản xuất 9672 tấn nhưng do nhu cầu khách hàng tăng nên thực hiện sản xuất là 10097 tấn vượt 4,4%. Đối với sản phẩm sợi nói chung thì các năm 97, 98, 99 đều hoàn thành kế hoạch vượt mức. Tuy vậy sản phẩm sợi đơn tăng đều qua các năm hoàn thành kế hoạch nhưng công ty đặt kế hoạch sản xuất năm 99 thấp hơn năm 98. Sản phẩm dệt kim kế hoạch sản xuất năm 1999 là 4576430 sản phẩm nhưng thực hiện 4688901 sản phẩm vượt 7,1% còn nếu so với năm 1998 thì cả thực hiện và kế hoạch sản xuất năm 1999 đều giảm, năm 97 thì không hoàn thành kế hoạch. Tình hình sản xuất sản phẩm dệt kim xuất khẩu chiếm khoảng từ 60% đến 80% trong tổng số các sản phẩm dệt kim được sản xuất ở các năm 97, 98, 99. Đối với sản phẩm khăn thì năm 98 thị trường giảm do vậy việc sản xuất càng giảm theo. Sở dĩ như vậy vì công ty dệt Hà Đông mới sát nhập vào nên khách hàng chưa quen và tình hình sản xuất mới bắt đầu đi vào ổn định cho đến năm 99 thì sản xuất vượt kế hoạch 23,5% tăng lượng sản xuất so với năm 98 là 86,6% trong đó xuất khẩu chiếm 76,9% trong tổng số sản phẩm này được sản xuất. Điều này cho thấy tình hình sản xuất tăng, xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn như vậy sản phẩm này đang được tiêu thụ mạnh ở thị trường nước ngoài tuy thế công ty cũng cần chú trọng việc phát triển thị trường trong nước. Đối với lều bạt xuất khẩu thì thị trường trong nước vẫn còn chưa biết đến sản phẩm và chủ yếu công ty chỉ gia công cho các hãng nước ngoài tuy thế trong năm 1999 vẫn hoàn thành kế hoạch nhưng so với những năm trước thì lại giảm Nhìn chung, tình hình sản xuất các mặt hàng ở công ty dệt may Hà Nội là khả quan. Sản phẩm sợi có thị trường ổn định nên số lượng sản xuất ra luôn vượt kế hoạch và tăng đều qua các năm. Sản phẩm dệt kim do thị trường không ổn định có nhiều biến động phần lớn là xuất khẩu (khoảng 80% sản lượng) thị trường trong nước chưa chiếm lĩnh được nên số lượng sản xuất lúc tăng lúc giảm không đều. Để xem xét rõ hơn ta so sánh các chỉ tiêu tổng hợp của công ty trong một sô năm Chỉ tiêu (giá trị tổng sản lượng) thực hiện năm 1999 so với năm 1998 tăng 2532 tr.đồng (6,3%). Trong khi đó tổng doanh thu thực hiện năm 1999 tăng 58509 tr.đồng (15,4%) tình hình cho thấy hoạt động của công ty là ổn định và có xu hướng ngày càng phát triển (do mức tăng tổng doanh thu lớn hơn so với mức tăng giá trị tổng sản lượng) Sau khi xem xét một số chỉ tiêu ta thấy công ty có sự phát triển cả về mặt chất, mặt lượng. Cụ thể là: Doanh thu/ tổng sản lượng năm 1997 là 89,9% 1998 là 94,3% 1999 là 102,4% Chứng tỏ là khả năng tiêu thụ và khả năng sản xuất đều tăng nhưng tình hình tiêu thụ tăng nhanh hơn khả năng sản xuất chứng tỏ doanh nghiệp có bộ máy xây dựng kế hoạch sản xuất là tìm hiểu thị trường hoạt động thực sự có hiệu quả. Nộp ngân sách /tổng doanh thu năm 97 là 315 98 là 2,3% 99 là 1,3% Tỷ lệ này giảm qua các năm, trong khi đó doanh thu tăng còn nộp ngân sách lại giảm công ty nên xem xét lại vấn đề này. Ngoài ra ta cũng cần đi vào tìm hiểu tình hình xuất khẩu để thấy được quy mô của công ty không chỉ giới hạn trong phạm vi nội địa mà còn có quan hệ với các bạn hàng nước ngoài. Tình hình xuất khẩu năm 1999 vượt mức kế hoạch 3,7% Năm 1998 thì thi đua hoàn thành kế hoạch nguyên nhân là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước bạn hàng khiến cho sức mua về hàng may mặc giảm nhưng đến năm 1999 tình hình xuất khẩu của c ông ty đã đi vào ổn định không những hoàn thành kế hoạch mà còn tăng 2,4% so với năm 1998. Tuy nhiên trong cơ cấu các mặt hàng cũng có sự tăng giảm khác nhau. Cụ thể sợi năm 1997 là 94596 USD, nhưng năm 1998 là 759 USD giảm rất mạnh thậm chí rất xấu song năm 1999 lại tăng lên 313346 USD. Sở dĩ vậy là do sợi là nguyên liệu đầu vào chủ yếu cho ngành dệt may nên công ty bán ở trong nước là chính đến năm 1999 có sự tăng cao như vậy vì khả năng tiêu thụ thị trường nước ngoài đã tăng và khả năng sản xuất của công ty đã được tăng lên. Về chỉ tiêu “lợi nhuận”: Trong năm 1999 công ty đặt kế hoạch thu lợi nhuận chỉ có 500 tr.đồng nhưng thực tế là 2500 tr.đồng. Đây là 1 nỗ lực rất lớn của công ty. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng giảm thất thường, năm 1997, 1998 tăng, năm 1999 giảm và giảm mạnh chỉ bằng 59,5% so với năm trước. Chỉ tiêu tổng doanh thu tăng năm 1999, nộp ngân sách giảm trong khi đó lợi nhuận lại thấp điều này chứng tỏ chi phí giá vốn là cao, giá bán tăng thấp hơn so với mức tăng lợi nhuận giảm mạnh. Tuy nhiên đây mới chỉ là tạm thời bằng khả năng sáng tạo đổi mới hoạt động công ty sẽ đạt được mức lợi nhuận ngày càng cao trong những năm tới. Xét toàn diện thì tình hình sản xuất kinh doanh của công ty thông qua một số chỉ tiêu là lành mạnh, hiệu quả và ổn định. Điểm mạnh của công ty là có sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa các bộ phận, giưã các lãnh đạo và công nhân sản xuất VI. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh 1.Đặc thù của ngành may Ngành may mặc là một trong những ngành công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện nay công nghiệp may xuất khẩu là một ngành công nghiệp đã và đang được Nhà nước khuyến khích phát triển nhiều hình thức ưu đãi, nhiều chính sách cho phép tất cả các thành phần kinh tế tham gia nhằm phục vụ tốt cho 3 chương trình kinh tế lớn. Sự khuyến khích phát triển bằng nhiều chính sách đáp ứng nhu cầu vô hạn và luôn luôn thay đổi. May mặc là một trong 3 nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, nó không những có chức năng bảo vệ con người mà còn đáp ứng nhu cầu cái đẹp. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và nhu cầu nâng cao cuộc sống về mặt kinh tế lẫn xã hội, nhu cầu của con người ngày càng cao đòi hỏi những sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng tốt. Sản phẩm của ngành may Việt Nam nói chung và của công ty dệt may Hà Nội nói riêng được nhiều nhà sản xuất trong và ngoài nước chú ý không những vì hội đủ những điều kiện cần thiết mà còn phù hợp với khả năng hiện tại của đất nước ta hiện nay. Lực lượng lao động lớn, thiếu vốn đầu tư, không đòi hỏi máy móc hiện đại nhưng vẫn có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Bên cạnh đó sản phẩm may mặc còn có sự khác biệt rất lớn về nhu cầu các nước, các khu vực có điều kiện địa lý, khí hậu , phong tục tập quán khác nhau: về kiểu dáng, thị hiếu, màu sắc, thời tiết và thói quen sử dụng, thời gian đặt hàng và điều kiện giao hàng Do vậy cùng với những khó khăn của đất nước về vốn và kỹ thuật, phát triển ngành may mặc xuất khẩu là một hợp lý. Vốn đầu tư ban đầu cho một dây chuyền may không cao bởi đây là những thiết bị chuyên dùng phổ biến. Mức tiêu hao cho một sản phẩm may mặc ít, mức vòng quay vốn nhanh và lợi nhuận cao sử dụng lao động sống trong chi phí giá thành từ 20-30% để tận dụng nguồn lao động dồi dào và giá thành công nhân rẻ. Chính vì lẽ đó ngành may hiện nay đang thu hút nhiều nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài với quy mô vừa và nhỏ. 2.Thị trường Đây là yếu tố đầu tiên tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thị trường ổn định sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng kinh doanh và tính toán, làm ăn sao có hiệu quả cao, có khả năng tiêu thụ nhiều hơn. Nhân tố này bao trùm nhiều yếu tố khác nhau như cung cầu, giá cả, cạnh tranh 3.Chính trị và pháp luật Một trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế khả năng phát triển tại công ty hiện nay là những cơ chế, chính sách bất hợp lý của Nhà nước đối với công ty, công ty thực sự kìm hãm và không phát huy được tính năng động, sáng tạo bởi một cơ chế quản lý lệ thuộc, cồng kềnh đã làm hạn chế những quyết định có thể hoặc chắc chắn sinh lợi, cụ thể là trong cơ chế phân bổ qua, thực sự công ty được cấp quá ít so với năng lực và phải ký uỷ thác qua đơn vị bạn, nên công tác phục vụ sản xuất ảnh hưởng nghiêm trọng tới tốc độ sản xuất của công ty Một số chính sách của Nhà nước hiện nay ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của công ty: chính sách thuế đối với các doanh nghiệp may mặc gia công hàng xuất khẩu, quản lý định mức may gia công, nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu các sản phẩm gia công, tính giá nguyên liệu nhập về để làm hàng kinh doanh theo phương thức “mua nguyên liệu bán thành phẩm” 4.Chính sách sản phẩm Trong chiến lược marketinh thì chiến lược sản phẩm luôn luôn giữ một vai trò quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp, bởi nó là nền tảng chiến lược kinh doanh chỉ khi nào hình thành được chiến lược sản phẩm, doanh nghiệp mới có phương hướng đầu tư nghiên cứu thiết kế, sản xuất hàng loạt và thực hiện tốt chiến lược sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho các chiến lược giá cả , phân phối và khuyếch trương được triển khai một cách có hiệu quả. Đồng thời khi đã xây dựng được một chiến lược sản phẩm đúng đắn nó sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu của chiến lược maketing như mục tiêu lợi nhuận, an toàn và thế lực trong kinh doanh. Từ những nghiên cứu và tìm hiểu về thị trường, công ty thiết kế và tạo mẫu về kiểu dáng quần áo, mẫu thêu, nhu cầu về các loại sợi sau đó công ty ẽ cho sảnh xuất thử mỗi lô tối đa 5000 sản phẩm. Trên cơ sở đó, công ty sẽ tung ra thị trường những loại sản phẩm này để tìm thông phản hồi thì khách hàng thông qua các nhân viên tiếp thị lành nghề. Từ đó sẽ có quyyết định sản xuất tiếp hay không và nếu sản xuất tiếp thì số lượng là bao nhiêu. Để phát triển sản phẩm của mình công ty đã áp dụng các biện pháp sau: + Thiết kế mẫu mới: ngày nay trong cơ chế thị trường nếu chỉ sản xuất kinh doanh những mặt hàng cũ không đổi thì chắc chắn sẽ đi đến thất bại. Lý do là mong muốn và nhu cầu của người mua không ổn định cho nên chu kỳ sống của sản phẩm cũng bị rút ngắn. Tuy vậy, việc thiết kế mẫu mới là công việc khó thực hiện và đem lại những rủi ro cao, nhưng từ năm 1997 công ty cũng quyết định đi đến sản xuất sản phẩm mới đó là sợi coton chải kĩ và sợi Feco chải kĩ có chuốt parjin với tỷ lệ trơn khác nhau để tung vào thị trường các tỉnh phía nam, đặc biệt là thị trường thành phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung nhiều xí nghiệp may có nhu cầu sử dụng chung loại sản phẩm này. + Sao chép sản phẩm xuất khẩu và bán ở thị trường nội địa: Đây là phương pháp có thể khắc phục nhược điểm của phương pháp trên vì công ty không phải mất thêm chi phí, thời gian vào việc thiết kế mẫu mới cho nên khả năng rủi ro là thấp. Hơn nữa đây là những sản phẩm xuất khẩu đang được chấp nhận trên thị trường quốc tế, cho nên kiểu dáng và mẫu mã phù hợp với trào lưu hiện đại. Từ đó làm cho khả năng thành công trên thị trường nội địa là rất lớn. + Nghiên cứu mốt (mô đen) trên thế giới: Dựa trên kiểu dáng của các nhà tạo mốt nước ngoài, công ty đã lựa ra những mẫu phù hợp với chất liệu và mầu sắc phù hợp với khả năng của mình để taọ ra chính sách về sản phẩm mơí. Trong năm 1998 công ty đã đưa vào thị trường các kiểu áo mang nhãn hiệu Poloshint Na Uy, Big-Star ... Đây là biện pháp khá đơn giản và tiết kiệm cho khâu thiết kế, nhưng cũng chỉ là biện pháp tạm thời chứ không mang tính chiến lược lâu dài. Đưa vào các biện pháp mới trên công ty đang phấn đầu đến năm 2000 có thể đưa ra mỗi tuần một loại sản phẩm mới. Với sự cố gắng này, công ty có thể nâng cao được doanh số bán ra. 5-Chính sách giá cả: Ngày nay trên thị trường cạnh tranh chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thời gian cung cấp hàng hoá và điều kiện giao hàng được đặt lên vị trí hàng đầu, nhưng giá cả vẫn có vai trò nhất định, thậm chí cạnh tranh giá vẫn còn diễn ra gay gắt. Nếu chiến lược sản phẩm định hướng cho sản xuất thì chiến lược giá định hướng cho tiêu thụ, nó ảnh hưởng đến khối lượng bán ra của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc định giá là rất khó vì nếu áp dụng giá thấp sẽ tăng được số bán, mở rộng thị phần nhưng nếu không sử lý linh hoạt thì sẽ để công ty vào tình trạng suy giảm về tài chính và ảnh hưởng đến uy tín của công ty trong tương lai. Hiện nay tại công ty sử dụng phương pháp xây dựng giá bán gồm các bước sau: + Xác định mục tiêu đặt giá. + Xác định nhu cầu đối với sản phẩm. + Xác định chi phí. + Dự đoán giá bán sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. +Lựa chọn phương pháp đặt giá thường là: Giá bán = giá thành + thuế + lợi nhuận mong lợi. Tuy nhiên công ty có thể áp dụng các phương pháp định giá linh hoạt theo hệ số cho từng thời kỳ nhất định. Đồng thời công ty có sử dụng một số chiến lược giá như sau: +Chiến lược ổn định giá: Sử dụng hình thức này, công ty muốn duy trì mức giá hiện nay đang bán để đáp ứng được mục tiêu về tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu, giữ vững uy tín cho sản phẩm cuả công ty. +Chiến lược giảm giá: Vào các ngày lễ tết, có ý nghĩa trong sinh hoạt chính trị, văn hoá, kinh tế của đất nước như ngày 2/9, 30/4... công ty chủ trương hình thức giảm giá từ 3-5% tức là hạ thấp mức giá bán nhằm lôi kéo sự chú ý của khách hàng tới sản phẩm của mình. +Chiến lược phân biệt giá: Công ty sử dụng chiến lược này theo khối lượng mua hàng và phương thức thanh toán: khách hàng nào mua số lượng nhiều trên 50.000 sản phẩm dệt kim, khăn sẽ được chiết khấu 0,05% trên 100 tấn sơn sẽ được chiết khấu 0,01% theo giá bán ra, hay thanh toán nhanh trả ngay bằng tiền mặt sẽ nhận được ưu đãi về giá so với khách hàng khác như thanh toán trong vòng 10 ngày sẽ được trừ 1,5% số tiền phải thanh toán. Ngoài ra đối với những nhóm khách hàng khác nhau như: khách quen, các đơn vị, kinh tế thuộc tổ chức từ thiện trường học... công ty sẽ bán với mức giá thấp hơn mức giá thông thường hoặc có thể trả chậm nhưng phải đặt cọc trước. Việc làm giá phân biệt thể hiện sự phản ứng linh hoạt trong những điều kiện thị trường khác nhau. Mục tiêu hình thức này là nhằm kích thích vào nhu cầu của tất cả các nhóm khách hàng có đặc điểm khác nhau để phát triển và mở rộng thị trường. Trên đây là các loại hình chiến lược giá của công ty, tuy nhiên dựa vào các mục tiêu, các thời kỳ khác nhau mà công ty có thể áp dụng hoặc ký kết chúng sao cho phù hợp và đem lại hiêụ quả cao nhất. 6.Mạng lưới tiêu thụ hàng hoá: Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm công ty đã cố gắng phát triển mạnh mạng lưới._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0350.doc
Tài liệu liên quan