Nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt Nam – Vietnam Airlines

Lời mở đầu Để tiến hành bất kỳ một qua trình sản xuất kinh doanh nào, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố tiền đề là vốn kinh doanh.Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Trước đây, trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp, vốn của các doanh nghiệp được Nhà nước tài trợ hầu như toàn bộ. Vì vậy, vai trò khai thác, quản lý và hiệu quả sử dụng vốn không được đặt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt Nam – Vietnam Airlines, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sống còn đối với các doanh nghiệp. Việc quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp hết sức thụ động. Cơ chế phân phối bao cấp của Nhà nước chỉ thu hẹp trên hai kênh Ngân sách và Ngân hàng Nhà nước. Điều đó, một mặt đã thủ tiêu tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, mặt khác, tạo ra sự cân đối giả tạo về nhu cầu vốn của nền kinh tế. Chuyển sang cơ chế thị trường, vốn là điều kiện để doanh nghiệp có thể đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, mà mục đích của sản xuất kinh doanh là thu được lợi nhuận và lợi nhuận tối đa. Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý vốn sao cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, thuận lợi và phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả ngày càng cao. Vốn lưu động là một trong những bộ phận quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh, nó là yếu tố bắt đầu và kết thúc của quá trình hoạt động. Vì vậy, vốn lưu động không thể thiếu trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Hơn nữa, vốn lưu động là loại vốn linh hoạt, nó là dòng máu luôn vận động tuần hoàn để nuôi sống doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện nay thì một trong những việc quan trọng phải làm là nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của vốn lưu động với quá trình sản xuất kinh doanh, cùng với những lý luận đã học em đã quyết định chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt nam – Vietnam Airlines ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp, qua đó tìm hiểu về vấn đề quản lý và sử dụng vốn lưu động của Tổng Công ty trong thực tế. Do đặc thù kinh doanh vận tải hàng không là một ngành vận tải hoạt động trên một thị trường rộng toàn thế giới, sử dụng nhiều loại đồng tiền và các giao dịch phát sinh với khối lượng lớn… nên vốn lưu động của Tổng Công ty hàng không Việt nam cũng mang những nét riêng biệt mà nếu công tác quản lý và sử dụng tốt không những đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường mà còn đem lại cho Tổng Công ty những nguồn lợi thông qua các hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn. Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 phần lớn bao gồm: Chương 1: Các vấn đề lý thuyết chung về vốn lưu động trong doanh nghiệp. Chương này nhằm giới thiệu những vấn đề lý thuyết liên quan đến việc quản lý và sử dụng trong các doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng về quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt nam – Vietnam Airlines. Nội dung của chương này chủ yếu đề cập đến tình hình sử dụng và quản lý vốn lưu động của Tổng Công ty cùng những mặt hạn chế. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt nam. Chương này đưa ra mục tiêu quản lý, sử dụng vốn lưu động của Tổng Công ty hàng không Việt nam trong thời gian tới, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nâng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Tổng Công ty hàng không Việt nam. Trong quá trình thực hiện đề tài này, do còn hạn chế nhất định về mặt lý thuyết cũng như thực tế, nên không thể tránh khỏi những sai sót. Do vậy, em mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn để nhận thức của em ngày càng hoàn thiện hơn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo hướng dẫn GS. TS Nguyễn Hữu Tài, anh Trần Thanh Hiền, Trưởng phòng Tài chính Đầu tư cùng toàn thể các anh chị phòng Tài chính Đầu tư, Ban Tài chính Kế toán Tổng Công ty hàng không Việt nam đã nhiệt tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn. Chương 1 Các vấn đề lý thuyết chung về Vốn lưu động trong doanh nghiệp I. Vốn lưu động trong doanh nghiệp Khái niệm Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các yếu tố như lao động, tư liệu lao động còn phải có đối tượng lao động. Trong các doanh nghiệp, đối tượng lao động bao gồm 2 bộ phận: Một phần là nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng… đang dự trữ để phục vụ quá trình sản xuất, bộ phận khác là các nguyên vật liệu đang được chế biến trên các dây chuyền công nghệ như sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… hai bộ phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Thông qua quá trình sản xuất, toàn bộ tư liệu lao động đã chuyển hoá thành thành phẩm. Sau khi kiểm tra chất lượng, sản phẩm được nhập kho chờ tiêu thụ. Bên cạnh đó, để tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn cần một số tiền mặt để trả lương công nhân và các khoản phải thu phải trả khác. Toàn bộ sản phẩm chờ tiêu thụ và các chi phí phục vụ cho tiêu thụ được gọi là tài sản lưu thông. Xét về vật chất, để sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, ngoài tài sản cố định doanh nghiệp còn cần phải có tài sản lưu động và tài sản lưu thông. Trong điều kiện tồn tại các quan hệ hàng hóa, tiền tệ, khi mua sắm các tài sản ấy, số tiền tương ứng để chi trả mua sắm tài sản lưu động và tài sản lưu thông gọi là Vốn lưu động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất: Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra thường xuyên liên tục theo chu kỳ sản xuất gọi là quá trình tuần hoàn của vốn lưu động. Quá trình này vận động không ngừng qua 3 giai đoạn, trong từng giai đoạn vốn lưu động được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau: Giai đoạn thứ nhất: Doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên vật liệu phụ tùng… cần thiết cho sản xuất. ở giai đoạn này, vốn lưu động chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất. Giai đoạn thứ hai: Doanh nghiệp đưa nguyên vật liệu từ dự trữ vào sản xuất, chế biến. Qua quá trình sản xuất, dưới tác động của con người thông qua tư liệu lao động đã biến nguyên vật liệu thành những sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Biểu hiện của vốn lưu động lúc này là bán thành phẩm… Giai đoạn thứ ba: Kết thúc quá trình chế biến, nguyên liệu trở thành sản phẩm, sau khi được kiểm nghiệm chất lượng được nhập kho đóng gói, tiêu thụ và thu tiền về. Như vậy giai đoạn này vốn lưu động từ hình thái vật chất (thành phẩm) trở về hình thái tiền tệ. Như vậy, vốn lưu động trong doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện trong quá trình tuần hoàn luân chuyển và luân chuyển tương đối nhanh so với vốn cố định. Phân loại Để tiến quản lý sử dụng có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại vốn lưu động như: Căn cứ vào công dụng của vốn lưu động trong quá trình sản xuất, ta chia vốn lưu động thành vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ sản xuất, vốn lưu động trong khâu sản xuất, vốn lưu động trong khâu lưu thông. Căn cứ vào hình thái biểu hiện thì có vốn bằng tiền và vật tư hàng hóa. Theo quan hệ sở hữu thì có vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà doanh nghiệp lựa chọn tiêu thức phân loại nào. Nhìn chung doanh nghiệp thường phân loại dựa vào chu kỳ vận động của tiền mặt. Chu kỳ vận động của tiền mặt là khoảng thời gian từ khi doanh nghiệp thanh toán khoản mua nguyên vật liệu đến khi thu được tiền từ việc bán hàng hóa cuối cùng. Chu kỳ này bao gồm các giai đoạn sau: Doanh nghiệp mua nguyên vật liệu của nhà cung cấp mà phần lớn là chưa phải thanh toán ngay. Việc mua chịu này tạo nên khoản phải trả mà không ảnh hưởng đến luồng tiền của doanh nghiệp. Lao động được sử dụng để chuyển nguyên liệu thành sản phẩm cuối cùng nhưng chưa phải thanh toán ngay lúc sản xuất xong sản phẩm nên hình thành một khoản lương phải trả. Hàng hóa được đem bán nhưng là bán chịu, tạo nên khoản phải thu. Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên, doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả và nếu phải thanh toán trước khi thu được các khoản phải thu doanh nghiệp phải dùng một nguồn nào khác để tài trợ. Chu kỳ vận động của tiền mặt kết thúc khi doanh nghiệp thu được hết khoản phải thu và dùng nó để thanh toán hết các khoản nợ để lặp lại một chu kỳ mới. Thông qua chu kỳ vận động của tiền mặt, vốn lưu động của doanh nghiệp được chia thành các khoản như: Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp, tiền gửi Ngân hàng, tiền đang chuyển; Các khoản đầu tư Tài chính ngắn hạn; Các khoản phải thu gồm phải thu của khách hàng, thu nội bộ…; Hàng tồn kho; Ngoài ra, doanh nghiệp còn có các tài sản lưu động khác như các khoản tạm ứng, chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước, các khoản ký cược, ký quỹ…Và một phần nữa là các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Vai trò của Vốn lưu động Vai trò của Tài chính nói chung và vốn lưu động nói riêng trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý, sau đó là phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của vốn lưu động ngày càng được đề cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ta có thể kể một số vai trò sau: Đầu tiên, vốn lưu động là một bộ phận vốn chiếm tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Hai là, vốn lưu động là nguồn tài chính chủ yếu nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư, phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề là người quản lý phải định mức chính xác nhu cầu vốn, lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả cao. Ba là, việc đảm bảo, tổ chức, sử dụng vốn lưu động một cách tiết kiệm, có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trước những đòi hỏi hết sức khắt khe của nền kinh tế thị trường, người quản lý buộc phải sử dụng vốn sao cho hiệu quả và tiết kiệm nhất, mặt khác phải bảo toàn được vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời. Bốn là, vốn lưu động có vai trò đòn bẩy, kích thích và điều tiết kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn lưu động là không thể thiếu. Cho nên, để sản xuất được bình thường, mỗi doanh nghiệp phải xác định nhu cầu về vốn lưu động sao cho phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh. Vai trò này của vốn lưu động chỉ phát huy tốt khi người quản lý biết sử dụng vốn một cách hiệu quả, hợp lý. Ngược lại, nó cũng có thể trở nên kìm hãm sản xuất khi người quản lý sai lầm trong sử dụng. Kết cấu vốn lưu động trong doanh nghiệp 4.1 Kết cấu vốn lưu động Kết cấu vốn lưu động là tỷ trọng của từng bộ phận vốn trong tổng vốn lưu động của doanh nghiệp. Nghiên cứu kết cấu vốn lưu động có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý vốn lưu động. Tuỳ theo việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động theo cách phân loại nào mà có thể giúp nhà quản lý thấy được việc quản lý, sử dụng vốn đã hợp lý hay chưa. Chẳng hạn, nếu kết cấu vốn theo nguồn vốn mà có tỷ trọng nguồn vay quá lớn, chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp không vững chắc, và khó ổn định sản xuất kinh doanh. Còn nếu kết cấu vốn theo công dụng mà tỷ trọng vốn trong lưu thông quá lớn chứng tỏ việc sử dụng vốn chưa tốt, còn để bị chiếm dụng vốn nhiều… 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp Các doanh nghiệp khác nhau thì việc hình thành kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau, qua đó cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu khác nhau. Ta có thể kể đến một vài nhân tố chính: Các nhân tố về đặc điểm sản xuất: Bao gồm các đặc thù của ngành nghề kinh doanh, quy trình công nghệ, mức độ phức tạp của sản xuất, độ dài chu kỳ sản xuất…Nếu sản xuất mà kỹ thuật càng cao thì đòi hỏi lượng vốn cho sản xuất càng lớn. Các nhân tố về dự trữ vật tư: Bao gồm khoảng cách của doanh nghiệp tới nơi cung cấp vật tư, khả năng cung cấp của thị trường, chủng loại vật tư… Các nhân tố về thanh toán: Phương thức thanh toán, thủ tục thanh toán, thời gian và lượng giao hàng từng đợt. Ngoài ra, các nhân tố như khả năng tự bổ sung vốn của doanh nghiệp, uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường… cũng ảnh hưởng đến kết cấu Vốn lưu động của doanh nghiệp. II Quản lý Vốn lưu động trong doanh nghiệp 1 Quản lý vốn lưu động Các loại tài sản lưu động thường được hiểu là nguồn vốn lưu động. Nhưng như chúng ta vẫn biết vốn lưu động thuần là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn và quản lý các tài sản lưu động có liên quan chặt chẽ đến quản trị các khoản nợ ngắn hạn cho nên thuật ngữ Quản lý vốn lưu động được sử dụng để chỉ sự quản lý tất cả các tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn Giá trị các tài sản lưu động của doanh nghiệp thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản. Do đó, quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau: Tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao, hàng tồn kho, các khoản phải thu. 1.1 Quản trị tiền mặt Quản trị tiền mặt đề cập tới việc quản lý tiền giấy và tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp ở Ngân hàng. Tiền mặt là loại tài sản không sinh lãi vì tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp, mặt khác nó lại chịu ảnh hưởng của lạm phát do đó tỷ lệ sinh lãi của tiền mặt thậm chí bằng không.Vì lý do đó, tối thiểu hoá lượng tiền phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất của quản trị tiền mặt. Tuy nhiên, việc nắm giữ tiền mặt lại không thể thiếu trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Tiền mặt để đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày như thanh toán cho khách hàng, thanh toán cho việc Ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp (số dư bù), đáp ứng các nhu cầu bất thường, hưởng lợi thế trong mua hàng. Việc quản trị tiền mặt bao gồm các yếu tố sau: 1.1.1 Tăng tốc độ thu hồi những tấm séc được nhận và chậm viết séc chi trả. Nguyên tắc này cho phép doanh nghiệp duy trì mức tiền mặt trong giao dịch kinh doanh ở mức thấp hơn vì thể mà doanh nghiệp có thể có nhiều cơ hội để đầu tư hơn. Có rất nhiều cách để tăng tốc độ thu hồi tiền mặt, ta có thể kể đến nhưng biện pháp sau: áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng trả tiền sớm như chính sách chiết khấu thương mại đối với những khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn. Doanh nghiệp cần phải sử dụng nhiều cách để đảm bảo rằng khi một khoản nợ được thanh toán thì tiền được đưa vào đầu tư càng sớm càng tốt. Vậy bên cạnh việc khuyến khích khách hàng thanh toán tiền sớm, doanh nghiệp còn cần có một mạng lưới thanh toán nhanh chóng, thuận tiện. Quá trình này có thể được thực hiện bằng hệ thống thanh toán tập trung qua Ngân hàng. Hệ thống này gồm một mạng lưới các tài khoản ký thác và các tài khoản chi tiêu của doanh nghiệp tại Ngân hàng. Khách hàng được chỉ dẫn gửi séc chi trả của họ tới Ngân hàng đại diện của doanh nghiệp. Tại đây séc được xử lý và sau đó được đưa vào tài khoản ký thác của doanh nghiệp tại Ngân hàng. Thông qua Ngân hàng, doanh nghiệp thanh toán các hoá đơn mua hàng hoặc đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao trên tài khoản thanh toán của họ. Lợi thế của hệ thống Ngân hàng là tiền tệ được dịch chuyển rất nhanh bên trong hệ thống cho phép doanh nghiệp sử dụng tiền nhanh chóng một khi đã có tiền trong tài khoản. Bên cạnh đó, tại các Quốc gia phát triển, việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho các doanh nghiệp còn được phối hợp với bưu điện bằng các dịch vụ như chuyển phát nhanh. Ngân hàng mà doanh nghiệp mở tài khoản thường có hội sở cùng nơi đặt văn phòng chính của doanh nghiệp. Khách hàng của doanh nghiệp được chỉ dẫn gửi séc chi trả của họ tới hộp thư chuyển phát nhanh gần nhất. Ngân hàng mà doanh nghiệp đã mở tài khoản gần hộp thư đó được quyền nhận những séc chi trả này. Công việc này được thực hiện nhiều lần trong ngày, Ngân hàng trung gian này ghi giá trị séc vào tài khoản của doanh nghiệp và thông báo cho người thanh toán biết. Quá trình này làm cho một khoản tiền từ khi thanh toán đến khi sẵn sàng cho tiêu thụ được ngắn hơn. Hệ thống Ngân hàng và hệ thống thanh toán qua trung gian bưu điện có vai trò rất quan trọng. Nếu không có chúng, thì thời gian để một séc thanh toán có thể mất tới gần 10 ngày làm việc kể từ khi được gửi đi, mới có thể sẵn sàng trong tài khoản của doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp cần phải đánh giá hết sức cẩn thận về mặt chi phí khi sử dụng hệ thống nhờ thu này. Các chi phí đó bao gồm chi phí thuê hộp thư, chi phí duy trì tài khoản tại Ngân hàng và các chi phí khác do việc sử dụng dịch vụ Ngân hàng cung cấp. Nếu doanh nghiệp thuê quá nhiều hộp thư và mở quá nhiều tài khoản ở khắp nơi thì thật khó để đảm bảo rằng số dư thanh khoản trong tài khoản của doanh nghiệp là nhỏ nhất. Thậm chí dù đã ở mức tối thiểu thì cũng là những khoản tiền nhàn rỗi trong tài khoản và chúng phải chịu chi phí. Nhiều doanh nghiệp thường cố gắng duy trì một số lượng lớn tài khoản tại Ngân hàng mà không thực hiện một biện pháp hiệu quả hơn là dừng một số tài khoản tại các địa phương và gia hạn thời gian thu hồi séc, đồng thời chuyển những tài khoản đó đến những Ngân hàng gần trung tâm hơn. 1.1.2 Giảm tốc độ chi tiêu Cùng với việc tăng tốc độ thu hồi tiền mặt, doanh nghiệp còn có thể thu được lợi nhuận bằng việc giảm tốc độ chi tiêu để có nhiều tiền hơn cho đầu tư. Có nhiều cách giảm tốc độ chi tiêu như: Tận dụng chênh lệch thời gian chi tiêu: Ví dụ, doanh nghiệp mở sổ séc ở Ngân hàng, hàng ngày doanh nghiệp nhận được 20 triệu đồng và phải thanh toán 30 triệu đồng việc thanh toán được thực hiện qua bưu điện. Nếu toàn bộ séc được nhận vào ngày thứ ba và việc thanh toán được thực hiện vào ngày thứ năm thì doanh nghiệp có thể sử dụng 50 triệu đồng để đầu tư sinh lời trong khoảng 2 ngày nhàn rỗi đó. Sử dụng hối phiếu: Hối phiếu là giấy nhận nợ của người mua(người ký phát) dựa vào trái quyền trên số tiền có trong tài khoản của mình trao cho người bán. Khi người bán nộp hối phiếu vào Ngân hàng, Ngân hàng phải gửi nó tới người ký phát để xác nhận. Sử dụng hối phiếu có thể trì hoãn việc trả tiền trong một số ngày làm việc và doanh nghiệp có thể sử dụng số ngày nhàn rỗi đó để đầu tư. Tuy nhiên việc dùng hối phiếu phải chịu phí của Ngân hàng. Chậm chi trả lương: Một cách để làm chậm việc chi tiêu là thiết lập một mô hình chi trả lương dựa vào thời gian lĩnh lương của công nhân viên. Và đến hạn trả lương công ty chỉ cần dự trữ một lượng tiền vừa đủ để thanh toán tiền lương cho công nhân trong ngày hôm đó, chỗ còn thừa có thể đem đầu tư ngắn ngày. Và tiếp tục trả tiền công cho nhân viên vào những ngày sau. 1.1.3 Hoạch định ngân sách tiền mặt Sử dụng hai biện pháp tăng tốc độ thu hồi tiền mặt và giảm tốc độ chi tiêu đều phải dựa vào vị thế tín dụng của doanh nghiệp nhưng chỉ riêng hai nguyên tắc này thì không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu cho doanh nghiệp. Bởi vậy, các nhà quản trị phải hoạch định ngân sách tiền mặt để dự báo nhu cầu chi tiêu. Ngân sách tiền mặt là một kế hoạch ngắn hạn dùng để xác định nhu cầu chi tiêu và nguồn thu tiền mặt. Kế hoạch này được lập từng tháng, tuần hay ngày dựa trên dự báo về doanh số bán của doanh nghiệp. Từ doanh số bán dự báo, doanh nghiệp thiết lập một ngân sách tiền mặt bằng cách ước tính cụ thể thời điểm thu hồi tiền bán hàng, các khoản chi tiêu liên quan đến sản xuất, mua nguyên vật liệu và doanh số bán tương lai. Trên cơ sở ngân sách tiền mặt này doanh nghiệp có thể dự đoán trước lúc nào thì cần tiền để thanh toán cho nhà cung cấp, lúc nào thì có tiền nhàn rỗi, doanh nghiệp có thể chủ động trong chi tiêu, tiết kiệm các chi phí không cần thiết và ngoài ra còn có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.2 Quản lý chứng khoán thanh khoản cao Các chứng khoán thanh khoản cao là những công cụ tài chính được mua bán trên thị trường tiền tệ hay thị trường vốn. Loại chứng khoán này có tính linh hoạt rất cao, thời gian đáo hạn ngắn (nhỏ hơn 1 năm) được coi là “ những tích sản gần như tiền mặt”. Các nhà quản trị tài chính dùng chứng khoán thanh khoản cao để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Khi cán cân thanh toán của doanh nghiệp giảm xuống thấp hơn mức quy định các chứng khoán này được chuyển thanh tiền mặt và ngược lại tiền mặt nhàn rỗi có thể được đem đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao. Khi quyết định đầu tư vào chứng khoán này cần phải hiểu rõ tính chất của nó. 1.2.1 Tính chất của chứng khoán thanh khoản cao Tính thanh khoản: Tính thanh khoản được biểu hiện bằng giá bán và thời gian cần thiết để bán một chứng khoán. Một chứng khoán được coi là có tính thanh khoản cao khi nó có thể chuyển nhượng nhanh chóng mà giá của chứng khoán không bị giảm nhiều. Tính rủi ro: Rủi ro của chứng khoán có thể bao gồm các loại: rủi ro lãi suất (rủi ro do sự thay đổi mức tiền lãi trên thị trường), rủi ro lạm phát (là loại rủi ro do ảnh hưởng của lạm phát mà cụ thể là sự giảm sức mua của thị trường), rủi ro tài chính (là rủi ro mà nhà phát hành chứng khoán không đủ khả năng thanh toán cả gốc lẫn lãi đúng hạn). Khả năng phải chịu thuế: Lợi nhuận do chứng khoán đem lại là đối tượng tính thuế do đó nó cũng là yếu tố để các nhà đầu tư xem xét. Thời gian đáo hạn: Khi chúng ta cần bán gấp một chứng khoán thì đương nhiên phải chịu thiệt thòi về giá. Do đó để hạn chế thấp việc phải đột xuất bán chứng khoán đi, doanh nghiệp phải dự trữ các chứng khoán có thời gian đáo hạn khác nhau. Lợi nhuận kỳ vọng: Như chúng ta đã biết một chứng khoán có lợi nhuận càng cao thì phải chịu rủi ro càng lớn nhưng ngược lại tính thanh khoản càng giảm. Tuỳ thuộc vào nhà đầu tư là có ưa mạo hiểm hay không mà lựa chọn hình thức nào. 1.2.2 Một số loại chứng khoán chuyển đổi được Trái phiếu kho bạc (Treasury Bills): Là những trái phiếu chiết khấu có thời hạn ngắn đại diện cho nghĩa vụ của Chính phủ đối với trái chủ. Trái phiếu kho bạc hoàn toàn không có rủi ro phá sản, được lưu hành rộng rãi, có tính thanh khoản cao, là công cụ tài chính an toàn nhất so với các loại tích sản khác trên thị trường. Tỷ lệ sinh lời của trái phiếu Chính phủ thường cố định và là cơ sở tham chiếu cho lãi suất của các tích sản khác. Lợi nhuận thu được từ trái phiếu Chính phủ được miễn thuế. Thương phiếu (Commercial Papers): Là một giấy hẹn nợ không có bảo đảm, thời gian đáo hạn cố định, nó có thể được bán bằng hình thức chiết khấu hoặc không ghi lãi suất. Loại chứng khoán này không được mua bán trên thị trường thứ cấp nên tính thanh khoản của chúng thấp. Chấp nhận của Ngân hàng (Bankers’Acceptances): Là loại hối phiếu có thời hạn, trên đó ghi rõ số tiền mà Ngân hàng chấp nhận có trách nhiệm thanh toán khi nó đến hạn. Loại chứng khoán này thường được dùng khi hai bên không đủ tín nhiệm nhau mà phải thông qua uy tín của một Ngân hàng. Rủi ro của chứng khoán này xảy ra khi Ngân hàng phá sản nhưng điều này thường ít khi xảy ra chỉ trừ khi nền kinh tế suy thoái. Chứng chỉ tiền gửi có thể giao dịch được (Negotiable Certificates of Deposite - CD): CD là chứng khoán có lãi suất cố định, thời gian đáo hạn ấn định trước. CD có thể đem lại cả rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cho nhà đầu tư. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi người chủ sở hữu muốn bán nhưng người mua không sẵn sàng mua. Mức độ rủi ro của chúng được phản ánh qua chênh lệch giữa lãi suất của chúng và trái phiếu kho bạc. Các loại chứng khoán được mua lại theo thoả thuận: Là loại chứng khoán mà người bán (người đi vay) thoả thuận sẽ mua lại chúng tại một thời điểm nào đó. Loại chứng khoán này thoả mãn nhu cầu vốn đột xuất của người bán, mặt khác nó hầu như không mang lại rủi ro cho người nắm giữ nó. Bởi vì họ được nhận một tài sản ký quỹ có giá trị bằng giá thị trường của khoản vay cộng thêm lãi phát sinh. Tuy nhiên, rủi ro có thể xảy ra đối với cả hai bên khi lãi suất thị trường thay đổi. Người cho vay có thể bị thiệt khi lãi suất thị trường tăng làm cho giá trị của tài sản thế chấp giảm xuống và ngược lại đối với người đi vay. Đô la Châu á: Đô la Châu á là đồng đô la Mỹ nhưng không nằm trong nước Mỹ hoặc nằm trong các Ngân hàng Châu á trên nước Mỹ. Các nhà đầu tư có thể vay mượn hoặc gửi tiền nhàn rỗi bởi lãi suất của nó cao hơn so với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tại Mỹ và cao hơn lãi suất của chứng chỉ tiền gửi. 1.3 Thiết lập quỹ tiền mặt mục tiêu dựa trên mô hình tồn trữ tiền mặt và chứng khoán thanh khoản cao tối ưu. Thực tế, tiền mặt biến động hầu như liên tục và không thể giữ chúng ở hạn mức chuẩn trong mọi lúc. Do đó, ta phải thiết lập một mô hình để xác định mức tiền mặt tối thiểu mà công ty phải có, đến lúc nào thì phải mua hoặc bán chứng khoán thanh khoản cao. Mô hình này được giả định là dòng thu-chi tiền của doanh nghiệp khá ổn định và được diễn giải như sau: Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng nó để thanh toán các hoá đơn. Khi lượng tiền này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán thanh khoản cao để có lượng tiền như ban đầu. Có hai loại chi phí được xét trong trường hợp này: Chi phí cho việc lưu giữ tiền mặt là chi phí cơ hội, lãi suất mà doanh nghiệp phải chịu (ký hiệu là i) và chi phí cho mỗi lần giao dịch chứng khoán (ký hiệu là C). Giả sử đầu tuần cán cân tiền mặt ở mức M = 500 triệu VND, hàng tuần doanh nghiệp sử dụng một lượng tiền ổn định là 100 triệu VND. Như vậy sau 5 tuần tồn trữ tiền mặt của doanh nghiệp bằng 0. Lượng tiền mặt trung bình được tính bằng (M / 2) tức là (500 + 0) / 2 = 250 triệu VND một tuần. Và lợi nhuận bị bỏ qua hàng năm trên mức tiền mặt trung bình là: (M / 2) * i. Để có được lượng tiền M ban đầu phải bán lượng chứng khoán có giá trị bằng M tại thời điểm kết thúc tuần thứ 5. Nếu tổng nhu cầu sử dụng tiền cả năm của doanh nghiệp là TM thì số lần các chứng khoán phải chuyển thành tiền là: (TM / M). Vì thể mà tổng chi phí cho việc giao dịch chứng khoán cả năm của doanh nghiệp là: TC = (TM / M) * C. Ta tóm tắt chi phí mà doanh nghiệp phải chịu như sau: Tiền lãi bỏ qua khi duy trì cán cân tiền mặt: (M / 2) * i Tổng chi phí giao dịch chứng khoán: TC = (TM / M) * C Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải chịu: * i + * C Chi phí là nhỏ nhất khi đạo hàm bậc 1 theo M của hàm tổng chi phí bằng 0. Hay M’ = Từ công thức trên cho thấy: Nếu lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít tiền mặt và ngược lại nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì họ càng giữ nhiều tiền mặt. Nhưng trên thực tế, trong hoạt động kinh doanh không phải lúc nào lượng tiền vào ra của doanh nghiệp cũng đều đặn và dự kiến trước được. Vì thế, các nhà kinh tế đã đưa ra mức dự trữ tiền mặt trong một khoảng dao động. Khoảng dao động này phụ thuộc vào mức thu chi ngân quỹ hàng ngày là lớn hay nhỏ, chi phí cố định của việc bán chứng khoán và lãi suất của thị trường. Khoảng dao động tiền mặt được tính như sau: D = 3 * (ắ * C * V / i)1/3 Trong đó V là phương sai của thu chi ngân quỹ và được xác định dựa vào số liệu một quý trước đó.Và mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau: = + Khoảng dao động tiền mặt Và có thể kết luận khi doanh nghiệp có thể dự kiến chính xác luồng tiền vào ra thì họ chỉ cần giữ lại một số tiền không đáng kể, phần còn lại có thể đem đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn để kiếm lợi. Mặt khác, chi phí cho việc bán chứng khoán sẽ trở nên quá nhỏ khi lượng tiền vào ra doanh nghiệp là lớn. 1.4 Quản lý khoản phải thu 1.4.1 Chính sách tín dụng thương mại Để thắng lợi trong cạnh tranh đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, ngoài các chiến lược về chất lượng, quảng cáo, giá… thì mua bán chịu là hoạt động không thể thiếu. Tín dụng thương mại có thể làm cho vị thế của doanh nghiệp vững vàng hơn, trở nên giàu có hơn nhưng đồng thời cũng có thể đem lại rủi ro thể hiện ở một số điểm: Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho. Tín dụng thương mại làm cho lượng khách cũng như doanh thu của doanh nghiệp tăng lên. Tín dụng thương mại giúp cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn, giảm hao mòn vô hình. Nhưng khi cấp tín dụng thương mại có thể làm tăng chi phí cho doanh nghiệp: Chi phí đòi nợ, chi phí phân tích khả năng của khách hàng, … Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng cao 1.4.2 Phân tích tín dụng khách hàng * Phân tích khả năng tín dụng của khách Để thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng thì việc đầu tiên quan trọng là doanh nghiệp phải phân tích khả năng tín dụng của khách. Để đánh giá được điều đó doanh nghiệp phải xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó là xác minh khả năng tín dụng dựa trên cơ sở tiêu chuẩn đã đề ra. Các tài liệu dùng để phân tích khách hàng có thể là kiểm tra bảng cân đối kế toán, kế hoạch ngân quỹ, hoặc có thể xuống tận nơi để phỏng vấn, kiểm tra và tìm hiêu qua các khách hàng khác. Phân tích khả năng tín dụng là đánh giá các chỉ tiêu sau: Phẩm chất tư cách tín dụng: Là chỉ tiêu nói lên tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ. Năng lực trả nợ: Chỉ tiêu này xem xét khả năng thanh toán nhanh và dự trữ tại ngân quỹ của khách. Vốn dài hạn. Các tài sản thế chấp cho khoản nợ. Điều kiện kinh tế hay khả năng phát triển của doanh nghiệp. * Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị Khoản nợ của khách hàng liệu có được chấp nhận hay không phụ thuộc vào việc nó có đem lại nguồn lợi cho doanh nghiệp hay không. Để trả lời câu hỏi này doanh nghiệp phải tính chỉ tiêu NPV của khoản nợ đó. Giả sử gọi: P – Giá bán đơn vị sản phẩm Q – Số lượng hàng hóa bán trong 1 tháng nếu thanh toán ngay Q’ – Số lượng hàng hóa trong trường hợp bán chịu V – Chi phí biến đổi của 1 đơn vị sản phẩm r – Tỷ lệ % hàng bán chịu không thu được tiền về C – Chi phí cho việc đòi nợ và bù đắp cho khoản phải thu i – Tỷ lệ chiết khấu nếu thanh toán ngay R – Doanh thu yêu cầu hàng tháng NPV – Giá trị hiện tại ròng của việc thay đổi chính sách Nếu khách hàng thanh toán ngay, doanh nghiệp sẽ thu được hàng tháng: (P - V) * Q Giả sử doanh nghiệp cấp tín dụng cho khách hàng 1 tháng, số tiền doanh nghiệp thu được chưa tính đến rủi ro và chiết khấu: (P - V) * Q’ Lượng tiền tăng thêm trong trường hợp này: (P - V) * Q’ – (P - V) * Q = (P - V) * (Q’ - Q) Do cấp tín dụng cho khách 1 tháng, số tiền thực thu được là: (P - V) * (Q’ - Q) ___________________________ (1 + R) Vậy NPV của việc chuyển đổi chính sách nhưng chưa tính đến chiết khấu và rủi ro là: P * Q’ NPV = - [P * Q + V * (Q’ - Q)] + _____________ 1 + R Nhưng trên thực tế không thể không tính đến rủi ro vỡ nợ của khách hàng. Khi đó doanh nghiệp sẽ định giá sản phẩm cao hơn so với hình thức thanh toán ngay. Gọi giá mới là P’ = P / (1 - i). Khi thực hiện tín dụng thương mại trong trường hợp này, doanh nghiệp vừa bán được nhiều hàng hơn vừa tăng được giá._. tuy nhiên lại phải chịu chi phí khi đòi nợ. Tương tự tính như trên ta có lượng tiền thu được là: [(1 - r) * P’ - V] * Q’ và lượng tiền tăng thực tế là: [(1 - r) * P’ - V] * Q’ __________________________________ 1 + R Tổng chi phí cho chuyển đổi chính sách: P * Q + V * (Q’ - Q) + C * P’ * Q’ Và NPV của việc chuyển đổi: (1 - r) * P’ * Q’ - [P * Q + V * (Q’ - Q) + C * P’ * Q’] + ________________________ 1 + R Khi NPV có tính đến cả rủi ro lẫn chiết khấu cho khách hàng mà lớn hơn 0 thì việc bán chịu có lợi cho doanh nghiệp. * Theo dõi khoản phải thu Để quản lý các khoản phải thu nhà quản lý phải theo dõi chúng bằng các biện pháp sau: Kỳ thu tiền bình quân là khoảng thời gian để thu hồi 1 đơn vị tiền hàng, nó được đo bằng công thức Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = ________________________________________________ Doanh thu tiêu thụ bình quân ngày Sắp xếp “tuổi” khoản phải thu: là phương pháp dựa trên thời gian biểu về tuổi của khoản phải thu. Nhà quản lý sẽ sắp xếp khoản phải thu theo số ngày còn lại và tỷ lệ % của từng khoản đó để dễ kiểm soát khoản nào sắp đến hạn. Tuy nhiên mô hình này chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố mùa vụ hay doanh số bán sẽ thay đổi thất thường mặc dù mô hình thanh toán không thay đổi. Xác định số dư khoản phải thu: Mô hình này không chịu ảnh hưởng theo mùa vụ của doanh số bán. Phương pháp này đo lường phần doanh số bán chịu hàng tháng vẫn chưa thu được tiền tại thời điểm cuối tháng đó và tháng tiếp theo. Tuy nhiên phương pháp theo dõi này lại phụ thuộc rất lớn vào tập quán thanh toán tín dụng thương mại của các ngành khác nhau, khu vực địa lý khác nhau. Vì vậy, doanh nghiệp cần theo dõi số dư nợ của từng nhóm khách hàng theo tập quán thanh toán của họ. 1.5 Quản lý hàng tồn kho 1.5.1 Lý do phải tồn trữ hàng hóa Hàng tồn kho bao gồm các nguyên liệu thô, sản phẩm dở dang và sản phẩm hoàn thành. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên liệu dự trữ. Nguyên liệu không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó đảm bảo cho sản xuất và lưu thông diễn ra bình thường. Trong quá tình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ có lợi khi dự trữ vừa đủ nguyên liệu làm miếng đệm an toàn cho cung ứng và sản xuất; dự trữ vừa đủ thành phẩm tạo khoảng an toàn cần thiết cho sản xuất và lưu thông, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm mang tính mùa vụ. Nhưng nếu mua nguyên liệu cũng như tồn kho thành phẩm với một lượng quá lớn hoặc quá nhỏ đều không hiệu quả. Nếu tồn trữ quá lớn, doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tồn kho, phải đảm bảo điều kiện về kho, chịu rủi ro do hàng hóa có thể hư hao, mất mát…còn nếu tồn trữ quá nhỏ sẽ không thể chủ động trong sản xuất, kinh doanh, làm gián đoạn sản xuất, gây nên những chi phí không đáng có. Vậy dự trữ thế nào cho vừa đủ ? Ta tiến hành nghiên cứu các phương pháp quản trị hàng tồn kho sau đây. 1.5.2 Quản lý hàng tồn kho * Quản lý hàng tồn kho theo mô hình đặt hàng hiệu quả nhất – EOQ (Economic Odering Quantity) Mô hình này sử dụng giả định những lần cung cấp hàng hóa là bằng nhau. Khi dự trữ hàng hóa, doanh nghiệp phải chịu các chi phí như chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. Chi phí lưu kho: Là những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa như bốc xếp, bảo hiểm hàng hóa, bảo quản… Nếu gọi lượng cung ứng hàng mỗi lần là Q thì lượng dự trữ trung bình sẽ là Q / 2. Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa thì tổng chi phí lưu kho sẽ là TC1 = C1 * Q / 2. Lượng hàng cung ứng Q Q/2 Dự trữ trung bình Thời gian Chi phí đặt hàng: Là các chi phí liên quan đến việc quản lý, giao dịch và vận chuyển hàng hóa. Chi phí này thường không phụ thuộc vào số lượng hàng hóa. Nếu gọi D là tổng lượng hàng hóa cần dùng trong 1 đơn vị thời gian thì số lần cung ứng hàng trong đơn vị thời gian đó là D / Q. Gọi chi phí đặt hàng là C2 thì tổng chi phí đặt hàng là TC2 = C2 * D / Q. Tổng chi phí tồn trữ hàng hóa doanh nghiệp phải chịu là TC = TC1 + TC2 = C1 * Q / 2 + C2 * D / Q Chi phí Chi phí lưu kho Chi phí đặt hàng 0 Lượng hàng cung ứng Q* Qua đồ thị ta thấy khối lượng hàng cung ứng mỗi lần Q* làm cho tổng chi phí dự trữ là nhỏ nhất. Ta tìm Q* bằng cách lấy đạo hàm của TC theo Q. Vậy ta có Q* Q* = Điểm đặt hàng mới: Trong thực tế doanh nghiệp không thể để đến lúc nào hàng hóa trong kho hết mới đặt hàng tiếp mà khi hàng tồn trong kho còn đến một mức nào đó thì phải tiến hành đặt hàng ngay để đảm bảo sản xuất. Thời điểm đó gọi là thời điểm đặt hàng mới, được xác định bằng số lượng nguyên liệu sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài thời gian giao hàng. Lượng dự trữ an toàn: Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là một lượng cố định mà chúng biến đổi liên tục. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất doanh nghiệp cần duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn là lượng dự trữ hàng hóa thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. * Quản lý hàng tồn kho theo mô hình cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0 Phương pháp này được hãng TOYOTA của Nhật áp dụng đầu tiên vào những năm 30 của thế kỷ này. Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên một mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hàng hút các loại hàng hóa và sản phẩm dở dang của các doanh nghiệp khác mà không cần dự trữ. Sử dụng phương pháp này giảm thiểu chi phí cho dự trữ, tuy nhiên mối quan hệ giữa các doanh nghiệp phải thật chặt chẽ, nhịp nhàng để có thể cung cấp đúng lúc. 2 Nhu cầu vốn lưu động và các biện pháp đảm bảo vốn lưu động 2.1 Nhu cầu vốn lưu động và phương pháp xác định nhu cầu 2.1.1 Nhu cầu vốn lưu động Vốn lưu động như chúng ta đã biết là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh và để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, hiệu quả, tiết kiệm thì xác định đúng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp có những ưu điểm sau: Tránh tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bình thường và liên tục. Không gây nên sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn kinh doanh. Là một căn cứ quan trọng để xác định các nguồn tài trợ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan: Quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Sự biến động giá cả của các loại vật tư, hàng hóa mà doanh nghiệp đang sử dụng. Chính sách, chế độ đãi ngộ lao động trong doanh nghiệp. Và quan trọng nhất là trình độ tổ chức, quản lý, sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. 2.1.2 Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp Phương pháp trực tiếp: Đây là phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp dựa vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định nhu cầu vốn của từng khâu rồi tổng hợp lại thành nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Công thức tổng quát như sau: Trong đó: V – Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp M – Mức tiêu dùng bình quân ngày của loại vốn được tính toán N – Số ngày luân chuyển của loại vốn được tính toán i – Số khâu trong kinh doanh (i = 1, k) j – Loại vốn sử dụng (j = 1, n) Mức tiêu dùng Tổng mức tiêu dùng dự báo trong kỳ bình quân ngày = _______________________________________________________ của loại vốn tính Số ngày trong kỳ (360 ngày) Số ngày luân chuyển được xác định dựa vào các nhân tố liên quan đến số ngày luân chuyển của từng loại vốn đó. Ưu điểm của phương pháp này là xác định được nhu cầu cụ thể của từng loại vốn trong từng khâu kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt cho quản lý, sử dụng vốn theo từng khâu. Tuy nhiên do sản xuất có nhiều khâu và sử dụng rất nhiều loại vật tư làm cho việc tính toán theo phương pháp này sẽ phức tạp và tốn nhiều thời gian. Phương pháp gián tiếp: Khác với phương pháp trực tiếp, phương pháp này dựa vào kết quả thống kê kinh nghiệm về vốn lưu động bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm kế hoạch và khả năng tăng tốc độ luân chuyển vốn năm kế hoạch để xác định nhu cầu vốn năm kế hoạch của doanh nghiệp. Công thức như sau: Vlđ0 * M1 Vnc = ______________________ * (1 + t) M0 Trong đó: Vnc - Nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch M1, M0 - Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch và năm báo cáo Vlđ0 - Số dư bình quân vốn lưu động năm báo cáo t - Tỷ lệ tăng (giảm) số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo Tỷ lệ tăng giảm số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo được xác định theo công thức sau: K1 – K0 t = _______________ * 100 K0 Trong đó: t % - Tỷ lệ tăng giảm số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo. K0 - Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch. K1 - Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo. Trên thực tế, để ước tính nhanh nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp tính toán căn cứ vào tổng mức luân chuyển vốn và số vòng quay vốn dự tính năm kế hoạch như sau: M1 Vnc = ____________ L1 Trong đó, L1 là số vòng quay dự tính của vốn lưu động năm kế hoạch. Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp theo phương pháp gián tiếp có ưu điểm là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp. 2.2. Đảm bảo vốn lưu động và các biện pháp đảm bảo vốn lưu động 2.2.1.Nguyên nhân làm giảm vốn lưu động trong doanh nghiệp Vốn lưu động của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng vật tư, hàng hóa và tiền tệ. Sự luân chuyển vốn lưu động thường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố làm giảm vốn lưu động của doanh nghiệp như Hàng hóa bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất hoặc không phù hợp với nhu cầu của thị trường do đó không tiêu thụ được. Rủi ro bất thường có thể xảy đến trong tương lai. Kinh doanh bị thua lỗ kéo dài. Lạm phát làm cho vốn lưu động giảm dần theo tốc độ giảm giá. Vốn lưu động trong thanh toán bị chiếm dụng kéo dài. 2.2.2. Bảo toàn vốn lưu động Thực chất của việc bảo toàn là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đủ mua một lượng vật tư, hàng hóa tương đương với đầu kỳ có tính đến trượt giá để đảm bảo tái sản xuất giản đơn về vốn lưu động. Ngoài mục tiêu bảo toàn vốn, doanh nghiệp còn phải tính đến phát triển vốn trên cơ sở bổ sung từ quỹ đầu tư phát triển trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp. Trường hợp số vốn lưu động đã bảo toàn thấp hơn số vốn phải bảo toàn theo quy định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều chỉnh lại giá trị các tài sản lưu động nếu giá trị đó chưa được tính đủ hoặc sử dụng quỹ đầu tư phát triển (hay quỹ dự phòng tài chính) để bù đắp trước hết cho phần vốn Ngân sách cấp. Nếu hai quỹ trên không đủ để bù đắp, doanh nghiệp phải chuyển phần vốn đã tự bổ sung sang cho đủ phần vốn phải bảo toàn. Nếu vốn tự bổ sung cũng không đủ thì doanh nghiệp có trách nhiệm bù đắp những năm sau. 2.2.3. Các mô hình tài trợ vốn lưu động trong doanh nghiệp Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong kỳ có thể chia thành 2 loại: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết và nhu cầu vốn lưu động tạm thời. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp cũng có lúc được tài trợ bằng nguồn dài hạn song chủ yếu nó được bù đắp bằng nguồn ngắn hạn, đó là các nguồn tài trợ có thời hạn dưới 1 năm. Ta có thể nêu ra các mô hình tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp như sau: Tài trợ vốn lưu động thường xuyên cần thiết bằng nguồn dài hạn và vốn lưu động tạm thời bằng vốn ngắn hạn: Đây là mô hình khá phổ biến trong các doanh nghiệp. Ưu điểm của mô hình này là sự cân bằng về thời gian của nguồn vốn và sử dụng vốn, do đó có thể giảm bớt các chi phí sử dụng vốn phát sinh hoặc rủi ro có thể gặp trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tài trợ bàng vốn ngắn hạn Tài trợ bàng vốn dài hạn TSLĐ tạm thời Vốn kinh doanh TSLĐ thường xuyên TSCĐ Thời gian Tài trợ vốn lưu động thường xuyên và một phần vốn lưu động tạm thời bằng nguồn dài hạn, phần vốn lưu động tạm thời còn lại được tài trợ bằng nguồn ngắn hạn: Do doanh nghiệp sử dụng một phần nguồn dài hạn để tài trợ một phần vốn lưu động tạm thời cho nên doanh nghiệp có thể thanh toán ngay một phần nhu cầu vốn đó. Tuy nhiên, do nguồn vay dài hạn thường cao hơn vay ngắn hạn nên chi phí trả nợ vay của doanh nghiệp trong theo mô hình này thường cao. Mô hình này được biểu diễn như sau: Tài trợ bàng vốn ngắn hạn Tài trợ bàng vốn dài hạn TSLĐ tạm thời Vốn kinh doanh TSLĐ thường xuyên TSCĐ Thời gian Tài trợ một phần vốn lưu động thường xuyên và một vốn lưu động tạm thời bằng nguồn ngắn hạn: Mô hình này sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho một phần vốn lưu động thường xuyên và toàn bộ vốn lưu động tạm thời nên khả năng rủi ro cao hơn 2 mô hình trên. Tuy nhiên, sử dụng nhiều nguồn ngắn hạn hơn cũng giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, tăng tính linh hoạt trong tài trợ nhu cầu ngắn hạn. Vốn kinh doanh Tài trợ bàng vốn ngắn hạn TSLĐ tạm thời Tài trợ bàng vốn dài hạn TSLĐ thường xuyên TSCĐ Thời gian Trên đây là 3 mô hình tài trợ vốn lưu động trong doanh nghiệp, tuy nhiên, thực tế các doanh nghiệp không sử dụng một mô hình nào duy nhất mà tuỳ từng thời kỳ họ có thể lựa chọn cho mình một mô hình cho phù hợp. 2.2.4. Các nguồn tài trợ vốn lưu động ngắn hạn Các nguồn tài trợ ngắn hạn là những khoản tiền mà doanh nghiệp sử dụng phải hoàn trả trong thời hạn 1 năm kể từ ngày nhận được chúng. Các nguồn tài trợ này bao gồm các khoản tín dụng thương mại mà doanh nghiệp nhận được từ nhà cung cấp khi mua chịu hàng hóa hoặc ký quỹ. Ngoài ra, còn có tiền đặt cọc của khách hàng; tiền vay ngắn hạn Ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm; các khoản nợ tích luỹ chưa phải trả ngay như nợ lương công nhân, nợ tiền thuế, lợi tức cổ phần chưa phải trả cho cổ đông. Nợ tích luỹ: Nguồn này chủ yếu gồm nợ lương công nhân và nợ ngân sách. Trong khoảng giữa hai kỳ trả lương hoặc nộp ngân sách cho thấy những khoản nợ tích luỹ trong kỳ. Các khoản nợ này thay đổi tuỳ theo các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng kinh doanh các khoản nợ này cũng tự phát tăng theo và ngược lại. Ngoài ra, tiền đặt cọc của khách hàng cũng là một nguồn tài trợ tự động. Các nguồn kinh phí này là các khoản tài trợ miễn phí vì doanh nghiệp có thể sử dụng mà không cần phải trả tiền. Tuy nhiên nguồn này có một hạn chế là thời hạn sử dụng ngắn, doanh nghiệp chỉ có thể trả chậm lương công nhân trong một thời gian hẹp, nếu không sẽ làm giảm tinh thần làm việc của công nhân hoặc chậm nộp thuế sẽ bị nộp phạt. Tín dụng thương mại: Như đã trình bày ở trên, tín dụng thương mại là một hình thức không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong mối quan hệ qua lại đó, doanh nghiệp có thể được hưởng các hình thức trả chậm của nhà cung cấp của mình. Không giống các khoản nợ tích luỹ, tín dụng thương mại rất linh hoạt về thời hạn thanh toán cũng như các điều kiện chiết khấu hay quy mô tài trợ và sử dụng hình thức này doanh nghiệp phải trả phí. Tài trợ ngắn hạn không cần đảm bảo: Thấu chi: Đây là hình thức tài trợ vốn bằng thoả thuận giữa doanh nghiệp và Ngân hàng. Ngân hàng đồng ý tạo cho doanh nghiệp một khoản tín dụng nào đó thông qua việc xem xét tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp và có thể điều chỉnh theo năm. Hình thức tín dụng này được tạo ra để cung cấp nguồn tài chính nhất thời đủ bù đắp phần chênh lệch giữa thu nhập – chi phí của doanh nghiệp. Tiền lãi của hình thức này được tính trên tổng giá trị tín dụng thấu chi và được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Đây là một hình thức tài trợ với chi phí thấp nhưng nó có điểm bất lợi là nếu doanh nghiệp vay tiền theo thoả thuận thì lúc nào cũng phải đảm bảo khả năng tài chính đề phòng khi Ngân hàng từ chối thực hiện hạn mức đã thoả thuận. Thư tín dụng (Letter of Credit - LC):Thư tín dụng thường được sử dụng trong nhập khẩu hàng hóa. Bên nhập khẩu yêu cầu Ngân hàng cung cấp dịch vụ này. Nếu Ngân hàng đồng ý chấp nhận tín dụng, họ sẽ phát hành một LC như một cam kết trả tiền cho bên xuất khẩu theo đúng như điều khoản đã thoả thuận trong LC và chuyển đến Ngân hàng đại diện của bên xuất khẩu. Khi nhận được thông báo của Ngân hàng đã có LC, bên xuất ký phát hối phiếu đòi tiền tới Ngân hàng phát hành (Ngân hàng bên nhập) và chuyển hàng hóa đi. Ngân hàng phát hành sẽ thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu, số tiền đó thành một khoản nợ của bên nhập khẩu. Để được chấp nhận mở LC, ban đầu bên nhập khẩu phải có một khoản ký quỹ. Độ lớn của khoản tiền này tuỳ thuộc vào vị thế của bên nhập khẩu theo quy định của Nhà nước. Tài trợ theo hợp đồng: Theo hình thức này, khi nhận được đơn đặt hàng, doanh nghiệp có thể tiếp xúc với Ngân hàng để yêu cầu một khoản cho vay thực hiện hợp đồng đó. Ngân hàng thường rất sẵn sàng chấp nhận tài trợ theo hình thức này đặc biết nếu doanh nghiệp ký kết hợp đồng với một doanh nghiệp lớn vì họ sẽ được đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn. Tài trợ ngắn hạn có đảm bảo: Một doanh nghiệp không dễ gì nhận được các khoản tài trợ ngắn hạn của một Ngân hàng mà không có đảm bảo vì có thể đem lại rủi ro cho người cho vay. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp đủ các đảm bảo đối với các khoản vay thì họ sẽ dễ dàng nhận được các khoản tín dụng đó. Doanh nghiệp thường đảm bảo cho các khoản vay ngắn hạn của mình băng việc thế chấp các giấy tờ có giá như các giấy hẹn nợ, các chứng khoán, chúng có thể là các cổ phần, các khoản ký quỹ…Những khoản vay được đảm bảo bằng các khoản phải thu như thương phiếu, hối phiếu gọi là vay thế chấp bằng khoản phải thu. Những khoản vay thế chấp bằng khoản phải thu này cũng co thể bán đi để ra tăng vốn, ta gọi là hình thức mua nợ. Đồng thời, các thương phiếu cũng có thể bán đi bằng cách chiết khấu thay vì đem thế chấp cho Ngân hàng. Những khoản vay được đảm bảo bằng hàng hóa, tài sản được gọi là vay thế chấp bằng hàng hóa. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể vay bằng đảm bảo của bên thứ ba có tư cách tín dụng tốt với Ngân hàng đảm bảo cho món nợ. Người thứ ba có thể là doanh nghiệp hoặc Ngân hàng. Họ đứng ra bảo lãnh cho khoản vay và có thể cam đoan sẽ thanh toán nếu người được bảo lãnh không đủ khả năng chi trả. 3 Các chỉ tiêu phản ánh Hiệu quả quản lý vốn lưu động doanh nghiệp Hiệu quả quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn. Ta xem xét một số các chỉ tiêu sau: Hệ số bảo toàn vốn lưu động: Hệ số này cho biết khả năng bảo toàn vốn giúp tái sản xuất giản đơn vốn lưu động trong kỳ của doanh nghiệp. Công thức tính như sau: Vốn lưu động hiện có cuối kỳ Hệ số bảo toàn vốn lưu động = ____________________________________________ Vốn lưu động phải bảo toàn cuối kỳ Hệ số thanh toán: Là một nhóm chỉ tiêu cho biết khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản phải trả ngắn hạn. Gồm các hệ số sau: Hệ số thanh toán hiện tại: Được xác định bằng tỷ số giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán nhanh: Được xác định bằng tỷ số giữa tài sản lưu động (sau khi loại phần dự trữ tồn kho) và nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán tức thời: Được xác định bằng tỷ số giữa tài sản lưu động sau khi trừ khoản phải thu và hàng tồn kho với nợ ngắn hạn. Hệ số nợ: Là hệ số phản ánh khả năng mức độ có thể vay vốn của doanh nghiệp. Công thức tính là: Khoản phải trả + khoản phải nộp + nợ vay Hệ số nợ = ____________________________________________________________ Tổng vốn lưu động Vòng quay dự trữ tồn kho: Chỉ tiêu này xác định số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một kỳ nhất định. Giá vốn hàng hóa Vòng quay dự trữ tồn kho = ____________________________________________ Tồn kho bình quân trong kỳ Kỳ thu tiền bình quân: Là chỉ tiêu phản ánh số ngày cần thiết để thu hồi các khoản phải thu. Công thức tính như sau: Tổng số ngày trong kỳ Kỳ thu tiền bình quân = ___________________________________________________ Vòng quay khoản phải thu trong kỳ Doanh thu bán hàng trong kỳ Vòng quay khoản phải thu = _____________________________________________ Các khoản phải thu bình quân Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Công thức như sau: Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động = ___________________________________________ Vốn lưu động bình quân kỳ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Công thức như sau: Lợi nhuận sau thuế Hiệu suất sử dụng = ____________________________________________________________ vốn lưu động Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ Chương 2 Thực trạng về quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty Hàng không Việt nam – Việt nam Airlines I Tổng quan về Tổng Công ty Hàng không Việt Nam 1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Hàng không Việt nam – Vietnam Arilines Corporation. Cục Hàng không dân dụng Việt Nam được thành lập ngày 15/01/1956 đánh dấu sự ra đời của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam. Trong giai đoạn trước đổi mới, mọi hoạt động vận chuyển của Hàng không đều do Cục Hàng không dân dụng trực tiếp quản lý. Ngày 20/04/1993, Hãng Hàng không Quốc gia được thành lập trực thuộc Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Ngày 27/01/1996, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam chính thức được thành lập theo chủ trương chung của Nhà nước về thành lập các Tổng Công ty lớn của Nhà nước trên một số lĩnh vực quan trọng nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất đảm bảo cho các Tổng Công ty này thực hiện được các nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị thành viên và của toàn Tổng Công ty, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tổng Công ty Hàng không lấy Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam làm nòng cốt. Ngoài ra còn nhiều doanh nghiệp thành viên trước đây trực thuộc Hãng và Cục Hàng không dân dụng. Tổng Công ty có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Tên giao dịch Quốc tế là Vietnam Arilines Corporation, có trụ sở chính tại số 200 đường Nguyễn Sơn – Gia Lâm – Hà Nội với số vốn pháp định là 1.301 tỷ VND. Những năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thực sự trở nên sôi động. Nhiều tuyến bay Quốc tế quan trọng được mở như Moscow, Paris, Kaoshung, Seoul, Osaka, Sydney…Mạng đường thương mại trong nước và Quốc tế không ngừng được củng cố và phát triển với 33 đường bay đến 15 điểm trong nước và 18 điểm ở nước ngoài góp phần tăng cường mối liên hệ giữa các vùng trong cả nước, giữa Việt Nam và thế giới. Lượng khách trên mỗi chuyến bay của Vietnam airlines tăng không ngừng qua từng năm. Từ chỗ chỉ là một hãng Hàng không nhỏ bé ít được biết đến, hiện nay Hàng không Việt Nam đã được coi là một hãng có tốc độ phát triển nhanh, trên một số lĩnh vực của vận tải Hàng không, hãng đã giành được vị trí so với các hãng Hàng không khu trong vực. Để có thể phục vụ khách càng ngày càng tốt hơn và tăng khả năng cạnh tranh trong khu vực. Bên cạnh việc khai thác hiệu quả số máy bay thế hệ cũ, Hàng không Việt Nam đã có kế hoạch là nhanh chóng chuyển sang tiếp thu và khai thác phương tiện vận chuyển tiên tiến, hiện đại thông qua hình thức thuê máy bay của các hãng nước ngoài. Song song với đó, Hàng không Việt Nam cũng liên tục mở các lớp đào tạo nhân lực trong và ngoài nước để nhanh chóng nắm vững và làm chủ phương tiện hiện đại. Bằng việc làm này, Hàng không Việt Nam có một đội máy bay 33 chiếc hiện đại ngang tầm với các hãng Hàng không khác chỉ trong một thời gian ngắn gồm 5 chiếc Boing-767-300, 10 chiếc airbus A-320, 2 chiếc Fokker-70, 6 chiếc ATR-72 với đội phi công, tiếp viên, kỹ thuật viên trẻ, đầy nhiệt huyết và năng lực đã đáp ững được như cầu mở rộng thị trường, tăng năng lực cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các hãng Hàng không khác trong khu vực. Cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước và việc Việt Nam chính thức ra nhập khối ASEAN tháng 07 năm 1995 và tháng 11 năm 1997 Hàng không Việt Nam đã chính thức trở thành hội viện thứ 18 của Hiệp hội Hàng không Châu á - Thái Bình Dương (AAPA). Đây là một yếu tố quan trọng góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực trên thế giới. 2 Tình hình tổ chức hoạt động của Tổng công ty Hàng không Việt Nam Tổng công ty Hàng không Việt Nam được thành lập và tổ chức theo mô hình Tổng công ty mạnh. Tổ chức của Tổng công ty gồm một hội đồng quản trị 7 thành viên do thủ tướng chính phủ trực tiếp chỉ định, trong đó có một uỷ viên kiêm chức vụ tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc trong điều hành quản lý chung là các cơ quan tham mưu tổng hợp. Tổng công ty có 24 doanh nghiệp thành viên của được chia thành hai khối là khối hạch toán phụ thuộc gồm 13 đơn vị, khối hạch toán độc lập gồm 11 đơn vị và 6 đơn vị liên doanh. Tổ chức của Tổng công ty có thể được minh hoạ theo sơ đồ sau: Đặc điểm hoạt động kinh doanh vận tải hàng không Đây là những điểm khác biệt căn bản trong quá trình kinh doanh vận tải của ngành hàng không với ngành vận tải nói chung: Đây là một ngành ít bị phụ thuộc vào điều kiện địa lý, địa hình. Không phải đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông, song lại phải có sự đầu tư lớn về trang thiết bị của hệ thống dẫn đường. Tốc độ của phương tiện vận tải hàng không (máy bay) rất lớn nên có khả năng vận chuyển hành khách và hh với cự ly xa và trong khoảng thời gian ngắn nhất. Là hình thức vận tải an toàn nhất do phương tiện hiện đại và công tác an toàn bay luôn được các hãng Hàng không đặt lên trước tiên. Đòi hỏi sự ứng dụngcác công nghệ kỹ thuật cao để đảm bảo những yêu cầu khắt khe về an toàn nên đòi hỏi sự đầu tư rất lớn vào phương tiện vận tải và nguồn nhân lực vì mỗi phi công chỉ điều khiển được một loại máy bay nhất định do đó khi có sự cải tiến hay thay thế các thế hệ máy bay, phi công phải đào tạo lại cho phù hợp. Những đặc điểm trên của vận tải hàng không đã ảnh hưởng rất lớn đến quy mô dự trữ vốn lưu động của Tổng Công ty thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, do thị trường kinh doanh vận tải hàng không mang tính chất toàn cầu nên hoạt động thu tiền từ cung ứng các sản phẩm chủ yếu là thu lẻ, phân tán thông qua một hệ thống tài khoản ngân hàng rất lớn gồm trên 80 tài khoản tại 23 ngân hàng cả trong và ngoài nước, nằm rải rác tại các đơn vị, văn phòng chi nhánh. Mặt khác, cũng do việc cung cấp sản phẩm vận tải hàng không được diễn ra ở nhiều nước nên Tổng Công ty phải sử dụng một lượng lớn các loại đồng tiền khác nhau như đồng USD (Mỹ), JPY (Nhật Bản), KRW ( Hàn Quốc), SGD (Singapore), đồng EURO, đồng KIP (Lào), đồng THB (Thái Lan), đồng CAD (Canada), … trong hoạt động thu bán cũng như thanh toán. Thứ hai, nguồn chi của Tổng Công ty hàng không Việt nam tập trung chủ yếu tại Ban Tài chính – Kế toán Tổng Công ty (chiếm 72% tổng nguồn chi), trong khi đó các nguồn thu lại xuất phát chủ yếu từ các văn phòng chi nhánh và văn phòng khu vực (chiếm đến hơn 90% tổng nguồn thu) vì vậy mà ngay tại trụ sở chính Tổng Công ty nguồn thu không tương xứng với nhu cầu chi trả. Vì vậy, Tổng Công ty buộc phải duy trì một lượng lớn vốn lưu động tại quỹ cũng như trong các tài khoản ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Thứ ba, về công tác dự trữ kho, để đáp ứng hai mục tiêu lớn trong quản lý kho là đảm bảo hoạt động liên tục và an toàn cho các chuyến bay, Tổng Công ty luôn phải dự trữ một lượng hàng hoá tồn kho lớn đó là các khối máy, các loại vật tư quay vòng, vật tư tiêu hao một lần… phục vụ cho việc sửa chữa, bảo dưỡng máy bay; nguyên liệu chế biến suất ăn, đồ uống… phục vụ hành khách. Đó cũng là một lý do làm cho vốn lưu động ở Tổng Công ty luôn phải duy trì ở một mức cao. Bởi trên thực tế, nếu các hàng hàng không không dự trữ như vậy thì những thiệt hại do không đảm bảo kịp thời được vật tư phụ tùng sửa chữa sẽ lớn hơn rất nhiều so với việc đảm bảo mức dự trữ đó. Thứ tư, do môi trường kinh doanh rộng khắp nên mặc dù sản phẩm đã được cung cấp sản cho khách, nhưng số doanh thu phải cần môtài khoản khoảng thời gian nhất định mới được chuyển về tài khoản của Tổng Công ty. Trong khoảng thời gian đó, để bù đắp cho những khoản phải thu này, Tổng Công ty buộc phải duy trì một lượng vốn lưu động tương đối lớn. Và cuối cùng, để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường, Tổng Công ty đã sử dụng dịch vụ cho thuê máy bay của các hãng cho thuê. Nhưng để được cung cấp dịch vụ đó, Tổng Công ty phải thanh toán trước cho nhà cung cấp một khoản; ngoài ra, khi bắt đầu thuê, còn phải tiến hành đặt cọc, các khoản đó được bù đắp bằng vốn lưu động. Tất cả các lý do trên làm cho Tổng Công ty hàng không Việt nam luôn phải duy trì một lượng lớn vốn lưu động để đáp ứng cho các nhu cầu phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở đơn vị mình. Như vậy, rõ ràng ưu điểm lớn nhất của vận tải Hàng không là rút ngắn được thời gian vận chuyển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển trong điều kiện mà các loại hình vận tải khác khó có thể đáp ứng được (nếu có thì có thể không mang lại hiệu quả kinh tế cao), là mô hình tối ưu cho vận tải xuyên Quốc gia. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là giá thành vận tải cao hơn so với các loại hình vận tải khác xuất phát từ những đặc thù riêng của chi phí kinh doanh vận tải hàng không nói chung và của Hàng không Việt Nam nói riêng. Vai trò và nhiệm vụ của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam 4.1 Vai trò của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam Mặc dù vận tải Hàng không là một ngành non trẻ (khoảng 100 năm), nhưng lại có tốc độ phát triển như vũ bão và vai trò của nó càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với các Quốc gia trên thế giới. Nó không những thể hiện sự phát triển mà còn đem lại sức mạnh tài chính cho mọi Quốc gia. Vận tải Hàng không đang có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và xã hội Việt Nam. Dựa vào sự phát triển của Hàng không, nước ta từng bước sẽ hội nhập vào thị trường Quốc tế cũng như đáp ứng mọi nhu cầu vận tải, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các._.òn tồn tại trong những năm trước bằng việc đánh giá và thu hồi các khoản phải thu. Tăng tốc độ thu hồi các khoản phải thu từ các đại lý. Dự tính nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty hàng không Việt nam trong giai đoạn 2000 – 2005. Trên cơ sở các mục tiêu, kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, Tổng Công ty đã lập dự tính nhu cầu vốn lưu động để đáp ứng các kế hoạch đó như sau: Biểu 11: Dự báo nhu cầu vốn lưu động giai đoạn 2001 –2005 Đơn vị: triệu VND Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1. Dự trữ bằng tiền 450,000 450,000 180,000 180,000 180,000 2.Dự trữ trong kho 373,579 435,450 755,931 850,315 861,283 Tồn kho phụ tùng khí tài 307,395 360,000 666,900 750,600 750,600 Đồ uống dụng cụ 19,489 22,216 26,215 29,362 32,591 Dự trữ khác 46,697 53,234 62,816 70,353 78,093 3. ĐC, KQ các HĐ thuê MB 254,937 254,700 254,700 254,700 254,700 Tổng số 1,452,096 1,575,599 1,946,562 2,135,329 2,157,267 (Nguồn Tổng Công ty hàng không Việt nam ) Như vậy theo dự báo, trong thời gian tới, khi tiến hành hệ thống thanh toán tập trung thì vốn bằng tiền của Tổng Công ty rút xuống còn khoảng 180 tỷ đồng cũng đủ để hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty diễn ra bình thường, Tổng Công ty không cần phải dự trữ một lượng vốn lớn như hiện tại nữa. Dự trữ kho, do trong các năm tới, Tổng Công ty có kế hoạch đầu tư mua sắm một số máy bay mới, thuê thêm máy bay nên phải dự trữ thêm một lượng lớn phụ tùng khí tài, đặc biệt là từ năm 2003 giá trị kho phụ tùng khí tài đã tăng 73.6% so với dự tính kế hoạch năm 2002. II Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty 1 Các giải pháp nhằm bổ sung vốn lưu động Để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, Tổng Công ty đã đề ra một số biện pháp nhằm bổ sung vốn lưu động như sau: Bổ sung vốn lưu động từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Hiện nay, Nhà nước không có chính sách bổ sung vốn lưu động hàng năm cho Tổng Công ty mà nhu cầu về vốn lưu động ngày một lớn nên nguồn vốn lưu động hiện có và nguồn vay là không đáp ứng đủ, mặt khác nguồn vay lại phải chịu chi phí. Vì vậy, năm 2002, Tổng Công ty hàng không Việt nam đã trình lên Chính phủ xin được trích bổ sung vốn lưu động bằng Quỹ Đầu tư Phát triển. Theo quy chế này, hàng năm Tổng Công ty tiến hành trích 15% Quỹ Đầu tư Phát triển để bổ sung vào vốn lưu động đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vay vốn lưu động từ ngân hàng Có một biện pháp khác để bổ sung vốn lưu động là đi vay. Có hai phương thức vay phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty hàng không Việt nam như sau: Hạn mức tín dụng: Trong kỳ, Tổng Công ty có thể thực hiện vay-trả thành nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức đặt ra. Số dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, nhưng đến cuối kỳ Tổng Công ty phải tiến hành trả nợ sao cho không vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay Tổng Công ty chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh mua hàng và nêu yêu cầu vay. Đây là một hình thức tín dụng rất thuận tiện cho các khách hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên, nó phát sinh khi doanh nghiệp có nhu cầu. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không cần xác định thời gian tín dụng và kỳ hạn nợ. Vay vốn lưu động có thời hạn: Có một phương thức vay khác đáp ứng cho các nhu cầu mang tính kế hoạch đó là vay có kỳ hạn. Căn cứ vào nhu cầu bổ sung vốn lưu động trong kỳ, Tổng Công ty tiến hành đi vay ngắn hạn. Chẳng hạn như hàng năm Tổng Công ty có nhu cầu bổ sung vốn lưu động vào kho phụ tùng máy bay, Tổng Công ty có thể trình lên ngân hàng kế hoạch bổ sung vốn của mình để ngân hàng xem xét và cung cấp tín dụng nếu các điều kiện là hợp lệ. Sử dụng các nguồn vốn tạm nhàn rỗi Trong kỳ hoạt động sản xuất, có những thời điểm Tổng Công ty có một lượng vốn tạm nhàn rỗi rất lớn từ các quỹ như: Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ phúc lợi, khen thưởng, Quỹ trợ cấp mất việc làm, Quỹ Đầu tư phát triển. Năm 2001, tổng các quỹ này tính đến thời điểm cuối năm là trên 500 tỷ đồng. Đây là một con số rất lớn, nếu Tổng Công ty tận dụng được nguồn này thì hiệu quả ngày càng cao, nguồn vốn tạm nhàn rỗi là một nguồn huy động được từ trong nội bộ Tổng Công ty vì thế có thể nói đây là một nguồn vốn “rẻ”, lại rất thuận tiện cho Tổng Công ty. Vì vậy, để tận dụng thời gian các quỹ này chưa có các nhu cầu chi trả, Tổng Công ty có thể dùng tạm để bổ sung cho vốn lưu động. Tuy nhiên, khi sử dụng các quỹ này để bổ sung vào vốn lưu động, Tổng Công ty phải quan tâm đến vấn đề bảo tồn các quỹ đó. Ngoài các nguồn trên, vốn lưu động của Tổng Công ty còn có thể sử dụng các khoản như: Thuế vốn để lại doanh nghiệp, các khoản chênh lệch vốn chiếm dụng trong thanh toán… để bổ sung thêm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty hàng không Việt nam – Vietnam Airlines. 2.1 Giải pháp đối với việc quản lý vốn bằng tiền Xuất phát từ những hạn chế tồn tại và để đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra ở trên, Tổng Công ty hàng không Việt nam cần phải thực hiện các công việc sau: Tổ chức lại hệ thống ngân hàng sử dụng - Trong nước: Sử dụng ngân hàng Ngoại thương Việt nam (VCB) là ngân hàng trung tâm trong việc quản lý các nguồn thu và thanh toán thấu chi khu vực Trung, Nam, các giao dịch thanh toán Quốc tế tại Việt nam. Sử dụng dịch vụ của ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt nam (TCB) trong việc cung cấp một số dịch vụ thu và thanh toán thấu chi khu vực phía Bắc của Tổng Công ty. - Ngoài nước: Khu vực Châu á: Tập trung các tài khoản tại Châu á vào 2-3 ngân hàng Quốc tế lớn có chi nhánh tại Việt nam, có uy tín, kinh nghiệm trong việc cung cấp dịch vụ quản lý và điều hành tiền tệ toàn cầu theo hướng tập trung tài khoản vào các ngân hàng có thế mạnh ở từng nước. Các khu vực còn lại: Trên cơ sở kết quả thực hiện tại Châu á và trong nước, nghiên cứu tập trung toàn bộ các tài khoản ngân hàng của Tổng Công ty ở các khu vực còn lại vào các ngân hàng lựa chọn. Tổ chức lại hệ thống tài khoản ngân hàng Hệ thống tài khoản ngân hàng gồm tài khoản của Tổng Công ty và tài khoản của các đơn vị trực thuộc. Các tài khoản Tổng Công ty do Tổng giám đốc làm chủ tài khoản và trực tiếp điều hành để quản lý nguồn tiền thu bán tại thị trường và các giao dịch tiền tệ do Tổng Công ty trực tiếp thực hiện. Tài khoản đơn vị do thủ trưởng đơn vị làm chủ tài khoản để phục vụ cho hoạt động của đơn vị. - Trong nước: Mở các tài khoản của Tổng Công ty tại 3 khu vực Bắc, Trung, Nam; Chuyển các tài khoản đơn vị về 2 ngân hàng được lựa chọn là VCB và TCB: Cấu trúc tài khoản Tổng Công ty tại ngân hàng VCB: + 1 tài khoản trung tâm tiền USD và 1 tài khoản trung tâm VND tại VCB trung ương. + 1 tài khoản chuyên thu USD và 1 tài khoản chuyên thu VND tại chi nhánh VCB – TP Hồ Chí Minh. + 1 tài khoản chuyên thu USD và 1 tài khoản chuyên thu VND tại chi nhánh VCB – TP Đà Nẵng. + 1 tài khoản chuyên thu USD và 1 tài khoản chuyên thu VND tại chi nhánh VCB – TP Hà Nội. Cấu trúc tài khoản Tổng Công ty mở tại TCB tương tự như ở VCB. - Ngoài nước: Khu vực Châu á: Chuyển các tài khoản Tổng Công ty và tài khoản các văn phòng chi nhánh tại Châu á về các ngân hàng được lựa chọn. Tài khoản các khu vực còn lại sẽ từng bước được chuyển về các ngân hàng lựa chọn theo hướng tập trung hoá theo khu vực. Cấu trúc tài khoản đối với các đơn vị trong nước và văn phòng chi nhánh: Tại mỗi đơn vị, văn phòng chi nhánh sẽ duy trì một hệ thống tài khoản gồm: 1 tài khoản thanh toán đồng bản tệ và 1 tài khoản thanh toán đồng USD tuỳ theo tính chất hoạt động của từng đơn vị và văn phòng chi nhánh. Đối với các đơn vị có nguồn thu ngoài vận tải hàng không sẽ duy trì thêm 1 tài khoản chuyên thu. Lưu chuyển tiền tệ Thu tiền - Trong nước: Các khoản tiền thu bán thu bằng điện chuyển tiền, séc của các đại lý thuộc 3 văn phòng khu vực (VPKV) quản lý được chuyển vào tài khoản Tổng Công ty mở tại chi nhánh VCB mỗi khu vực. Các khoản tiền thu bán bằng tiền mặt từ các phòng vé thuộc các VPKV quản lý được chuyển vào tài khoản Tổng Công ty mở tại chi nhánh TCB mỗi khu vực. Các khoản thu trực tiếp khác của các đơn vị được chuyển vào tài khoản Tổng Công ty tại mỗi khu vực. Các khoản thu ngoài vận tải được chuyển vào tài khoản chuyên thu cảu các đơn vị. Tất cả các khoản tiền thu bán chứng từ thu bằng VND và USD của 3 VPKV khi được chuyển vào tài khoản Tổng Công ty tại các chi nhánh của TCB và VCB cuối ngày sẽ được chuyển vào các tài khoản Tổng Công ty tại ngân hàng TCB và VCB trung ương. Các khoản thu ngoài vận tải hàng không cuối tuần sẽ được chuyển về tài khoản Tổng Công ty tại TCB và VCB trung ương tương ứng. - Ngoài nước: Tất cả các khoản thu bằng tiền mặt, séc, điện chuyển tiền từ các đại lý trực thuộc các văn phòng chi nhánh sẽ chuyển vào tài khoản của Tổng Công ty tại mỗi nước. Tất cả các khoản thu tiền bán chứng từ từ các đại lý offlines sẽ được chuyển vào tài khoản Tổng Công ty mở tại VCB trung ương. Chi tiền - Trong nước: áp dụng dịch vụ thấu chi qua ngân hàng Đầu năm trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị đã được Tổng giám đốc phê duyệt, các đơn vị lập kế hoạch tài chính năm làm cơ sở cho ngân hàng áp dụng dịch vụ thấu chi. Hàng tháng đơn vị đăng ký hạn mức sử dụng tiền với ngân hàng đồng thời gửi bản đăng ký này về Ban Tài chính kế toán Tổng Công ty. Hạn mức này là cơ sở để ngân hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu của đơn vị trong tháng trên các tài khoản thanh toán theo hình thức thấu chi. Tổng hạn mức kinh phí năm không vượt kế hoạch tài chính năm. Cuối ngày, ngân hàng sẽ khấu trừ tự động vào tài khoản trung tâm Tổng Công ty tương đương với lượng tiền đã chi của đơn vị. Trường hợp tài khoản Tổng Công ty không đủ tiền, ngân hàng sẽ tự động áp dụng dịch vụ thấu chi đối với tài khoản Tổng Công ty để đảm bảo các đơn vị vẫn có tiền chi tiêu. - Ngoài nước: áp dụng dịch vụ thấu chi hay hình thức cấp ngân sách đối với các văn phòng chi nhánh nếu điều kiện cho phép. Cách thức thấu chi như với các đơn vị trong nước. Đối với một số văn phòng chi nhánh thu từ đồng bản tệ và USD không đủ cấp ngân sách, ngân hàng sẽ chuyển tiền từ tài khoản Tổng Công ty tại Việt nam vào tài khoản của văn phòng chi nhánh. Thực hiện các khoản thanh toán chi trả bằng đồng tiền bản tệ từ các tài khoản nước ngoài. Phần tiền bản tệ còn dư lại ở nước ngoài sẽ được sử dụng linh hoạt phù hợp với khả năng cân đối tiền tệ và mức độ dụng dịch vụ của ngân hàng của Tổng Công ty hàng không Việt nam. Tổ chức thanh toán tập trung Hiện tại, Tổng Công ty đang thực hiện thanh toán theo phân cấp tại các đơn vị. Hình thức thanh toán này giúp làm giảm khối lượng nghiệp vụ phát sinh tại Tổng Công ty tuy nhiên nó cũng có nhiều nhược điểm như: Không có đủ thông tin thực hiện cho các khoản thanh toán nằm tại đơn vị cho các ban chuyên môn; Các khoản chi phí chung bị dàn trải tại tất cả các đầu mối nên phải duy trì lượng vốn lưu động bằng tiền rất lớn tại các đơn vị để sẵn sàng phục vụ thanh toán gây lãng phí lớn về vốn và bị động trong điều hành tiền tệ, trong khi đó thì hệ thống theo dõi chưa đồng bộ, không có thông tin thống nhất, chuẩn về sản lượng khai thác để đối chiếu, kiểm tra. Ngoài ra, cách quản lý điều hành tiền tệ như vậy làm cho Tổng Công ty gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản chi tại các đơn vị là có đúng mục đích hay không… Những tồn tại như trên cho thấy việc thanh toán theo phân cấp như hiện nay là không phù hợp với mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và tăng khả năng sinh lợi của các khoản vốn lưu động nhàn rỗi. Vì vậy mà ta cần thu hút các nguồn tiền từ các đơn vị về Tổng Công ty và thực hiện thanh toán chủ yếu tại đây để tăng tính chủ động trong công tác thanh toán hay nói cách khác là thực hiện thanh toán tập trung. Thanh toán tập trung thực chất là một biện pháp quản lý vốn lưu động bằng tiền một cách hiệu quả hơn. Việc tổ chức thanh toán tập trung sẽ được thực hiện dựa trên quan điểm: Tập trung toàn bộ các khoản thanh toán mang tính chất chi phí chung cho toàn mạng vận tải hàng không về trụ sở chính Tổng Công ty bao gồm các khoản sau: Nhiên liệu bay. Suất ăn. Phục vụ thương mại. Phục vụ kỹ thuật. Phục vụ hàng hoá. Điều hành bay, quá cảnh. Chi trả sân bay. Một số khoản phục vụ khách như: Báo chí, giải trí, thuê xe sân đỗ… Mua đồ uống, phục vụ hành khách. Các đơn vị trực thuộc chỉ còn thanh toán các khoản chi đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị mình và một số khoản chi phí bán (quảng cáo, khuyến mại, hoa hồng…), chi phí phục vụ hành khách (chi phí chậm nhỡ chuyến, khách tour…). Đồng thời với việc tập trung thanh toán trên Tổng Công ty cần phải có quy định để phân định rõ trách nhiệm của từng ban, từng đơn vị liên quan trong quy trình thanh toán. Việc tổ chức thanh toán tập trung đối với các khoản chi phí chung cho toàn mạng có ưu điểm là khắc phục được những hạn chế của hệ thống thanh toán hiện tại như đã nêu trên. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện tốt cho việc quản lý điều hành tiền tệ tập trung, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng tiền có được. Tuy nhiên, hệ thống thanh toán tập trung cũng làm tăng khối lượng công việc sự vụ tại các Ban trên Tổng Công ty. Các ban chuyên môn phải tiến hành đào tạo và bố trí chuyên viên tài chính, kế toán, thống kê để theo dõi các khoản phải thu; hệ thống này đòi hỏi phải triển khai một chương trình máy tính thống nhất xuống các đơn vị, ban ngành, điều này cần phải có thêm thời gian mới có thể dần dần hoàn thiện được. Mặt khác, các khoản thanh toán chi phục vụ chuyến bay phần lớn thanh toán bằng đồng tiền địa phương, trong khi chưa triển khai được đồng thời hệ thống quản lý tiền toàn cầu thì việc tập trung các khoản thanh toán này về Tổng Công ty có thể sẽ gặp khó khăn trong việc sử dụng tiền để thanh toán. 2.1.5 Sử dụng các dịch vụ ngân hàng Sử dụng các dịch vụ cao cấp của ngân hàng được lựa chọn (tại Việt nam là 2 ngân hàng VCB và TCB, tại nước ngoài là các ngân hàng được lựa chọn trong thời gian tới) được bắt đầu khi hệ thống quản lý tiền tệ có nối mạng điện tử của Tổng Công ty được hoàn thiện. Mục tiêu của việc sử dụng các dịch vụ này là quản lý dòng tiền thu, các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính tiền tệ khác. Tuy nhiên các ngân hàng này không phải là duy nhất trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong trường hợp cần thiết như: Mua bán ngoại tệ, đầu tư tài chính, vay vốn… Trong nước: Việc cấp ngân sách cho các đơn vị trong nước thực hiện thông qua sử dụng hình thức thấu chi qua 2 ngân hàng được lựa chọn là VCB và TCB. Từng bước sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử để quản lý điều hành các giao dịch tiền tệ phù hợp với các quy định của Nhà nước. Ngoài nước: Nghiên cứu sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng nước ngoài theo từng cấp độ phù hợp điều kiện pháp lý và trình độ quản lý của người sử dụng. Tổ chức điều hành tiền tệ và thanh toán tập trung các chi phí vận tải hàng không bằng đồng tiền địa phương. 2.1.6 Hiệu quả của các kiến nghị này Bằng việc sắp xếp lại hệ thống tài khoản, hệ thống ngân hàng, triển khai hệ thống thanh toán tập trung, từng bước sử dụng các dịch vụ cao cấp của ngân hàng trong quản lý tiền tệ, Tổng Công ty hàng không Việt nam sẽ hạn chế được tối đa những bất cập mà công tác quản lý điều hành tiền tệ hiện nay gặp phải, không những thể còn đạt được các lợi ích cao hơn. Cụ thể là: Kiểm soát được số dư tiền trên các tài khoản, dòng luân chuyển thu chi tiền tệ phát sinh từ bất cứ đâu thuộc Hãng Hàng không Quốc gia Việt nam, cung cấp thông tin đầy đủ và trực tuyến về các dòng tiền. Trợ giúp Tổng Công ty thực hiện các giao dịch với ngân hàng một cách nhanh chóng và tiết kiệm: Khi có đầy đủ cơ sở pháp lý về thanh toán điện từ thông qua mạng điện tử của ngân hàng, Tổng Công ty hàng không Việt nam có thể thực hiện ngay các giao dịch từ trụ sở của mình. Nếu chưa đủ các cơ sở pháp lý trong thanh toán, một số ngân hàng vẫn có thể trợ giúp Tổng Công ty trong việc thực hiện các giao dịch ngân hàng một cách nhanh chóng nhất. Thay vì Tổng Công ty phải gửi các lệnh giao dịch ngân hàng từ Việt nam sang các nước mà Tổng Công ty có tài khoản như hiện nay đang tiến hành, Tổng Công ty chỉ gửi các lệnh đó tới các chi nhánh ngân hàng tại Việt nam. Bằng hệ thống ngân hàng điện tử, ngân hàng sẽ đưa lệnh đó đến đúng địa chỉ cần thực hiện với thời gian nhanh nhất. Hình thức này sẽ giúp Tổng Công ty giảm thiểu các chi phí chuyển tiền nhất là khi đang thực hiện hệ thống thanh toán tập trung. Trong lĩnh vực chuyển đổi tiền tệ, dặc biệt là việc chuyển đồng bản tệ sang USD, Tổng Công ty không nhất thiết phải chuyển đồng bản tệ từ nước ngoài về Việt nam sau đó mới thực hiện các giao dịch chuyển đổi như hiện nay mà Tổng Công ty có thể ký hợp đồng chuyển đổi tiền tệ với các ngân hàng theo một tỷ giá thoả thuận, đến thời điểm thực hiện hợp đồng trên tài khoản của Tổng Công ty đã có lượng USD được quy đổi đó. Giúp đối chiếu số liệu dễ dàng: Thông qua hệ thống thanh toán điện tử, tại trụ sở chính ở Hà Nội có thể in giấy báo ngân hàng của tất cả các tài khoản . Ngoài ra nó còn có chức năng cho phép đối chiếu số liệu ngân hàng với hệ thống tài khoản kế toán giúp cho quy trình đối chiếu trở nên dễ dàng thuận tiện hơn nhiều. Giảm phí chuyển tiền và rủi ro hối đoái: Thông qua hệ thống thanh toán điện tử, Tổng Công ty được tư vấn, cung cấp thông tin về diễn biến tỷ giá các đồng tiền tại từng nước, khu vực, thời điểm cho phép Tổng Công ty có thể lựa chọn thời điểm và địa điểm chuyển đổi tiền tệ sao cho có lợi nhất giảm phát sinh chênh lệch tỷ giá ngoài ra còn có thể đem lại lợi nhuận. Mặt khác, thông qua hệ thống này Tổng Công ty còn có thể tiết kiệm chi phí chuyển tiền bằng việc sử dụng tập trung vào một ngân hàng cho mỗi khu vực vì toàn bộ các giao dịch chuyển tiền từ các trụ sở chính ở nước ngoài đến các văn phòng chi nhánh hoàn toàn là số trên sổ sách nên chi phí chuyển tiền sẽ rẻ hơn. Giảm thiểu tiền vay: Thay vì sử dụng 23 ngân hàng để chứa tiền như hiện tại, trong tương lai, Tổng Công ty chỉ còn sử dụng từ 3 đến 4 ngân hàng. Tiền trước đây nằm rải rác trên các tài khoản thì bây giờ được tập trung ở 3 đến 4 tài khoản trung tâm sẽ giúp Tổng Công ty hàng không Việt nam giảm số dư tiền trên các tài khoản để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh từ khoảng 500 tỷ đồng xuống còn 300 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa là Tổng Công ty đã giảm được lượng tiền vay tương ứng. Cho phép Tổng Công ty có nhiều cơ hội tham gia sử dụng các dịch vụ của ngân hàng để đầu tư tăng lợi nhuận: Với cách thức quản lý như vậy, Tổng Công ty đã giảm được lượng tiền nhàn rỗi trên các tài khoản tại các văn phòng chi nhánh và đơn vị trực thuộc về trụ sở chính, tạo cơ hội cho Tổng Công ty hàng không Việt nam sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư kinh doanh tăng lợi nhuận như: hình thức gửi tiền qua đêm lấy lãi, Sweeping, Pooling, Netting, FX Hedge… Giải pháp đối với hàng hoá tồn kho: Trong thời gian tới, Tổng Công ty hàng không Việt nam có kế hoạch đầu tư mua sắm một số máy bay mới, mở thêm một số đường bay, mở lại một số đường bay offlines, tăng tần suất bay… điều này trực tiếp làm cho nhu cầu vốn lưu động đầu tư vào hàng tồn kho trong thời gian tới tăng mạnh, đặc biệt là đối với vật tư phụ tùng máy bay. Để đáp ứng được đòi hỏi trong thời gian tới mặt khác phải đảm bảo cho việc sử dụng vốn lưu động là tiết kiệm và hiệu quả nhất Tổng Công ty nên thực hiện phương pháp sử dụng chung kho vật tư phụ tùng với một số hãng hàng không khác trong khu vực và trên thế giới. Phương pháp này như sau: Hiện nay trên thế giới, có các tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ chuyên cung cấp phụ tùng máy bay cho các hãng hàng không ở nhiều Quốc gia khác nhau. Trong thời gian tới khi hàng không Việt nam đã tiến hành nghiên cứu kỹ hình thức dùng chung kho thì có thể sử dụng dịch vụ này. Phương pháp này rất ưu việt vì nó vừa giúp Tổng Công ty giảm bớt lượng vốn đầu tư vào việc mua sắm phụ tùng máy bay, vào kho bãi bảo quản vừa đáp ứng được nhu cầu sửa chữa bảo dưỡng khi cần thiết. Tuy nhiên việc sử dụng chung kho hàng hoá giữa các hãng hàng không nảy sinh nhiều vấn đề về luật pháp như quản lý các tài sản liên quan đến dùng chung kho, các thủ tục liên quan đến dùng chung kho đến công tác hạch toán kế toán, xử lý các nghiệp vụ phát sinh hiện chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh. Điều đó sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng hình thức dịch vụ này vào Việt nam. Đối với các khoản phải thu Mục tiêu chính trong quản lý các khoản phải thu hiện tại của Tổng Công ty hàng không Việt nam là đẩy nhanh tốc độ thu hồi các khoản phải thu, giảm tỷ lệ chiếm dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên, trong quy chế quản lý thu bán sản phẩm hiện tại của Tổng Công ty có đưa ra quy định là hàng tháng các đại lý sẽ tiến hành nộp báo cáo bán và thanh toán tiền cho Tổng Công ty 4 lần đối với các đại lý trong lãnh thổ nước Việt nam và 2 lần đối với các đại lý ngoài lãnh thổ. Việc quản lý thu bán như vậy giúp giảm lượng công việc phải thực hiện đối với Tổng Công ty nhưng lại không hiệu quả trong công tác quản lý đồng tiền. Vì lý do tiền thu bán các đại lý thu về hàng ngày nhưng cứ trung bình 7 ngày (đối với các đại lý trong nước) hoặc 15 ngày sau(đối với các đại lý nước ngoài) mới được chuyển về Tổng Công ty vậy Tổng Công ty sẽ bị chiếm dụng vốn trong vòng 7 hoặc 15 ngày đó mà không hề sinh lợi. Để khắc phục được tình trạng này, trong thời gian tới Tổng Công ty cần có kế hoạch rút ngắn thời gian thu hồi các khoản thu bán này xuống có thể là 8 lần / tháng đối với các đại lý trong nước và 4 lần / tháng đối với các đại lý ở nước ngoài. Biện pháp này có thể làm tăng chi phí quản lý nhưng lại giúp ích cho Tổng Công ty trong việc điều hành tiền tệ một cách hiệu quả hơn. Đặc biệt là trong thời gian tới khi việc sử dụng hệ thống ngân hàng điện tử trở thành phổ biến, việc thu bán sản phẩm sẽ được diễn ra hàng ngày, tiền từ cung cấp các loại chứng từ vận chuyển sẽ được chuyển trực tiếp từ đại lý về trụ sở chính Tổng Công ty, các khoản chênh lệch, hoa hồng đại lý cũng được thanh toán qua hệ thống này mà không cần phải thông qua bưu điện hay gửi đường hàng không như hiện nay nữa. Tổng Công ty có thể có ngay nguồn tiền để kịp thời phục vụ sản xuất kinh doanh của mình. 3 Một số kiến nghị 3.1 Một số kiến nghị với Nhà nước Trong giai đoạn vừa qua, Tổng Công ty hàng không Việt nam đã có những nỗ lực to lớn trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Nhưng để đảm bảo đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong công tác quản lý này đòi hỏi phải có một số điều kiện về pháp lý như sau: Thứ nhất, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt nam, việc thanh toán điện tử thông qua hệ thống ngân hàng mới chỉ được quy định cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng mà chưa có quy định cụ thể rõ ràng cho các doanh nghiệp. Việc quản lý tiền tệ mang tính toàn cầu và sử dụng các dịch vụ cao cấp hơn của ngân hàng trong quản lý tiền tệ là còn khá mới mẻ trong các doanh nghiệp Việt nam. Cho nên khó khăn hiện tại là chưa có văn bản pháp lý nào quy định cụ thể việc này. Vì vậy, để giúp đỡ Tổng Công ty trong việc quản lý vốn lưu động thời gian tới, Chính phủ cần nghiên cứu và có văn bản quy định cụ thể việc thực hiện thanh toán điện tử thông qua hệ thống ngân hàng đối với các doanh nghiệp để Tổng Công ty hàng không Việt nam có cơ sở thực hiện các giải pháp đề xuất trên. Thứ hai, về công tác thu hồi, xử lý công nợ tồn đọng: Hiện tại thủ tục hành chính của Việt nam trong việc thu hồi công nợ rất phức tạp. Vì vậy, trong thời gian tới Chính phủ cần có một số biện pháp để dần từng bước giảm bớt khó khăn trong công tác đánh giá, thu hồi nợ, thay đổi từng bước các chính sách về quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xử lý các khoản nợ khó đòi trong trường hợp bất khả kháng, giảm các thủ tục hành chính đi kèm cho phù hợp với thông lệ thanh toán Quốc tế. Thứ ba, để tạo điều kiện cho việc tiến hành dùng chung kho phụ tùng vật tư máy bay với các hãng hàng không khác của Tổng Công ty hàng không Việt nam, vì đây là lĩnh vực khá mới lại mang đặc thù riêng của ngành hàng không nên trong thời gian tới, Chính phủ cần hỗ trợ bằng việc ban hành các văn bản điều chỉnh cụ thể cho hoạt động này như: Các văn bản về quản lý, sử dụng tài sản, các quy chế về hạch toán kế toán, thủ tục đánh giá giá trị, thanh lý hàng hoá… liên quan đến vấn đề dùng chung kho vật tư phụ tùng máy bay với các hãng khác. Một số kiến nghị với Tổng Công ty hàng không Việt nam Tổng Công ty hàng không Việt nam cần xem xét một số ý kiến sau để đưa các giải pháp trên vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: Thứ nhất, về điều kiện pháp lý trong việc tiến hành thanh toán điện tử thông qua hệ thống ngân hàng, Tổng Công ty cần xin phép các cơ quan Nhà nước khi thực hiện các dịch vụ chuyển đổi tiền tệ và đầu tư tiền tệ ngoài lãnh thổ Việt nam (ngoại tệ). Đề nghị với ngân hàng Nhà nước tư vấn các thông tin liên quan đến một số các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt nam về giấy phép, quy mô, thời gian hoạt động và chính sách của ngân hàng đó tại Việt nam trước khi lựa chọn ngân hàng. Thứ hai, hiện nay cán bộ tài chính Tổng Công ty chưa được đào tạo một cách cơ bản về lĩnh vực tài chính, tiền tệ hiện đại. Trong quá trình tham gia hệ thống, đòi hỏi Tổng Công ty phải có các chuyên viên giỏi sâu để thực hiện có hiệu quả vì vậy công tác đào tạo sẽ là một mục tiêu lớn để các giải pháp trên có thể áp dụng vào thực tế. Một số lớp học cơ bản về quản lý tiền tệ cần bồi dưỡng gồm: `+ Quản trị tiền mặt. + Quản trị rủi ro. + Quản lý đầu tư tài chính ngắn hạn. + Tiếng Anh chuyên ngành tài chính kế toán hàng không. Thứ ba, Tổng Công ty cần phải tăng tốc độ đường truyền mạng bằng cách đầu tư riêng một cổng đường truyền cho lĩnh vực tài chính kế toán để truy cập vào hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng. Đầu tư một số trang thiết bị lẻ để tăng tốc độ truy cập mạng điện tử. Nâng cấp một số máy tính thuộc thế hệ mới… Thứ tư, Tổng Công ty cần nhanh chóng triển khai, triển khai đồng bộ để đưa hệ thống thanh toán tập trung vào hoạt động và ngày một hoàn thiện. Thứ năm, về công tác kho, Tổng Công ty cần nghiên cứu thêm các hình thức dùng chung kho trên thế giới, tham khảo các thông tin liên quan đến lĩnh vực này. Ngoài ra, để chuẩn bị cho hoạt động dùng chung kho với các hãng hàng không khác, Tổng Công ty cần tiến hành đánh giá thế mạnh về kho phụ tùng máy bay của mình xem đâu là mặt lợi thế, hạn chế… Trên cơ sở các nghiên cứu trên trong tương lại Tổng Công ty cần xây dựng phương án dùng chung kho với các hãng hàng không trong khu vực, nhất là các hãng nào sử dụng các loại máy bay hiện tại Tổng Công ty đang sử dụng. Thứ sáu, về phần công nợ, Tổng Công ty cần có biện pháp quản lý chặt các khoản công nợ trong thanh toán ví dụ như: Đánh giá tình hình trả nợ của các đại lý qua đó mới có kế hoạch cung cấp sản phẩm cho các đại lý trong tương lai. Mặt khác, cần rút ngắn thời gian xử lý các thông tin liên quan đến quá trình thanh toán các khoản nợ để tăng tốc độ thu nợ. Ngoài ra, bên cạnh việc tăng tốc độ thu hồi các khoản phải thu, Tổng Công ty cần gắn trách nhiệm công nợ với nhà quản lý của các đơn vị của từng khu vực để cải thiện tình hình thu nợ thời gian qua. Kết luận Trong thời gian gần 4 tháng thực tập tại Tổng Công ty hàng không Việt nam, em đã tìm hiểu kỹ quá trình kinh doanh cũng như công tác quản lý sử dụng vốn lưu động của Tổng Công ty. Xuất phát từ tình hình thực tế em xin mạnh dạn đánh giá và rút ra những vấn đề Tổng Công ty cần giải quyết để nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động nhằm tăng lợi nhuận, phát triển sản xuất kinh doanh tạo cho ngành hàng không Việt nam một vị trí trên thị trường vận tải hàng không Quốc tế. Do trình độ và thời gian hạn hẹp nên những vấn đề trình bày trong chuyên đề này không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô trong Khoa Ngân hàng Tài chính cũng như các anh chị phòng Tài chính Đầu tư Ban Tài chính Kế toán Tổng Công ty hàng không Việt nam. Đó là những bài học quý báu cho việc học tập và nghiên cứu của em sau này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – TS Lưu Thị Hương 2. Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học Tài chính kế toán 3. Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp – Nguyễn Hải Sản 4. Các tạp chí: Tài chính Công trình hàng không, Tạp chí Tài chính, Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp,… Mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1: Các vấn đề lý thuyết chung về vốn lưu động trong doanh nghiệp 3 I. Vốn lưu động trong doanh nghiệp 3 1. Khái niệm 3 2. Phân loại 4 3. Vai trò 5 4. Kết cấu vốn lưu động trong doanh nghiệp 6 II. Quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp 6 1. Quản lý vốn lưu động 6 2. Nhu cầu vốn lưu động và các biện pháp đảm bảo vốn lưu động 18 3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả quản lý vốn lưu động 25 Chương 2: Thực trạng về quản lý vốn lưu động tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam 27 I. Tổng quan về tổng công ty hàng không 27 1. Quá trình hình thành và phát triển 27 2. Tình hình tổ chức hoạt động 28 3. Đặc điểm kinh doanh vận tải hàng không 30 4. Vai trò nhiệm vụ của Tổng công ty 31 5. Khái quát về hoạt động sản xuất kinh doanh 32 II. Vốn lưu động và tình hình quản lý vốn lưu động tại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam 37 1. Cơ cấu vốn lưu động 37 2. Tình hình quản lý sử dụng vốn lưu động 39 III. Những mặt hạn chế trong công tác quản lý vốn lưu động 49 1. Vốn bằng tiền 49 2. Hàng tồn kho 51 3. Khoản phải thu 51 4. Đầu tư ngắn hạn 51 Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Tổng công ty hàng không Việt Nam 52 I. Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh và dự tính nhu cầu vốn lưu động 52 1. Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh 52 2. Quan điểm mục tiêu quản lý, sử dụng vốn lưu động 54 3. Dự tính nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh 56 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động 56 1. Các giải pháp bổ sung vốn lưu động 57 2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý 58 3. Một số kiến nghị 67 Kết luận 70 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4632.doc
Tài liệu liên quan