LỜI NÓI ĐẦU
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Những năm gần đây nhờ chính sách đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh, đại bộ phận đời sống nhân dân đã được nâng lên rõ rệt. Công cuộc xoá đói giảm nghèo đạt được những thành quả to lớn. Song một bộ phận không nhỏ nhân dân đặc biệt là dân cư vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu cảnh đói nghèo, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Sự phân
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn cho vay ở Ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chia giàu nghèo đã và đang diễn ra mạnh là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
Từ những thực tế đó, Đảng và nhà nước ta đã coi xoá đói giảm nghèo là mục tiêu đặc biệt quan trọng. Ngay từ năm 1992 xoá đói giảm nghèo đã trở thành phong trào ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngày 29 tháng 11 năm 1997 Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã có chỉ thị số 23/CT-TW về lãnh đạo công tác xoá đói giảm nghèo. Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII) ngày 22 tháng 12 năm 1997 đã quyết định chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo thời kỳ 1998-2000. Hiện nay chúng ta đang thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005. Từ những quan tâm của Đảng và Nhà nước mà chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả đáng kể, giảm tỷ lệ nghèo đói trong cả nước từ gần 30% năm 1992 xuống còn 17,7% năm 1997 và 10% năm 2000 (theo chuẩn mực cũ). Nếu theo chuẩn mực nghèo mới áp dụng từ ngày 1/1/2001 thì năm 2001 cả nước còn khoảng 2,7 triệu hộ (khoảng 13,5 triệu người) chiếm gần 17% tổng số hộ trong cả nước.
Một trong những bài học về sự thành công của công tác xoá đói giảm nghèo là nhờ có sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng, sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, huy động mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài cho công tác xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên phong trào xoá đói giảm nghèo vẫn chưa đồng đều ở các địa phương, nguồn lực huy động còn tản mạn, chưa có các giải pháp xoá đói giảm nghèo mang tính vĩ mô trên phạm vi cả nước. Vì vậy nếu không có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, quan điểm, giải pháp tổ chức thực hiện thì trong những năm tới khó có thể thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo trong những năm qua cho thấy muốn nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay vốn đối với hộ nghèo thì phải làm tốt công tác quản lý vốn và đầu tư vốn sao cho đúng đối tượng, đúng mục đích. Vì thực chất để giúp đỡ hộ nghèo vượt ra thoát khỏi tình trạng đói nghèo thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp xoá đói giảm nghèo nhằm xoá bỏ tận gốc căn nguyên của sự đói nghèo. Do đó công tác quản lý và sử dụng vốn cho hộ nghèo vay là rất cần thiết và là một trong những nguyên nhân mang lại thành công cho xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Vì vậy tôi xin mạnh dạn chọn đề tài : "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn cho vay ở ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây" với hy vọng là bài viết của mình có ý nghĩa với công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Hà Tây nói riêng cũng như ở các vùng khác trên toàn quốc.
Nội dung đề tài gồm ba phần
CHƯƠNGI: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO Ở HÀ TÂY.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO HÀ TÂY.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp em đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa khoa học quản lý, các cô chú ở ngân hàng nông nghiệp Hà Tây. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô cùng các cô chú.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Phan Kim Chiến người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Do thời gian hạn chế và trình độ có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu xót, em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn. Mọi thắc mắc xin liên hệ Phạm Thanh Hoài – Lớp QLKT 40B
CHƯƠNGI: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO.
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ SỰ CẤN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1/ Những vấn đề cơ bản về đói nghèo
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về xoá đói giảm nghèo trên thế giới. Nhưng đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống như: ăn, ở, mặc, đi lại, vệ sinh, y tế, giáo dục....Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về số lượhog và mức độ, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo ở quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của các quốc gia khác. Vì vậy việc nhìn nhận và tổ chức thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả cần phải tham khảo khái niệm và kinh nghiệm, chuẩn mực đánh giá, chỉ tiêu và các giải pháp thực hiện của các nước trên thế giới từ đó nắm rõ tình hình của ta để có biện pháp thích hợp mang lại hiệu quả cao.
1.1 Khái niệm của nghèo đói trên thế giới.
Trên thế giới sự phân định giàu nghèo dựa trên 4 khía cạnh: Về thời gian, về không gian, về giới và về môi trường.
Về thời gian: Nghèo đói là những người có mức sống dưới mức chuẩn trong một thời gian dài.
Về không gian: Nghèo đói chủ yếu diễn ra ở khu vực nông thôn nơi có đông dân, phương thức sản xuất lạc hậu, các công cụ sản xuất thô sơ lạc hậu.
Về giới: Người nghèo là nữ giới thường đông hơn nam giơí.
Về môi trường: Đói nghèo thường xảy ra ở trong những vùng sinh thái khắc nghiệt.
1.2 Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam.
Nghèo: Là một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
Đói: Là bộ phận dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
2/ Các tiêu chí để xác định hộ nghèo
2.1. Tiêu chí để đánh giá hộ nghèo trên thế giới.
Trên thế giới việc phân định mức giàu nghèo của người dân phụ thuộc vào mức thu nhập bình quân đầu người (GDP/người). Ngoài ra còn căn cứ vào các chỉ tiêu: tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ. Và gần đây còn dựa vào chỉ số phát triển con người (HDI) và bao gồm ba chỉ tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập. Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này, UNDP đánh giá Việt nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (tài liệu công bố năm 1997 và lấy cơ sở số liệu năm 1995).
Như vậy, chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vấn căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác hơn, khách quan hơn.
-Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới dạng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo của từng vùng, của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó.
Quy mô nghèo SSố hộ nghèo đói của vùng hoặc quốc gia
của vùng hoặc =
quốc gia S Số hộ dân cư của vùng hoặc quốc gia
Công thức tính quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia
2.2. Tình trạng nghèo đói trên thế giới.
Nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập bình quân đầu người của toàn xã hội. Ngân hàng thế giới (WB) ấn định mức 35USD/người/tháng là mức để phân định tỷ lệ nhgèo. Với quan niệm này thế giới có 1,2 tỷ người chiếm 20% đang sống trong tình trạng nghèo khổ. Tuy nhiên tuỳ theo từng nước khác nhau mà tỷ lệ này cũng khác nhau.
2.3. Chuẩn mực đánh giá hộ nghèo của Việt Nam hiện nay.
Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân đầu người trong một tháng hay một năm được đo bằng giá trị hiện vật (thường quy ra gạo) tương ứng với một giá trị nhất định để quy đổi.
Chỉ tiêu phụ: Là các chỉ tiêu về dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện cho học tập chữa bệnh đi lại...
Tuy nhiên việc đánh giá cũng chủ yếu dựa vào mức thu nhập bình quân quy ra gạo. Việc quy ra hiện vật dễ dàng nhằm so sánh với mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian. Và nó có ý nghĩa đối với người nghèo nói chung và người nghèo đói ở nông thôn nói riêng.
Để đo lường tình trạng nghèo đói hiện nay nhiều địa phương lấy tiêu chuẩn thu nhập bình quân một khẩu trong một năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu. Gia đình nào có thu nhập 30kg gạo/khẩu/tháng được coi là nghèo. Theo tổng cục thống kê lấy đơn vị kalory/ngày/người là 2100, dưới đó sẽ là nghèo. Một khuynh hướng khác lấy mức lương thực tối thiểu do nhà nước quy định làm chuẩn.
Theo quy định tại thông báo 1751 ngày 20/5/1997 của bộ lao động thương binh xã hội hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gao ở các vùng khác nhau như sau:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo:15 kg gạo/người/tháng ~ 55 ngàn
- Vùng nông thôn đồng bằng trung du: 20 kg gạo/người/tháng ~70 ngàn
- Vùng thành thị dưới 25 kg gạo/người/tháng ~ 90 ngàn
Còn hộ đố là những có thu nhập bình quân đạt 13 kg gạo /người/tháng.
Theo chuẩn mực này thì đến cuối năm 2000 cả nước còn 10% hộ đói nghèo .
Theo quy định mới của bộ lao động thương binh xã hội thì chuẩn mực áp dụng cho giai đoạn 2001 - 2005 sẽ là:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo dưới 80 ngàn
- Vùng nông thôn đồng bằng trung du dưới 100 ngàn
- Vùng thành thị dưới 150 ngàn
Theo chuẩn mới này đến đầu năm 2001 cả nước có khoảng 27 triệu hộ nghèo chiếm tỷ lệ 17% tổng số hộ trong cả nước trong đó có 4 vùng tỷ lệ nghèo đói chiếm trên 30% .
Tuy nhiên nếu tính theo định mức mà ngân hàng thế giới nêu ra thì Việt Nam đã giảm được tỷ lệ đói nghèo từ 53% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998. Có sự sai lệch về tỷ lệ nghèo đói theo sự đánh giá ở Việt Nam và trên thế giới là rất khác nhau, tiêu chí để phân loại hộ nghèo này cũng rất khác nhau. Song một thực tế là tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đang ngày một giảm là một điều mà không ai không thừa nhận.
3. Sự cần thiết phải cho vay xoá đói giảm nghèo
3.1 Các quan điểm về xoá đói giảm nghèo .
Coi xoá đói giảm nghèo là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là một chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách kinh tế xã hội.
- Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Gắn xoá đói giảm nghèo với công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, với phát triển kinh tế hộ, ngành, nghề. Thực hiện lồng ghép xoá đói giảm nghèo với các chương trình quốc gia và an ninh xã hội.
a) Coi xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn đảng toàn dân: Xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cao quý là một chính sách kinh tế xã hội cơ bản của nước ta, mang ý nghĩa chính trị - xã hội - kinh tế to lớn, mang tính nhân văn sâu sắc và phát huy bản chất tốt đẹp của dân tộc.
Xoá đói giảm nghèo mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, là một đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi xoá đói giảm nghèo là một cuộc cách mạng gian khổ cần phải thực hiện trong một khoảng thời gian dài và đòi hỏi sự đóng góp sức người sức của rất lớn. Việc thực hiện thành công cuộc cách mạng này sẽ góp phần xoá bỏ sự chênh lệch về đời sống dân cư, sự bất bình đẳng, bất công trong xã hội, tạo nên sự đoàn kết, tương thân tương ái với tinh thần "lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều". Giúp nhân dân củng cố lòng tin vào chủ nghĩa xã hội...
b) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mà trước hết là công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, tăng trưởng kinh tế phải đi đối với xoá đói giảm nghèo và tạo tiền để để xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với sự đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì cần phải kết hợp xoá đói giảm nghèo với các chương trình kinh tế xã hội, khuyến khích nhân dân đem tài năng sức lực ra xây dựng tổ quốc, giảm dần khoảng cách giầu nghèo giữa các vùng các tầng lớp dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống.
c) Quan điểm xoá đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy nội lực của người nghèo, xã nghèo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp tác quốc tế, đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo vững chắc.
d) Quan điểm xoá đói giảm nghèo tập trung vào địa bàn nông thôn nơi chiếm 90% số hộ đói nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, khu căn cứ cách mạng, biên giới, đồng bào dân tộc, phụ nữ nghèo.
3.2. Sự cần thiết phải thực hiện xoá đói giảm nghèo
Việt Nam là một trong những nước chậm phát triển đồng thời phải đương đầu với 4 nguy cơ lớn: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng và tệ nạn quan liêu, và diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra. Các nguy cơ là đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau. Vì vậy muốn đi lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì Việt Nam phải thực hiện đồng thời cả 4 nhiệm vụ, không được quá coi nhẹ hay quá coi trọng một nguy cơ nào. Nước ta vẫn còn là một nước kém phát triển đời sống nhân dân còn quá thấp trong khi cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Nếu chúng ta không cố gắng vươn lên thì chúng ta sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo còn giúp củng cố lòng tin của nhân dân đối với về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước .
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác xoá đói giảm nghèo .
4.1. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Đây là nhân tố cơ bản, xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội mà bất kỳ giai cấp tầng lớp nào nắm quyền hành Nhà nước đều phải đưa ra. Đó là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nước ta là một nước của dân do dân và vì dân vì vậy việc chăm lo đến các mặt của đời sống nhân dân là không thể thiếu. Nên các vấn đề con người như: tạo thêm việc làm, xoá đói giảm nghèo đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định, cải thiện đời sống nhân dân là vấn đề không thể thiếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Một chiến lược phát triển phù hợp sẽ thu hút được đầy đủ sự quan tâm của cả dân tộc và cộng đồng quốc tế một cách thường xuyên.
4.2. Những chính sách và những phương thức tác động.
Những chính sách và những phương thức tác động tích cực của Nhà nước trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa thực tiễn to lớn: người nghèo giảm bớt được đói nghèo, xã hội bớt được những sự chênh lệch giàu nghèo, giúp Việt Nam rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo với các nước trên thế giới. Vì vậy Việt nam cần phải có các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tạo thêm việc làm cho người nghèo, ưu tiên đầu tư cho hỗ trợ tài chính lãi suất, đảm bảo đời sống xã hội cho vùng nghèo, cho các đối tượng nghèo có cơ hội tự thoát khỏi đói nghèo và góp thêm vào công cuộc cải thiện xã hội.
Tuy vậy nếu chỉ có chính sách đúng thôi chưa đủ mà phải có thêm phương thức tác động thích hợp như việc phải thông qua một số công cụ như: thuế, giá cả, cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ...Việc sử dụng các phương thức tác động thích hợp giúp cho người nghèo có cơ hội để tiếp cận với các nguồn lực để tạo ra động và các hiệu quả cho các hoạt động của mình.
4.3. Vai trò của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ.
Nước ta là một nước kém phát triển nên công cuộc xoá đói giảm nghèo phải dựa trên nội lực là chính nhưng cũng tìm thêm nhiều biện pháp để kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của các tổ chức quốc tế. Nhà nước ta tạo mọi cơ hội thuận lợi để thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức quốc tế tham gia vào đầu tư cho phát triển kinh tế nói chung và cho chương trình xoá đói giảm nghèo nói riêng.
4.4. Sự nhận thức của người dân.
Những người nghèo phần đông là những người không có trình độ chuyên môn, sự nhận thức của họ là rất chậm, bảo thủ, trì trệ và rất bi quan. Bởi vậy phải thay đổi những nhận thức sai lệch của họ, giúp họ có vốn để sản xuất, hướng dẫn họ cách làm ăn sao cho có hiệu quả, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, giúp họ có thêm thu nhập cải thiện đời sống để từ đó thoát khỏi đói nghèo, giúp họ cởi trói tâm lý mặc cảm an phận, bi quan để vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội
II/ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO .
1. Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian qua.
Đối với đất nước ta thế kỷ 20 là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liết giành lại độc lập dân tộc tự do thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm 1975 nước ta đã hoàn toàn giải phóng, thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phong kiến, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam đã gặp không ít những khó khăn là:
-Sự bao vây về kinh tế: Việt Nam tuy đã hoàn toàn được giải phóng có độc lập chủ quyền nhưng vẫn bị bao vây, cấm vận về kinh tế. Nên Việt Nam chưa thể mở rộng hợp tác làm ăn với nhiều nước trên thế giới.
- Việt Nam đi lên xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế thuần nông với hơn 85% dân số sống bằng nghề nông, trình độ dân trí thấp, công cụ lao động thô sơ, cơ sở hạ tầng yếu kém với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ có hai thành phần là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được phép hoạt động.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra vào cuối thập kỷ 70 và kéo dài suốt thập kỷ 80 gây ra tình trạng:
+ Tốc độ tăng trưởng trì trệ kéo dài, có năm tốc độ tăng trưởng âm.
+ Lạm phát cao kéo dài, đặc biệt năm 1988 đã lên tới 774,7%.
+ Nhập siêu nghiêm trọng, tổng giá trị xuất khẩu thường chỉ bằng 1/3 tổng giá trị nhập khẩu.
+Tình trạng khan hiếm hàng hoá, cung không đủ cầu diễn ra khá phổ biến và kéo dài.
Cuộc khủng hoảng này đã góp phần giúp Việt Nam trong việc lựa chọn hướng phát triển kinh tế của mình là phù hợp hay chưa để từ đó ra quyết định đổi mới mô hình kinh tế mong sớm thoát khỏi tình trạnh khủng hoảng.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Việt Nam mất hẳn chỗ dựa và sự viện trợ của Liên Xô đồng thời nó cũng có tác động tích cực đến Việt Nam, cho phép Việt Nam ưu tiên phát triển kinh tế và giúp Việt Nam lựa chọn mô hình phát triển phù hợp - Mô hình phát triển kinh tế thị trường ưu tiên hội nhập kinh tế quốc tế.
- Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện theo hướng phát triển kinh tế thị trường hôi nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém.
* Tuy nhiên từ những khó khăn trên Việt Nam đã đi lên và đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể như :
- Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7%/năm. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng khai thác thuỷ hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất bình quân tăng13.5%/ năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường, các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển, đặc biệt năm 2001 Việt Nam là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo với giá trị hơn 4 triệu tấn và chỉ đứng sau Thái Lan.
- Văn hoá xã hội có những tiến bộ rõ rệt, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
- Tình hình chính trị xã hội cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường.
- Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được coi trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
- Sức mạnh tổng hợp được tăng cường làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của ta trên trường quốc tế.
2. Thực trạng đói nghèo của Việt nam hiện nay.
Theo báo cáo của tỉnh Hà tây năm 1998, cả nước có 1498 xã có tỷ lệ nghèo trên 40% trở lên và 1168 xã thiếu cơ sở hạ tầng. Trong đó 2/3 số xã có tỷ lệ hộ nghèo đói trên 40% trở lên vừa thiếu cơ sở hạ tầng là các xã miền núi. Ngày 24 tháng 12 năm 1999, thủ tướng chính phủ đã phê duyệt danh sách 1870 xã đặc biệt khó khăn và xã biên giới, trong đó có 1726 xã đặc biệt khó khăn và 144 xã biên giới. Ngân sách trung ương sẽ đầu tư cho 1602 xã đặc biệt khó khăn và 144 xã biên giới, ngân sách địa phương sẽ đầu tư cho 124 xã đặc biệt khó khăn.
Do có sự phân chia lại về đơn vị hành chính, một số xã được tách ra nên hiện nay tổng số xã đặc biệt khó khăn và biên giới được đầu tư thông qua các dự án xoá đói giảm nghèo thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm là 1878 xã. Ngoài danh sách 1878 xã này, còn có khoảng 500 xã cũng thuộc loại nghèo và có nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng nên tổng số xã cần được đầu tư hiện nay là 2200 xã.
- Theo chuẩn mực cũ thì cuối năm 2000 còn 10% tỷ lệ hộ đói nghèo. Trong đó:
+ Có 13 tỉnh thành phố tỷ lệ đói nghèo dưới 5%.
+ 18 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo từ 5 % đến 10%.
+ 27 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo từ 10% đến 20%.
+ 2 tỉnh có tỷ lệ hộ đói trên 20% là Bắc Kạn và Quảng Bình.
+ Đặc biệt Riêng Lai Châu có tỷ lệ đói nghèo 31%.
- Theo chuẩn mực mới đầu năm 2001, cả nước có 2,7 triệu hộ nghèo Khoảng 13,5 triệu người chiếm tỷ lệ 17%, trong đó số hộ thường xuyên thiếu đói chiếm gần 1% tổng số hộ trong cả nước
- Về cơ sở hạ tầng xã nghèo đến đầu năm 2001đã có trên 90% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 80% xã có đủ trường học, lớp học bậc tiểu học, 98% số xã có trạm y tế, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ, 70% xã có trên 50% số hộ được sử dụng nước sạch, 85% xã có điện sinh hoạt tới trung tâm xã, 70% xã có chợ hoặc chợ trung tâm được xây dựng.
Nhìn chung về thu nhập bình quân đầu người hiện nay vẫn ở mức thấp, khoảng 350 USD, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, đặc biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi (theo các đánh giá về tình trạng nghèo đói trong bản báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000 thì trong suốt thời kỳ 1993-1998, trong khi thu nhập nông thôn tăng 30%, thì thu nhập thành thị tăng lên với tốc độ gấp đôi. Có gần 70% số dân nghèo của cả nước tập trung tại 3 vùng: Miền núi phái Bắc 28%, Đồng bằng sông Cửu Long 21%, vùng Bắc trung bộ 18%).
Như vậy có thể nói, nghèo đói đang là một hiện tượng khá phổ biến ở nông thôn Việt Nam và những kết quả nổi bật của công cuộc xoá đói giảm nghèo trong hơn 10 năm qua dù rất ấn tượng song vẫn còn khá khiêm tốn so với thực trạng nghèo đói hiện đang diễn ra trên khắp đất nước, đặc biệt là những vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc và hải đảo.
Số hộ nghèo đói ở khu vực nông thôn phân theo vùng
Tên các vùng
Số Hộ
TỷLệ)
1
2
3
4
5
6
7
Miền Núi Phía Bắc
Đồng Bằng Sông Hồng
Khu Bốn Cũ
Duyên Hải Miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tổng Số
349.139
298.386
433.257
271.593
107.914
166.758
442.736
2.069.783
16.87
14.42
20.93
13.12
5.21
8.06
21.39
100
Nguồn: Ngân hàng phục vụ người nghèo (năm 1999)
3. Nguyên nhân của nghèo đói.
Đói nghèo là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam những nguyên nhân chính gây ra đói nghèo được chia làm 3 nhóm.
-Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên khí hậu: Khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, kinh tế chậm phát triển, do hậu quả của chiến tranh để lại.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: Thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc tệ nạn xã hội hoặc lười lao động, do tập quán canh tác, cách thức sản xuất chưa được cải thiện.
- Nhóm nguyên nhân về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới với nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
Sau đây ta đi sâu vào tìm hiểu một số nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự đói nghèo:
+ Thiếu vốn sản xuất: Đây là nguyên nhân số một. Trước đây qua điều tra có tới 91.6% số hộ trả lời là thiếu vốn sản xuất. Nông dân nghèo, vốn sản xuất kém, làm không đủ ăn, thường xuyên phải đi làm thuê và đi vay để bảo đảm cuộc sống tối thiểu hàng ngày nên họ không có vốn để tái sản xuất, muốn vay ngân hàng thì không có tài sản thế chấp. Bởi vậy, họ chỉ còn trông chờ vào sự giúp đỡ của hợp tác xã hoặc của cộng đồng thộn ấp, bản, cho ứng trước vật tư, cho vay vốn ... nhưng số hợp tác xã đã chuyển đổi đựơc chỉ có 11% còn một ít có thể cho hộ nghèo vay, vì vậy buộc người nghèo phải đi vay tư nhân với lãi xuất cao. Do đó họ đã nghèo lại càng nghèo thêm. Hiện nay Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi với những hộ nghèo, nhưng bản chất cố hữu của họ vẫn chưa thể thay đổi ngay được.
+ Không có kinh nghiệm làm ăn: Kinh nghiệm làm ăn, kỹ thuật sản xuất của các hộ nghèo rất bị hạn chế. Qua điều tra các hộ nghèo, có tới 45.77% số hộ nghèo do thiếu kinh nghiệm làm ăn. Xuất xứ của nguyên nhân này là do trước kia hợp tác xã không tổ chức đào tạo kinh nghiệm, bà con đi làm theo truyền thống, không được tiếp thu với tiến bộ kỹ thuật. Ngày nay, do họ sống phần lớn ở nông thôn nên không có điều kiện để tiếp thu với các thông tin cập nhật. Hiện nay họ là người chủ sản xuất, họ trở nên lúng túng, cộng thêm thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin nên sản xuất càng gặp khó khăn.
+ Thiếu việc làm: Đây là một nguyên nhân phổ biến trên toàn quốc đối với nguời nghèo. Ngoài sản xuất trồng trọt, nông dân nghèo không có vốn để phát triển chăn nuôi và làm ngành nghề phụ. Trong cơ cấu thu nhập của hộ nghèo chỉ có 6.1% thu từ chăn nuôi; 5,4% thu từ ngành nghề. Ngay trong việc sản xuất trồng trọt, nhiều nơi cũng không thể tiến hành sản xuất thâm canh được, nên lao động dư thừa càng nghiêm trọng, chỉ còn trông chờ vào đi làm thuê nhưng không phải vùng nào cũng có nhiều việc để đi làm thuê.
+ Đất đai canh tác ít: Số liệu điều tra cho thấy 61% hộ nghèo thiếu đất và ở nhiều nơi có tình trạng các hộ nghèo không có khả năng thanh toán những khoản nợ đối với uỷ ban nhân dân xã, cho nên địa phương đã dùng biện pháp rút bớt ruộng đất giao cho họ, vì vậy họ thiếu ruộng. Thêm vào đó một số gia đình không có khả năng thâm canh nên không dám nhận đủ số ruộng được giao. Do đó bình quân một hộ nghèo chỉ có 2771 m2 đất nông nghiệp.
+ Một nguyên nhân nữa của sự đói nghèo là do số nhân khẩu đông lao động lại ít: Bình quân một hộ nghèo có 5,8 nhân khẩu nhưng lao động chỉ có 2,4 người, nếu tính cả lao động quy đổi thì cũng chỉ có 2,6 người. hiện tại một người trong độ tuổi lao động của hộ nông dân nghèo phải nuôi khoảng 2 người, như vậy rất khó khăn.
+ Ngoài các nguyên nhân kể trên còn một số các nguyên nhân khác nữa đó là gặp tai nạn, rủi ro, thiên tai, dịch hoạ ...
Có thể hữu ích nếu phân chia ra hai nhóm đói nghèo. Nhóm thứ nhất thường không có khả năng hoặc hầu như không tham gia vào nền kinh tế thị trường đang tăng trưởng. Thậm chí nếu đường xá được mở mang, chương trình tín dụng được phát triển và khả năng cải thiện mức sống được nâng cao thì họ vẫn bị bỏ lại phía sau. Một số người tàn tật, những người cao tuổi, độc thân và các nhóm thiểu số sống ở những vùng bị cách biệt đều thuộc về những nhóm trên. Nhóm thứ hai là những người hiện nay đang nghèo nhưng có tưopưng lai sáng sủa hơn khi mà bản thân làng của họ có đường sá tốt hơn để giao lưu với thị trường lớn, hoặc khi vay vốn tín dụng sẵn có và dễ dàng hơn. Họ có thể trồng các loại cây khác hoặc tham gia làm những công việc phi nông nghiệp. Nhóm thứ hai này sẽ nổi lên khi “mức nước chung” nâng lên, trong khi nhóm thứ nhất vẫn bị buộc chặt hơn và chìm xuống. Việc xác định những chính sách để nhóm hai phát triển nhanh hơn và chuyển nhóm thứ nhất thành nhóm thứ hai là một cách thức đối với một chính sách đúng đắn.
Nhiều người trong nhóm thứ hai không phải lúc nào cũng nghèo (lúc thì nghèo, lúc thì không). Họ chịu sự tác động của nền nông nghiệp luôn có sự biến động lớn và không có nhiều tài sản để ổn định mức sống, mức tiêu dùng khi mùa màng thất bát. Một số chịu ảnh hưởng của bệnh tật và không thể bình thường hoá được cuộc sống sau khi khỏi ốm. Thường thì những người này phải vay nợ thậm chí mất cả đất đai cho uỷ ban nhân xã xã khi mà họ không nộp đủ thuế. Việc tìm ra những phương cách để đối phó với sự suy giảm tạm thời nguồn thu nhập dẫn tơí vòng xoáy “giật gấu vá vai” cũng quan trọng như việc tìm ra cách để thường xuyên tăng nguồn thu nhập bình quân cho dân nghèo.
4. Những ảnh hưởng của đói nghèo.
- Đói nghèo ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế được đánh dấu bằng sự ra tăng về của cải vật chất, sự gia tăng về các chỉ số như GDP, thu nhập bình quân đầu người, đói nghèo dẫn đến mức sống của người dân thấp, thu nhập thấp do đó tiền tích luỹ để đầu tư sản xuất thấp hoặc hầu như không có. Điều đó kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển.
-Đói nghèo ảnh hưởng tới chất lượng nguồn lao động: Chất lượng nguồn nhân lực được đo bằng các chỉ tiêu thể lực trí lực người lao động. Thể lực thể hiện thông qua sự dẻo dai bền bỉ trong công việc. Còn trí lực thể hiện ở trình độ nhận thức, trình độ học vấn, khả năng sáng tạo trong lao động, kinh nghiệm làm ăn ... Hiện tượng đói nghèo là nhân dân có trình độ dân trì thấp, kinh nghiệm làm ăn không có dẫn đến làm ăn không hiệu quả, không năng xuất, thu nhập thấp, không có điều kiện đầu tư cho học tập. Vì vậy đói nghèo là nguyên nhân dẫn đến chất lượng, trình độ của người lao động thấp.
-Đói nghèo ảnh hưởng đến mức độ gia tăng dân số: Giữa gia tăng dân số với đói nghèo có quan hệ hữu cơ, có tác động qua lại lẫn nhau. Thực tế cho thấy đói nghèo thường sảy ra với những gia đình nghèo, đông con, người làm ít mà người ăn nhiều. Ngược lại dân số càng tăng nhanh thì sự đói nghèo theo cũng tăng nhanh. Bởi lẽ dân số tăng nhanh trong khi tư liệu sản xuất (Đất đai, công cụ sản xuất) tăng chậm dẫn đến việc sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của con người.
5. Những chủ trương của đảng và nhà nước trong công cuộc xoá đói giảm nghèo phát triển kinh tế xã hội.
5.1. Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với xoá đói giảm nghèo bền vững.
Nhà nước tập trung đầu tư cho những ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế động lực để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các vùng kinh tế động lực, các ngành kinh tế mũi nhọn, các địa phương giầu phải có trách nhiệm chia sẻ, hỗ trợ cho các địa phương nghèo. Đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy tạo việc làm theo hướng sản xuất hàng hoá, xây dựng các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo.
5.2. Đảm bảo cung cấp cơ hội và điều kiện để người nghèo, xã nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản.
Đảm bảo cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư._., và hướng dẫn cách làm ăn, cho vay vốn, giáo dục, y tế, văn hoá đến người nghèo, xã nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, nâng cao dân trí... Trước hết thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho người nghèo về xoá mù chữ, giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khám chữa bệnh, nước sạch, văn hoá... để tăng tỷ lệ người nghèo được hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản và từng bước nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ.
5.3. Huy động bố trí nguồn lực tập trung đầu tư cho các địa bàn trọng điêm và các hoạt động ưu tiên.
Các địa bàn trọng điểm là các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng xâu, vùng xa, bãi ngang ven biển (khoảng 2200 xã). Bốn vùng được ưu tiên là miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ, và Duyên hải miền Trung. Mười tỉnh trọng điểm cần xoá đói giảm nghèo là Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Kon Tum, Sóc Trăng, Trà Vinh, Quảng Ngãi.
Các hoạt động cần ưu tiên là: Đầu tư vào tập trung giải quyết các công trình phù hợp với nhu cầu cấp thiết của nhân dân để đảm bảo điều kiện phát triển kinh tế, ổn định đời sống như: thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, cần phải cung cấp tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn đào tạo nâng cao năng lực cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo các cấp đặc biệt là đào tạo giảng viên và cán bộ cấp cơ sở kể cả cán bộ tăng cường, hỗ trợ cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
5.4. Phát huy nội lực đi đôi với củng cố và tăng cường hợp tác quốc tế.
Động viên người nghèo, xã nghèo tự vươn lên khắc phục khó khăn để thoát khỏi đói nghèo là chủ yếu. Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và tập trung vào các vùng trọng diểm, đặc biệt khó khăn, đồng thời huy động các nguồn lực, thu hút và động viên sự tham gia, ủng hộ của mọi tầng lớp dân cư, của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội hỗ trợ người nghèo xã nghèo. Mở rộng hợp tác quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, tài chính để đẩy nhanh quá trình xoá đói giảm nghèo.
III/ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO.
1. Vốn cho vay là gì?
1.1. Khái niệm về vốn
Chúng ta biết rằng vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu của mỗi qúa trình sản xuất kinh doanh và đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Vậy vốn là gì?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn:
Theo lý thuyết kinh tế cổ điển thì vốn là một trong những yếu tố đầu vào để sử dụng kinh doanh (như máy móc, thiết bị, nhà cửa, cơ sở vật chất, bán sản phẩm, nguyên liệu...) theo quan điểm này vốn được nhìn nhận dưới góc độ hiện vật là chủ yếu.
Theo quan điểm của Paula Samulson và Willia.D.Nordhous trong kinh tế học. Vốn là khái niệm thường dùng để chỉ các hàng hoá nói chung. Một nhân tố sản xuất, một hàng hoá làm vốn khác với các nhân tố sơ yếu (đất đai, lao động) ở chỗ nó là một đầu vào mà bản thân nó cũng là một đầu ra của một nền kinh tế gồm vốn vật chất (thiết bị, máy móc, kho tàng...) và vốn tài chính (tiền, chứng khoán, các giấy tờ có giá...) Theo quan điểm này vốn gồm vốn vật chất và vốn tài chính.
Lại có ý kiến cho rằng vốn bao gồm nguồn nhân lực, tài lực, chất xám, tiền bạc và cả các quan hệ đã tích luỹ được sử dụng vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới góc độ tài chính vốn là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất, hàng hoá, tiền bạc đang được tích luỹ huy động và sử dụng cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Nhìn chung có rất nhiều quan niệm khác nhau về vốn nhưng có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của vốn như sau:
* Thứ nhất: Vốn là đại diện cho một giá trị tài sản có nghĩa là nó là biểu hiện bằng tiền giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình như nhà xưởng, đất đai, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu chất xám ... Tuy nhiên không phải tất cả các tài sản đều được gọi là vốn mà chỉ có những tài sản hoạt động mới được gọi là vốn còn tài sản đang ở trong trạng thái tĩnh được gọi là vốn tiềm năng.
*Thứ hai: Vốn phải là vận động và sinh lời. Vốn biểu hiện là tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động với mục đích sinh lời. Trong quá trình vận động tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng kết thúc vòng tuần hoàn nó phải trở về trạng thái ban đầu của nó là tiền với giá trị lớn hơn.
* Thứ ba: Tiền vốn phải được tích tụ tập chung đến một lượng đủ lớn mới có thể sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời được. Nếu với một lượng vốn chưa đủ lớn thì không thể trang trải hết những chi phí ban đầu thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được.
*Thứ tư: Vốn có giá trị về mặt thời gian bởi sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau do ảnh hưởng của giá cả và lạm pháp.
*Thứ năm: Vốn bao giờ cũng phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Có thể người sử dụng vốn không phải là người chủ sở hữu nhưng nó vẫn có chủ sở hữu nhất định. Người chủ này được quyền ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của mình vì vậy phải sử dụng vốn sao cho hiệu quả.
* Thứ sáu: Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt có giá trị và giá trị sử dụng, nó được mua bán trên thị trường dưới dạng mua bán quyền sử dụng vốn. Giá mua chính là lãi suất mà người vay vốn phải trả cho người cho vay để có quyền sử dụng lượng vốn đó. Giá cả hiện nay tăng giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là quan hệ cung cầu trên thị trường.
* Thứ bảy: Vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà nó còn là biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản vô hình như vị trí địa lý kinh doanh, nhãn mác sản phẩm, bản quyền, phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, uy tín của sản phẩm trên thị trường...
Qua xem xét bảy đặc điểm trên của vốn trong nền kinh tế thị trường chúng ta có thể khái quát lại là: Vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của toàn bộ tài sản đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
1.2. Vai trò của vốn trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế hoạt động với mục đích là tối đa hoá lợi nhuận thông qua việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Để đạt được mục đích của mình thì một trong những vấn đề quan trọng là doanh nghiệp phải có vốn để thực hiện các hoạt động của mình.
Trước hết vốn đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập doanh nghiệp theo luật định cũng như để trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn cũng quyết định đến khả năng đổi mới thiết bị công nghệ, phương pháp quản lý... của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Trong doanh nghiệp vốn còn đóng vai trò quan trọng để thực hiện chức năng giám đốc tài chính đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Moi hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể đánh giá là hiệu quả hay không có hiệu quả đều phải thông qua các chỉ tiêu sinh lời của đồng tiền bỏ ra cho mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy có thể thấy vốn đóng vai tò rất quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó vừa là tiền đề, vừa là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2. Quản lý tài chính
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có thể được hiểu là tổ chức kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời, được pháp luật thừa nhận, được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định. Có mức vốn kinh doanh không thấp hơn vốn pháp định mà nhà nước quy định cho từng loại hình doanh nghiệp, có từ một chủ sở hữu trở lên và chủ sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình. Có rất nhiều cách phân loại doanh nghiệp nhưng có thể phân làm hai loại hình doanh nghiệp là: Doanh nghiệp tài chính và Doanh nghiệp phi tài chính.
- Doanh nghiệp tài chính: là các tổ chức tài chính trung gian như: ngân hàng thương mai, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoáng...có khả năng cung ứng vốn cho thị trường. Vì vậy mặt hàng kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này không phải là những hàng hoá thông thường mà là một loại hàng hóa đặc biệt đó là vốn, tiền tệ, chứng khoán...
- Doanh nghiệp phi tài chính: Là doanh nghiệp lấy hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ là hoạt động kinh doanh chính.
Hoạt động tài chính là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của các tổ chức. Đó là quá trình tìm tòi, nghiên cứu các nguồn lực nhằm biến các nguồn lực dự kiến thành hiện thực trong tương lai. Do đó quá trình hoạt động của bất kỳ một tổ chức nào cũng nhằm tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị tổ chức và tăng trưởng, phát triển. Vậy quản lý tài chính là một trong những chức năng quan trọng hoạt động của tổ chức. Nó thúc đẩy người có trách nhiệm về tài chính trong tổ chức không chỉ quan tâm đến tìm nguồn vốn mà còn quan tâm đến việc sử dụng vốn có hiệu quả.
2.1. Các nguyên tắc quản lý sử dụng vốn có hiệu quả.
Để sử dụng tốt các công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh cần phải quan tâm tới quản lý tài chính. Quản lý tài chính quyết định tới việc thành bại của tổ chức. Tuy nhiên để quản lý tài chính có hiệu quả thì phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
a) Tôn trọng pháp luật
Các doanh nghiệp luôn tiến tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhưng để đạt được điều đó đôi khi doanh nghiệp có thể làm phương hại đến lợi ích của người khác. Vì vậy song song với bàn tay vô hình, nhà nước phải chú trọng tới điều chỉnh nền kinh tế thông qua hệ thống pháp luật. Do vậy nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính là tôn trọng pháp luật.
b) Tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất quyết định đến sự sống còn của tổ chức trong nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu tối cao của nguyên tắc này là " lấy thu - bù chi - có lãi" đã hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các tổ chức kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa.
c) Giữ chữ tín trong hoạt động kinh doanh
Đây là chỉ tiêu đạo đức trong đời thường và là một nguyên tắc nghiêm ngặt trong hoạt động kinh doanh, là cơ sở cho sự trường tồn của mỗi tổ chức.
d) Nguyên tắc an toàn và hiệu qủa
Đây là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Chính vì vậy khi đưa ra một quyết định tài chính cần cân nhắc, xem xét các phương án trên nhiều góc độ khác nhau.
2.2. Nội dung của quản lý tài chính
Nội dung của quản lý tài chính được cụ thể ở việc đảm bảo đủ nguồn tài chính cho tổ chức với sự hợp lý giữa nguồn tài chính dài hạn và ngắn hạn cũng như khả năng thanh toán cao, đảm bảo huy động vốn với chi phí thấp, các nguồn huy động được sử dụng một cách hiệu quả.
a) Xác định mục tiêu của quản lý tài chính
Quản lý tài chính phải hướng vào quản lý vốn luân chuyển và các kế hoạch hoạch định và kiểm soát tài chính và chỉ khi có kế hoạch đúng mới đảm bảo định hướng đúng, và chỉ khi có quá trình kiểm tra tài chính mới đảm bảo cho các hành động kế hoạch hướng đến mục tiêu đã đặt ra một cách có hiệu quả.
Phân tích tài chính
Qua phân tích tài chính cho chúng ta thấy một bức tranh toàn diện về thực trạng tài chính, những điểm mạnh, điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức. Đó là kết quả của một quá trình quản lý tài chính trong một giai đoạn phát triển nhất định. Kết quả của việc phân tích cũng cho phép đánh giá chính xác tổ chức đã đạt được kết quả gì trong quá trình hoạt động, đã sử dụng các nguồn lực đến mức độ nào, và tìm kiếm nguồn tài trợ nào để đáp ứng nhu cầu tài chính của tổ chức, các rủi ro có thể gặp phải, phát hiện nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố trên cơ sở đó các nhà quản lý tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức độ doanh lợi của tổ chức trong tương lai.
Phân tích tài chính bao gồm các việc đọc báo các tài chính, phân tích các chỉ số tài chính. Việc phân tích các chỉ số tài chính giúp cho các đối tượng quan tâm đến tài chính của tổ chức như: các chủ nợ ngắn hạn, các chủ nợ dài hạn, nhà đầu tư, nhà quản lý nắm rõ tình hình tài chính của tổ chức.
a) Các chỉ số về khả năng thanh toán: phản ánh khả năng trả nợ ngắn hạn của tổ chức.
+ Khả năng thanh toán hiện thời: là thước đo khả năng trả nợ ngay của tổ chức
Khả năng Tổng tài sản lưu động (1)
thanh toán hiện thời Tổng nợ lưu động (2)
(1): Toàn bộ tài sản lưu động của tổ chức đến thời điểm báo cáo
(2): Toàn bộ các khoản nợ có thời hạn dưới một năm kể từ ngày lập báo cáo. Có thể gồm: Các khoản phải trả, khoản vay ngắn hạn ngân hàng, khấu hao thuế,...
+ Chỉ tiêu về tài sản lưu động ròng:
Tài sản lưu động ròng = Tổng tài sản lưu động - Tổng nợ lưu động
+ Khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng Tổng tài sản lưu động -Tài sản dự trữ
thanh toán nhanh Tổng nợ lưu động
b) Các chỉ số về khả năng cân đối vốn: dùng để đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu so với vốn nợ vay, giúp cho tổ chức nắm quyền điều hành với một số lượng vốn đóng góp ít, giúp chủ nợ tin tưởng là có sự đảm bảo cho các khoản nợ vay... giúp cho tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động khi lợi nhuận cao hơn hay thấp hơn lãi tiền vay.
+ Tỷ số nợ: phản ánh tỷ lệ nợ vay trong tổng nguồn vốn hoạt động của tổ chức.
Tỷ số Tổng số nợ
nợ Tổng nguồn vốn
Tổng số nợ:bao gồm tất cả các nguồn nợ ngắn hạn tại thời điểm lập báo cáo.
Tổng nguồn vốn: là toàn bộ tài sản hiện có của tổ chức tại thời điểm lập báo cáo bao gồm vốn cố định, vốn đầu tư XDCB, hàng tồn kho, vốn lưu động.
+ Khả năng thanh toán lãi vay: dùng để đo lường mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm của tổ chức.
Khả năng Lợi nhuận thuần + Lãi nợ vay
thanh toán lãi vay Lãi nợ vay
trong đó:
Lợi nhuận thuần = Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Lãi nợ vay: là số tiền lãi nợ vay trong năm
c) Các chỉ số về hoạt động: dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn của tổ chức:
+ Kỳ thu tiền bình quân: đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán. Nếu kỳ thu tiền bình quân thấp thì vốn sẽ ít bị ứ đọng trong thanh toán và ngược lại.
Kỳ thu tiền Các khoản phải thu
bình quân Doanh thu bình quân một ngày
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định: giúp cho nhà tổ chức lập kế hoạch sử dụng tài sản cố định trong tương lai. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong năm.
Hiệu quả sử dụng Doanh thu tiêu thụ
vốn cố định Vốn cố định
+ Số vòng quay toàn bộ vốn:
Số vòng quay Doanh thu tiêu thụ
toàn bộ vốn Toàn bộ vốn
- Các chỉ số về doanh lợi:
Doanh lợi là kết quả của hàng loạt chính sách và quyết định của tổ chức, đánh giá khả năng quản lý của tổ chức, là một yếu tố quan trọng trong sự quan tâm của các nhà đầu tư.
+ Doanh lợi Lợi nhuận ròng x 100%
tiêu thụ sản phẩm Doanh thu tiêu thụ
Lợi nhuận ròng là phần lợi nhuận còn lại sau khi doanh thu trừ đi tổng chi phí và thuế.
Doanh lợi Lợi nhuận ròng x 100%
vốn Toàn bộ vốn
+ Doanh lợi vốn tự có: đo lường mức doanh lợi trên mức tự đầu tư của tổ chức
Doanh lợi Lợi nhuận ròng x 100%
vốn tự có Vốn tự có
Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh:
+So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy được xu hướng thay đổi về tài chính của tổ chức.
+ So sánh kỳ này với mức độ bình quân của ngành
- Phương pháp tỷ lệ: so sánh các tỷ lệ của tổ chức với giá trị các tỷ lệ tham chiếu
b) Hoạch định tài chính:
Là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định tới tất cả các khâu của quản lý tài chính. Thực chất cuả nó là dự toán thu chi. Việc dự đoán này là hợp lý, khoa học sẽ có tác động quan trọng đối với kế hoạch sản xuất kinh doanh của tổ chức cũng như việc quản lý tài chính.
Nội dung:
- Phải dựa vào mục tiêu hoạt động của tổ chức nhằm đảm bảo cho việc lập dự toán, xác định mục đích, nhiệm vụ cũng như việc phối hợp và sử dụng quỹ ngân sách có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm và có hiệu quả.
- Dựa vào diễn biến tình hình tài chính bên trong tổ chức cũng như ở thị trường.
- Dựa vào hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu chi. Xác định khả năng, mức độ, lĩnh vực cần phải khai thác, nhu cầu lĩnh vực cần phối hợp và đầu tư.
2.3. Kiểm tra tài chính
a) Vai trò
- Phục vụ cho các các cơ quan công quyền, cho người điều khiển các tổ chức
- Đảm bảo tình hình các cân đối tỷ lệ trong phân phối các nguồn tài chính, xác định quy mô phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, bảo tồn và làm tăng thêm các nguồn tài chính của tổ chức.
- Tác dụng trong tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật tài chính, đảm bảo sự bình đẳng về pháp luật trong toàn xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh, cho mọi tổ chức, khắc phục khuyết tật của nền kinh tế thị trường và thể hiện quyền làm chủ của người lao động trong xã hội.
b) Đặc điểm của kiểm tra tài chính
- Kiểm tra tài chính là kiểm tra bằng đồng tiền trong lĩnh vực phân phối của nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Nó thực hiện các chức năng giám đốc tài chính trong quá trình vận động, tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính theo những mục đích đã định.
- Kiểm tra tài chính là kiểm tra bằng tiền thông qua các chỉ tiêu tài chinh. Các chỉ tiêu tài chính luôn luôn là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh đúng đắn, trung thực, toàn diện của tình hình kinh tế của một quốc gia, tình hình kinh doanh của từng doanh nghiệp, tình hình thực hiện nhiệm vụ của từng cơ quan tổ chức, nền kiểm tra tài chính mang tính chất tổng hợp và thường xuyên trong mọi hoạt động gắn liền với việc sử dụng, tạo lập các quỹ tiền tệ.
- Phạm vi kiểm tra tài chính bao trùm lên tất cả các lĩnh vực, các mặt trong hoạt động kiểm tra tài chính.
c) Nội dung kiểm tra tài chính
- Kiểm tra trước khi thực hiện kế hoạch
- Kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch đã được quyết định.
- Kiểm tra sau khi thực hiện kế hoạch tài chính
d) Phương pháp kiểm tra tài chính
- Kiểm tra toàn diện: là cách kiểm tra nhằm vào toàn bộ tổ chức và toàn bộ các nghiệp vụ tài chính trong việc thực hiện kế hoạch tài chính.
- Kiểm tra chuyên đề ( trọng điểm): là cách kiểm tra tập trung vào một số nghiệp vụ nhất định cần quan tâm trong chấn chỉnh hoạt động tài chính hoặc kiểm tra một bộ phận quan trọng nào đó có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tổ chức kinh doanh cuả tổ chức.
- Kiểm tra điển hình (chọn mẫu) : là cách kiểm tra có tính chất lựa chọn đối với một số đơn vị được chọn làm điển hình trong tổng số đơn vị khách thể kiểm tra hoặc lựa chọn một thời kỳ nhất định trong một khoảng thời gian dài hoặc lựa chọn một vài nghiệp vụ tài chính điển hình.
- Kiểm tra chứng từ: là phương pháp kiểm tra bằng cách lựa chọn các biểu báo cáo số liệu hạch toán thống kê, kế toán chứng từ ban đầu do đơn vị tự kiểm tra gửi đến các cơ quan, bộ phận kiểm tra để xem xét tình hình hoạt động kiểm tra tài chính của đơn vị được kiểm tra.
- Kiểm tra trực tiếp: là cách kiểm tra được thực hiện tại hiện trường nơi diễn ra các hoạt động kiểm tra tài chính của bộ phận chịu sự kiểm tra.
3. Quản lý các nguồn vốn trong tổ chức.
3.1. Quản lý vốn cố định.
Quản lý vốn cố định được thực hiện trên hai giác độ quản lý quỹ khấu hao cơ bản và quản lý các nguồn vốn dài hạn.
Quản lý quỹ khấu hao cơ bản: Tuỳ thuộc vao từng loại hình doanh nghiệp, vào cơ cấu đầu tư ban đầu để hình thành tài sản cố định của các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có phương pháp phân bổ, sử dụng tiền trích khấu hao trong kỳ sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. Nguồn vốn chủ sở hữu có thể là nguồn vốn đầu tư ban đầu, có thể từ vốn bổ sung, từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp, phần còn lại có thể do doanh nghiệp đi vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức kinh tế xã hội, từ dân...Vì vậy khi lập kế hoạch phân phối sử dụng tiền trích khấu hao hợp lý nguồn quỹ khấu hao cơ bản doanh nghiệp có thể sử dụng để tái đầu tư, đổi mới tài sản cố định của mình. Khi chưa có nhu cầu tái đầu tư doanh nghiệp có thể chủ động sử dụng linh hoạt số tiền khấu hao thu được để phục vụ các mục đích kinh doanh khác.
Quản lý nguồn vốn dài hạn: Do đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất nên nguồn vốn hình thành nên các tài sản cố định này chủ yếu là các nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn này có thể là nguồn vốn tự có của doanh nghiệp hoặc là vốn đi vay. Nói chung có rất nhiều nguồn có thể huy động để đầu tư tài sản cố định mang lại hiệu quả nhất, đồng thời do thời gian thu hồi vốn cố định là rất lâu nên khó có thể tránh khỏi những rủi ro bất thường. Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét kiểm tra đảm bảo tính bền vững và có lợi nhất cho nguồn vốn dài hạn.
3.2. Quản lý vốn lưu động.
Quản lý tiền mặt: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ tiền mặt và các loại chứng khoán có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt một cách dễ dàng ở một quy mô nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày như mua sắm hàng hoá vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết đồng thời ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa được dự đoán hay để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện những cơ hội kinh doanh có tỷ xuất lợi nhuận cao. Việc duy trì một lượng tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được triết khấu trên hàng mua trả đúng thời hạn làm tăng hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Quy mô của quỹ tiền mặt là kết quả của việc thực hiện nhiều quyết định kinh doanh trong các thời kỳ trước song việc quản lý vốn tiền mặt
Không chỉ là để đảm bảo cho doanh nghiệp có đầy đủ vốn tiền mặt cần thiết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán mà quan trọng hơn là tối ưu hoá số ngân quỹ hiện có, giảm tối đa các rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái và tối ưu hoá việc đi vay ngắn hạn hoặc kinh doanh kiếm lời.
Quản lý các khoản phải thu.
Mô hình các khoản phải thu của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố: Chính sách tín dụng thương mại, sự thay đổi theo thời vụ của doanh thu...Trong đó chính sách tín dụng thương mại là quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản phải thu của doanh nghiệp. Bởi lẽ nó không chỉ làm tăng doanh thu, làm tăng hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hạn chế hao mòn vô hình tài sản cố định mà còn có thể làm tăng chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp do tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho các nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt của ngân quỹ. Chính vì lẽ đó mà việc xác định một chính sách tín dụng thương mại hợp lý trở thành một nội dung cơ bản của công tác quản lý các khoản phải thu. Song song với việc xác định một chính sách tín dụng thương mại hợp lý doanh nghiệp cần phải theo dõi sát sao các khoản phải thu để từ đó có thể kịp thời điều chỉnh chính sách tín dụng thương mại cho phù hợp với tình hình thực tế
Quản lý các khoản phải trả
Các khoản phải trả của doanh nghiệp bao gồm các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, phải trả cho người lao động, phải trả cho các đơn vị nội bộ, phải thanh toán cho khách hàng... Để đảm bảo uy tín của mình với khách hàng doanh nghiệp phải thanh toán các khoản phải trả một cách đầy đủ, đúng thời hạn. Muốn thế doanh nghiệp cần:
- Thường xuyên duy trì một lượng tiền mặt để đáp ứng các yêu cầu thanh toán, chú trọng việc kiểm tra, đối chiếu các khoản phải thanh toán với khả năng thanh toán của doanh nghiệp để chủ động đáp ứng các yêu cầu thanh toán khi đến hạn.
- Lựa chọn các hình thức thanh toán thích hợp, an toàn và có lợi nhất đối với doanh nghiệp.
Quản lý các nguồn tài trợ ngắn hạn
Là các nguồn có thời hạn trong vòng một năm và được sử dụng như một bộ phận tài sản lưu động. Quản lý tốt các nguồn này sẽ giúp cho doanh nghiệp bố trí vốn lưu động một cách hợp lý nhất sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bao gồm:
Tín dụng nhà cung cấp: Được dùng khi doanh nghiệp mua chịu hàng hoá dịch vụ của nhà cung cấp. Doanh nghiệp chưa phải trả ngay mà có thể sử dụng đồng vốn lẽ ra phải trả để bổ sung tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn nhưng đồng thời việc này khi mua hàng doanh nghiệp sẽ phải chịu một mức giá cao hơn, đồng thời hệ số nợ của doanh nghiệp cũng tăng. Vì vậy doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tình hình tài chính của mình để quyết định nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra.
Tín dụng ngân hàng: Vay ngân hàng được doanh nghiệp sử dụng như là một nguồn tài trợ thêm vốn khi nhu cầu về vốn lưu động của mình tăng. Việc vay ngân hàng có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức. Việc vay ngần hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn về đồng vốn này một cách có hiệu quả, cũng như doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm tới việc lựa chọn ngân hàng cho vay. Chi phí sử dụng vốn vay cũng như khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn của doanh nghiệp .
Tự tài trợ bằng cách bán nợ hoặc triết khấu ngân phiếu: Để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của mình, doanh nghiệp có thể tìm kiếm bằng cách bán các khoản nợ của mình cho một doanh nghiệp khác hay việc triết khấu các thương phiếu của mình.
Sử dụng hình thức này cho phép doanh nghiệp huy động được nguồn vốn với chi phí thấp nhất tránh được những khó khăn và điều kiện ràng buộc trong vay ngân hàng. Tuy nhiên nó lại phụ thuộc vào nguồn vốn dư thừa của các doanh nghiệp cung ứng vốn và không phải lúc nào cũng tìm được một công ty sẵn sàng mua lại các khoản nợ cuả mình.
4. Sử dụng vốn
Doanh nghiệp được quyền sử dụng linh hoạt vốn và các quỹ của doanh nghiệp để phục vụ kịp thời các nhu cầu trong sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn hiệu quả và có phát triển. Trong quá trình hoạt động có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguồn vốn của doanh nghiệp bị thất thoát như gặp rủi ro kinh doanh, hao mòn vô hình tài sản cố định... Điều này ảnh hưởng xấu đến quá trình hoạt động và kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo toàn vốn ở đây phải được hiểu là bảo đảm giá trị thực của vốn tại thời điểm khác nhau trong điều kiện biến đổi không ngừng của kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được nhà nước hỗ trợ, bao cung bao tiêu cả đầu vào lẫn đầu ra, doanh nghiệp làm theo kế hoạch nhà nước giao và nộp tất cả các khoản thu được cho nhà nước. Nếu lãi doanh nghiệp cũng trả sao mà nếu lỗ doanh nghiệp sẽ được nhà nước bù. Chính điều đó đã không khuyến khích phát triển các doanh nghiệp không cần quan tâm tới việc mình sử dụng như vậy có phù hợp hay không vì vậy vấn đề bảo toàn và phát triển vốn hầu như bị coi nhẹ.
Chuyển sang cơ chế thị trường nhà nước thôi bao cấp bao tiêu buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà trước hết phải làm sao bảo toàn được vốn kinh doanh của mình từ đó mà tiếp tục phát triển, bổ sung tăng vốn tự có để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất.
4.1. Bảo toàn vốn cố định (Cả về mặt giá trị lẫn hiện vật)
Bảo toàn về mặt giá trị: Là phải duy trì sức mua của vốn cố định thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự thay đổi giá cả, sự biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường do ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật... ở đó doanh nghiệp cần duy trì năng lực sản xuất của tài sản cố định, điều chỉnh kịp thời nguyên giá tài sản cố định khi có biến động trên thị trường tạo điều kiện trích đủ khấu hao, tránh mất vốn doanh nghiệp nên khuyến khích khấu hao nhanh để có điều kiện đổi mới công nghệ. Đổi mới trang thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sử dụng tối đa tài sản cố định hiện có tránh lãng phí. Với những tài sản không sử dụng được nữa, hoặc hết khấu hao doanh nghiệp nên bán thanh lý để thu hồi vốn cho hoạt động khác. Doanh nghiệp nên chủ động có các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh doanh.
Bảo toàn về mặt hiện vật: Là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính ban đầu của tài sản cố định. Đồng thời duy trì năng lực sản xuất ban đầu của nó. Doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ tránh mất mát hỏng hóc. Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng sửa chữa dự phòng tài sản cố định không để tài sản cố định bị hư hỏng gây thiệt hại ngừng sản xuất.
4.2. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động.
Là việc duy trì giá trị hay sức mua của vốn đảm bảo khả năng thanh toán, cung ứng vốn kịp thời cho mọi khấu của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Phải thường xuyên hạch toán điều chỉnh đúng giá trị thực tế của vật tư hàng hoá theo biến động của giá cả trên thị trường và sự điều chỉnh giá của nhà nước.
- Phải mở sổ theo dõi tất cả các khoản công nợ phải thu.
- Xác định các khoản chênh lệch tài sản lưu động thực tế, tồn kho của doanh nghiệp theo định kỳ hàng tháng, quý, năm để bổ sung, điều chỉnh nguồn vốn lưu động.
Song song với việc bảo toàn vốn phải chú ý đến công tác phát triển vốn, bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận của hoạt động sản xuất.
5. Quản lý sử dụng vốn cho vay hộ nghèo.
5.1. Vốn cho vay hộ nghèo.
Vốn từ bao lâu nay thì luôn luôn là điều kiện tiền đề để phát triển và mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống cho nhân dân và từng bước xoá đói giảm nghèo. Vốn cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra tình trạng nghèo khổ trong dân cư. Vì vậy, để có một sự hài hoà trong việc lưu thông tiền tệ thì người ta phải đưa ra các biện pháp cho vay và đi vay. Đó chính là tiền để đưa ra các quan niệm về tín dụng. Có rất nhiều cách hiểu về tín dụng nhưng theo tôi hiểu một cách khoa học nhất thì: Tín dụng là một phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ kinh tế giữa chủ thể cho vay và chủ thể đi vay (người đi vay và người cho vay), là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật theo những điều kiện mà hai bên thoả thuận .
Như vậy, ta có thể hiểu rằng tín dụng xoá đói giảm nghèo là một hình thức cho vay vốn nhằm mục đích là từ đồng vốn được nhận, người đi vay (bà con nông dân) phải làm một cái gì đấy đạt hiệu quả kinh tế để sau khi trả gốc và lãi sẽ còn một khoản lợi ích. Từ khoản lợi ích thu được này, người đi vay giảm bớt phần nào sự nghèo đói của mình. Chính vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo nên lãi xuất của tín dụng xoá đói giảm nghèo thường ở mức thấp nhất, có thể chấp nhận được.
Mục tiêu nói chung của tín dụng xoá đói giảm nghèo là cung cấp vốn cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn. Đối với tín dụng xoá đói giảm nghèo, nhu cầu này được bắt nguồn từ sự thiếu hụt từ cái ăn, mặc, ở, đi lại... Cho nên nói về cơ bản thì nhu cầu về xoá đói giảm nghèo đã hình thành nên tín dụng xoá đói giảm nghèo. Nguyên tắc này khiến cho người vay (người nghèo) phải có trách
nhiệm với món tiền vay, và như vậy người vay xẽ phải vận động chữ không ỷ lại như khi được một sự bao cấp. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụngxoá đ._. trong thời gian qua đã được Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ngân hàng người nghèo tổ chức thực hiện tốt. Tuy vậy việc tách những hoạt động của Ngân hàng người nghèo do ngân hàng chính sách làm để tập trung vào một đầu mối là cần thiết phải xử lý.
Hiện nay ở nước ta cùng với hệ thống ngân hàng người nghèo hoạt đông như một Ngân hàng chính sách, hệ thống kho bạc Nhà nước cũng thực hiện một số loại tín dụng chính sách trong đó có mục tiêu phục vụ đối tượng nghèo hoạt động tín dụng cho các thành viên nghèo của các tổ chức chính trị xã hội. Ngoài ra còn có các chương trình cho vay do các ngân hàng thực hiện. Như ngân hàng phát triển nhà cho vay vốn để phát triển nhà ở, ngân hàng công thương Việt Nam cho sinh viên vay vốn để học tập ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn cho vay vốn để làm nhà trên cọc, khắc phục bão lụt, đánh bắt thuỷ hải sản.... Do đó cần sớm tổng kết hoạt động của các Ngân hàng chính sách mà nòng cốt là Ngân hàng phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách (đối tượng chính sách).
Việc thành lập ngân hàng chính sách có thể thực hiện các bước sau:
Bước1: Trong vòng 1- 2 năm
Xác định thật rõ các đối tượng chính nào cần phải phục vụ.
Cải tiến mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của ngân hàng thương mại trong việc phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách đã được Chính phủ và Ngân hàng nông nghiệp giao nhiệm vụ.
Phân bổ, hợp lý các đối tượng cho Ngân hàng thương mại quốc doanh phục vụ.
Bước 2: Hai năm tiếp theo ngân hàng người nghèo tiến hành ký hợp đồng uỷ thác với các Ngân hàng thương mại đang phục vụ các chính sách. Các Ngân hàng thương mại đang phục vụ chính sách. Các ngân hàng thương mại hoàn thiện bộ máy con người, phương tiện trong việc phục vụ các đối tượng chính sách.
Bước 3: Trong hai năm tiếp theo ngân hàng người nghèo thành lập ngân hàng nông nghiệp và các đối tượng chính sách hoạt động độc lập như Ngân hàng quốc doanh. Ngân hàng nông nghiệp hoàn thiện các bước cần thiết như thông qua điều lệ, bố trí cán bộ, điều động cán bộ chuyên trách các đối tượng chính sách từ các Ngân hàng thương mại sang Ngân hàng chính sách tạo ra Ngân hàng chính sách hoạt động theo nguyên tắc như một Ngân hàng thương mại tức là phải có lãi đủ để bù đắp được mọi chi phí, không thể để chênh lệch lãi suất âm quá lớn như hiện nay, muốn vậy ngân hàng chính sách phải hết sức tiết kiệm chi phí. Mặt khác cần phải thành lập hệ thống ngân hàng chính sách từ Trung ương đến địa phương để phục vụ các đối tượng chính sách và hộ nghèo. Tập trung các nguồn vốn thuộc về chính sách giao cho Ngân hàng chính sách quản lý và cho vay. Các thành viên đại diện chỉ có một số thành viên phát huy vai trò nên cần phải thanh giảm thành viên ban đại diện để hoạt động có hiệu quả hơn. Hồ sơ ký duyệt cho vay nên giao hoàn toàn cho ngân hàng. Ban đại diện Hội đồng quản trị chỉ làm nhiệm vụ quản lý chung. Như vậy nguồn vốn cho vay chính sách được tập trung, cơ chế tài chính dễ xử lý, hiệu quả hoạt động của ngân hàng và hiệu quả sử dụng vốn của các đối tượng chính sách được nâng cao, việc quản lý vốn ngân sách và quản lý họat động ngân hàng được minh bạch hơn. Song trong giai đoạn mới mạng lưới ngân hàng chính sách nên mở chi nhánh tới đâu của các tỉnh miền núi là vấn đề cần được quan tâm, tính toán chặt chẽ sao cho phù hợp và hiệu quả.
1.3. Đẩy mạnh huy động vốn trong nước và thực hiện có hiệu quả các chương trình đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.
Ngân hàng bằng mọi biện pháp sẽ cung cấp đủ vốn cho bà con nông dân xuống giống kịp thời vụ để có điều kiện phát triển sản xuất ổn định đời sống. Ngân hàng đã làm tốt công tác đi vay để cho vay tuy nhiên phải có nhu cầu vốn khả thi của người vay thì mới phát huy được nhu cầu huy động vốn. Nếu huy động vốn tràn lan mà không cho vay ra được gây ứ đọng vốn sẽ là nguy cơ dẫn đến Ngân hàng đến sự phá sản. Đã là ngân hàng thương mại thì vấn đề quan trọng là có được nhiều khách hàng đòi hỏi nhu cầu vay vốn không ngừng tăng lên và có đủ nguồn vốn để đáp ứng. Song nhu cầu đó phải là chính đáng khả thi đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho người vay vốn và cho nền kinh tế, đồng thời đáp ứng được các điều kiện vay vốn theo thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành, đặc biệt điều kiện có khả năng trả nợ cả gốc và lãi.
Phải khẳng định rằng cơ chế khoản tài chính đến nhóm và người lao động là một trong những công cụ điều hành quan trọng nhất của hệ thống ngân hàng người nghèo. Nhờ cơ chế khoán tài chính mà đã phát huy được mọi tiềm năng của các cán bộ công nhân viên, thúc đẩy hoạt động kinh doanh không ngừng tăng trưởng về nguồn vốn và dư nợ, làm ăn có lãi năm sau cao hơn năm trước, hoàn thành nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, đời sống cán bộ được ổn định và có quỹ tiền lương dự phòng.
Quá trình đầu tư vốn cho vay góp phần thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi, khuyến khích người có tay nghề cao để hợp tác với nhau trong sản xuất hàng hoá, phân công lại lao động ngay trên địa bàn nông nghiệp nông thôn. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mở rộng thị trường, cải thiện đời sống dân cư, đảm bảo lợi ích vật vất cho dân cư góp phần cải tiến cơ cầu và lượng tiêu dùng trong dân cư.
1.4. Hoàn thiện đội ngũ cán bộ ngân hàng có tay nghề cao.
Vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng đang là một khó khăn chung của cả nước và cần phải có biện pháp hữu hiệu để khắc phục giải quyết. Họ là những người tiếp thu, nhận thức và tổ chức luôn khai thác sáng tạo chủ trương, đường lối chính sách của cấp trên tại địa bàn, trực tiếp chung lưng đấu cật với nhân dân xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp ấm no hạnh phúc. Để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ năng lực của cán bộ ngân hàng trong thời gian tới cần.
- Tìm những biện pháp hữu hiệu để thu hút những người có trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá, trình độ chính trị quản lý có năng lực và trách nhiệm về địa phận công tác (nhất là những người có trình độ đại học). Đào tạo lại đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu hiện tại chú trọng tới công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, năng động, có trình độ để làm công tác kế cận.
- Phát hiện những người kém về trình độ học vấn trình độ quản lý kinh tế hoặc có hành vi tham nhũng của dân để cương quyết loại bỏ. Triển khai tốt quy chế dân chủ tại địa phương, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong công việc của địa phương.
- Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho toàn bộ cán bộ ngân hàng, tổ chức các buổi nói chuyện phổ biến kinh nghiệm cho nhau tổ chức phổ biến các quy chế quyết định của cấp trên.
- Thường xuyên tổ chức bình bầu những người có trình độ, năng lực, để khen thưởng, để khuyến khích lẫn nhau cố gắng hơn trong công việc.
1.5. Dành riêng nguồn quỹ xoá đói giảm nghèo của tỉnh để hỗ trợ lãi suất, tạo điều kiện cho hộ nghèo phát triển sản xuất.
Hàng năm tỉnh vẫn trích một phần ngân sách tỉnh gửi vào ngân hàng người nghèo và coi đó phần vốn mà ngân sách tỉnh đóng góp vào cho chương trình xoá đói giảm nghèo. Nhưng hiện nay nguồn quỹ xoá đói giảm nghèo còn nằm rải rác ở nhiều nơi với nhiều mức lãi suất khác nhau dẫn đến hiện tượng so bì, tị nạnh trong nhân dân nhiều nơi có kiến nghị giảm lãi suất cho vay hộ nghèo, đặc biệt với một số nơi còn dùng ngân sách địa phương để hỗ trợ lãi suất để tạo ra lãi suất thấp hoặc cho vay không lãi làm cho người vay ỷ lại sẽ dẫn đến lơ là thiếu trách nhiệm trong việc trả nợ gốc hoặc là nếu đến thời điểm ngân sách khó khăn ngừng việc chi cấp bù sẽ dễ gặp phải người vay không có thói quen trả nợ, đồng thời cũng từ việc bù lãi lên mà một số nơi chính quyền dùng vốn vay ngân hàng người nghèo để cho theo các đối tượng chỉ định, cho vay đồng loạt, thậm chí cả cho vay những vùng những đối tượng quá khó khăn chưa có khả năng sử dụng vốn dẫn đến chất lượng tín dụng kém.
Ngoài ra cũng phải xét tới một khía cạnh chủ quan từ phía cán bộ ngân hàng là việc tính toán bù một khoản tiến lãi ngay ngân sách tỉnh phần nào tạo cho cán bộ ngân hàng ít quan tâm tới việc kiểm tra, kiểm soát người vay sử dụng vốn và đôn đốc người vay trả nợ. Ngân hàng người nghèo đảm bảo lãi cho vay thấp hơn của các ngân hàng thương mại hiện hành và hợp tác xã tín dụng. Ngoài lãi suất cho vay hộ nghèo không phải trả thêm một khoản chi phí nào cho ngân hàng hoặc các tổ chức xã hội khác.
1.6.Cơ chế tài chính rõ ràng trong việc giải quyết nguồn vốn cho vay xoá đói giảm nghèo:
Trong đầu thập niên tới, nền kinh tế Việt Nam phải phấn đấu để đạt các mục tiêu đề ra về tăng trưởng, về GDP bình quân đầu người như Dự thảo Văn kiện Đại hội IX của đảng nêu. Song vấn đề việc làm và xoá đói giảm nghèo có những yêu cầu mới, cấp bách cần giải quyết. Do đó, cần có cơ chế tài chính rõ ràng, tích cực, ổn định ngay từ đầu giải quyết nhu cầu vốn ngày càng tăng cho vay người nghèo , theo các hướng:
+ Một là, có nghị quyết dành một tỷ lệ nhất định GDP hàng năm, hoặc kim ngạch xuất khẩu dầu thô và thuế thu nhập cá nhân; một tỷ lệ nhất định tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách các tỉnh, thành phố...bổ sung nguồn vốn cho vay xoá đói giảm nghèo.
+ Hai là, Ngân hàng Nhà nước cho vay tái cấp vốn cho Ngân hàng chính sách, trong một số tình huống khác được vay từ nguòn dự trữ.
2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2.1. Phải chuyển dịch cơ cáu kinh tế nông thôn.
Thay đổi cơ cấu mùa vụ cây trồng vật nuôi tạo việc làm cho người lao động theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Giải pháp để xoá đói giảm nghèo về kinh tế ở Hà Tây là phải thay đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ phát triển kinh tế bằng vốn, kỹ thuật, công nghệ, chuyển kinh tế nông nghiệp sang kinh doanh nông sản hàng hoá phát triền nghề thủ công truyền thống, dịch vụ thương nghiệp, chế biến mở mang công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động
+ Tiểu thủ công nghiệp: Tập trung mở rộng một số vùng nguyên liệu như tơ tằm ở (Mỹ Đức, chương Mỹ...) mây tre đan xuất khẩu hiện có đủ nguyên liệu giải quyết cho một số lao động đáp ứng cho thị trường nội địa.
- Mở mang sản xuất một số mặt bằng mây tre đan, dệt lụa, mộc dân dụng, đưa các mẫu mặt hàng mới vào sản xuất phù hợp với nhu cầu người lao động để phát huy và nhân rộng những làng nghề truyền thống, tạo thế mạnh cho cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.
- Tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá được sản xuất bằng nguyên liệu sẫn có của địa phương, giải quyết được vấn đề tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp người dân tháo gỡ khó khăn, mạnh dạn đầu tư kỹ thuật mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp với quy mô lớn và chất lượng cao.
Trồng dâu nuôi tằm dệt lụa hiện nay cũng là một nghề có khả năng mang lại nguồn thu lớn và thu hút được đông lao động nông dân và là một nghề rất nổi tiếng của quê hương Hà Tây.
Những năm tới nếu những ngành tiểu thủ công nghiệp được phát triển tốt trở thành một thế mạnh của tỉnh thì lao động nông thôn sẽ không phải ra thành phố kiếm việc trong những lúc nông nhàn.
* Nông nghiệp: Lực lượng lao động của tỉnh chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 90%) lĩnh vực tạo việc làm cũng chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Vì vậy chúng ta cần tập trung vốn để chuyển mạnh cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi tăng diện tích cây trồng vụ đông, khuyến khích mở rộng đàn gia súc cả về số lượng và chất lượng đẩy mạnh tốc độ chân nuôi chú trọng đến các loại vật nuôi có giá trị thực phẩm cao. Nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động và khắc phục tính chất lao động thời vụ căng thẳng trong sản xuất nông nghiệp, từng huyện phải xây dựng phương án cụ thể củng cố mở rộng và hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày đặc biệt là các loại cây cung cấp cho ngành tiểu thủ công nghiệp.
* Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản: Tiếp tục phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản phù hợp với môi trường sinh thái hiện nay, giải quyết công ăn việc làm cho lao động. Việc khai thác mọi tiềm năng về điện, về điều kiện tự nhiên cho nuôi trồng thuỷ sản đã đang góp phần to lớn cho việc tạo việc làm, từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân, ngành nuôi trồng thuỷ sản cần được tập trung đầu tư phát triển một cách toàn diện tương xứng với tiềm năng cuả tỉnh. Tận dụng tất cả các ao hồ, các khu đồng quá sâu, năng suất nuôi trồng thấp bấp bênh để chuyển sang nuôi trồng tạo hiệu quả kinh tế cao hơn.
* Công nghiệp: Tỉnh có thế mạnh về một số ngành công nghiệp vật liệu xây dựng như đá, gạch, vôi cho xây dựng, cần đầu tư vào khai thác, sửa chữa cơ khí, máy móc mua bán xăng dầu.
* Dịch vụ: Tỉnh có nhiều thế mạnh trong phát triển kinh tế và dịch vụ như khu du lịch Ao Vua, khu du lịch thắng cảnh Chùa Hương, Chùa Thầy, trong những năm tới nếu được đầu tư thoả đáng thì ngành du lịch dịch vụ sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo được thêm nhiều việc làm cho người lao động. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo được thêm nhiều việc làm cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo tích cực.
2.2. Xây dựng một chương trình đào tạo bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực để có đủ khả năng tiếp nhận khoa học và chuyển giao công nghệ.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động khu vực nông thôn còn thấp, trong điều kiện hiện nay cần lao động có chuyên môn song lao động có chuyên môn kỹ thuật vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong lực lượng lao động nông thôn. Do lao động có trình độ chuyên môn không nhiều nên hầu hết lao động ở nông thôn là lao động thuần nông. Lao động nông nghiệp kiêm thêm các nghề khác và lao động thuộc các ngành nghề phi nông nghiệp không nhiều về cả số lượng lao động và thời gian làm việc. Hầu hết lao động nông nghiệp là không qua trường lớp mà theo kiểu cha truyền con nối làm theo kinh nghiệm. Khá nhiều lao động nông thôn không được đào tạo các ngành nghề khác, tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn cho hoạt động trồng trọt chỉ chiếm 62%
Xây dựng chương trình và nội dung học tập thiết thực cho nông nghiệp nông thôn. Chương trình và nội dung học tập phải phù hợp và mang tinh thiết thực để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước mắt cần trang bị cho đại đa số nhân dân trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng tiếp đến là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý cấp huyện và cấp cơ sở các kiến thức về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh, tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước, nông dân, nhà khoa học để tiếp thu các kiến thức nới về khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế.
Đào tạo bồi dưỡng dạy nghề cho thanh niên trong độ tuổi lao động, chủ yếu là các nghề sản xuất cho nông nghiệp, quy trình thâm canh cây trồng cùng với những tiến bộ mới về công nghệ sinh học, canh tác.
Quan tâm trọng điểm dẫn đến lực lượng lao động trẻ để tập trung đào tạo các nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống và những nghề mới phục vụ cho nông nghiệp nông thôn phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động trong khu vực, tỉnh cũng cần tạp trung dạy và truyền nghề dệt lụa tơ tằm cho thanh niên đẻ sản xuất của họ có năng suất và hiệu quả cao.
Cách thức dạy nghề và chuyển giao công nghệ.
Khuyến khích kết hợp hướng nghiệp dạy nghề chuyển giao kiến thức và công nghệ phù hợp tại các lớp ngắn ngày ở các huyện, các xã. Mở các lớp của các hội kinh tế kỹ thuật (làm vườn - khoa học kỹ thuật) để bà con được tiếp thu công nghệ, các phương thức làm ăn mới, hiệu quả khuyến khích các phương thức học nghề từ xa (thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, đài báo, ti vi).
Khuyến khích các hộ gia đình trong làng, xã có kinh nghiệm tổ chức và phát triển sản xuất giỏi biết làm giàu từ sản xuất dịch vụ làm đỡ đầu hợp với thực tế địa phương, động viên được người giàu hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo chú ý những hình thức mở lớp canh doanh nghiệp.
Nhà nước đầu tư kinh phí trích từ nguồn đào tạo hoặc trích từ quỹ xoá đói giảm nghèo ở tỉnh từ các dự án hợp tác quóc tế, và quy định rõ các cơ sở đào tạo nghề và các trung tâm dạy nghề đào tạo miễn phí đối với con em các hộ nghèo, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp nhận tuyển con em hội nghèo vào đạo tạo và làm việc.
2.3. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư nhằm thay đổi cách thức sản xuất nâng cao hiệu quả hoạt động.
Để hộ nghèo sử dụng vồn vay có hiệu quả đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng thì công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư phải được ưu tiên hàng đầu. Việc đẩy nhanh công tac này sẽ có tác dụng dây chuyền đem lại hiệu quả rất tích cực. Trước đây nó có quyết định tích cực làm thay đổi cách thức sản xuất nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho hộ nghèo, tránh để tình trạng hộ nghèo được vay vốn mà không biết làm sao để sử dụng vốn đó hoặc vay vốn về sản xuất nhưng lại dùng vào các mục đích khác như ăn ở, may mặc hoặc để dành...cho đến khi phải trả nợ và lãi thì không đủ để trả nợ. Vậy ngân hàng phải mở các lớp để phổ biến các kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi như chăn nuôi bò lai tăng trọng, lợn nạc, vịt siêu trứng, nuôi thuỷ trong lồng, bè trên biển, nuôi tôm sú, ba ba, cá bống tượng... bảo vệ thực vạt, đào tạo bồi dưỡng cho một bộ phận nông dân nhất là lực lượng trẻ một số nghề thủ công, sửa chữa bảo quản máy nông nghiệp, chế biến thuỷ sản, rau quả dịch vụ...
Ban hành các chính sách khuyến khích động viên người được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật phát huy tài năng vì sự nghiệp phát triẻn nông nghiệp nông thôn thực hiện người được đào tạo, bồi dưỡng trước dạy cho người chưa được đào tạo bồi dưỡng.
Việc làm trên sẽ góp phần kích cầu đầu tư bởi khi sản xuất đã có hiệu quả thì hộ nghèo sẽ có khả năng trả được nợ đồng thời có nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất. Đây là một điều kiện thuận lợi để mở rộng cho vay hộ nghèo cũng như thu hồi nợ.
2.4. Phối hợp với các dự án lớn, các ngân hàng, doanh nghiệp trên địa bàn để mở rộng sản xuất.
Việc tiếp cận không đầy đủ các thị trường tín dụng là trở ngại lớn nhất cho công tác xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Đa số hộ nghèo không có khả năng tự vượt lên đói nghèo vì thiếu vốn nhưng không tiếp nhận được các nguồn vốn vay. Vì vậy ngân hàng nông nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội có liên quan cần phải đổi mới phương thức phục vụ người nghèo khoản tín dụng chính thức mà phần lớn tín dụng thông qua các thị trường không chính thức với lãi suất cao hơn nhiều so với khu vực không chính thức. Để làm được điều này cần:
* Khai thác nhiều nguồn vốn để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Ngân hàng người nghèo cần tập trung các nguồn vốn so Ngân sách Nhà nước cấp, vốn quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn huy động từ cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức cho vay để làm dịch vụ cho vay hộ nghèo, các nguồn trích từ ngân sách của tỉnh, vận động các cơ sở kinh tế cho vay hoặc ủng hộ ... Ngoài ra cần khuyến khích nghiên cứu hiệu quả cho vay vốn, để các phương án kinh tế giải quyết được nhiều việc làm, khuyến khích cho vay trung và dài hạn. Ưu tiên đầu tư cho vay các dự án thu hút nhiều lao động làm ăn có hiệu quả.
* Về đối tượng cho vay: Cần ưu tiên trước cho hộ chính sách nằm trong đối tượng đói nghèo vay trước , sau đó là hộ đói mà mà có sức lao động và đến hộ nghèo xã hội. Số hộ nghèo mà không có sức lao động thì không thể cho vay vốn, đối với những hộ này thì cần có chính sách áp dụng riêng. Đối với những hộ có khả năng sản xuất kinh doanh, có năng lực kinh doanh thì NHNN&PTNT và Ngân hàng phục vụ người nghèo cần có chính sách tạo điều kiện cho họ vay với thủ tục nhanh, gọn, đơn giản, giảm chi phí trung gian để họ có thể nhanh chóng đưa vốn vào đầu tư.
* Mức vay: Mức vay của hộ nghèo cần thiết có sự điều chỉnh linh hoạt hơn, không nên quy định trần cững với mức tối đa 5 triệu như hiện nay. Trên thực tế, nhiều hộ ở địa phương có nhu cầu vay vốn hơn mức quy định chung mới đáp ứng được kế hoạch làm ăn của hộ, nhất là các địa phương chỉ có điều kiện thuận lợi để sản xuất nuôi trồng những đối tượng cần vốn đầu tư cao như: Bò sữa, nuôi thuỷ hải sản... Vì vậy có thể cơ chế nới rộng thêm một mức cho vay tối đa là 10 triệu đồng cho một hộ do giám đốc chi nhánh Ngân hàng cơ sở quyết định, nhưng khống chế tỷ lệ mức cho vay này không quá 20% tổng số vốn cho vay đến người nghèo trên địa bàn đó.
* Về lãi suất cho vay: Trên cơ sở nhà nước có chính sách cấp bù và cấp bù kịp thời phần chênh lệch lãi suất do đầu vào lớn hơn đầu ra và nhà nước chấp thuận một cơ chế tài chính “ ưu đãi “ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo, thì nên tiếp tục điều chỉnh giảm lãi xuất cho phù hợp với đối tượng này và khả năng chấp nhận cuả từng địa phương, từng vùng kinh tế. Trước mắt cần có sự thống nhất một mức lãi suất cho vay ưu đãi thuộc các nguồn vốn ngân sách nhà nước với cùng một đối tượng người nghèo, tránh tình trạng còn nhiều mức lãi suất như hiện nay.
* Về thời hạn cho vay: Thực tế thời gian qua, nhiều địa phương, nhiều trường hợp phải thực hiện gia hạn nợ, cho vay lưu vụ ...do nguyên nhân định kỳ hạn nợ vốn vay chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất của người nghèo, nhất là chu kỳ sinh trưởng cây trồng và vật nuôi. Người nghèo thường không có nguồn vốn nào ngoài nguồn vốn vay. Do đó, nếu định kỳ hạn nợ không phù hợp sẽ không sẽ buộc người nghèo phải bán sản phẩm đầu tư giữa chừng để có tiền trả nợ, hoặc chấp nhận nợ quá hạn. Vì vậy cần xem xét lại thời hạn cho vay hiện nay, nên quy định một số đối tượng cho vay có thời hạn dài hơn (thuộc loại vay trung hạn) để phù hợp với thực tế hiện nay.
2.5. Giải quyết vấn đề về ruộng đất và hỗ trợ công cụ sản xuầt đối với người nghèo.
Đây là vấn đề quan trọng và phức tạp cần được giải quyết để tránh trường hợp nông dân nghèo không có đất canh tác, không có công cụ để tiến hành sản xuất. Để làm được điều này chúng ta cần đánh giá lại tiềm năng đất đai để phân bố lại ruộng đất sao cho hợp lý, chú ý thâm canh lai tạo để tăng năng suất cây trồng vật nuôi, tập trung khai hoang, phục hoá, cải tạo đất để mở rộng quỹ đất cho sản xuát cố gắng để mọi hộ nông dân nghèo trong tỉnh đều có đất cho sản xuất. Bên cạnh đó cũng cần tập trung mở rộng ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp giải quyết công ăn việc làm cho những hộ thiếu vốn sản xuắt.
2.6. Một số biện pháp khác.
Tuyên truyền công tác dân số kế hạch hoá gia đình và hỗ trợ đối tượng nghèo để họ có thể áp dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả các biện pháp y tế để đảm bảo sức khoẻ sinh sản.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường giao lưu hàng hoá các công trình kết cấu hạ tầng. Đây là điều kiện trước tiên cho công tác xoá đói giảm nghèo, nó tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các điều kiện khác có cơ sở hạ tầng thuận lợi sẽ giúp cho mọi người có điều kiện phát triển kinh tế cùng để mở rộng hàng hoá ngày càng mở rộng hàng hóa ngày càng phát triển, mở rộng thị trường giao lưu hàng hoá giảm chi phí lưu thông, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn, sự đóng góp công sức của đông đảo quần chúng nhân dân cũng như các cấp, các ngành vì sự phát triển chung của toàn xã hội.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
1.Đối với chính quyền các cấp .
Chính phủ, Ngân hàng Trung ương cần nghiên cứu để có thể hỗ trợ thêm kinh phí cho các thành viên Ban đại diện, cần có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ tín dụng cho vay vùng sâu vùng xa. Chính sách đối với tổ vay vốn để khuyến khích họ.
Đề nghị uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các địa phương và các ngành có liên quan tổ chức đánh giá lại, thống kê chính xác số lượng hộ nghèo theo chuẩn mới của Bộ lao động thương binh xã hội làm căn cứ để ngân hàng người nghèo đầu tư vốn.
- Tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của xoá đói giảm nghèo các cấp. Tuy thủ tục cho vay hộ nghèo đã khá đơn giản nhưng quy trình về xét duyệt giải ngân còn qua nhiều cầu cấp, hồ sơ giấy tờ hành chính gây phiền hà chậm trễ, trách nhiệm không rõ ràng cần phải nghiên cứu để tháo gỡ vừa chặt chẽ nhưng vừa đơn giản.
- Đề nghị các cấp chính quyền quan tâm hơn nữa đến họat động NHNg đặc biệt là khâu xử lý các trường hợp tồn đọng và có kế hoạch thực hiện đồng bộ các giải pháp xoá đói giảm nghèo trước tiên tập trung vào công tác khuyến nông chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm.
2. Đối với Ngân hàng Trung ương
- Đề nghị với Chính phủ tập trung mọi nguồn vốn cho vay người nghèo vào ngân hàng người nghèo để tập trung quản lý sử dụng có hiệu quả hiệu quả hơn và chỉ đạo xử lý sự cố bất khả kháng.
Tạo điều kiện giúp đỡ ngân hàng người nghèo Hà Tây về nguồn vốn đáp ứng theo kế hoạch đã xây dựng.
Ngân hàng trung ương nên xem xét lại mô hình tổ chức nên cho thành lập ngân hàng chính sách có chi nhánh từ Trung ương đến địa phương, tách bạch rõ ràng chức năng của ngân hàng người nghèo và chức năng làm dịch vụ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bên cạnh đó cần có sự quan tâm hơn nữa đến cán bộ ngân hàng để động viên khuyến khích họ say mê với người nghèo tránh tình trạng khi thành lập ngân hàng không ai muốn làm vì thu nhập thấp, vấn vả, đối tượng quản lại rất phức tạp.
KẾT LUẬN
Đói nghèo là vấn đề xã hội có căn nguyên từ kinh tế nhưng lại gây hậu quả cho cả kinh tế chính trị - xã hội. Hiện nay xoá đói giảm nghèo đang được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn đảng và toàn dân. Đảng ta luôn nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bộ phận và trong suốt quá trình phát triển của toàn xã hội. Đây là một quyết sách mang tính chiến lược để xây dựng một đất nước theo định hướng xã họi chủ nghĩa. Nếu tạo ra được một sự tăng trưởng nào đó dẫu có là thần kỳ đi nữa mà ở đó tạo ra sự phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hoá giai cấp một cách sâu sắc thì cũng không đủ có nghĩa là sự giàu có của một bộ phận dân cư không phải là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, vì nó không phù hợp với mong muốn của đông đảo nhân dân.
Giờ đây đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu nhưng vấn đề đói nghèo xét cho cùng vẫn là vấn đề của từng quốc gia, từng vùng, từng địa phương. Tuỳ theo bản chất của từng nhà nước mà có các đối sách riêng. ở Việt Nam xoá đói giảm nghèo là chính sách xã hội vừa là sự thể hiện bản chất của chế độ xã hội vừ gắn liền với sự phát triển vừa là mục tiêu của sự phát triển, mục tiêu xoá đói giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc giải thoát nghèo khổ khỏi người dân mà quan trọng hơn là tạo cho họ vươn lên làm giàu chính đáng.
Tuy nhiên công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tây vẫn còn rất nhiều những khó khăn phức tạp do điều kiện kinh tế quá khó khăn, nền sản xuất nvẫn chủ yếu là nông nghiệp độc canh cây lúa, công nghiệp, thương mại, dịch vụ chưa phát triển, do hậu quả của chiến tranh, do địa hình phức tạp, do thiên tai lũ lụt luôn đe doạ sự mất mùa, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ đói nghèo tương đối cao. Trong thời gian tới ngoài việc tuyên truyền để nâng cao vai trò của công tác xoá đói giảm nghèo còn phải có những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hộ nghèo tư vươn lên thoát khỏi đói nghèo, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, xây dựng quê hương đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Văn kiện đại hội đảng lần thứ IX
2. GS – TS Đỗ Hoàng Toàn, PGS Mai Văn Bưu - Giáo trình khoa học quản lý – NXB Khoa học kỹ thuật - 2002
3. PTS Mai Văn Bưu - Giáo trình hiệu quả quản lý các dự án nhà nước- NXB Khoa học kỹ thuật - 1998
4. GS – TS Đỗ Hoàng Toàn - Giáo trình quản lý xã hội - Giáo trình tâm lý học - NXB Khoa học kỹ thuật - 1998
5. Báo cáo tình hình hoạt động của ngân hàng người nghèo Hà Tây các năm 1996- 1998; 1999; 2000; 2001.
6. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây năm 2001
7. Báo cáo kết quả điều tra hộ đói nghèo năm 2001
8. Giải pháp vốn tín dụng với công tác xoá đói giảm nghèo
9. Quản lý vốn cho vay hộ nghèo. Tạp chí tài chính tiền tệ số 7/1999
10. Ngân hàng người nghèo với cơ chế tín dụng xoá đói giảm nghèo Tạp chí ngân hàng tháng 12/2000
11. Những vấn đề cần giải quyết trong thực hiện dịch vụ tín dụng hộ nghèo thiếu vốn sản xuất. Tạp chí ngân hàng số 1+2 năm 2001
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO 3
I. Những vấn đề cơ bản về đói nghèo và sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo
3
1. Những cơ bản về đói nghèo 3
2. Các tiêu chí xác định hộ nghèo 4
3. Sự cần thiết cho vay xoá đói giảm nghèo 6
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác xoá đói giảm nghèo 7
II. Những chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc xoá đói giảm nghèo
9
1. Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian qua 9
2. Thực trạng đói nghèo của Việt Nam hiện nay 10
3. Nguyên nhân của nghèo đói 12
4. Những ảnh hưởng của đói nghèo 15
5. Những chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xoá đói giảm nghèo phát triển kinh tế xã hội 16
III. Quản lý và sử dụng vốn cho vay hộ nghèo 17
1. Vốn cho vay là gì 17
2. Quản lý tài chính 19
3. Quản lý các nguồn vốn trong tổ chức 26
4. Sử dụng vốn 29
5. Quản lý sử dụng vốn cho vay hộ nghèo 30
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO Ở HÀ TÂY 34
I. Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng tới đói nghèo 34
1. Đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh 34
2. Thực trạng đói nghèo của tỉnh Hà Tây 35
II. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây - Quá trình hình thành và phát triển 38
1. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây 38
2. Ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây 42
3. Nhu cầu về vốn cho vay xoá đói giảm nghèo ở Hà Tây 45
II. Các hoạt động cơ bản để thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo của tỉnh 46
1. Các hoạt động xoá đói giảm nghèo chủ yếu 46
2. Các thành quả đạt được của ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây 50
3. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn cho vay người nghèo 61
4. Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng người nghèo Hà Tây 65
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO HÀ TÂY 68
I. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 68
1. Quan điểm xoá đói giảm nghèo của tỉnh 68
2. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tỉnh 70
3. Mục tiêu của ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây 72
II. Những kinh nghiệm trong việc quản lý sử dụng vốn cho vay hộ nghèo 73
1. Kinh nghiệm quản lý của ngân hàng 73
2. Kinh nghiệm tạo dựng vốn của các nước trên thế giới 76
III. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng quản lý và sử dụng vốn cho vay hộ nghèo 78
1. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý vốn 78
2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 85
Một số kiến nghị và đề xuất 92
Kết luận 93
Tài liệu tham khảo 94
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2361.doc