Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: LỜI NÓI ĐẦU. Qúa trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Hay nói cách khác xu thế hội nhập đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng ngoài cuộc không tham gia vào quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế, bởi vì hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển có thể đi tắ... Ebook Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t đón đầu trong việc tiếp cận với công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho các nước này những thách thức, khó khăn. Với nền kinh tế nước ta hiện nay, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa cao, tỉ lệ tiết kiệm thấp. Để cải thiện đời sống kinh tế, nâng cao mức sống cho dân, chúng ta không chỉ trông đợi vào nguồn vốn sẵn có ít ỏi của bản thân mình mà phải biết thu hút cả nguồn vốn từ bên ngoài. Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo được những lợi thế của những người đi sau, là sự chọn lựa thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể. Chính vì vậy chúng ta cần phải hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến lược cụ thể, hợp lý; nếu không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, cản trở quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Vấn đề nợ nước ngoài đối với nhiều nước trên thế giới không còn là một vấn đề mới mẻ, nhưng vẫn là một vấn đề đáng lưu tâm. Đặc biệt trong thập niên 90 này, kể từ sau cuộc khủng hoảng nợ của Mexico vào năm 1994, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á năm 1997 và gần đây nhất lại là cuộc khủng hoảng ở Argentina vào năm 2001-2002 với những hậu quả nặng nề về kinh tế xã hội thì vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài càng trở nên cấp thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia. Đối với Việt Nam nói riêng, vấn đề quản lý nợ nước ngoài là một vấn đề khá mới mẻ và vô cùng phức tạp nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang bước sang chặng đường đổi mới để hoà nhập vào nền kinh tế chung của khu vực và thế giới . Để góp phần giải quyết những mặt hạn chế còn tồn tại, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý nợ nước ngoài nói riêng em đã chọn đề tài:“Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình . Nội dung của khoá luận gồm 3 chương : Chương I : Nợ nước ngoài và vấn đề quản lý, sử dụng vay nợ nước ngoài của một quốc gia . Chương II : Thực trạng của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua . Chương III : Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1993 đến nay. Em xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn THS Đặng Thị Nhàn, các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ để em hoàn thành bài viết này. Vì khả năng và thời gian có hạn, bài khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn để nếu có thể bài viết của em sẽ đạt kết quả tốt hơn . Sinh viên. Trần Thị Bích Hương. CHƯƠNG I NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT QUỐC GIA . Một số vấn đề cơ bản về nợ nước ngoài Khái niệm về nợ nước ngoài . Để đưa ra khái niệm về nợ nước ngoài, chúng ta cần xem xét về quá trình chuyển giao tài chính trên thế giới. Trong quá trình chuyển giao này, có hai dòng lưu chuyển vốn chủ yếu : Dòng từ các nước phát triển chảy vào các nước chậm phát triển & dòng lưu chuyển giữa các nước phát triển. Đồng thời nếu xét trên phạm vi mỗi quốc gia, mỗi dòng vốn lưu chuyển này lại có hai dòng : dòng vào & dòng ra. Có thể đưa ra khái niệm nợ nước ngoài gắn với dòng vào hay còn gọi là dòng vốn quốc tế lưu chuyển đến . Theo khái niệm của các nhà kinh tế của các tổ chức kinh tế như World Bank, IMF, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thì khái niệm Nợ nước ngoài được đưa ra như sau:“ Nợ nước ngoài tính gộp tại một thời điểm nhất định, tương ứng với tổng mức cam kết của tất cả các hợp đồng đang có hiệu lực và đã tạo ra việc người cư trú của một nước chuyển vốn cho người không cư trú( bao gồm nghĩa vụ phải trả lại gốc cùng với lãi )”. Để hiểu rõ hơn về khái niệm trên, ta có thể diễn đạt cụ thể hơn như sau: Nợ nước ngoài là khoản cam kết những hợp đồng vay nợ đã giải ngân và sẽ phải đưa ra nước ngoài để hoàn trả. Nợ nước ngoài là một khái niệm khá mới, vì vậy, chúng ta cần chú ý để tránh sự nhầm lẫn với những khái niệm tương tự khác, Trước hết, phải cần phân biệt rõ nợ nước ngoài với vốn nước ngoài. Vốn nước ngoài chính là cơ sở để hình thành nên nợ nước ngoài. Nói cách khác, nợ nước ngoài là khái niệm hẹp nằm trong khái niệm rộng hơn, đó là vốn nước ngoài. Phân biệt rõ hai khái niệm này giúp chúng ta hiểu sâu hơn và nhìn nhận đúng đắn hơn về vấn đề quản lý và hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của một quốc gia. Theo quan điểm trên, nợ nước ngoài gắn liền với dòng vốn quốc tế lưu chuyển đến. Do đó, nếu các khoản vay nước ngoài không được quản lý chặt chẽ thì sẽ gây ra sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế, dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị khủng hoảng. Vì vậy cần phân loại nợ nước ngoài theo từng nhóm cụ thể để làm rõ đặc trưng cơ bản của các hình thức vận động chủ yếu của vốn vay nước ngoài để từ đó có lựa chọn thích hợp nhất nhằm phát huy hiệu quả của nợ và giúp Chính phủ có thể quản lý chặt chẽ sự vận động của hoạt động vay nợ của đất nước. Phân loại các hình thức vay nợ nước ngoài . Tuỳ theo mục đích, cách thức quản lý cũng như cách thức sử dụng, mỗi nước sẽ phân loại nợ nước ngoài theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào 4 tiêu thức cơ bản : thời hạn vay nợ, nguồn vay, chủ thể cho vay, tính chất cho vay. - Căn cứ vào thời hạn vay, nợ nước ngoài bao gồm : nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. - Căn cứ vào nguồn vay, nợ nước ngoài bao gồm : nợ đa phương và nợ đa phương. - Căn cứ vào chủ thể cho vay, nợ nước ngoài có thể phân thành : nợ Chính phủ và nợ tư nhân. - Căn cứ vào tính chất cho vay, nợ nước ngoài bao gồm : nợ thương mại và nợ phi thương mại. Sự phân loại nợ nước ngoài theo 4 tiêu thức cơ bản nói trên không những giúp Chính phủ mỗi nước quản lý nợ nước ngoài của quốc gia mình một cách có hiệu quả mà còn nhằm tới các mục tiêu khác nhau: phù hợp với thông lệ quốc tế và tối ưu hoá lợi ích của quốc gia mình khi đưa những khoản nợ này ra xử lý tại CLB London hoặc Paris. Ngoài các hình thức phân loại nói trên, các quốc gia khác nhau như : chia nợ nước ngoài thành các khoản nợ hình thành do phát hành trái phiếu quốc tế; nợ hình thành do có nguồn gốc là các khoản vay có sự bảo lãnh của Ngân hàng hoặc Chính phủ; nợ có nguồn gốc là các khoản vay không có sự bảo lãnh. Tổng dư nợ nước ngoài Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn Phân theo chủ nợ Nợ chính phủ Nợ tư nhân Đa phương Song phương Các NHTM Trái phiếu Công ty, tư nhân 3. Ảnh hưởng của nợ nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế . Sự hình thành các khoản nợ nước ngoài của một quốc gia là một tất yếu khách quan và bản thân nợ sẽ có tác động mạnh mẽ tới nhiều khía cạnh của của đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia.Về mặt nguyên lý, nếu nợ nước ngoài được sử dụng có hiệu quả thì không những đảm bảo thực hiện được các dịch vụ nợ đối với nước ngoàI, mà nước đi vay còn đẩy nhanh được quá trình phát triển, tạo việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của dân. Điều này sẽ là ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu vốn vay thiếu thận trọng, không có chiến lược, chính sách cụ thể, cơ chế quản lý vốn vay lỏng lẻo thì nguồn vốn vay có thể bị sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Do vậy dẫn đến hiệu quả là tăng trưởng kinh tế trong nước không bù đắp được đối với khoản vay nợ, đất nước ngày càng chìm đắm trong cảnh nợ nần, dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài . 3.1.Ảnh hưởng tích cực 3.1.1. Tạo nguồn thu về vốn và ngoại tệ . Về vấn đề này hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau . Quan điểm thứ nhất, hầu hết các nhà kinh tế học đều cho rằng, trong ngắn hạn, nợ nước ngoài có tác động tích cực tới sự tăng trưởng kinh tế, nhưng xét trên quan điểm dài hạn thì sự tăng trưởng của nền kinh tế dựa vào vay nợ sẽ giảm khi bắt đầu phải trả nợ cả lãi và gốc. Theo hai nhà kinh tế học Gillis và Perkins trong tác phẩm “ Kinh tế học của sự phát triển”, tác động của vốn vay nước ngoài tới tốc độ phát triển kinh tế chủ yếu thể hiện qua việc vốn nước ngoài có thể đem lại được bao nhiêu yếu tố đầu vào ( như máy móc, công nghệ, cách thức tổ chức quản lý …) cho nước chủ nhà ( là nước đi vay ). Theo số liệu của WB, thông thường, mức gia tăng khối lượng vốn chỉ làm tăng sản lượng trong nước khoảng 15%, còn lại 85% chủ yếu thông qua các yếu tố đầu vào. Quan điểm thứ hai của các nhà kinh tế học người Đức, họ lại hoàn toàn phủ nhận những tác động tích cực của nợ nước ngoài tới sự tăng trưởng của nền kinh tế như lời khẳng định của GS Hajo Riese: “ lịch sử kinh tế cho đến nay chưa hề có quốc gia nào có thể phát triển bằng cách nhập siêu vốn, tức là dựa vào vốn nước ngoài”. Theo họ, nợ nước ngoài, tức là vô hình chung, đã giúp cho các nước ngoài tăng sản xuất, tạo việc làm và thu nhập. Tiếp theo nữa, các nước đi vay phải đồng thời trả lãi vay cho những khoản nợ của mình. Điều này cũng gây nên những khó khăn cho sự tăng trưởng nền kinh tế của quốc gia đó. Trên đây là hai ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau về ảnh hưởng của nợ nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên trên thực tế đối với các nước đang phát triển cũng như nước ta hiện nay, chúng ta không thể hoàn toàn phủ nhận vai trò của vốn vay nước ngoài, đặc biệt nếu xét trên góc độ về lợi ích của việc tăng thu vốn và ngoại tệ. Bởi vì nợ nước ngoài sẽ tạo ra những cơ sở xuất khẩu cho tương lai, điều đó sẽ dẫn đến việc nguồn vốn và ngoại tệ trong nước tăng, đây chính là những lợi ích về tăng trưởng kinh tế của đất nước. 3.1.2 Nợ nước ngoài thúc đẩy xuất khẩu phát triển, tăng thu nhập . Xét về mức tăng trưởng kinh tế và mức tăng xuất khẩu của các quốc gia trên thế giới, ta thấy các nước Châu á tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thì cũng có tốc độ tăng nợ cao nhất (mức vay nợ của các nước này chiếm khoảng 28% vào đầu những năm 1990 và tăng lên khoảng 40% vào cuối thập kỷ này ). Như vậy ta có thể rút ra nhận xét: sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với tăng trưởng xuất khẩu. Chính vì vậy, các nước đang phát triển muốn tranh thủ vốn nước ngoài để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh xuất khẩu, do đó đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây chính là giải pháp vay nợ làm “ cú huých” từ bên ngoài theo lý thuyết của Samuelson để các nước đang phát triển thoát khỏi “ vòng luẩn quẩn” của sự đói nghèo. Thực tiễn cho thấy: nước nào có chiến lược vay nợ hiệu quả thì tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hoặc nói cách khác có quan hệ tỉ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế với mức gia tăng nợ nước ngoài. Tuy nhiên mức tăng trưởng của châu Phi trong giai đoạn này lại chưa ổn định trong khi tình trạng nợ tăng nhanh. Trong trường hợp này, chúng ta không nên kết luận vội vàng rằng biến số tăng nợ nước ngoài mang ý nghĩa tiêu cực mà ngược lại qua đây chúng ta cũng biết thêm rằng nó thể hiện khả năng tiếp cận nguồn lực phát triển từ bên ngoài đối với các nước châu Phi là khá cao. Như vậy có thể kết luận rằng: mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là quan hệ tỷ lệ thuận. Điều đó cũng được chứng minh ở các nước NICS Châu Á như: Hàn Quốc, Đài Loan …vì nếu không có sự đóng góp to lớn của nợ nước ngoài thì những nước này có thể sẽ trở thành những “ con rồng” Châu Á thực sự. 3.1.3 Nợ nước ngoài giảm thiểu thời gian tích luỹ vốn . Hai tác dụng cơ bản của nợ nước ngoài xét trên vấn đề vốn và ngoại tệ là: tạo cơ sở thúc đẩy xuất khẩu cho tương lai và rút ngắn thời gian tích luỹ vốn ban đầu. Trong đó vấn đề rút ngắn thời gian tích luỹ vốn ban đầu sẽ được thấy rõ khi nhìn lại lịch sử phát triển của các nước đang phát triển. Ở hầu hết các nước này sau khi giành được độc lập, đất nước đều ở tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Đời sống của nhân dân còn rất khó khăn, hậu quả là vốn đã ít lại không được sử dụng có hiệu quả. Do đó mà các nước này đều chỉ có thể chi một khoản rất hạn hẹp cho đầu tư công cộng và kỹ thuật. Để giải quyết phát triển cơ sở hạ tầng – một lĩnh vực quan trọng trong việc bảo đảm tiền đề cho phát triển kinh tế song đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn mà khả năng thu hồi vốn chậm – các nước đang phát triển đã sử dụng nguồn vốn ODA để bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển vốn dĩ đã rất hạn hẹp từ Ngân sách Nhà nước ( NSNN ). Hàng năm, các nước phát triển đã cung cấp một khối lượng ODA khổng lồ trị giá hàng trăm tỉ USD cho các quốc gia đang phát triển. Khối lượng ODA có một vai trò rất quan trọng đối với các nước này. Nó cho phép họ có được một khoản tiền đầu tư vào lĩnh vực công cộng, giải quyết một số vấn đề cấp bách, rút ngắn thời gian tích luỹ vốn cho sự phát triển. Theo báo cáo của WB, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 70, Philipin đã dành 60% tổng số vốn vay ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng; Thái Lan, Indonexia, Singapore có nhiều công trình hạ tầng như: sân bay, bến cảng, trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA. Các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc trước đây cũng dựa vào nguồn vốn ODA để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. 3.1.4 Tiếp nhận công nghệ tiên tiến của các nước đi trước . Một lợi ích quan trọng mà nợ nước ngoài có thể mang lại cho các nước mắc nợ là công nghệ kỹ thuật hiện đại của các nước đi trước cũng như sự phát triển của nguồn nhân lự. Bằng nguồn vốn vay nước ngoài, các nước “con nợ” có thể sử dụng nợ nước ngoài để vay đầu tư mua máy móc, trang thiết bị mới, phát triển giáo dục và đào tạo, vừa tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác dạy và học, vừa nâng cao trình độ giáo viên, chú trọng, hoàn thiện và phát triển giáo dục đào tạo trong khi cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học của các nước đang phát triển đang trong quá trình chuẩn bị, có thể sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài để cử cán bộ ra nước ngoài học tập. Bên cạnh đó, nguồn vốn nước ngoài còn giúp để thực hiện nghiên cứu cơ bản ( tổng quan, quy hoạch, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi ), chuyển giao công nghệ, phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan nghiên cứu và quản lý. Thu hút nguồn vốn nợ nước ngoài để dành cho các công trình công nghiệp nhằm tạo nguồn vốn thực hiện các biện pháp cải cách doanh nghiệp, đầu tư theo chiều sâu, tăng cường và đổi mới trang thiết bị, công nghệ để tạo khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đây là những lợi ích căn bản nhất mà nợ nước ngoài đem lại cho các nước đi vay. 3.1.5 Thu hút và mở rộng đầu tư có hiệu quả. Nợ nước ngoài là sự chuẩn bị cho vốn FDI được thu hút và tạo điều kiện để sử dụng nó sao cho đạt hiệu quả, mở rộng đầu tư phát triển kinh tế trong nước đối với các nước đang phát triển. Hỗ trợ phát triển chính thức cũng như nợ nước ngoài bản thân nó là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang phát triển, còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển cho các nước “ con nợ” thông qua quá trình hiện đại hoá và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, và do đó, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh khác có khả năng mang lại lợi nhuận. Như đã phân tích ở trên về vấn đề rút ngắn thời gian tích luỹ vốn, nếu xét trên một phương diện khác, ta cũng thấy rõ lợi ích mà nợ nước ngoài đem lại cho các nước con nợ. Để thu hút đầu tư nước ngoài, các nước cần phải hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đảm bảo điều kiện tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội. Nhờ có nguồn vốn nước ngoài, các nước mới cải thiện được điều kiện khó khăn vốn của mình để từ đó thu hút và mở rộng đầu tư nước ngoài, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra trong ngắn hạn, nợ nước ngoài còn là “tấm lá chắn” giúp cho các quốc gia đi nợ cải thiện cán cân thanh toán. Nó còn là một nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo thêm việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp – một vấn nạn của các nước đang phát triển, ngăn ngừa và hạn chế các tệ nạn xã hội, góp phần tăng thu nhập cho người dân, đồng thời có thể tạo cho nước đi vay thế chủ động trong quản lý và sử dụng vốn vay, giảm thiểu các quyền kiểm soát và sở hữu của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế và chủ quyền của nước vay nợ. Ảnh hưởng tiêu cực . 3.2.1. Nợ nước ngoài kèm theo những điều kiện, ràng buộc mang tính chính trị. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực như đã nói ở trên, nợ nước ngoài cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của quốc gia. Đề cập đến vấn đề này, nhà kinh tế học người Mỹ B. Friedman đã viết : “ Chúng ta đang sống trong nợ nần chồng chất và bán dần bán mòn tài sản của chúng ta đi. Nước Mỹ tự tiêu sài hoang phí và gửi hoá đơn thanh toán cho tương lai, ảnh hưởng cũng như vai trò quan trọng của nước Mỹ trên trưởng quốc tế bị giảm sút”( Trích dẫn theo giáo trình “ Kinh tế học” của Paul. Samuelson). Qua nhận xét về ảnh hưởng tiêu cực của nợ nước ngoài đối với nền kinh tế Hoa Kỳ như trích dẫn trên, ta dễ dàng thấy được hậu quả của nợ nần đối với nền kinh tế là rất nghiêm trọng. Đối với các nước đang phát triển, hậu quả của nợ nước ngoài lại càng bộc lộ rõ. Các khoản nợ nước ngoài, nhất là các khoản vay ODA do Chính phủ các nước phát triển cung cấp cho các nước đang phát triển thường hay đi kèm với những điều kiện và ràng buộc về chính trị, kinh tế, quân sự … Trong một số trường hợp, những điều kiện này không chỉ dừng lại ở các ràng buộc đơn thuần, mà chúng đã trở thành những yêu sách của các nước cung cấp viện trợ, can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của nước nhận viện trợ, xâm phạm đến chủ quyền độc lập của của một quốc gia. Xét về mặt kinh tế, có nhiều dự án viện trợ đi kèm với các ràng buộc như: phải mua hàng hoá, thiết bị, công nghệ hay phải thuê chuyên gia từ những quốc gia cung cấp viện trợ với giá không hợp lý, cao gấp nhiều lần so với giá trị thực tế. Nói chung bên cấp viện trợ thường cố gắng lợi dụng lợi thế của mình để đạt được những mục tiêu chính sách riêng. Họ thường gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ ở nước họ như một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ của mình. Những nước cấp viện trợ, cả song phương và đa phương, đều sử dụng viện trợ làm công cụ buộc các nước đang phát triển phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của mình. Như vậy, đối với các nước đang phát triển, nợ nước ngoài sẽ tạo cho họ thế bị động trong việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài đối với nền kinh tế, đồng thời làm tăng tính kiểm soát của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế, từ đó làm tăng tính phụ thuộc của các nước đi vay đối với các nước cho vay. Đúng như TS. D. Korten nói, việc vay nợ chỉ làm hồi sinh nền kinh tế thực dân. Nếu như thực dân cũ dùng việc chiếm đóng quân sự để áp bức dân thuộc địa, thì thực dân mới lại sử dụng vốn và nợ nần để kiểm soát các nước còn kém phát triển. 3.2.2. Nợ nước ngoài là gánh nặng cho người dân trong tương lai . Nợ nước ngoài không chỉ tạo ra sự phụ thuộc ngày càng lớn vào nguồn lực phát triển bên ngoài mà còn tạo ra những thua thiệt cho các nước vay nợ trong việc tiếp nhận các công nghệ hiện đại. Như đã phân tích ở mục 3.1.4, các nước “ con nợ” sẽ có lợi thế của những người đi sau, nhưng nếu không có những chính sách, chiến lược hợp lý thì các nước này sẽ lâm vào tình trạng là các “ bãi thải” công nghệ cho các nước phát triển do nhập phải những công nghệ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của quốc gia. Nhưng nếu sử dụng vốn nước ngoài để mua những công nghệ quá hiện đại, đắt tiền, không phù hợp với năng lực công nghệ của quốc gia như không sử dụng được hoặc sử dụng không đạt hiệu quả, gây lãng phí, làm cho chi phí bỏ ra quá cao, thực sự trở thành gánh nặng đối vói các quốc gia mà thế hệ mai sau là người phải gánh chịu việc hoàn nợ. Đây cũng chính là vấn đề cần được đề cập khi nghiên cứu các ảnh hưởng tiêu cực của nợ nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, cơ chế ấy nợ thường lỏng lẻo, vay nợ thường chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt như tăng nguồn vốn để cải thiện phần nào đời sống nhân dân. Xét về lâu dài, nó chỉ làm cho sự phụ thuộc của chính các nước này đối với các nước viện trợ ngày càng tăng cao, lâm vào thế bị động. Nó duy trì phương hướng phát triển kinh tế chỉ biết dựa vào xuất khẩu, tài trợ cho các dự án lấy tài nguyên làm cơ sở, tàn phá môi trường tự nhiên và tước đoạt quyền làm chủ của người dân. Vì vậy một vấn đề nữa cần được đề cập khi nghiên cứu các tác động tiêu cực của nợ nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia là những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu. Để lấy dẫn chứng cho điều này, chúng ta sẽ phân tích tình hình vay nợ và phát triển kinh tế của một số quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia Mỹ La tinh như Brazil và Mexico. Như đã phân tích ở trên, nợ nước ngoài đối với một quốc gia là do quốc gia đó hoàn toàn chủ động và có toàn quyền quản lý, sử dụng. Chính điều này, nếu không có chiến lược sử dụng, quản lý có hiệu quả sẽ tác động ngược lại tới hiệu quả của việc đi vay nợ. Một khi các khoản nợ không được sử dụng hiệu quả thì sẽ dẫn đến gánh nặng nợ nần, làm tăng các khoản trả nợ cho các khoản đi vay nước ngoài, từ đó làm giảm sút thu nhập quốc dân. Nợ nước ngoài kéo theo việc xuất khẩu làm cho các quốc gia phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu để thu ngoại tệ trả nợ. Ví dụ như Braxin và Mexico, vào cuối những năm 1980, đã phải dành 1 / 4 đến 1/3 thu nhập từ xuất khẩu để trả nợ, trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu lại có quan hệ tỉ lệ thuận với tăng trưởng kinh tế, là nền tảng cho sự phát triển. Do đó nếu dành quá nhiều thu nhập từ xuất khẩu để trả nợ thì hậu quả là tăng trưởng kinh sút kém, làm cho đất nước dễ lâm vào tình trạng khủng hoảng không có khả năng trả nợ hoặc phải tuyên bố vỡ nợ. Thực trạng về các khủng hoảng nợ của các nước Châu Mỹ La tinh đến nay vẫn luôn được nhắc đến như những bài học quý giá đối với các nước đang phát triển đi sau để tránh tình trạng nợ nần và dẫn tới khủng hoảng nợ quốc tế sâu sắc. Cuộc khủng hoảng này đánh dấu sự đình trệ trong tiến trình phát triển kinh tế, xóa đi nhiều thành quả trong nhiều thập niên trước, làm giảm mức sống của phần đông dân số trên thế giới, đồng thời làm cho tình hình tài chính quốc tế gặp khó khăn. Hiện nay nợ nước ngoài của các nước đang phát triển khoảng gần 2000 tỷ USD. Món nợ khổng lồ này không ngừng được gia tăng hàng năm do lãi mẹ đẻ lãi con, làm cho các nước này lại càng thêm nợ nần chồng chất. Sở dĩ họ phải đi vay là do có nhu cầu về vốn để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong nước, nhưng kết quả là do món nợ gia tăng, vì vậy các nước này không những không thoát khoỉ đói nghèo mà thậm chí lại lâm vào vòng luẩn quẩn mới: nghèo đói --- vay nợ----trả nợ ( lãi và gốc )---vay nợ nhiều hơn ----nghèo đói hơn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, những ảnh hưởng tiêu cực của nợ nước ngoài tới sự phát triển kinh tế không phải do chính bản thân nó gây ra, mà đó chính là hậu quả của việc quản lý và sử dụng các món nợ đó như thế nào, hay nói cách khác chính là do chưa có một chiến lược vay nợ đúng đắn, cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, kém hiệu quả. Từ sự phân tích trên, ta có thể nhận thấy lợi thế mà nợ nước ngoài có thể đem lại, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đi sau cần “ đi tắt, đón đầu”. Dù cho có những ảnh hưởng tiêu cực, nhưng nợ nước ngoài vẫn là một xu hướng khách quan, một sự lựa chọn cho phép để các nước nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, nợ nước ngoài nói riêng và vốn nước ngoài nói chung chỉ là một bộ phận của tổng thể các nguồn lực. Xét trong dài hạn thì nợ nước ngoài không thể đóng vai trò quyết định so với nguồn lực riêng vốn có của bản thân nước đó. Hay nói cách khác nợ nước ngoài có khả năng thúc đẩy sự phát triển, nhưng không phải là yếu tố quyết định của sự phát triển; là yếu tố cần chứ không phải là yếu tố đủ. Kết luận trên đã cung cấp cho chúng ta những gợi ý quan trọng trong việc xác định rõ vai trò của các nguồn lực của phát triển trong chiến lược phát triển lâu dài trong từng giai đoạn cụ thể. Nợ nước ngoài, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đóng vai trò tạo sức đột phá cho bước nhảy vọt cũng như tạo cơ sở vững chắc cho việc đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và các chính sách liên quan. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực nêu trên của nợ nước ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, nợ nước ngoài cũng có những mối quan hệ đối với các chính sách về tài chính, tiền tệ của một quốc gia. Để phân tích thấy rõ những ảnh hưởng đó, trước hết cần tìm hiểu mối quan hệ của nợ nước ngoài của với một số các biến số kinh tế vĩ mô khác như: tỉ giá hối đoái, cán cân thanh toán… 4.1.Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và các biến số kinh tế . 4.1.1. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế . Cán cân thanh toán quốc tế gồm: cán cân vốn, cán cân vãng lai, cán cân dự trữ. Theo góc độ giá trị ta có: Tổng sản phẩm quốc dân – Tổng chi tiêu quốc dân = Tiết kiệm - Đầu tư (1) Theo góc độ về luồng sản phẩm, ta có : Tổng sản phẩm quốc dân – Tổng chi tiêu quốc dân = Xuất khẩu–Nhập khẩu (2) Qua đẳng thức trên ta thấy: Khi Xuất khẩu > Nhập khẩu, cán cân vãng lai thặng dư, việc đầu tư vốn ra ngoài sẽ làm cho cán cân vốn bị thâm hụt. Ngược lại khi xuất khẩu < nhập khẩu, cán cân vãng lai bị thâm hụt, cán cân vốn sẽ thặng dư do phải vay nợ để bù đắp sự thâm hụt trong cán cân vãng lai. Do đó ta có các đẳng thức sau: Xuất khẩu – Nhập khẩu = Thâm hụt thương mại – Tiền lãi các khoản nợ (3) Xuất khẩu – Nhập khẩu = Mức tăng nợ ròng đối với nước ngoài (4) Đẳng thức (3) cho chúng ta thấy nguyên nhân của sự thâm hụt. Đẳng thức (4) cho chúng ta biết sự thâm hụt trong cán cân vãng lai phải được bù đắp bằng cách phải vay thêm các khoản vay mới hoặc phải bán tài sản cho nước ngoài. Như vậy khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai sẽ dưa trên điều kiện về khả năng thanh toán nợ nước ngoài, mà để đảm bảo khả năng thanh toán nợ, chỉ số Nợ / GDP hoặc Nợ / Xuất khẩu phải đảm bảo không tăng. Hay nói cách khác, khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai được đảm bảo nếu khả năng chịu đựng nợ được đảm bảo. Tuy nhiên thông qua cuộc khủng hoảng nợ của Argentina trong giai đoạn 1978-1982 khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai vẫn không được đảm bảo do mất cân đối lãi suất. Vì vậy cần đòi hỏi phải xem xét cán cân vốn và các chỉ số tài chính một cách toàn diện cùng với cán cân vãng lai. Do đó khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai không chỉ dựa vào khả năng thanh toán của nợ nước ngoài mà còn dựa vào những rủi ro tiềm ẩn trong cán cân về vốn. Tóm lại, giữa nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thể hiện qua mối quan hệ giữa cán cân vãng lai và cán cân vốn. Phân tích lý thuyết cũng như xét trên kinh nghiệm của các nước cho chúng ta thấy, sự thâm hụt cán cân vãng lai có thể được bù đắp bằng cách bán tài sản cho nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài hoặc có thể được lấp đầy bằng sự thặng dư trong cán cân vốn. Như vậy cán cân thanh toán quốc tế sẽ đạt mức cân bằng để đảm bảo cho sự ổn định kinh tế của đất nước một cách nhanh nhất. Để dự đoán được tình trạng của cán cân thanh toán một cách chuẩn xác, cần phải hiểu diễn biến của các khoản nợ. Cơ cấu nợ cần được đảm bảo rằng nền kinh tế không phải gánh chịu tình trạng nguồn vốn chảy mạnh ra nước ngoài trong một thời gian ngắn. Từ sự phân tích trên ta có thể thấy rằng sử dụng nợ nước ngoài để cải thiện cán cân thanh toán không phải là một giải pháp hữu hiệu. Nếu như thâm hụt trong cán cân thanh toán triền miên xảy ra và tiếp tục được giải quyết bằng các khoản nợ thì rất nguy hiểm cho sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế quốc gia. Đồng thời, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa cán cân thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài, không thể bỏ qua một yếu tố quan trọng khác đó là tỉ giá hối đoái.. 4.1.2. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ thông qua việc làm cân bằng cán cân thanh toán nói chung và cán cân vãng lai nói riêng(bằng cách thúc đẩy hay kiềm chế nhập khẩu ) mà còn trực tiếp tác động đến khối lượng nợ phải trả trong tương lai. Tuy nhiên, tỉ giá hối đoái được sử dụng trong phân tích dưới đây là tỉ giá hối đoái danh nghĩa, được yết giá theo phương pháp yết giá gián tiếp. Điều đó có nghĩa là khi đề cập đến tỉ giá hối đoái tăng thì việc này đồng nghĩa với sự giảm giá cuả đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Việc vay vốn nước ngoài tính theo một đồng ngoại tệ đang có xu hướng “mạnh” lên sẽ làm cho số vốn vay đó “ đắt” lên một cách vô hình theo thời gian, với tỷ lệ tăng giá của đồng tiền ấy. Ngược lại, với đồng tiền có xu hướng giảm giá thì tình hình sẽ phát triển theo chiều hướng có lợi cho nước đi vay. Do đó, trong tình huống buộc phải vay đồng tiền đang mạnh lên thì giải pháp khả dĩ để giảm thiểu số nợ tăng vô hình rõ ràng sẽ là vay với thời hạn ngắn, với mức lãi suất thấp hơn. Mặt khác, xét từ góc độ tăng trưởng xuất khẩu và góc độ trả nợ, ta thấy, khi tách riêng tỉ giá hối đoái để xem xét, cả trên lý thuyết và kinh nghiệm cho thấy, khi tỷ giá càng “mềm” ( tương ứng với mức tỷ giá cao ), tức là khả năng thu lợi từ xuất khẩu càng lớn thì sức hấp dẫn đối với vốn vay nước ngoài càng lớn. Vì một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao thì kéo theo khả năng trả nợ cũng đảm bảo hơn. Khi đó, đối với nhà cho vay, độ mạo hiểm đối với việc cho vay cũng sẽ giảm xuống. Hay hiểu theo nghĩa khác, tăng trưởng xuất khẩu đồng nghĩa với sức tăng trưởng kinh tế nói chung. Nếu có tỉ giá hối đoái thích hợp sẽ thúc đẩy xuất khẩu, do đó nó có vai trò to lớn trong việc huy động nguồn vốn vay nước ngoài Tuy nhiên, như phân tích ở trên, khi tỉ giá “mềm” đi trong khoảng thời gian chịu nợ thì điều đó lại có lợi cho các nước đi vay bởi để một nước đi vay được lợi do tác động của tỉ giá thì đồng tiền cần “mềm” đi là trong quan hệ tỉ giá là đồng ngoại tệ chứ không phải là đồng nội tệ. Sự mâu thuẫn trong quan hệ giữa tỉ giá hối đoái – nợ nước ngoài – tốc độ tăng trưởng xuất khẩu này, đòi hỏi phải có sự kết hợp linh hoạt giữa._. các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn trong quan hệ tỉ giá để nền kinh tế có thể thu được những lợi ích tổng thể và dài hạn. Khi luồng vốn nước ngoài thông qua vay mượn chảy vào trong nước với khối lượng lớn sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng mạnh. Khi đó nếu NHTW không có những biện pháp thúc đẩy về phía cầu thì tỷ giá sẽ giảm, gây thiệt hại cho xuất khẩu: tỉ giá hối đoái giảm à hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới trở nên đắt à kém sức cạnh tranh, trong khi đó tỉ giá hối đoái giảm à hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn, có sức cạnh tranh hơn so với hàng hoá trong nước trên thị trường tiêu dùng nội địa. Do đó cán cân vãng lai dần xấu đi do nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm, gánh nặng ngày càng chồng chất. Đến lúc này nguồn vốn ngoại tệ bắt đầu không còn chạy vào trong nước nữa mà bắt đầu “chạy” ra nước ngoài. 4.2. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với chính sách tài chính tiền tệ 4.2.1. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với thâm hụt ngân sách Như đã phân tích ở trên, ta có: Thặng dư cán cân vốn = Thâm hụt cán cân vãng lai + Thâm hụt ngân sách. Hay nói cách khác, sự tăng lên của nợ nước ngoài là kết quả của sự thâm hụt cán cân vãng lai. Mà các khoản thâm hụt trong cán cân vãng lai lại được phản ánh qua sự mất cân bằng giữa tiết kiệm tư nhân với đầu tư tư nhân, hoặc phản ánh một sự thâm hụt ngân sách của khu vực Nhà nước. Do đó, ta có đẳng thức: Số tăng nợ nước ngoài = Đầu tư tư nhân – Tiết kiệm tư nhân + Thâm hụt ngân sách. Nếu không tính đến các nhân tố khác như đầu tư và tiết kiệm thì ta có thể khằng định quan hệ giữa nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách là quan hệ tỉ lệ thuận. Thật vậy, khi thâm hụt ngân sách, nhà nước có thể có những giải pháp sau: thứ nhất là đẩy mạnh việc đi mượn, thứ hai là tăng thuế để tăng thu ngân sách, thứ ba là phát hành thêm để bù đắp lượng thiếu hụt hoặc là bán tài sản của mình cho nước ngoài. Nhưng cho dù chọn giải pháp nào thì tốc độ tăng nợ nước ngoài luôn lớn hơn tốc độ vay nợ để bù đắp thâm hụt. Bởi vì tỷ lệ nợ tiếp tục gia tăng song do bản thân sự thâm hụt ngân sách làm cho các quốc gia này không thể trả được nợ, từ đó tiếp tục mở rộng thêm luồng ngoại tệ cần chi trả nợ, do đó các khoản tích luỹ lẽ ra dung để đầu tư trong nước hay để thanh toán những khoản nhập khẩu cần thiết nhằm hỗ trợ cho việc phục hồi kinh tế ở các nước kém phát triển. Bên cạnh đó, đề cập tới nợ nước ngoài không thể không đề cập tới vấn đề tỉ giá. Nếu như đánh giá quá cao đồng bản tệ, dẫn đến sự thay đổi trong các khoản chi tiêu. Nhu cầu hàng nội địa giảm thay vào đó là các hàng hoá nhập khẩu. Như vậy, sản xuất và việc làm trong nước giảm xuống, không những làm giảm tiết kiệm tư nhân mà còn làm cho thâm hụt ngân sách càng tăng hơn. Như vậy có thể kết luận rằng: quan hệ giữa nợ nước ngoài và tiết kệm trong nước là quan hệ tỉ lệ nghịch, nghĩa là vốn nước ngoài càng nhiều thì tiết kiệm trong nước càng giảm sút. Vì vậy ta có thể kết luận mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách là quan hệ tỉ lệ thuận. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng của nợ nước ngoài do thâm hụt ngân sách có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của bản thân sự thâm hụt ngân sách do tác động của đầu tư và tiết kiệm trong mối tương quan với thâm hụt ngân sách. 4.1.2. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với chính sách tiền tệ quốc gia Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng khi có một lượng vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước dẫn đến sẽ làm tăng tổng cầu nền kinh tế, trong khi đó tổng cung chưa tăng kịp, cân đối bên trong bị phá vỡ, dẫn đến nguy cơ lạm phát trong nước. Lúc này NHTW sẽ đưa ra các biện pháp để tránh hiện tượng này như tăng lãi suất. Kết quả là, nợ nước ngoài làm tăng tổng cầu nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm xuống trong đầu tư, và do đó tỉ giá hối đoái giảm, kéo theo xuất khẩu giảm xuống và nhập khẩu tăng. Mặt khác, có thể xem xét mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với chính sách tiền tệ thông qua quan hệ giữa cán cân tư bản và hiệu ứng lãi suất. Khi ngân hàng thay đổi lãi suất thông qua chính sách tiền tệ, lãi suất mới sẽ làm thay đổi tính hấp dẫn tài sản trong nước: khi vốn chảy vào quốc gia có lãi suất cao hơn thì luồng vốn vào sẽ làm cho đồng tiền của nước đó lên giá, dẫn đến làm chậm quá trình lạm phát, làm giảm sản lượng. Ngoài ra, về mặt tiền tệ, nhiều nhà kinh tế còn lưu ý rằng, đối với một số nước mà hệ thống ngân hàng còn chưa phát triển, tình trạng “đô la hoá” còn nghiêm trọng thì lượng cung ứng tiền tệ trong nước được hiểu là: MS = Mnội tệ + MUSD. Nợ nước ngoài chảy vào trong nước chủ yếu bằng đồng USD cũng sẽ trở thành phương tiện thanh toán và do đó làm cho cung tiền tệ trong nước tăng, gây sức ép mạnh tới lạm phát. Trên đây là những trình bày sơ bộ về nợ nước ngoài. Tuy nhiên để có thể hiểu và ứng dụng những lợi ích của việc vay nợ nước ngoài, chúng ta cần phải nghiên cứu thêm về vấn đề quản lý và hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của một quốc gia. II. Quản lý nợ nước ngoài của một quốc gia. Khái niệm và sự cần thiết của công tác quản lý nợ . 1.1. Khái niệm. Theo quan điểm hệ thống, quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm biến đổi hệ thống từ trạng thái này sang trạng thái khác theo nguyên lý phá vỡ hệ thống, tạo lập hệ thống, điều khiển hệ thống, qua đó đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Vì vậy ta có thể đưa ra khái niệm quản lý nợ nước ngoài như sau: Theo nghĩa rộng, nợ nước ngoài là hàm chứa trong nó hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô với công cụ chủ yếu là tiền tệ sao cho vốn nước ngoài được sử dụng một cách có hiệu quả và không gia tăng đến mức vượt quá khả năng thanh toán đúng hạn để không làm tích luỹ nợ. Nó có phạm vi bao trùm từ khâu lựa chọn đối tác vay vốn, lựa chọn tương quan giữa ODA, vay nợ, FDI trong tổng nguồn vốn đầu tư, cho đến việc kiểm soát và thi hành các quy định về trả nợ .... Còn hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý nợ nước ngoài bao hàm việc khống chế mức gia tăng nợ trong quan hệ với năng lực tăng trưởng GDP và tăng trưởng xuất khẩu của đất nước. 1.2. Sự cần thiết của công tác quản lý nợ nước ngoài của một quốc gia. Mỗi một quốc gia khi tiến hành vay nợ đều có những mục đích riêng của mình. Có thể họ sử dụng vốn nợ để đầu tư trực tiếp cho phát triển kinh tế, công tác quản lý nợ được xem xét dưới góc độ quản lý chủ thể vay nợ; hoặc là quốc gia tiến hành đi vay nhưng không nhưng sau đó lại thực hiện cho vay lại, lúc này nước đi vay lại trở thành chủ nợ cấp II. Đồng thời, mỗi quốc gia đều có các phương pháp quản lý nợ khác nhau. Tuỳ theo từng phương pháp, ta có thể thấy rõ ưu điểm, sự cần thiết của công tác quản lý nợ đối với sự phát triển của quốc gia đó. Quản lý nợ theo phương pháp kinh tế tức là tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích về kinh tế, nhờ đó tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị vay vốn có hiệu quả. Thông qua phương pháp này các nước có thể thống kê, theo dõi và phân tích được tương đối đầy đủ về mức độ nợ quốc gia cũng như chi tiết các khoản vay trung dài hạn theo các ngoại tệ khác nhau. Quản lý nợ giúp cho việc phân tích, thống kê và dự đoán sự vận động vào ra của các luồng vốn vay nước ngoài, thể hiện chức năng kế hoạch và thông tin, báo cáo của quản lý. Quản lý nợ đòi hỏi các cơ quan, cá nhân thực hiện quản lý phải tiến hành thu thập thông tin về các khoản nợ hiện tại, xác định số nợ gốc, nợ lãi phải trả trong từng thời kỳ như khả năng hoàn trả của quốc gia. Đồng thời nó cũng bao hàm việc phân tích, đánh giá các tín hiệu của thị trường như năng lực nội tại của đất nước, để qua đó xây dựng kế hoạch vay, trả nợ và dự đoán sự dịch chuyển vào ra của các luồng vốn trong quá trình lưu thông nhằm có những phản ứng kịp thời, mang lại hiệu quả cao trong quản lý. Quản lý nợ giúp cho việc xác định được quy mô hấp thụ dự tính, nhu cầu, khả năng trả nợ, mục đích trả nợ, thời hạn trả nợ. Mỗi khoản nợ đều có những kỳ hạn khác nhau. Quản lý kỳ hạn nhằm mục tiêu xác định một cơ cấu kỳ hạn hợp lý, nhờ đó giúp quốc gia bảo đảm khả năng trả nợ. Nhưng đồng thời, khi lựa chọn kỳ hạn, các nhà quản lý phải lưu ý đế tính linh hoạt, mềm dẻo của kỳ hạn và chi phí. Quản lý nợ hiệu quả đem lại những lợi ích từ việc tránh được những rủi ro hối đoái và các rủi ro hệ thống khác.Ví dụ, tính đến cuối năm 2001 , thu về xuất khẩu của Việt Nam đạt 15,1 tỉ USD, trong đó, tỷ giá giữa đồng USD và EUR là 1 USD = 1,18 EUR. Tuy nhiên, đến giữa tháng 9 năm 2002 , 1 USD = 0,97 EUR(tỉ giá giảm ). Nếu biết lợi dụng chênh lệch tỷ giá để kinh doanh thì giá trị thực tế của nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu sẽ được bảo tồn và tăng lên, đồng thời làm giảm gánh nặng nợ nần cho quốc gia; nếu không sẽ làm cho gánh nặng nợ nần ngày càng chồng chất. Từ ví dụ trên, ta thấy, nếu thay việc đổi USD ra EUR vào thời điểm cuối năm 2001 bằng thời điểm tháng 9/2002 thì ta đẵ mất đi 3,17 tỉ EUR. Do đó, nội dung của việc quản lý rủi ro tỷ giá không chỉ nằm ở chiến lược xây dựng và duy trì một tỷ giá có lợi cho xuất khẩu lẫn nợ nước ngoài trong dài hạn mà còn phải được xem xét ở cả khía cạnh xác lập cơ cấu ngoại tệ tối ưu trong vay nợ nước ngoài trong tương quan với nguồn thu nhập bằng ngoại tệ của đất nước, xử lý linh hoạt mối quan hệ giữa cơ cấu ngoại tệ thu từ xuất khẩu với vấnề trả nợ, đồng thời, tận dụng tối đa lợi ích do chênh lệch tỷ giá mang lại. Cũng như quản lý rủi ro hối đoái, ta thấy rõ sự cần thiết của việc quản lý nợ thông qua việc quản lý rủi ro lãi suất. Là một biến số kinh tế vĩ mô, lãi suất thường xuyên biến động trên thị trường. Có những lúc sự biến động này có ảnh hưởng tích cực, nhưng cũng có những lúc lại có những ảnh hưởng tiêu cực. Các nước đang phát triển quản lý nợ nước ngoài của quốc gia mình thông qua một chiến lược đàm phán về các khoản vay nhằm đạt được một cơ chế và mức lãi suất hợp lý, đồng thời thường xuyên theo dõi, phân tích và dự báo những biến động trên thị trường, qua đó họ đã có những phản ứng tích cực và kịp thời, góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của lãi suất đến quy mô nợ nước ngoài, đồng thời tối ưu hoá được lợi ích của việc trả lãi. Tóm lại, quản lý nợ nước ngoài ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều rất cần thiết. Là một dạng quản lý kinh tế, quản lý nợ nước ngoài luôn được chú trọng để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và giữ mức nợ nước ngoài trong một tỉ lệ tương ứng với năng lực trả nợ cụ thể của đất nước, nó đảm bảo giữ cho vốn mà các chủ thể vay được đầu tư đúng vào các mục tiêu phát triển đã được chọn trong cơ cấu tổng thể. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả quản lý nợ nước ngoài . 2.1 Các chỉ tiêu định tính Về mặt định tính, để đánh giá hiệu quả quản lý nợ nước ngoài có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: Lợi ích thu được từ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội đã được nâng cấp, cải thiện hay hiện đại hoá nhờ sự góp mặt của nợ ( lợi ích này bao gồm cả những tiện ích thu được từ việc tạo môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ). Số việc làm được tạo ra và sự cải thiện thu nhập cho người lao động được thực hiện bởi quá trình sử dụng nợ nước ngoài. Các chỉ tiêu này, mặc dù về hình thức là các chỉ tiêu định lượng song ở các nước đang phát triển do những hạn chế trong công tác thống kê số liệu nên không thể tách riêng ảnh hưởng được tạo ra bởi nợ nước ngoài so với các ảnh hưởng tổng cộng khác. Vì vậy, các chỉ tiêu này được coi là các chỉ tiêu định tính. Mức độ đóng góp của nợ vào việc cải thiện năng lực công nghệ quốc gia. Chỉ tiêu định lượng . 2.2.1.Căn cứ vào khả năng thanh toán . Căn cứ theo khả năng này, World Bank chia các nước vay nợ ( là những nước đang phát triển ) thành 2 nhóm: các nước trả được nợ và các nước không trả được nợ. Khả năng thanh toán của các nước phụ thuộc vào trình độ phát triển của nước đó. Để phân chia trình độ phát triển của các nước, World Bank chia các nước đang phát triển thành 4 nhóm ( căn cứ vào GNP bình quân đầu người ): Các nước có thu nhập rất thấp : GNP /người / năm : < 550 USD . Các nước có thu nhập thấp : GNP/ người / năm : 550-600 USD. Các nước có thu nhập trung bình thấp : GNP/người / năm : 600-2200 USD Các nước có thu nhập trung bình loại cao : GNP/ người/năm : 2200-6000 USD Tuy nhiên chỉ tiêu định lượng trên không phản ánh chính xác hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của một quốc gia, bởi vì, xác suất của biến số nợ nước ngoài của các nước có thu nhập thấp được quản lý kém hiệu quả là tương đối cao song không phải mọi nước thu nhập thấp đều có chất lượng quản lý nợ nước ngoài yếu kém. Do đó cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu khác trên một phương diện khác. 2.2.2 Căn cứ vào mức độ nợ nần, đánh giá hiệu quả quản lý nợ có 5 chỉ tiêu sau: * Chỉ tiêu: Nợ / GNP . Hệ số này so sánh nợ nước ngoài với trọng kinh tế của một nước. Tuy nhiên, nó có một số điểm hạn chế sau. Thứ nhất, phần lớn nợ nước ngoài được tính bằng ngoại tệ trong khi GNP chủ yếu tính bằng nội tệ. Thứ hai, bản thân gánh nặng không phải chỉ do khoản nợ phải trả mà là khoản tính lãi hàng năm. Thứ ba, nó chỉ ra sự so sánh giữa một đại lượng được tích luỹ ( là các khoản nợ ) với một đại lượng biến thiên ( GNP). Do những hạn chế như trên, để đánh giá chính xác mức độ nợ nần của một quốc gia, để qua đó đánh giá được hiệu quả quản lý nợ, cần phải xem xét thêm đồng thời một số các chỉ tiêu khác. Chỉ tiêu: Nợ / Xuất khẩu . Chỉ tiêu này so sánh giữa tổng số nợ hiện tại của một nước với tổng thu nhập từ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ hàng năm của nước ấy. Nó cho phép khắc phục hạn chế thứ nhất của chỉ tiêu trên. Bên cạnh đó ta cũng cần phải xét đến chỉ tiêu: Dịch vụ nợ / xuất khẩu. Chỉ tiêu này được hiểu là tổng số tiền trả lãi và một phần gốc khi đến hạn hàng năm của nước mắc nợ. Chỉ tiêu này khắc phục được cả ba khiếm khuyết của chỉ tiêu Nợ / GNP. Vì vậy, chỉ tiêu này được các nước sử dụng nhiều nhất trong việc đánh giá hiệu quả quản lý nợ. Theo đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, nếu vượt quá 40% thì nước mắc nợ bị coi là nước có nền kinh tế không lành mạnh, dễ có khả năng vỡ nợ, hiệu quả quản lý nợ thấp kém. Chỉ tiêu: chi phí trả lãi / Xuất khẩu. Chỉ tiêu này thực sự có giá trị trong đánh giá hiệu quả quản lý khi mà nhiều nước không có khả năng trả nợ gốc và thực tế đã không trả gốc, chỉ trả lãi, hoặc một phần gốc khi đến hạn. Đối với chỉ tiêu này, phải đối chiếu trong một khoảng thời gian từ 5-10 năm mới có thể phục vụ việc đánh giá. Theo ngân hàng thế giới, có thể phân loại mức độ nợ của các nước theo các chỉ tiêu được tổng hợp như sau: Bảng 4- Tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng thế giới Hệ số Nợ / GNP Nợ / Xuất khẩu Dịch vụ nợ/ Xuất khẩu Chi phí trả lãi / Xuất khẩu Nợ quá nhiều > 50% > 275% >30% >20% Nợ vừa phải 30-50% 165-275% 18-30 % 12-20% Nợ ít < 30% < 165% < 18% <12% ( Nguồn : World Bank ) Tuy nhiên, như đề cập ở trên, hiệu quả quản lý nợ nước ngoài được hiểu là trạng thái quản lý mà ở đó, đạt được việc kiểm soát số lượng và cơ cấu sao cho duy trì và khống chế được mức gia tăng nợ tối ưu trong quan hệ tỷ lệ với năng lực tăng trưởng GDP và tăng trưởng xuất khẩu của đất nước. Do đó, để đánh giá hiệu quả quản lý nợ, chúng tôi cho rằng cần bổ sung vào hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý hai chỉ tiêu sau: 1/ Khả năng hấp thụ vốn nước ngoài = Tổng số nợ nước ngoài / GDP Đây là thước đo trung thực nhất về gánh nặng nợ của quốc gia. Nó có thể đạt mức 50%, nhưng khi ấy hiệu quả quản lý nợ nước ngoài vẫn rất khả quan. 2/ Mức gia tăng nợ mỗi năm = Khả năng hấp thụ vốn x Tỷ lệ tăng trưởng có thể chấp nhận được vay nước ngoài GDP Ngoài ra, khi sử dụng các chỉ tiêu này, cần xem xét chúng trong mối tương quan với hệ số ICOR. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức được rằng, ICOR chưa phải là một chỉ số hoàn hảo mà vẫn còn những hạn chế nhất định (bỏ qua giá trị thời gian của tiền, loại trừ các chi phí đầu vào không phải là vốn…). Mặt khác, nợ nước ngoài không thể xem xét trong trạng thái tĩnh mà trái lại phải xem xét trong trạng thái động. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá hiệu quả quản lý nợ sẽ chủ yếu dựa trên cơ sở việc phân tích mô hình động về nợ nước ngoài của Jaime de Pinies. Dt = Dt –1 + CAt Trong đó : D là dư nợ nước ngoài CA là cán cân vãng lai ( t là chỉ thời gian ) Mặt khác, giả định rằng cán cân vãng lai chỉ bao gồm chênh lệch giữa xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ ( biến X và M ) và trả lãi vay nợ. Ta có công thức về mối quan hệ giữa mức tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu, và quản lý nợ nước ngoài như sau: Dt / Xt = (1 + i)/(1+gxt) x Dt-1/Xt-1 + (1+gmt)/(1+gxt) x Mt-1/Xt-1 + 1 Trong đó : i là mức lãi suất trung bình nợ nước ngoài gxt là mức tăng trưởng xuất khẩu gmt là mức tăng trưởng nhập khẩu Đặt dt = Dt /Xt : chỉ số Nợ / Xuất khẩu a = (1+it )/(1+gxt) : chỉ số lãi suất / tăng trưởng xuất khẩu vt-1 = Mt-1 / Xt-1 : chỉ số nhập khẩu / xuất khẩu Ta có phương trình mới : Ddt = a.dt + b.vt-1 - 1 Ta luôn có vt = b. vt-1. Gỉa sử a,b luôn dương và không đổi, giải phương trình trên cho ta kết luận: a,b là hai tham số xác định sự biến động của chỉ số Nợ / Xuất khẩu ( dt ) trong tương lai. Nếu chỉ số này có xu hướng tăng lên thì nợ sẽ không có khả năng chịu đựng được hay nói cách khác là hiệu quả quản lý nợ thấp kém. Trái lại, nếu dt có xu hướng giảm xuống thì nợ sẽ có khả năng chịu đựng được và có khả năng thanh toán nợ, hiệu quả quản lý nợ được cải thiện và nâng cao. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng nợ nước ngoài của một quốc gia. 3.1. Các nhân tố chủ quan. Nhóm các nhân tố chủ quan tác động đến hiệu quả quản lý nợ bắt nguồn từ chính bản thân nền kinh tế của quốc gia vay nợ. Trước hết, đó là các tác động từ môi trường kinh tế vĩ mô. Có thể nói đây là một trong những nhân tố cơ bản và quan trọng nhất. Bởi lẽ, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư cũng như các hành vi viện trợ và cho vay. Bất kỳ sự mất ổn định nào trong nền kinh tế cũng có những tác động tới sự dịch chuyển của các luồng vốn quốc tế, tác động đến hiệu quả quản lý nợ nước ngoài. Nhân tố thứ hai tác động đến hiệu quả quản lý nợ nước ngoài chính là cơ cấu bộ máy quản lý nợ của một quốc gia. Đây là nhân tố quyết định tới hiệu quả của công tác quản lý bởi mọi quyết định và chiến lược quản lý đều được thông qua cơ cấu này. Nhân tố tiếp theo có thể nói là quan trọng nhất đó chính là yếu tố con người hay nói cách khác đó chính là trình độ của các cán bộ quản lý. Trình độ của họ ảnh hưởng trực tiếp và có tính quyết định tới hiệu quả quản lý. Họ chính là thực thi và giám sát các hoạt động quản lý. Nhân tố thứ tư được đề cập trong các nhân tố chủ quan đó là hệ thống văn bản pháp luật. Chỉ khi xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nợ đầy đủ và chặt chẽ mới đảm bảo cho quá trình quản lý diễn ra suôn sẻ và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh những yếu tố trên, ta không thể bỏ qua một yếu tố quan trọng khác đó là thông tin. Cho dù có một bộ máy quản lý tốt đến mấy, nhưng nghèo nàn về thông tin, lạc hậu và thiếu chuẩn xác trong thông tin là những nhân tố sẽ dẫn tới một chiến lược quản lý sai lầm, một cơ chế đánh giá rủi ro không thích hợp, do đó tác động tiêu cực tới hiệu quả của việc quản lý. Cuối cùng một nhân tố không kém phần quan trọng là chiến lược sử dụng và triển vọng phát triển kinh tế của đất nước. Bản thân nhân tố này bị chi phối bởi bộ máy quản lý, hệ thống pháp lý, con người quản lý và môi trường kinh tế vĩ mô. Một chiến lược sử dụng hiệu quả sẽ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng, qua đó sẽ tác động ngược trở lại đến năng lực thanh toán nợ của quốc gia, hay nói cách khác nó sẽ tác động tới hiệu quả quản lý nợ của quốc gia. 3.2. Các nhân tố khách quan. Không chỉ có những nhân tố chủ quan xuất phát từ nội tại nền kinh tế quốc gia mắc nợ mới có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý mà nó còn chịu tác động bởi các nhân tố khách quan đến từ môi trường bên ngoài. Đó là sự biến động trong môi trường kinh tế thế giới, những rủi ro về lãi suất và tỷ giá, những tác động của kỳ hạn, cơ cấu vay nợ và những ràng buộc trong tiếp nhận vay nợ và viện trợ. Về tác động của các nhân tố: lãi suất, tỷ giá, cơ cấu vay nợ, các ràng buộc trong vay nợ và viện trợ đối với quản lý nợ nước ngoài được đã đề cập trong các phần trước cho thấy : lãi suất cao hơn hay tỷ giá thấp hơn sẽ làm cho khối lượng nợ phải trả của quốc gia vay nợ nhiều hơn, quy mô nợ cũng lớn hơn, và do đó, gián tiếp tác động tới hiệu quả quản lý. Đối với tác động của kỳ hạn, xét cho cùng nó cũng bắt nguồn từ những biến động trong môi trường kinh tế thế giới. Sự biến động của môi trường kinh tế thế giới sẽ tác động tới hiệu quả quản lý nợ trên ba lĩnh vực. Thứ nhất, nơ tác động làm thay đổi cơ cấu kỳ hạn của các khoản vay. Ví dụ, việc giảm thời gian đáo hạn trung bình từ 20 năm vào năm 1970 xuống 16 năm và ân hạn từ 6 năm xuống 5 năm đã làm cho vấn đề trả cả gốc và lãi của các quốc gia vay nợ trở nên nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả quản lý nợ của quốc gia đó. Thứ hai, sự biến động của môi trường kinh tế toàn cầu theo chiều hướng xấu như khủng hoảng khu vực, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, sẽ làm giảm cơ hội vay mượn, làm ảnh hưởng xấu tới hiệu quả quản lý nợ. Thứ ba, sự biến động của môi trường kinh tế thế giới trực tiếp tác động tới giá cả hàng hoá xuất khẩu, qua đó tác động không chỉ tới cán cân thanh toán, làm cho tình trạng của cán cân thanh toán trở nên xấu đi mà còn tàn phá khả năng trả nợ của quốc gia thông qua các tác động tiêu cực tới nguồn thu từ xuất khẩu. Tất cả các tác động này đều ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nợ nước ngoài. III. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quản lý nợ nước ngoài . Lịch sử của các nước đang phát triển đã cung cấp cho chúng ta một khối lượng tài liệu kinh nghiệm về quản lý nợ vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, không có một mô hình chung cho mọi nước trong quá trình quản lý nợ nước ngoài. Bởi lẽ, mỗi nước đều có những đặc thù và hoàn cảnh lịch sử riêng biệt. Chính vì vậy, việc xem xét các kinh nghiệm quốc tế chủ yếu nhằm vào mục tiêu tìm kiếm những cách tiếp cận, những gợi ý thực tiễn mang tính phương pháp luận hơn là những kinh nghiệm cụ thể để áp dụng. Điểm quan trọng nhất cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài không phải là những chính sách riêng biệt nào đó mà trước tiên thuộc về mô hình quản hình quản lý mang tính chiến lược. Với ý nghĩa đó, việc khảo cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài ở phần này được đặt trong khuôn khổ rộng hơn. Nó gắn với sự vận động chung của các mô hình và chiến lược quản lý, bị quy định bởi chúng và có tác động ngược trở lại với chúng. Kinh nghiệm của Thái Lan. Thái Lan là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam á, việc quản lý nợ nước ngoài của Thái Lan trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định. Với khung pháp lý là Luật vay nợ nước ngoài ( 1976 ), Bộ Tài chính Thái Lan là cơ quan được phép vay nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Bộ Tài chính là cơ quan đề ra chiến lược vay nợ cụ thể cũng như những chiến lược thanh toán dần các khoản nợ. Trong hoạt động của mình, nó đã tạo ra những chính sách kiểm soát được hành vi vay nước ngoài của cả khu vực tư nhân và nhà nước bằng các giới hạn vay nợ cụ thể hàng năm phù hợp với khả năng tăng trưởng GDP và xuất khẩu. Mặt khác, theo Đạo luật Hoàng Gia ban hành năm 1985, bộ phận quản lý và chính sách vay nợ thuộc Bộ Tài chính được trao quyền tiến hành cơ cấu lại nợ của khu vực Nhà nước. Hoạt động của bộ quản lý và chính sách vay nợ thuộc Bộ Tài chính được các khối thương mại song phương và đa phương giải quyết trong khi chức năng quản lý nợ được giao cho khối lập kế hoạch và chính sách. Tất cả các thoả thuận vay nước ngoài của Chính phủ, các thông báo giải ngân và hoá đơn thanh toán mà chủ nợ gửi đến đều được giữ ở bộ quản lý và chính sách vay nợ và được vi tính hoá. Việc thanh toán nợ do khối chính sách khởi xướng, khối lập kế hoạch và Vụ Tổng kiểm soát sẽ ghi chép và hạch toán các khoản nợ. Tất cả những điều này đã góp phần vào sự thành công trong công tác quản lý nợ của Thái Lan. Tuy nhiên tình hình quản lý nợ của Thái Lan trong thập niên 90 đã có biến đổi hoàn toàn. Nếu như trong các thập niên trước việc quản lý nợ ở Thái Lan cho ta những kinh nghiệm quý báu về sự thành công trong quản lý, với một hiệu quả cao thì kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, Thái Lan đã bổ sung thêm cho lịch sử kinh tế thế giới những bài học mới về quản lý nợ. Ở Thái Lan, sự đầu tư quá mức vào bất động sản bằng những khoản vay ngắn hạn, kết hợp với tình trạng thiếu các quy định về an toàn, sự thiếu đồng nhất giữa chính sách vay nợ với chính sách tỷ giá và lãi suất đã dẫn tới sự “tháo chạy” của tư bản khi có những biến động trên thị trường tiền tệ. 2. Kinh nghiệm công tác quản lý nợ của Argentina. Cũng giống như Thái Lan, nhắc đến Argentina như một bài học về việc thực hiện mở cửa thị trường vốn trong giai đoạn 1979-1982. Cùng lúc đó, thâm hụt ngân sách nặng nề buộc Chính phủ phải bù đắp sự thiếu hụt bằng cách phát hành đã đẩy lạm phát lên cao. Để ngăn không cho lạm phát tăng cao hơn nữa, Chính phủ đã đưa ra một chương trình từng ngày giảm giá đồng peso, đồng thời, thực hiện cải cách tài chính để giảm thâm hụt và giảm dần tốc độ phá giá đồng tiền. Kết quả là trong những năm của thập kỷ 80, lãi suất nội địa cao cộng với tỷ lệ sụt giá của đồng nội tệ đã tạo cơ hội cho tư bản nước ngoài dễ dàng kiếm được lợi nhuận siêu ngạch thông qua việc đổ vốn vào Argentina, lấy lãi, rồi đổ ngược lại USD theo tỷ giá hối đoái được niêm yết. Trong một thời gian dài, vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào nước này làm đồng peso lên giá. Có thể nói, việc thông qua một bảng tỷ giá cố định không phải là một sai lầm lớn nhưng việc định trước một tốc độ giảm phát không phù hợp với tốc độ mở rộng cung tiền trong nước và mức lạm phát hiện hành là nguyên nhân chính gây nên cuộc khủng hoảng nợ ở Argentina. Và gần đây nhất là bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ của Argentina năm 2001-2002. Uỷ ban kinh tế Mỹ Latinh và Caribe( CEPAL) vừa cho biết, tính đến cuối năm 2001 nợ nước ngoài của khu vực Mỹ Latinh đã lên tới gần 725,7 tỷ USD, trong đó Braxin chiếm nhiều nhất với trên 226 tỷ USD, Mexico đứng thứ hai với khoản nợ trên 144,5 tỷ USD, tiếp theo là Argentina gần 140 tỷ USD. Như chúng ta đã biết cuộc khủng hoảng nợ của Argentina đã đem lại những bất ổn cho nền người dân của nước này và ảnh hưởng không ít tới các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Cuộc khủng hoảng này đã khiến cho đồng peso suy yếu 70% và gia tăng lạm phát, 36 triệu dân Argentina bị cắt giảm tiền lương khi giá cả hàng hoá từ dầu ăn cho tới bánh mì tăng vọt . Cứ 2 người dân Argentina, có 1 người sống trong cảnh đói nghèo với thu nhập vài USD một ngày. Chỉ tính trong năm nay, số tiền mà bất kỳ người dân Argentina nào tiết kiệm được cũng bị giảm tới 2/3 giá trị . Theo các nhà kinh tế, vấn đề của Argentina chưa có dấu hiệu lắng dịu. Dự đoán nền kinh tế nước này sẽ thu hẹp 15% trong năm nay và nguy cơ bất ổn xã hội lớn hơn đang ẩn hiện phía trước, tỷ lệ thất nghiệp hiện đứng ở 24%. Tiền gửi tiết kiệm giảm 20% vào năm 2001 và giảm ít nhất 10% cho tới năm nay. Hiện nay Argentina cần khoảng 9 tỉ USD để ổn định nền tài chính. Hậu quả cuộc hoảng vừa qua ở Argentina là rất nghiêm trọng. Do vậy đã có rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu tìm ra nguyên nhân để tránh những vết xe đổ cho các nước đi sau. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng giai đoạn 2000-2002 vừa qua ở Argentina đó là Argentina đã áp dụng một cơ chế tiền tệ sai lầm trong một thời gian quá lâu. Trong gần 10 năm, đồng peso của Argentina đã được gắn chặt theo một mức tỷ giá với đồng đôla Mỹ. Và cũng vì thế, việc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) cho Argentina vay một khoản trợ giúp trị giá 8 tỷ USD năm ngoái trở thành một sai lầm bởi chính điều này đã khuyến khích chính phủ Argentina tiếp tục kéo dài cơ chế tỷ giá cố định, gây ra những khó khăn chồng chất cho nền kinh tế. Thực tế của Argentina cho thấy, chính sách tỷ giá cố định ( khi tỷ giá được cố định theo luật ) và đồng nội tệ được trợ giúp bởi một lượng dự trữ tiền tệ của một đồng tiền mạnh cũng không thể chắc chắn sẽ tránh khỏi khủng hoảng. Một chính sách tỷ giá như vậy không đem lại những công cụ hữu ích để có thể đưa ra các chính sách tài chính hợp lý. Lý do là, trên thực tế chính sách tiền tệ của Argentina sẽ bị quyết định ở Washington (Mỹ) và thường sẽ không phù hợp với những đòi hỏi của Argentina. Chính phủ Argentina cũng sẽ không thể sử dụng các chính sách tài chính để kích thích nền kinh tế khi suy thoái xảy ra bởi quốc gia này còn nợ nước ngoài quá nhiều . Một trong những vấn đề khác của nền kinh tế đang phát triển là sự “không tương ứng” tiền tệ. Phần lớn nợ của một nền kinh tế bị chi phối bởi một đồng tiền, trong khi tài sản của nhiều quốc gia vay nợ lại bị chi phối bởi một đồng tiền khác. Khi khủng hoảng xảy ra, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng chính bởi sự không tương ứng này. Như trường hợp ở Argentina, nhiều khoản vay là bằng đồng đôla Mỹ: hậu quả là khôn lường đối với người đi vay khi chính sách gắn chặt tỷ giá sụp đổ vì các khoản vay bằng đồng đôla lại phình lên đột ngột. Có thể nói, sau 20 năm kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài lần đầu tiên, Mỹ Latinh vẫn chưa rút ra được bài học và cũng không đưa ra được những chính sách ứng phó với các cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA . I. Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ năm 1993 cho đến nay. Năm 1993 được coi là năm ghi nhận những thành quả ban đầu của công cuộc đổi mới sau 5 năm thực hiện cải cách kinh tế. Lúc đó các thành tựu cải cách đã chứng tỏ triển vọng phát triển kinh tế vững chắc và lâu bền. Vì vậy vấn đề tái hoà nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế được đặt ra như một nhu cầu của cả hai phía. Ngay sau khi Mỹ tiến hành bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Việt Nam đã đạt được các kết quả đáng khích lệ trong tiến trình bình thường hoá với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế nói chung và trong công tác quản lý nợ nói riêng. Trở ngại đầu tiên phải giải toả trong quá trình hội nhập là vấn đề nợ quá hạn. Với chủ trương ._.khoản vay bằng hàng hoá, vay để nhập siêu, vay tái tài trợ. Nợ ODA là những khoản nợ các công trình vay nhập thiết bị toàn bộ, nợ các chương trình hợp tác. Nợ vay nhập hàng cho quốc phòng, nội vụ. Trong phương án này, vẫn có thể thương lượng đề nghị xoá nợ phần vay để nhập hàng cho quốc phòng, nội vụ ,còn nợ ODA và nợ thương mại thì đàm phán xử lý theo điều kiện, nguyên tắc của CLB Paris. Đồng thời, tiếp tục đàm phán để thực hiện trả nợ bằng hàng hoá. Ngoài ra, nên thương lượng chuyển một phần nợ thành cổ phần trong các chương trình phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng các liên doanh sản xuất, chế biến hàng nông sản chất lượng cao để xuất khẩu, cũng như trong các lĩnh vực liên quan đến khai thác dầu khí, công nghiệp hoá dầu. Với phương án giải quyết này, Việt Nam không chỉ hy vọng giảm tải được gánh nặng về nợ ,nâng cao được hiệu quả quản lý nợ nước ngoài mà còn tận dụng được những thành tựu khoa học tiến tiến, hiện đại của CHLB Nga trong lĩnh vực dầu khí, góp phần cải thiện năng lực và trình độ công nghệ cũng như trình độ của cán bộ trong một ngành công nghiệp còn non trẻ song hứa hẹn nhiều tiềm năng như công nghiệp hoá dầu; đồng thời, qua đó cũng góp phần thực hiện hiệu quả chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà nước ta đang tiến hành . 1.2. Giải pháp đối với các khoản nợ của các nước Trung Đông, Ân Độ . Các khoản nợ của Việt Nam với các nước Trung Đông, Ân Độ chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng dư nợ của nước ta, đặc biệt là các khoản nợ đối với Iraq. Năm 1998, các khoản nợ này chiếm 6% tổng dư nợ. Do đó, với những nước này nếu áp dụng các điều kiện của CLB Paris thì khả năng trả nợ của nước ta là không thể kham nổi. Mặt khác, trên thực tế, hiện tại, Việt Nam đã và đang tiến hành trả nợ cho các nước nói trên bằng hàng hoá và chuyển đổi một phần thành cổ phần trong các doanh nghiệp liên doanh. Cho nên giải quyết nợ đối với nhóm nước này, một mặt, nên tiếp tục đàm phán với từng nước để đề nghị giảm nợ và dãn nợ ,mặt khác, tích cực đẩy mạnh việc trả nợ bằng hàng hoá, nhất là đẩy mạnh việc chuyển nợ thành cổ phần trong các doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam cũng như tại nước cho vay nợ, đặc biệt trong các lĩnh vực : công nghiệp sản xuất phần mềm, chăn nuôi bò sữa, liên doanh khai thác dầu khí và công nghiệp hoá dầu, phát triển nông nghiệp, giáo dục. Có thể nói, thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ mở ra kênh tiêu thụ mới đối với hàng nông sản, giày dép, may mặc của Việt Nam trên một thị trường xuất khẩu mới đầy tiềm năng như khu vực Trung Đông; mặt khác, nó còn góp phần hiện thực hoá chiến lược xuất khẩu vốn cả bằng tiền và nhân lực ra nước ngoài cuả nước ta. Và như vậy, giải pháp này, đến lượt nó, sẽ tạo thêm nhiều cơ hội nâng cao năng lực trả nợ cho đất nước . Đối với các khoản nợ của các nước công nghiệp phát triển đã xử lý qua CLB Paris, mặc dù đã đạt được thoả thuận cơ cấu lại nợ vào năm 1993 song trong những năm tiếp theo, nước ta vẫn phải bố trí các nguồn lực để trả nợ vì chúng ta mới ký Hiệp định khung. Mặt khác, xét trong tương quan với khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước nói chung và khả năng tăng trưởng xuất khẩu nói riêng, việc trả nợ theo đúng Hiệp định khung là rất khó khăn. Vì vậy, cần khẩn trương thực hiện việc đàm phán song phương với từng nước thành viên trong CLB Paris để sau khi kết thúc đàm phán, kết quả đàm phán đa phương ở CLB Paris mới có thể thực hiện được. 1.3. Giải pháp đối với các khoản nợ mới . Đặc trưng cơ bản của nợ Chính phủ ở Việt Nam là 100% các khoản nợ có nguồn gốc vay trung, dài hạn. Hơn nữa, đa phần các khoản nợ là từ viện trợ phát triển chính thức hay vốn vay cam kết của IMF, WB cho các chương trình phát triển kinh tế. Do đó, giải pháp cho nhóm các khoản nợ mới của Chính phủ nên bao gồm: Đối với các khoản vay đã ký và đang thực hiện giải ngân : * Xây dựng kế hoạch giải phóng mặt bằng một cách cụ thể, chi tiết về giá cả, mặt bằng hoạch di dân, các phương án thực hiện, cũng như kế hoạch triển khai công tác tuyên truyền, thuyết phục đối với quần chúng nhân dân, đảm bảo phù hợp với luật pháp hiện hành và nguyện vọng của nhân dân, thực tế thị trường. Bên cạnh đó, cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương và cơ quan hành pháp, thường xuyên kiểm tra, giám sát diễn biến thực tế công việc để có biện pháp giải quyết thích ứng, kịp thời, trong một số trường hợp, có thể và nên áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm giải quyết dứt điểm và đảm bảo đúng tiến độ giải phóng mặt bằng đã đề ra * Thực hiện phương châm ưu tiên đầu tư cho các dự án xây dựng, cải tạo, nâng cấp hay cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao năng lực công nghệ quốc gia và một số lĩnh vực mũi nhọn có tác dụng tạo ra các ngành xương sống cho nền kinh tế, phục vụ chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói chung và chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. Đặc biệt, khi thực hiện phương châm này cần chú ý tới những ngành có khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới ,đem lại giá trị kinh tế cao trong xuất khẩu hàng hoá, đồng thời đảm bảo được tính ổn định và bền vững. * Mạnh dạn tổ chức vay dân thông qua các hình thức : trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái quốc gia với lãi suất thích hợp, thậm chí có thể cao hơn mức lãi suất hiện tại để có nhanh nguồn vốn đối ứng trong nước . * Trong việc cân đối nguồn trả nợ, Chính phủ nên cho phép phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ vay dân, vay các NHTM để giải quyết một phần nguồn trả nợ khi gặp những vấn đề khó khăn trong Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài . Đối với các khoản vay sẽ ký kết trong thời gian tới : * Xác định rõ danh mục dự án cần ưu tiên đầu tư của Nhà nước hàng năm và 5 năm để làm căn cứ vận động vốn vay nước ngoài, đòng thời, chủ động xây dựng các dự án trước khi kêu gọi tài trợ, tránh tình trạng đầu tư dàn trải. * Các Bộ, ngành kỹ thuật và chuyên môn như : Bộ chủ quản, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN cần tham gia ngay từ khâu xây dựng dự án để đảm bảo tính hợp lý của các cấu phần và chi phí của dự án, tránh hiện tượng dự án được nhà tài trợ phê duyệt chỉ trên cơ sở thống nhất giữa đoàn chuyên gia nước ngoài với các đơn vị chủ đầu tư, đưa Chính phủ vào thế bị động phải chấp nhận những dự án còn chứa đựng nhiều thành phần và chi phí bất hợp lý . * Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh chiến lược ưu tiên sử dụng nợ nước ngoài đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng và các ngành mũi nhọn có lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cũng như có khả năng tạo ra hàng hoá xuất khẩu với giá trị kinh tế lớn, ổn định và bền vững như các ngành công nghiệp điện tử, phần mềm máy tính, công nghiệp hoá dầu …; đồng thời, cũng nên chú trọng đến các ngành sản xuất hãng xuất khẩu chiến lược truyền thống như chế biến nông – thuỷ- hải sản, may mặc, da giày… * Đa dạng hoá và khai thác triệt để các nguồn vốn vay từ nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA qua con đường Chính phủ. Tuy nhiên, cần nâng cao chất lượng nguồn viện trợ trên cơ sở tăng cường các nguồn viện trợ ít kèm theo điều kiện; coi trọng vốn dài hạn dưới hình thức ưu đãi của các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, hạn chế vay thương mại lãi suất cao, thời hạn vay ngắn… Cụ thể, tăng dần và tiến tới sử dụng chủ yếu nguồn “viện trợ cho vay thương mại”, xoá bỏ dần viện trợ hàng hoá tiêu dùng, tăng dần tỷ lệ viện trợ đa phương thông qua các kênh đa phương và các nguồn viện trợ theo chương trình. Hướng dẫn sử dụng nguồn viện trợ này, một mặt, tăng cường tính hiệu quả và trách nhiệm sử dụng nguồn tài chính của phía nhận viện trợ, giảm phần lớn những điều kiện đặt ra ở phía các nhà tài trợ, mặt khác, tăng cường sử dụng viện trợ vào mục tiêu điều chỉnh cơ cấu kinh tế . * Thực hiện đầy đủ chu trình vay nợ theo từng bước, bắt đầu từ khâu xây dựng dự án; tìm nguồn vay đảm bảo yêu cầu hợp lý về thời gian, với chi phí thấp nhất; tiếp đến, nên nghiên cứu cẩn thận và kỹ lưỡng các điều khoản về vay, trả trước khi ký kết hợp đồng; thực hiện đàm phán để tránh những rủi ro không đáng có; xác định rõ ràng về vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu thực hiện nghiên cứu tiền khả thi hoặc nghiên cứu khả thi; đồng thời, khi đưa vốn vào sử dụng, thực hiện quản lý, theo dõi để đảm bảo khả năng hoàn trả; thực hiện thanh toán nợ sòng phằng theo các điều khoản đã ký kết hoặc đàm phán. Đặc biệt, việc vay vốn nước ngoài phải theo chiến lược và kế hoạch tổng hạn mức hàng năm . Tóm lại, việc giải quyết công nợ cũ, quản lý các khoản vay mới sao cho có hiệu quả là một công việc phức tạp, với khối lượng khổng lồ. Nó không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Tài chính mà còn đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan quản lý vĩ mô, các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đến quan hệ thương mại quốc tế nói riêng và quan hệ kinh tế đối ngoại noí chung. Vì vậy, để các giải pháp trên thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ của mọi thành viên có liên quan . Giải pháp đối với nợ nước ngoài của các doanh nghiệp . Bên cạnh mảng nợ nước ngoài của Chính phủ thì một bộ phận không kém phần quan trọng trong chiến lược quản lý nợ nhằm mục tiêu hiệu quả là các khoản nợ của doanh nghiệp . Đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân được phân tích trong chương II, có thể có những giải pháp sau: 2.1. Nghiên cứu, soạn thảo và ban hành Quy chế mới về bảo lãnh và tái bảo lãnh cần có những quy chế mới về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài sao cho phù hợp với những thay đổi trong Nghị định 90/ NĐ-CP, cũng như những hạn chế còn tồn tại trong Quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài trước đây. Cụ thể, việc soạn thảo nên tiến hành theo hướng bỏ các quy định về : mức ký quỹ tối thiểu, các điều kiện đối với nguồn ký quỹ của đơn vị xin bảo lãnh, cũng như chế tài áp dụng đối với NHTM khi tồn tại một chi nhánh bất kỳ của ngân hàng có nợ quá hạn trong lĩnh vực nghiệp vụ này. Thay thế cho các quy định nêu trên có thể là “ NHTM sẽ không thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm nếu tổng số nợ quá hạn tại tất cả các chi nhánh của ngân hàng trong lĩnh vực nghiệp vụ này vượt quá 10% vốn tự có của ngân hàng”, đồng thời, khách hàng xin bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm phải thế chấp bằng tài sản của doanh nghiệp mình, giá trị L/C được bảo lãnh không được phép vượt quá 80% giá trị tài sản. Đối với khách hàng đặc biệt, có hợp đồng L/C với giá trị lớn, bản chất của hợp đồng là L/C trả ngay như trường hợp Petrolimex ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, các NHTM phải làm công văn gửi Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN Việt Nam xin ý kiến chỉ đạo giải quyết; đồng thời, thời hạn phúc đáp công văn nên quy định không quá 5 ngày làm việc, tính từ thời điểm NHNN nhận được công văn của NHTM để đảm bảo không gây tổn thất tới kết quả kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp . 2.2 Khẩn trương xúc tiến và đẩy mạnh việc nghiên cứu, soạn thảo và ban hành quy chế quản lý hoạt động vay thương mại ngắn hạn. Đồng thời, cần sớm tạo ra những định chế và khuôn khổ pháp luật phù hợp cho hệ thống các NHTM trong vấn đề quản lý, giám sát và kiểm tra quá trình thực hiện vay, sử dụng và trả nợ nước ngoài ngắn hạn nói riêng và nợ nước ngoài nói chung của doanh nghiệp để các ngân hàng thực sự phát huy vai trò là những “vệ tinh” xung quanh NHNN, trở thành “chốt chăt” cuối cùng trong khâu thẩm định tính khả thi của các dự án trong việc vay, trả nợ nước ngoài và các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp. Do đó, theo em, Bộ chủ quản chỉ nên là cơ quan tham gia đóng góp ý kiến và tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình lập dự án vay vốn nước ngoài. Phần công việc còn lại là toàn bộ khâu đánh giá và thẩm định dự án nên giao cho NHTM thực hiện, đồng thời, tất cả các phần tác vụ khác như : giải ngân, quản lý sử dụng và trả nợ cũng nên giao cho NHTM đảm nhận, và phải coi đây thực sự là những mắt khâu của một quy trình nghiệp vụ tín dụng bình thường trong nước . 2.3 Xây dựng và ban hành các quy định cụ thể về cơ chế vay và quản lý vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một cách khoa học để vừa đảm bảo tính ổn định trong môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn FDI, đồng thời, vừa đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài . 2.4 Xây dựng và bổ sung vào điều kiện vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp việc thành lập quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài theo cơ chế sau : Hàng năm tuỳ theo hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp với bên nứoc ngoài hay với NHTM thực hiện việc cho vay lại theo chỉ định của Bộ Tài chính và NHNN, doanh nghiệp bắt buộc phải trích từ lợi nhuận của mình một khoản tiền nhất định và gửi vào tài khoản ngoại tệ hoặc nội tệ của doanh nghiệp mở tại một ngân hàng đã đăng ký với NHNN để hình thành Quỹ tích luỹ trả nợ của doanh nghiệp. Số tiền này phải đảm bảo thoả mãn hai điều kiện : một là, tại thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ, số tiền thu được từ quỹ do quá trình tư bản hoá theo lãi kép của ngân hàng phải lớn hơn số tiền cần trả cho phía nước ngoài. Hai là, số dư còn lại của quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp sau mỗi lần trả nợ cộng với số tiền lãi được trích trong thời kỳ tiếp theo cũng phải lớn hơn hoặc bằng số tiền trả nợ cho bên cho vay. Ngoài ra, để đảm bảo cho giải pháp nêu trên được thực hiện một cách có hiệu quả, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc trích lập quỹ này tại doanh nghiệp . Để có thể hiểu rõ hơn về những giải pháp được đề cập ở trên, chúng ta tham khảo một ví dụ như sau : Vào ngày 1/1/2002, doanh nghiệp A xin đăng ký một khoản tín dụng nước ngoài trị giá 1 triệu USD với lãi suất 6%/ năm, giải ngân một lần, thời gian hoàn trả 10 năm, trong đó 5 năm ân hạn ,lãi suất tiền gửi ngoại tệ 6 tháng là 2.5%( giả định các yếu tố khác như : tỷ giá, môi trường kinh tế vĩ mô là ổn định). Khoảng thời gian kể từ lúc bắt đầu tiến hành giải ngân nguồn vốn vay nước ngoài đến thời điểm sinh lãi của dự án là 3 năm. Việc trả nợ gốc và lãi được thực hiện nửa năm một lần .Với khoản vay trên, có thể lập bảng lịch trình trả nợ và quỹ tích luỹ trả nợ cho doanh nghiệp này như bảng 20,21trang bên. Bảng 21 cho thấy, doanh nghiệp A phải bỏ ra một khoản tiền tương đương 29300-40000 USD trong những năm đầu tiên của dự án để đảm bảo khả năng trả nợ lãi 30000 USD / 6 tháng / lần. Từ năm thứ 3, khi dự án được tài trợ bằng nguồn vốn vay nước ngoài bắt đầu sinh lãi thì số tiền phải trích ra theo từng đợt nửa năm để lập Quỹ tích luỹ trả nợ của doanh nghiệp tăng dần và với tốc độ ngày càng lớn, sau đó, đến một thời điểm nhất định của dự án ( năm thứ 7), số tiền bổ sung vào quỹ có xu hướng giảm dần. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật lợi tức biên giảm dần đã được các nhà kinh tế học cổ điển chứng minh . Những phân tích ở trên gợi ý rằng, đối với doanh nghiệp, việc hạch toán chi phí của khoản vay nước ngoài phải dựa trên cơ sở lãi suất thực tế, tức là mức lãi suất bao gồm cả chi phí bỏ ra để trả lãi cho những năm đầu khi dự án chưa sinh laĩ. Điều này, đến lượt nó đòi hỏi NHNN khi xem xét chấp nhận đăng ký khoản vay nước ngoài trung và dài hạn cần thẩm định kỹ tính khoa học, tính khả thi của bảng theo dõi quỹ tích luỹ trả nợ của doanh nghiệp. Cụ thể, thứ nhất, việc hạch toán chi phí trong dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tính đến các khoản tiền sẽ bỏ ra để trả nợ lãi khi dự án chưa tạo ra lợi nhuận. Nói cách khác, việc tính toán dòng tiền của dự án phải dựa trên cơ sở mức lãi suất thực tế của khoản vay. Thứ hai ,số tiền được trích từ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để thành lập quỹ tích luỹ trả nợ phải tuân theo quy luật lợi tức biên giảm dần. Một khi phát hiện thấy các dòng tiền này vi phạm quy luật kinh tế nêu trên thì điều đó cũng đồng nghĩa với tình huống doanh nghiệp đã lập lịch trình tích lũy trả nợ hoặc thiếu tính khả thi, hoặc chỉ lập mang tính chiếu lệ, hình thức sao cho đầy đủ bộ hồ sơ đăng ký vay nước ngoài theo quy định của NHNN. Đỗi với những trường hợp này, NHNN không những không chấp nhận việc việc đăng ký mà trái lại cần xem xét mức độ và bản chất vi phạm để đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp. Chẳng hạn, nếu do năng lực yếu kém của doanh nghiệp thì NHNN nên hướng dân, tư vấn cho doanh nghiệp để tìm cách tháo gỡ giải quyết. Trong trường hợp cố tình vi phạm và đây là lỗi có tính chất tái phạm nhiều lần thì cần có các hình thức hành chính nghiêm khắc . Tuy nhiên, trong dài hạn, điều quan trọng là phải có được những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của nguồn nhân lực tham gia hoạt động quản lý cũng như các vấn đề liên quan đến công tác báo cáo, trao đổi, cập nhật số liệu và tổng hợp số liệu về các khoản nợ . Bảng 20- Lịch trình trả nợ của doanh nghiệp A Đơn vị : USD Thời kỳ Nợ gốc còn lại Số tiền trả lãi Số tiền trả gốc Bán niên cố định 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 1000000 912769 822921 730378 635058 536879 435754 331596 224313 113811 0 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 27383 24688 21911 19052 16106 13073 9948 6729 3420 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 87231 89848 92543 95320 98179 101125 104158 107283 1105020 113811 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 Bảng 21- Quỹ tích luỹ trả nợ của doanh nghiệp A Đơn vị : USD Thời kỳ Nợ gốc còn lại Số tiền trả lãi Số tiền trả gốc Bán niên cố định 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 29300 29300 29300 32000 36000 40000 45000 50000 60000 70000 85000 100000 120000 120000 110000 100000 95000 85000 80000 70000 22508.19 30032.5 30065.81 30099.96 32902.46 39875.02 51121.9 67774.95 89969.32 122968.55 167042.76 227593.83 215621.9 223850.67 232285.16 230680.51 218785.75 201468.62 173468.56 139643.5 94722.81 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 30000 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 117231 32.5 65.81 99.96 2902.46 9875.02 21121.9 37774.95 59969.32 92968.55 137042.76 110362.83 98390.9 106619.67 115054.16 113449.51 101554.75 84237.62 56237.56 22412.5 0 III. Một số kiến nghị 1. Một số kiến nghị về xây dựng hệ thống văn bản pháp luật Thứ nhất, Chính phủ nên xúc tiến việc nghiên cứu, soạn thảo và ban hành Luật về nợ nước ngoài, trong đó sẽ bao hàm đầy đủ khuôn khổ pháp lý cơ bản và chặt chẽ cho quản lý nợ, tạo điều kiện thu hút và nâng cao hơn hiệu quả quản lý . Thứ hai, trong thời điểm hiện nay, với sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam, Chính phủ nên sớm nghiên cứu, ban hành Quy chế phát hành trái phiếu quốc tế đối với các doanh nghiệp. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực và mang lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, nó không chỉ tạo cho doanh nghiệp thế chủ động trong vay nợ mà còn góp phần tối ưu hoá hiệu quả của cơ cấu lãi suất và thời hạn trong công tác quản lý nợ . Thứ ba, Chính phủ nên bỏ quy định tại khoản 3, điều 2 và điều 17 Nghị định 90/ CP về việc chỉ đạo, phối hợp giữa các Bộ trong công tác quản lý nợ Thứ tư, việc thay đổi cách thức trao đổi thông tin giữa các Bộ trong thời gian tới cần phải được thể chế hoá bằng văn bản. Đồng thời, điều chỉnh lại cơ chế báo cáo và các yêu cầu báo cáo giữa ba cơ quan chủ trì trong việc quản lý nợ nước ngoài theo những mẫu báo cáo cần thiết và thích hợp . Thứ năm, Chính phủ nên tiếp tục duy trì quyết định cấm các NHTM bảo lãnh cho doanh nghiệp mở L/C trả chậm nhập hàng tiêu dùng để đảm bảo lành mạnh hoá trong cơ cấu nợ nước ngoài, tránh những tác động tiêu cực do sự biến động bất thường của các luồng vốn thương mại ngắn hạn . Thứ sáu, về vấn đề trả nợ của Chính phủ, nên bỏ việc phân bổ hạn mức trả nợ và chỉ định thầu cho doanh nghiệp thực hiện trả nợ nước ngoài. Thay vào đó, nên thực hiện quy chế đấu thầu cạnh tranh, công khai để vừa góp phần nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp vừa có tác dụng đảm bảo quá trình trả nợ nước ngoài được diễn ra nhanh chóng, suôn sẻ và thuận lợi, đồng thời, đảm bảo mức giá cả hợp lý, tiết kiệm cho ngân sách . Thứ bảy, đối với việc cho vay lại các khoản vay nước ngoài, Bộ Tài chính nên sớm ban hành quy định chi tiết về việc quản lý và cho vay lại theo hướng : coi hoạt động cho vay lại như nghiệp vụ tín dụng trong nước của NHTM. Do đó, Bộ chỉ nên chỉ định doanh nghiệp được quyền vay lại, còn mọi tác vụ khác và vấn đề xem xét doanh nghiệp đó có được vay hay không nên giao cho NHTM toàn quyền xử lý để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình sử dụng nợ của doanh nghiệp, nhờ đó nâng có hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam . 2. Kiến nghị về cơ cấu quản lý Trong thời gian trước mắt, để đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài, cần nhanh chóng phân định lại một cách rõ ràng và chi tiết hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ba cơ quan chủ trì việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam hiện nay thông qua các cơ chế, quy trình, quy chế phối hợp cụ thể, rành mạch. Đồng thời, tiến hành kiện toàn lại bộ máy tổ chức, quản lý nợ theo hướng gọn nhẹ, đơn giản hoá thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả công việc; xoá bỏ các rào cản đối với việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý như vấn đề bảo mật quá mức. Mặt khác, tích cực nghiên cứu, xây dựng một mô hình quản lý mới phù hợp với thực tiễn ở nước ta. Theo chúng tôi mô hình đó có thể là mô hình quản lý trực tuyến – chức năng. Bởi lẽ, như đã phân tích trong chương 1, mô hình quản lý nợ như hiện nay ở Việt Nam cũng như mô hình quản lý trực tuyến đều có những hạn chế nhất định. Trong khi đó, mô hình quản lý trực tuyến – chức năng lại cho phép phát huy tối ưu những mặt được của cả hai mô hình trên, đồng thời, hạn chế tới mức thấp nhất những nhược điểm của chúng. Theo mô hình này, cơ quan quản lý cao nhất của hệ thống được sự trợ giúp của các cơ quan quản lý chức năng để chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quyết định. Người lãnh đạo cấp cao nhất vẫn chịu trách nhiệm về mọi mặt công việc và toàn quyền quyết định trong phạm vi hệ thống, việc truyền mệnh lệnh vẫn theo các tuyến đẫ định, các cơ quan quản lý ở các phân hệ chức năng vẫn phát huy được hiệu quả quản lý song không có quyền ra lệnh trực tiếp cho mọi cơ quan trong hệ thống – một đặc điểm gây chồng chéo, nhiều khi dẫn đến hiện tượng các quyết định được đưa ra mâu thuẫn với nhau. Cụ thể, mô hình này có thể được xây dựng như sau : Chính phủ Uỷ ban tư vấn Quốc gia về nợ Bộ Tài chính NHNN Các Bộ, đơn vị có liên quan Hệ thống NHTM Trong mô hình trên, Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống quản lý NNN, chịu trách nhiệm về hiệu quả quản lý nợ cũng như được toàn quyền quyết định các vấn đề về nợ, thực hiện quản lý tập trung, thống nhất về nợ nước ngoài của quốc gia thông qua hai cơ quan chức năng như : Bộ Tài chính và NHNN cùng Uỷ ban tư vấn quốc gia về nợ. Uỷ ban tư vấn quốc gia về nợ là Uỷ ban được thành lập trực thuộc Hội đồng tài chính – tiền tệ quốc gia. Cơ cấu của Uỷ ban này nên bao gồm : Chủ tịch là Phó Thủ tướng thường trực phụ trách về kinh tế, các Phó chủ tịch là thành viên của Bộ Tài chính và NHNN, các thành viên khác là đại diện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ thương mại, Bộ Ngoại giao và đặc biệt bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất là các chuyên gia kinh tế đến từ các Viện Nghiên cứu, các trường đại học có uy tín trong nước và am hiểu trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài. Uỷ ban có chức năng hoạch định chiến lược và xây dựng chính sách vay trả nợ nước ngoài của quốc gia cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước, trình Thủ tướng quyết định. Cụ thể, một mặt, Uỷ ban sẽ quyết định khối lượng tổng số vốn vay nước ngoài hàng năm của cả nước, mặt khác, chỉ ra những thông số cụ thể về loại vay, cơ cấu lãi suất và thời hạn vay, cũng như đưa ra các hướng dẫn chung về chính sách vay nước ngoài cho các thực thể đi vay ( bao gồm cả vay tư nhân ). Đồng thời, đây là cơ quan tư vấn cho Chính phủ và NHNN, Bộ Tài chính các vấn đề liên quan đến nợ và quản lý NNN như : tư vấn hoạch định chính sách, chiến lược và hạn mức vay, trả nợ nước ngoài theo đối tượng ( nợ của doanh nghiệp hay nợ của Chính Phủ ); nghiên cứu, đề xuất và tư vấn giúp giải quyết các vấn đề phát sinh trong công tác quản lý nợ, xem xét thẩm định lại lần cuối tổng hạn mức vay nước ngoài hàng năm do Bộ Tài chính, NHNN đề nghị trước khi triển khai thực hiện. Ngoài ra, Uỷ ban có thể thành lập Ban thư ký của Uỷ ban nhằm theo dõi xu thế và sự phát triển trong các thị trường tài chính quốc tế, cũng như sự biến động của lãi suất và các ngoại tệ mạnh để đề xuất với Bộ Tài chính và NHNN những cơ hội sẵn có tốt nhất trong các thị trường quốc tế và thời gian thích hợp để gia nhập vào từng loại thị trường này. Đồng thời, Ban thư ký cũng có nhiệm vụ truy xuất thông tin, dữ liệu về nợ nước ngoài từ NHNN để phục vụ việc phân tích tình hình nợ, từ đó đưa ra các tư vấn cho Chính phủ, NHNN, Bộ tài chính, cũng như những gợi ý về các biện pháp hữu hiệu để xử lý những cú sốc không dự đoán trước được như : xu hưóng vận động thương mại hay sự giảm nhanh thu nhập từ hoạt động xuất khẩu làm mất tính thời sự của các giả định ngầm định khi phân tích trong chương trình nợ gốc . Ngoài ra, Uỷ ban còn có chức năng nghiên cứu, đề xuất và thẩm định các đề án xử lý NNN; nghiên cứu, phân tích và đánh giá các ảnh hưởng của nợ nước ngoài đối với các cán cân vĩ mô và tấc động của tỷ giá cũng như những biến động của thị trường tài chính quốc tế đến quy mô nợ nước ngoài của quốc gia, trên cơ sở đó, đề xuất chiến lược vay mượn và quản lý nợ trung, dài hạn của cả nước. Bên cạnh đó, Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng dữ liệu dự báo về khả năng giải ngân của các khoản nợ đẫ được cam kết, đồng thời, phải lập được bảng dự kiến lịch trình trả nợ trả nợ gốc và lãi của các khoản nợ hiện hành cũng như dự đoán và đánh gía được khả năng trả nợ từ nền kinh tế . Cuối cùng, Uỷ ban có thể đóng góp ý kiến về các vấn đề quan trọng khác trong quản lý nợ quốc gia theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc do tự bản thân Uỷ ban thấy cần thiết cần phải có kiến nghị với Thủ tướng. Trong Uỷ ban tư vấn quốc gia về nợ, đại diện của Bộ Kế hoạch đầu tư chịu trách nhiệm tư vấn và cùng các thành viên khác xây dựng chiến lược quốc gia về vay, trả nợ nước ngoài sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước do Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đã được quốc hội thông qua. Mặt khác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm tư vấn cho Uỷ ban trong các vấn đề liên quan đến quá trình xây dựng chiến lược và kế hoạch vận động, đàm phán, ký kết với bên nước ngoài về ODA. Đồng thời, Bộ có chức năng tham mưu ,tư vấn cho Uỷ ban và chính phủ trong việc xem xét tính hợp lý của các nhu cầu tài trợ, thẩm định các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, để đảm bảo cho mỗi khoản tài trợ đều phù hợp tối đa với lợi ích kinh tế – xã hội chung của cả nước . Các Bộ tư pháp, Ngoại Giao, Bộ Khoa học Công Nghệ và Môi trường có chức năng tư vấn cho Uỷ ban về các vấn đề liên quan như quy định trong Nghị định 90/CP. Bộ Tài chính đặc trách quản lý nợ của Chính phủ bao gồm các khoản vay ODA, vay thương mại song phương, có chức năng quản lý, nghiên cứu, hoạch định và ban hành các chính sách và văn bản về quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ, góp ý với NHNN trong việc thay mặt Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài .Hàng quý, theo định kỳ, Bộ Tài chính tổng hợp số liệu và cập nhật vào hệ thống máy tính đã được nối mạng với NHNN để phục vụ cho NHNN tổng hợp và thống kê dữ liệu. NHNN thực hiện quản lý nợ của doanh nghiệp và các khoản vay từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế thông qua hệ thống NHTM chịu sự quản lý của mình theo ngành dọc. Đây là cơ quan thống kê, đầu mối duy nhất tập hợp số liệu về nợ của Quốc gia. Đồng thời, cũng như Bộ Tài chính, NHNN là cơ quan đặc trách trong vấn đề xây dựng và ban hành các chính sách, văn bản pháp quy dưới luật về quản lý nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng khác theo yêu cầu của Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Tài chính và NHNN sẽ tham gia phối hợp trong hoạt động quản lý nợ nước ngoài. Tóm lại, trên đây mới chỉ là vài nét phác thảo về mô hình quản lý nợ của Việt Nam mà theo chúng tôi việc triển khai nó trong tương lai sẽ mang lại hiệu quả đích thực trong quản lý nợ. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, còn đòi hỏi phải có sự đầu tư, nghiên cứu cụ thể hơn nữa của các nhà khoa học trong nước . Kết luận Quản lý nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển là một vấn đề khá cấp bách. Do mức độ tích luỹ trong nước còn tương đối thấp nên Việt Nam phải dựa khá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài để chi cho các khoản thâm hụt ngân sách và các khoản đầu tư ,và theo các chuyên gia nhu cầu vay vốn sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Để tiếp tục phát triển nhanh hơn trong chặng đường phát triển đổi mới trong bối cảnh Việt Nam đang phấn đấu đạt được những mục tiêu to lớn của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tích luỹ trong nước và nước ngoài để phục vụ cho mục tiêu phát triển và xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Những năm qua Việt Nam, mặc dù Việt Nam đã đạt được một số kết quả trong công tác quản lý nợ nước ngoài, nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại một số những hạn chế đối với hiệu quả quản lý nợ của Việt Nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình với hy vọng rằng bài viết này có thể đóng góp một phần nhỏ bé trong việc đưa ra những giải pháp toàn diện và nhất quán cho công tác quản lý nợ nước ngoài ở nước ta hiện nay . Tuy nhiên với thời gian hạn chế, trình độ nghiên cứu còn non trẻ nên bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết có nhiều giá trị thực tiễn . Một lần nữa, em xin trân trọng bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo và các bạn, đặc biệt là cô giáo THS Đặng Thị Nhàn đã giúp đỡ em trong việc viết và hoàn chỉnh bài khoá luận tốt nghiệp này. Sinh viên . Trần Thị Bích Hương. Tài liệu tham khảo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docmuc luc.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan