Nâng cao hiệu quả quản lý công nghệ Viễn thông tại Bưu điện thành phố Hà Nội

Mục lục tài liệu tham khảo...................................................................... 71 mở đầu Sự thay đổi không ngừng của công nghệ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế. Công nghệ được cải tiến cho phép giảm giá thành các sản phẩm có cùng chức năng và tạo ra các sản phẩm mới có thể thay thế sản phẩm trước đây, qua đó tác động tới giá cả và cung cầu. Ngược lại nền kinh tế phát triển dẫn tới nhu cầu sản xuất phải đáp ứng với nhu cầu mới của thị trường,

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý công nghệ Viễn thông tại Bưu điện thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo động lực và sức ép để cải tiến công nghệ. Trong lĩnh vực Viễn thông, tiến bộ về công nghệ cho phép ra đời nhiều thiết bị và cung cấp nhiều thiết bị viễn thông mới. Một mặt cũng cho phép các nhà sản xuất thiết bị viễn thông giảm giá thành các thiết bị cung cấp các dịch vụ viễn thông cơ bản, thông dụng, nhưng đáng kể hơn là tiến bộ công nghệ cho phép sản xuất các thiết bị mới với nhiều tính năng kỹ thuật mới để có thể cung cấp các dịch vụ cao cấp. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, cùng với các ngành kinh tế khác, ngành Viễn thông cũng không ngừng đổi mới về mặt công nghệ, tập trung vào các tiến bộ về công nghệ để xây dựng mạng Viễn thông ngày càng hiện đại, cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao cho mọi ngành kinh tế quốc dân. Vấn đề Quản lý công nghệ nói chung và trong ngành Viễn thông nói riêng là một vấn đề hết sức quan trọng và rộng lớn, đòi hỏi quá trình nghiên cứu nghiêm túc, tập trung sức lực của nhiều người. Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của ngành BC-VT nói chung và của Bưu điện thành phố Hà Nội nói riêng, tác giả đã chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả quản lý công nghệ Viễn thông tại Bưu điện thành phố Hà Nội.” Đề tài muốn giới thiệu một phần nào đó về công nghệ và công tác Quản lý công nghệ Viễn thông của Bưu điện thành phố Hà Nội. Và bằng những suy nghĩ của cá nhân người viết, đề tài cũng đề cập đến một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công nghệ để phát triển mạng Viễn thông trong thời gian tới. Kết cấu đề tài gồm ba phần: Phần 1: Vai trò của công nghệ trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay. Phần 2: Thực trạng quản lý công nghệ của Bưu điện thành phố Hà Nội. Phần 3: Phương hướng và các giải pháp về quản lý công nghệ trong giai đoạn tới tại Bưu điện Thành phố Hà Nội. Chuyên đề tốt nghiệp này đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của các Thầy Cô giáo, các cô chú, anh, chị trong Ban Quản Lý các dự án Bưu điện thành phố Hà Nội, đặc biệt là Thầy giáo TS. Mai Văn Bưu cùng các thầy cô trong Khoa Khoa học Quản lý, Trường ĐHKTQD đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trước một vấn đề mới mẻ và đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ hơn nữa, những ý kiến trình bầy trong đề tài chắc không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý thêm của các thầy cô giáo và của các bạn đồng nghiệp. phần 1 Vai trò của công nghệ trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay I. Tổng quan về công nghệ và quản lý công nghệ. 1. Công nghệ: 1.1 Khái niệm về công nghệ: Công nghệ là sản phẩm của tinh hoa trí tuệ con người, là tập hợp hệ thống kiến thức và kết quả của khoa học ứng dụng nhằm mục đích biến đổi nguồn lực tự nhiên thành mục tiêu sinh lợi cho xã hội; Nó là công cụ chủ yếu cho con người đạt được những lợi ích cần thiết. Công nghệ đã làm tăng sức mạnh cơ bắp và tinh thần của con người. Công nghệ góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động, tận dụng tài nguyên, cải thiện điều kiện làm việc, giảm chi phí sản xuất, thoả mãn sức mua, thoả mãn mọi nhu cầu hợp lý, thậm chí xa hoa của con người. Chính công nghệ tạo điều kiện để hình thành một xã hội giầu có hàng hoá, phong phú và phức tạp trong quan hệ xã hội. Tóm lại: công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra. Công nghệ được thể hiện thành 4 thành phần, tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra sự biến đổi mong muốn. Các thành phần này hàm chứa trong các bộ phận của vật chất kỹ thuật, của con người, của thông tin và của quản lý - tổ chức. Phần vật tư kỹ thuật (Technoware- viết tắt là T): bao gồm máy móc, dụng cụ, phụ tùng, kết cấu xây dựng, nhà xưởng ... . Trong công nghệ chế tạo, máy móc thiết bị thường lập thành dây truyền công nghệ. Đây là phần vật chất, còn gọi là phần cứng của công nghệ giúp tăng năng lực cơ bắp nhờ cơ - điện - nhiệt - hoá hoặc tăng trí lực của con người nhờ máy tính điện tử. Phần con người (Humanware - viết tắt là H): bao gồm đội ngũ lao động để vận hành, điều khiển và quản lý, bao gồm cả khía cạnh thành thạo, khéo léo, gia truyền, cần cù, khả năng lãnh đạo, đạo đức lao động.... Phần này phụ thuộc nhiều vào trình độ học vấn, tay nghề (kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm ...) Phần thông tin (inforware - viết tắt là I): bao gồm tư liệu, dữ liệu, bản thuyết minh, mô tả sáng chế, bí quyết, tài liệu chỉ dẫn, đặc tính kỹ thuật ... Phần này có thể công khai trong mô tả kỹ thuật hay cung cấp có điều kiện trong dạng bí quyết theo luật về bản quyền sở hữu công nghiệp. Phần quản lý tổ chức (Orgaware - viết tắt là O): bao gồm các hoạt động, các mối liên kết phân bố lao động, phân bố sản xuất, tuyển dụng và trả lương, chế độ khuyến khích ... . Đó là các nội dung, các tổ chức và quản lý lao động, tổ chức và quản lý sản xuất, tổ chức kinh doanh. Bốn thành phần của công nghệ có quan hệ chặt chẽ và có mặt đồng thời ở mọi giai đoạn của công nghệ . Trong hệ thống biến đổi, phần thiết bị là cốt lõi, nó được lắp đặt, vận hành và cải tiến là nhờ phần con người, chính con người đã sử dụng phần thông tin tích luỹ qua thời gian. Nhưng phần thiết bị không thể tự nó thực hiện và cũng không có tác dụng nếu không có phần con người. Mức độ phức tạp và tích cực của vật tư càng cao thì trình độ phần con người càng cao, phần thông tin cũng đòi hỏi cao hơn. Phần con người đóng vai trò then chốt khi thực hiện các công việc biến đổi. Chính nhờ phần con người mà vật tư có được tính sản sinh. Nhưng phần con người lại phải dựa vào phần thông tin và phần tổ chức, mặt khác nhờ phần con người làm tăng độ tin cậy, nhờ hiệu quả của phần tổ chức và phần thông tin mà đi đến sử dụng tốt hơn phần vật tư. Phần thông tin thể hiện sự tích luỹ kiến thức bởi con người. Khối lượng kiến thức ngày nay đang không ngừng tăng lên và do vậy phần thông tin đòi hỏi phải thường xuyên cập nhật. Nếu không làm như vậy sẽ không thực hiện được việc lựa chọn và sử dụng thích hợp phần vật tư. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của phần tổ chức là sử dụng và cập nhật thông tin. Phần thông tin thể hiện sức mạnh của công nghệ. Phần tổ chức là phần điều phối thông tin, phần con người và phần vật tư trong công việc biến đổi và biến đổi có hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên thành các nguồn lực được sản xuất. Yêu cầu của phần tổ chức phụ thuộc vào độ phức tạp và tinh vi của phần vật tư, vào trình độ của con người và mức độ phức tạp của thông tin. Nếu hiệu quả của phần tổ chức tăng lên thì năng suất của phần con người, phần thông tin và phần vật tư cũng tăng lên. Phần tổ chức cần phát triển theo thời gian để đáp ứng sự phát triển của các thành phần còn lại của công nghệ. Để phù hợp với tổ chức và quản lý, người ta phân công công nghệ theo 2 cấu thành cơ bản: phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các sản phẩm vật chất, cấu thành vật chất hay phương tiện vật chất. Phần mềm là các bí quyết, thông số, kỹ thuật, thủ tục, công thức, phương pháp, kỹ năng... 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới công nghệ: a. Tác động khoa học- kỹ thuật: Chúng ta hiểu rằng: Mục đích của khoa học và công nghệ là phát triển tối ưu các nguồn lực nhằm phục vụ xã hội, phục vụ con người. Nhưng ta cần phân biệt khoa học chủ yếu là khám phá để nhận thức các qui luật tự nhiên và xã hội, còn công nghệ chủ yếu là ứng dụng các thành quả của khoa học để giải quyết các mục tiêu sinh lợi cho kinh tế xã hội. Nói như vậy, khoa học có trước là tiền đề của công nghệ; đây là cơ sở tri thức cho công nghệ thể hiện trong sản xuất, thương mại, dịch vụ; Nó chứa đựng năng lực sáng tạo của con người nhằm lựa chọn, đổi mới, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên - xã hội. Khoa học kỹ thuật tạo ra các thông tin mang tính tiềm năng cơ bản để sáng tạo công nghệ. Khoa học hôm nay là công nghệ ngày mai. Ngày nay khoa học càng thúc đẩy sự thông tiến bộ của công nghệ, làm nguồn tạo ra công nghệ. Tuy nhiên ở đây ta cần lưu ý: trước đây quan hệ giữa khoa học và công nghệ chưa gắn chặt với nhau, có khi độc lập với nhau. Trong thực tế có những công nghệ như máy chữ, máy khâu, máy công cụ... tự bản thân chúng là sản phẩm thuần tuý của công nghệ hơn là ứng dụng khoa học. Có nhiều khi “biết thế nào”, “biết làm như thế nào” trước khi “biết tại sao”. Nhưng thời đại ngày nay, chủ yếu khoa học mở cánh cửa cho công nghệ, yếu tố quan trọng trong việc phát triển nền công nghệ hiện đại là làm theo những công cụ đã được khoa học phát triển ra, lý thuyết đã giúp thực hành tốt hơn. Khoa học vạch đường, khoa học cung cấp môi trường để các ý đồ công nghệ triển khai. b. Tác động khoa học - tổ chức: Công nghệ bao gồm cả sự tổ chức xã hội của sản xuất và các quá trình lao động. Vậy một sự thay đổi trong tổ chức xã hội của sản xuất và lao động là thay đổi công nghệ. Thành tựu đạt được, kinh nghiệm đúc kết qua thực tiễn của các khoa học thuộc các chuyên ngành Quản lý kinh tế, Quản lý kinh doanh, cũng như kiến thức các ngành Kế toán, Tài chính, Lao động đều là các yếu tố tác động tới thay đổi và phát triển công nghệ. c. Các giai đoạn biến đổi: Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới công nghệ là quá trình để hình thành công nghệ. Đó là quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực đã được sản xuất thành các sản phẩm tiêu dùng, trung gian, cũng như các tư liệu sản xuất. d. Trình độ và năng lực công nghệ: Năng lực công nghệ quyết định việc sử dụng công nghệ, triển khai, thay đổi công nghệ: Năng lực công nghệ liên quan chặt chẽ tới các thành phần công nghệ; Năng lực công nghệ khác nhau có các thành phần công nghệ khác nhau. Để tiện phân tích người ta phân ra thành năng lực công nghệ cơ sở, năng lực công nghệ chuyên ngành và năng lực công nghệ quốc gia. Khi phân tích năng lực công nghệ cơ sở chủ yếu căn cứ vào: - Năng lực đầu tư: Đó là những kỹ năng cần để nhận biết, chuẩn bị thu nhận công nghệ, thiết kế xây dựng, trang bị , hình thành đội ngũ cán bộ. Các kỹ năng này thể hiện xác định chi phí vốn dự án, tính thích hợp về qui mô, công nghệ và thiết bị kỹ thuật đã lựa chọn cũng như các hiểu biết công nghệ cơ sở có liên quan. - Năng lực sản xuất: thể hiện các kỹ năng cơ sở như kiểm tra chất lượng, vận hành và bảo dưỡng cho đến những kỹ năng cao hơn như tính thích nghi hoá, cải tiến, mở rộng tính năng và cao hơn nữa là kỹ năng nghiên cứu. - Năng lực liên kết: đó là những kỹ năng cần có để nhận cũng như chuyển thông tin về công nghệ giữa các hãng cung cấp, các hãng nhận hợp đồng, các hãng tư vấn, các hãng dịch vụ và các cơ sở phát triển công nghệ. Các mối liên kết đó ảnh hưởng không chỉ đến hiệu suất sản xuất của hãng mà còn ảnh hưởng đến sự truyền bá công nghệ trong nền kinh tế. Khi nói đến năng lực công nghệ Ngành hay Quốc gia thường căn cứ tổng hợp năng lực công nghệ cơ sở, cộng thêm sự ứng phó của cấp cơ sở với chính sách thị trường và thể chế. Do vậy các nước phát triển cũng như đang phát triển có khả năng khác nhau về sử dụng, đổi mới và sáng tạo công nghệ. Năng lực công nghệ quốc gia dựa vào: đầu tư vật chất, vốn con người và nỗ lực công nghệ. e. Thị trường: Thị trường là nơi tiêu thụ công nghệ và sản phẩm công nghệ. Công nghệ mang lại năng suất lao động cao, đòi hỏi các sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng ngày càng cao, như vậy sẽ kích thích sản xuất phát triển, đòi hỏi các nhà sản xuất phải luôn đổi mới công nghệ. Công nghệ tồn tại, phát triển, đổi mới luôn gắn chặt với thị trường. g. Môi trường quốc gia: Công nghệ có tác động thúc đẩy và ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Các yếu tố của môi trường xung quanh không thụ động, chúng cũng có tác động trở lại với công nghệ. Các tác động của các yếu tố xung quanh như kinh tế, sinh thái, dân số, tài nguyên, văn hoá, xã hội, chính trị ... có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy phát triển công nghệ. Thực tế đã cho thấy các công nghệ giống nhau ở hai nước khác nhau không phải bao giờ cũng đưa đến những kết quả như nhau. Môi trường quốc gia được thể hiện chủ yếu ở: + Chiến lược và chính sách phát triển kinh tế. + Chiến lược và chính sách công nghệ. 1.3 Cấu trúc hạ tầng của Công nghệ: Không một quốc gia nào có thể phát triển được một nền công nghiệp tiên tiến nếu không có được một cấu trúc hạ tầng công nghệ vững chắc. Khác với hạ tầng cơ sở kinh tế, các thành phần của một cấu trúc hạ tầng công nghệ bao gồm: nền tảng kiến thức về khoa học và công nghệ, các cơ quan nghiên cứu và triển khai, nhân lực khoa học công nghệ, chính sách khoa học công nghệ quốc gia và nền văn hoá công nghệ: a. Kiến thức khoa học và công nghệ: Kiến thức là tổng hợp những gì về bản chất của sự vật, của thông tin và của những nguyên lý đã được khám phá của con người. Công nghệ là sự áp dụng kiến thức vào việc giải quyết những vấn đề thực tế, còn khoa học là sự tìm tòi kiến thức. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ là một hiện tượng mới mẻ, rất được trú trọng đề cập đến trong những năm gần đây: khoa học mở cánh cửa cho công nghệ. Một yếu tố quan trọng cho việc tăng trưởng nền công nghiệp hiện đại là làm theo những công cụ đã được tiến bộ khoa học của con người phát hiện ra. Tới lượt mình, công nghệ lại cung cấp những thiết bị cho các nhà khoa học để họ tìm tòi kiến thức. Vai trò của kiến thức khoa học công nghệ có thể thấy rõ chính ở sự khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển: kiến thức cao về khoa học - công nghệ ở các nước phát triển và nghèo nàn về kiến thức khoa học - công nghệ ở các nước đang phát triển. Có nhiều chiến lược khác nhau có thể dùng để nâng cao cơ sở kiến thức công nghệ, ví dụ: mở rộng cơ sở dữ liệu (của các trung tâm tư liệu hay thư viện), hệ thống hoá kiến thức theo thủ tục tránh những việc làm trùng lặp và xây dựng các kiến thức hiện có. b. Các cơ quan nghiên cứu - triển khai công nghệ: Quá trình nghiên cứu - triển khai công nghệ được thực hiện trong các viện nghiên cứu - triển khai. Có thể coi các viện này là một loại nhà máy đặc biệt sản xuất ra một loại sản phẩm đặc biệt đó là "công nghệ". Vai trò của cơ quan nghiên cứu - triển khai được coi trọng đặc biệt ở các nước đang phát triển, bởi những lý do sau: - Sự thay đổi công nghệ cho phép tạo ra sự tăng trưởng kinh tế theo hàm số mũ, do đó khoảng cách giữa các nước đã có và chưa có các viện nghiên cứu - triển khai sẽ tăng theo hàm số mũ. - Nếu không có khả năng nghiên cứu - triển khai sẽ không có khả năng thành công trong chuyển giao công nghệ. - Không có các viện nghiên cứu - triển khai không thể tự lực phát triển các công nghệ phù hợp, đây là bước đầu dẫn tới sự độc lập về công nghệ. Việc quản lý các viện nghiên cứu - triển khai để nâng cao hiệu quả và hiệu suất của nó được các công ty, các quốc gia hết sức quan tâm. Nội dung chính của công việc quản lý các cơ quan này là vấn đề xây dựng các mục tiêu và lựa chọn các hoạt động. Đây là một nhiệm vụ khó khăn bởi các mục tiêu đối với sự phát triển toàn diện của một tổ chức (từ một cơ sở đến tầm quốc gia) có rất nhiều hoạt động mà chúng đều là thiết yếu. Các hoạt động công nghệ cũng rất phong phú đòi hỏi phải sử dụng nhiều lĩnh vực khác nhau của công nghệ để đáp ứng các mục tiêu. Trong khi đó, nguồn lực để thực hiện các mục tiêu lại hạn chế. Ngoài ra nhân lực trong các cơ quan nghiên cứu - triển khai, các nhà bác học, các kỹ sư, các công nhân lành nghề cũng là một yếu tố cần quan tâm nếu muốn đạt được mục tiêu đề ra. Trừ một vài quốc gia ngoại lệ (như Hàn Quốc), ở hầu hết các nước đang phát triển, các viện nghiên cứu - triển khai chưa đạt kết quả đáng chú ý đối với sự tiến bộ công nghệ quốc gia. c. Chính sách khoa học - công nghệ: Chính sách khoa học - công nghệ thể hiện vai trò của Nhà nước đối với tiến bộ khoa học và công nghệ. Chính sách khoa học - công nghệ là một hệ thống các mục tiêu và biện pháp nhằm phát triển tiềm lực khoa học và kỹ thuật của quốc gia. Mục tiêu của chính sách khoa học - công nghệ thường nhằm có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ sự phát triển công nghệ với chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục, môi trường. Ngày nay đã có thể khái quát được những biện pháp mà một Nhà nước có thể áp dụng để điều tiết quá trình phát triển khoa học công nghệ ở nước mình. Tuy khác nhau ở từng nước, song vẫn có những nét chung. Các nước XHCN, Nhà nước coi trọng công cụ kế hoạch hoá; trong khi ở các nước TBCN, nơi mà các công ty tư nhân đóng vai trò chính trong việc áp dụng các biện pháp, chính sách theo nhiều cơ chế để điều tiết: sử dụng sức mua hỗ trợ các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, trợ cấp tài chính, ưu đãi thuế ... Chính sách khoa học - công nghệ có thể lập ở 3 cấp: cấp định hướng chính sách; cấp lập kế hoạch, đánh giá và cấp thực hiện. ở các nước đang phát triển, nhận thức được sự thiệt thòi do nền công nghiệp kém phát triển, hầu hết các nước này đều xây dựng chính sách khoa học - công nghệ cho riêng mình. Tuy vậy, hiệu quả của chính sách không được thấy rõ. Nguyên nhân là do sự dập khuôn chính sách của các nước phát triển, khả năng hạn chế của nguồn lực và sự hình thức hoá các chính sách khoa học - công nghệ. d. Nhân lực khoa học - công nghệ: Sự mở rộng hoạt động khoa học - công nghệ cần có số lượng lớn các nhà khoa học và cán bộ công nghệ có trình độ cao, họ lập lên nhân lực khoa học - công nghệ. Để giải quyết vấn đề nhân lực, các nước đang phát triển, có thể giải quyết theo hướng du học. Mặc dù có nhiều ý kiến về vấn đề du học, song trong điều kiện phát triển thì khoa học - công nghệ là một đòi hỏi cấp bách, không thể giải quyết vấn đề đào tạo Cán bộ khoa học có trình độ cao trong một sớm một chiều, du học vẫn là một nguồn quan trọng bổ sung nhân lực khoa học. Để đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhân lực khoa học cho hiện tại và tương lai, cần có kế hoạch đúng đắn phát triển nhân lực khoa học nhờ các công cụ và kỹ thuật dự báo. e. Nền văn hoá công nghệ: Nền văn hoá công nghệ trong một quốc gia là thái độ của cộng đồng nhìn nhận các vấn đề công nghệ một cách khoa học. Trong xã hội, người ta luôn đặt các câu hỏi “thế nào” ,“cái gì” cùng với “tại sao” và dựa trên cơ sở khoa học để trả lời các câu hỏi đó. Nền văn hoá công nghệ tạo dựng một môi trường tâm lý- xã hội thuận lợi cho việc hình thành triết lý kinh doanh mới “ Từ nghĩa vụ và trách nhiệm trong cơ chế tập trung sang nhu cầu và lợi ích cá nhân quyết định sự gắn bó của cá nhân với nghĩa vụ cộng đồng”. Tâm lý ưa thích đổi mới, kích thích sự tìm tòi, học hỏi, sáng tạo, sẽ tạo thị trường cho công nghệ và là nguồn lực cho nghiên cứu, phát minh, sáng chế. Nhờ dân trí được nâng cao, người dân thấy rõ vai trò của công nghệ, ủng hộ sự phát triển công nghệ. Muốn có nền văn hoá công nghệ phải xây dựng nền giáo dục quốc gia có định hướng khoa học, không phải chỉ cho những người chắc chắn trở thành nhà khoa học, mà cho cả cộng đồng. Nhờ đó tinh thần khoa học dễ dàng thâm nhập vào đông đảo nhân dân. 2. Quản lý công nghệ: 2.1 Khái niệm quản lý công nghệ: Quản lý công nghệ là tập hợp những tác động có định hướng trong hoạt động công nghệ nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra, đưa lại hiệu quả nhất định trong vấn đề sản xuất xã hội nhằm tạo sản phẩm, đưa lại lợi nhuận tối đa, phục vụ lợi ích cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Nói một cách khác: quản lý công nghệ là hệ thống tập hợp các hoạt động công nghệ nhằm đạt mục tiêu nhất định. 2.2 Nội dung quản lý công nghệ (cấp doanh nghiệp) Quản lý công nghệ gồm có 3 nội dung chính là: Hoạt động công nghệ, các mục tiêu cần đặt ra và mối quan hệ giữa hoạt động với mục tiêu. a. Hoạt động công nghệ: là các hoạt động có liên quan tới công nghệ và các thành phần công nghệ (như đã trình bày ở mục 1). Trong hoạt động công nghệ các thành phần công nghệ bổ xung cho nhau, không thể thiếu bất cứ thành phần nào trong mọi công nghệ. Tuy nhiên có một yêu cầu tối thiểu cho mỗi thành phần để cho một biến đổi có thể xảy ra; Đồng thời lại có một giới hạn tối đa cho mỗi thành phần để một hoạt động biến đổi không mất đi tính tối ưu và tính hiệu quả. Phần vật tư kỹ thuật được xem như “cốt lõi” của công nghệ, nó được triển khai, lắp đặt và vận hành bởi con người. Phần con người đóng vai trò “chủ động” trong công nghệ song lại chịu sự chi phối của thông tin và tổ chức; Phần thông tin được xem như là “sức mạnh” của công nghệ, còn phần tổ chức mang tính "động lực” của công nghệ và bản thân nó cũng biến đổi theo thời gian. b. Mục tiêu: Xây dựng và xác định mục tiêu trong quản lý công nghệ là vấn đề cốt lõi và quan trọng, nó quyết định sự thành bại, hiệu quả của hoạt động công nghệ. Mục tiêu tổng quát: quản lý công nghệ nhằm giải phóng mọi năng lực sẵn có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước cũng như của các doanh nghiệp. Sử dụng có hiệu quả các quan hệ với các đối tác trong nước và quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất phục vụ và giải quyết tốt nhất các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra. Các mục tiêu cụ thể: - Tạo bầu không khí hướng về công nghệ: + Xóa bỏ những quan niệm không đúng về công nghệ như có người cho rằng công nghệ làm mất việc làm, chỉ cần có công nghệ mà không chú ý đến sử dụng, áp dụng như thế nào. + Phát triển các nguồn lực cơ bản để thúc đẩy triển khai có hiệu quả và phát triển công nghệ đó là nhân lực công nghệ, đào tạo người lao động. + Khuyến khích sự sáng tạo, lành nghề của người lao động. + Phải có sự trợ giúp cho lĩnh vực khoa học công nghệ, đẩy mạnh sự hợp tác khoa học - công nghệ giữa các ngành và với quốc tế. - Khai thác hiệu quả công nghệ sẵn có phục vụ sản xuất kinh doanh, cải thiện và thích nghi. - Dựa vào chiến lược và chính sách Nhà nước đề xuất, xây dựng các phương án công nghệ, tạo điều kiện mở rộng quy mô, ngành nghề, tạo cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh. - Tạo luận cứ khoa học - công nghệ về chiến lược và chính sách công nghệ cũng như chiến lược và chính sách phát triển của doanh nghiệp. - Phát triển và tăng cường phương tiện trong cơ cấu hạ tầng công nghệ. - Phân tích năng lực công nghệ, nhu cầu công nghệ, đánh giá công nghệ, tạo luận chứng, tạo cơ sở cho lãnh đạo ra quyết định các phương án, dự án. c. Mối quan hệ giữa các hoạt động và mục tiêu: Trong công nghệ các hoạt động đa dạng và phức tạp; Quản lý công nghệ đòi hỏi phải chú ý tới hoạt động tổng thể và mục tiêu cuối cùng. Ngoài ra trong từng hoạt động, từng khâu, từng công đoạn phải luôn luôn xem xét mối quan hệ giữa hoạt động và kết quả cần đạt tới. Chính vì vậy người ta nhấn mạnh và đặc biệt chú ý khâu kiểm tra kiểm soát trong Quản lý công nghệ. Tóm lại: Quản lý công nghệ là một công tác rất quan trọng của mọi quốc gia, mọi Doanh nghiệp. Quản lý công nghệ tốt là cơ sở để xây dựng chương trình phát triển kinh tế một cách toàn diện. II. Quan điểm của Đảng về công nghệ: Công nghệ là tinh hoa của trí tuệ, là lao động sáng tạo của con người để phục vụ con người. Chính công nghệ là chìa khoá của sự phát triển. Công nghệ là cơ sở và là động lực thúc đẩy phát triển. Nền kinh tế dựa trên nền tảng phát triển công nghệ mới bền vững và tăng trưởng cao. Cần phải nhận thức rằng nguyên nhân sâu xa của sự tụt hậu về kinh tế đối với một quốc gia là do tụt hậu về khoa học - công nghệ, vì như thế đất nước sẽ không tiến hành được công nghiệp hoá - hiện đại hoá. ở thời đại hiện nay, những thành tựu của khoa học công nghệ đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động của con người, từ kinh tế đến văn hóa, tạo nên những đặc điểm mới mà mọi quốc gia đều phải tính đến. Tuy nhiên cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay cũng chứa đựng những đặc điểm bất lợi cho các nước đi sau. Các nước phát triển không sẵn lòng chuyển giao công nghệ đến các nước đang phát triển, họ luôn nắm giữ bí quyết để chiếm ưu thế trên thị trường. Các nước phát triển cũng luôn có ý định chuyển những công nghệ đã lạc hậu (đối với họ), kể cả kế hoạch chuyển các dây truyền sản xuất công nghệ gây ô nhiễm môi trường nặng nề đến các nước đang phát triển. Sự hội nhập của các nước trong cuộc cách mạng khoa học - công nghệ toàn cầu cũng có thể tạo nên những ảnh hưởng xấu về xã hội, những biến dạng văn hoá ở những nước đang phát triển. Đối với nước ta, rõ ràng cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới, với những đặc điểm trên đây đang tạo ra những thuận lợi to lớn, nhưng đồng thời cũng xuất hiện những thách thức rất gay gắt. Với đặc điểm rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến sản xuất, chúng ta không nhất thiết phải tổ chức nghiên cứu mọi lĩnh vực từ đầu; mà phải nhạy bén tranh thủ mọi kênh, từ đầu tư nước ngoài trực tiếp đến thu thập thông tin để chọn đúng hướng, loại trừ những công nghệ bị lạc hậu nhanh. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu rõ: " Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức." Muốn tự chủ về năng lực khoa học - công nghệ, trước hết chúng ta phải xây dựng nội sinh; Đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên viên nghiên cứu khoa học giỏi, phải mạnh dạn cử người đi học hỏi để nhanh chóng đảm nhiệm được những nhiệm vụ chủ chốt trong các trương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội .“ Khoa học công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia. Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học - công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý dịch vụ. Coi trọng việc nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học - công nghệ. Hoàn thành xây dựng những khu công nghệ cao và hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Sắp xếp lại và đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật với khoa học xã hội và nhân văn. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc." (Trích văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Trước nguy cơ tiếp nhận phải công nghệ phế thải, nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, chúng ta phải chỉ đạo sát sao công tác thẩm định công nghệ, đánh giá tác động của môi trường và xem xét khía cạnh văn hoá xã hội trong quá trình hội nhập của thế giới. Nước ta có một nguồn nhân lực được đánh giá là có nhiều ưu điểm trong việc tiếp thu trí thức và công nghệ mới, phải khai thác mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa lợi thế này. “Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu bằng khoa học - công nghệ” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 tại Đại hội IX của Đảng cũng xác định rõ: " Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ .... phải được tăng cường và được nâng cao." Như vậy gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt là Công nghệ thông tin vì đây là nền tảng cho công cuộc CNH - HĐH đất nước. Nắm bắt kịp công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, kết hợp với công nghệ truyền thống là mục tiêu sống còn của mọi ngành, mọi cấp trên cả nước. Với ngành Bưu chính -Viễn thông Việt Nam, việc phát triển và ứng dụng Khoa học công nghệ hiện đại đang là nhiệm vụ hàng đầu nhằm đưa ngành Viễn thông lên ngang tầm với các nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ tiêu phấn đấu của Ngành là “đến năm 2010 đạt mật độ điện thoại bình quân cả nước đạt từ 10 - 12 máy/100 dân (khoảng 2 hộ gia đình có 1 máy)”. Đó chính là mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà Đảng và nhân dân giao cho ngành Bưu chính - Viễn thông trong 10 năm đầu của thế kỷ 21. III. Đặc điểm công nghệ ngành viễn thông trong thời kỳ đổi mới: 1. Viễn thông Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Viễn thông là một hạ tầng cơ sở quan trọng của nền kinh tế, là công cụ đắc lực phục vụ cho việc quản lý, điều hành Nhà nước, bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần nâng cao đời sống văn hoá xã hội của nhân dân đồng thời là ngành kinh doanh dịch vụ có lãi. Thừa kế những thành tựu khoa học về điện tử bán dẫn, tin học, quang học .... Viễn thông trên thế giới đã có những bước nhảy vọt, đưa loài người vào một kỷ nguyên mới - "kỷ nguyên thông tin". Những năm gần đây, dưới ánh sáng đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, Viễn thông Việt Nam có những bước tiến cơ bản cả lượng và chất. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang là môi trường, động lực cho sự cải tiến và phát triển của nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành Bưu chính - Viễn thông. Khi nói đến thành tựu của ngành Viễn thông Việt Nam trong những năm qua, người ta thường nói trước tiên đến những thành tựu đổi mới và hiện đại hoá công nghệ trong kỹ thuật viễn thông. Đó là thành tựu nổi bật nhất, nó góp phần làm thay đổi bộ mặt của ngành Viễn thông Việt Nam. Trong thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như Các-Mác đã dự đoán. Cùng với các ngành khác, ngành Viễn thông Việt Nam đã cập nhật được các công nghệ tin học, viễn thông tiên tiến trên thế giới nhằm phát triển kết cấu hạ tầng viễn thông; Điều này đã được đồng chí Tổng bí thư Đảng CSVN nêu trong báo cáo chính trị trình bày tại hội nghị đại biểu giữa kỳ khoá VII đánh giá: “ Ngành Bưu điện phát triển và hiện đại nhanh ...” . Đó là sự động viên và khẳng định của Đảng đối với sự phát triển của ngành Viễn thông Việt Nam Với các hệ thống viễn thông của Việt Nam hiện nay chúng ta có thể quan hệ thuận lợi với hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Đứng về trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật nói chung thì Việt Nam hiện nay so với các quốc gia khác còn thua kém, nhưng riêng lĩnh vực viễn thông, hơn 10 năm qua chúng ta đã bứt hẳn lên và cập nhật được với những thành tựu về công nghệ tin học, công nghệ viễn thông quốc tế vào mạng viễn thông quốc gia, để tự động hoá liên lạc đi quốc tế và đến các tỉnh, thành phố, huyện, thị, phường xã trong phạm vị quốc gia. Tạo khả năng phát triển và làm phong phú các dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thông tin của các ngành kinh tế - xã hội. Nhờ chiến l._.ược đi thẳng vào công nghệ, kỹ thuật hiện đại theo hướng số hoá, tự động hoá, đa dịch vụ, từ năm 1987 đến nay hệ thống mạng viễn thông Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về lượng và chất; đó là: Đã xây dựng và khai thác các hệ thống chuyển mạch điện tử, kỹ thuật số và hệ thống truyền dẫn hiện đại tại 61/61 Tỉnh, Thành phố trong đó gồm 90 tổng đài trung tâm (HOTS) và 680 tổng đài vệ tinh với tổng dung lượng trên 4 triệu số lắp đặt và 3,24 triệu số thuê bao. Các tổng đài này thuộc thế hệ kỹ thuật tiên tiến, là sản phẩm của các hãng rất có uy tín trên thế giới như ALCATEL, SIEMENS, NEC, ... Các hệ thống tổng đài này được kết nối với nhau trong phạm vi quốc gia và quốc tế bởi các hệ thống truyền dẫn tiến tiến (Thiết bị truyền dẫn sử dụng công nghệ PDH, SDH, cáp quang, vi ba số, thông tin vệ tinh, ... ) đã giúp cho việc liên lạc tự động hoàn toàn trên mạng viễn thông quốc gia và quốc tế. Đối với mạng viễn thông quốc gia, trong đó mạng truyền dẫn cấp 1, cấp 2 đã được xây dựng với thiết bị hiện đại gồm: Hệ thống thông tin cáp quang Bắc - Nam kỹ thuật số, công nghệ SDH tốc độ 2,5 Gb/s gồm 4 mạch vòng với 36 trạm tải dài trên 3.720 km (Đây là tuyến thông tin quang gồm thiết bị đồng bộ hiện đại có dung lượng truyền dẫn đến 30.000 kênh thoại tiêu chuẩn, là tuyến thông tin dài nhất trong khu vực Đông Nam á) Đối với thông tin quốc tế, hệ thống thông tin vệ tinh gồm 8 đài mặt đất thuộc hệ thống thông tin Intelsat, Intersputnik dung lượng 2483 kênh, hệ thống cáp quang biển TVH dung lượng 1802 kênh cùng 3 hệ thống tổng đài cửa quốc tế với kỹ thuật, công nghệ hiện đại đã tạo ra khả năng vững chắc cả về độ an toàn, chất lượng, số lượng kênh thông tin quốc tế. Ngoài ra với 3 tổng đài quốc gia (Tandem), 3 tổng đài Telex, 2 tổng đài truyền số liệu, 2 hệ thống điện thoại di động GSM sử dụng các công nghệ tiến tiến nhất trên thế giới được phân bổ hợp lý tại 3 khu vực Bắc - Trung - Nam đã tạo điều kiện cho định tuyến lưu lượng, san tải và đáp ứng yêu cầu sử dụng trung của các ngành kinh tế - xã hội. Trong hạ tầng kỹ thuật viễn thông thì mạng ngoại vi (bao gồm cống, bể cáp, cáp...) chiếm vị trí quan trọng, nó là phương tiện truy nhập từ tổng đài đến người sử dụng dịch vụ, theo số liệu thống kê hiện nay, dung lượng cáp trên toàn mạng viễn thông quốc gia có trên 6 triệu đôi cáp (bình quân đạt hệ số 1,5 so với dung lượng tổng đài). Công nghệ cáp đồng dần dần được thay thế bằng công nghệ cáp quang tiên tiến, giảm độ suy hao, tăng độ ổn định của thông tin trên đường truyền. Nền công nghiệp thông tin Việt Nam với các nhà máy lắp ráp thiết bị chuyển mạch, sản xuất sợi cáp quang, cáp đồng và phụ kiện, đã từng bước lớn mạnh, thoả mãn một phần nhu cầu sử dụng trong nước và đã có sản phẩm xuất khẩu ( Công ty thiết bị bưu điện, Công ty liên doanh các hệ thống Viễn thông VINECO ...) Mạng thông tin đặc biệt phục vụ Trung ương Đảng, Chính phủ được đầu tư thiết bị mới, công nghệ tiến tiến đạt chất lượng cao. Mạng thông tin miền núi, biên giới và hải đảo được đầu tư có trọng điểm; hầu hết các xã miền núi, các hải đảo, trạm biên phòng đều có thông tin điện thoại. Ngoài ra cùng với các hệ thống thiết bị đo, các phương tiện, công cụ thi công, Trung tâm hỗ trợ khai thác; ngành Viễn thông Việt Nam đã giải quyết kịp thời các yêu cầu về thông tin, lưu lượng thông tin quốc gia, quốc tế. Tính đến hết năm 2000 trên mạng viễn thông Việt Nam đã có tới 3,24 triệu máy điện thoại (đạt mật độ 4,15máy/ 100 dân), trên 85% số xã có dịch vụ điện thoại, riêng năm 2000 đã lắp đặt mới trên 730.000 máy điện thoại, đạt tổng doanh thu 14.700 tỷ đồng, trong đó sản lượng điện thoại trong nước đạt 3.224 triệu phút, sản lượng điện thoại quốc tế 835 triệu phút. Mật độ máy điện thoại/100 dân. Năm 1996 - 2000. 1996 1997 1998 1999 2000 5 4 3 2 1 Máy 2,07 3,21 2,51 4,05 1.56 Tổng số máy điện thoại trên mạng Năm 1996 - 2000. (Đơn vị: triệu máy) 1996 1997 1998 1999 2000 0,5 1,5 2,5 2,0 3,0 3,5 1,0 1,60 2,08 2,51 3,24 1,18 Triệu máy Năm 2. Đặc điểm Quản lý Công nghệ Viễn thông trong thời kỳ hiện đại hoá: Viễn thông luôn được coi là một ngành cơ sở hạ tầng quan trọng của nền kinh tế quốc dân đồng thời là một ngành dịch vụ với công nghệ hiện đại. Vì vậy các nước đều ưu tiên phát triển ngành Viễn thông, tạo điều kiện thuận lợi cho mạng lưới viễn thông vươn lên tiếp cận với trình độ phát triển của thế giới, sử dụng công nghệ cao để không bị lạc hậu trong tương lai. Đồng thời khuyến khích các dịch vụ mới sử dụng công nghệ cao nhằm đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Trong môi trường tự động hoá, vấn đề này càng trở nên quan trọng và đòi hỏi Chính phủ có các quy định, chính sách hữu hiệu cho ngành Bưu chính Viễn thông phát triển. Các thiết bị đầu cuối, công nghệ thông tin di động, các thiết bị phụ trợ để cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng chính lại là những loại thiết bị mà chỉ sau một vài tháng đã có các loại khác ưu việt hơn ra đời, thay thế chúng. Nói chung việc tự động hoá, tạo cạnh tranh diễn ra khi các thiết bị kỹ thuật số đã chiếm ưu thế rõ rệt về công nghệ; Song thiết bị và các dây truyền sản xuất analog vẫn còn rất nhiều ở các nước trên thế giới. Nhiều loại thiết bị analog, nhất là các hệ thống thông tin di động vẫn còn chiếm đa số và còn là mơ ước của nhiều người mặc dù các loại thiết bị này không thể cung cấp được dịch vụ tiên tiến như các hệ thống thông tin sử dụng kỹ thuật số (digital). Khi mở cạnh tranh trong thông tin di động, các nhà khai thác viễn thông tư nhân hoặc nước ngoài nhiều khi tìm cách xây dựng các hệ thống analog vì các hệ thống này rẻ, ổn định, quen dùng hơn, sau mấy năm khai thác có thể dỡ bỏ như làm một ngôi nhà tạm trên miếng đất của người khác. Đối với chính phủ các nước sở tại thì ngược lại, cần có các chính sách sao cho các thiết bị đã đầu tư dù từ công ty nào cũng phải có khả năng mở rộng, nâng cấp trong tương lai mà không cần dỡ bỏ, vì đó là công việc như xây nền móng cho một ngôi nhà lâu dài trên mảnh đất của mình. Để đảm bảo tính hiện đại của mạng lưới trong môi trường cạnh tranh, chính phủ cần có các biện pháp quản lý sau: a) Đưa điều kiện hiện đại hoá thành điều kiện tiên quyết trong việc xem xét cấp giấy phép cho các nhà khai thác mới: Muốn vậy các cơ quan Quản lý viễn thông của Chính phủ phải xây dựng, ban hành các định hướng công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan. b) Có chính sách đấu nối mạng lưới giữa các nhà khai thác với nhau và với mạng lưới của quốc gia: Khi có nhiều nhà khai thác, việc đấu nối giữa các mạng lưới trở nên rất quan trọng và nhạy cảm. Việc quy định xây dựng mạng lưới theo hệ mở là hết sức cần thiết vì không phải mọi loại thiết bị của các nhà sản xuất đều hoàn toàn tương thích nhau. c) Có chính sách phân bổ và quản lý tần số phù hợp với tình hình phát triển của công nghệ trên thế giới: Rất nhiều trong số các dịch vụ mới sử dụng các thiết bị vô tuyến như các hệ thống thông tin di động, thuê bao mạch vòng vô tuyến ... đòi hỏi một quy hoạch mới về tần số. d) Có chính sách qui định về nghiên cứu phát triển cho các nhà khai thác dịch vụ Viễn thông: ở các nước phát triển dù nhà nước có quy định hay không thì các nhà khai thác lớn vẫn dành kinh phí rất lớn cho nghiên cứu. Trong khi đó các nước đang và kém phát triển, hoặc nhà nước không có qui định hoặc quy định ở mức quá thấp. Phương châm đi thẳng vào công nghệ hiện đại, phát huy năng lực nội sinh kết hợp với quan hệ hợp tác quốc tế là định hướng quyết định cho sự phát triển các hoạt động khoa học công nghệ. Các định hướng công nghệ, quy hoạch công nghệ và sản phẩm công nghệ cũng đã được tập trung chỉ đạo và tăng cường công tác giám sát. Việc mua thiết kế, mua bản quyền cũng đã được xem xét và triển khai thử nghiệm ở quy mô thích hợp. Về tiêu chuẩn hoá, ngành Bưu chính - Viễn thông đã và đang tập trung chỉ đạo các đơn vị thực hiện triển khai các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đã có một số đơn vị đạt được chứng chỉ ISO. Việc phân công, phân nhiệm giữa các đơn vị thành viên cũng đang được quy hoạch, tránh chồng chéo về các chức năng chính, nhưng cũng không làm giảm sức cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị. Từ đó tạo nền tảng cho hoạt động công nghệ trong Tổng công ty có phạm vi hoạt động rộng rãi và tương hỗ lẫn nhau. Lợi thế của các đơn vị làm tin học trong phạm vi Tổng công ty là có thể có một thị trường riêng gắn liền với một lĩnh vực công nghệ chuyên sâu -Thị trường Tin học Bưu chính Viễn thông. IV. Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ viễn thông đến năm 2020: (Trích “Chiến lược phát triển khoa học công nghệ Bưu chính - Viễn thông đến năm 2020”, ban hành theo quyết định số 502/1998/QĐ-TCBĐ ngày 15/8/1998 của Tổng cục Bưu điện) 1. Mục tiêu phát triển Khoa học viễn thông đến năm 2020: Đến năm 2020, ngành Bưu điện đạt trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực đáp ứng việc thiết lập và làm chủ cơ sở hạ tầng thông tin Quốc gia (NII - National Infrastructere Information). Nền tảng của cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia là mạng kỹ thuật số liên kết đa dịch vụ băng rộng B-ISDN dựa trên công nghệ chuyển mạch ATM, công nghệ truyền dẫn SDH và truy nhập băng rộng. Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia (NII) phải có đủ năng lực cung cấp mọi loại hình dịch vụ từ dịch vụ cơ bản băng hẹp đến các dịch vụ băng rộng và đa phương tiện cho mọi đối tượng khách hàng, mọi ngành kinh tế xã hội, tạo điều kiện thuận lợi và góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, nâng cao trình độ văn hoá xã hội, phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đời sống văn hóa tình cảm của nhân dân, tạo điều kiện để Việt Nam hoà nhập với khu vực và quốc tế. 2. Các hướng ưu tiên phát triển công nghệ Viễn thông: Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010: Trong 10 năm tới, tốc độ phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông phải cao gấp 2 lần tốc độ phát triển tổng thể của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là: đến năm 2010 mật độ điện thoại đạt 10 -12 máy/100 dân. Trên 50% số hộ gia đình có máy điện thoại, 100% các trường học có khả năng truy nhập mạng Internet. Mục tiêu ưu tiên cơ bản của giai đoạn này là mở rộng mạng số liên kết đa dịch vụ ISDN, từng bước chuyển đổi sang mạng kỹ thuật số liên kết đa dịch vụ băng rộng B-ISDN, tại các thành phố và các trung tâm công nghiệp, thương mại với các hướng ưu tiên phát triển như sau: Đối với công nghệ chuyển mạch: Tiếp tục triển khai và hoàn thành việc chuyển đổi hệ thống báo hiệu sang hệ thống báo hiệu số 7. Triển khai các hệ thống tổng đài ISDN và từng bước đưa vào ứng dụng các tổng đài ATM tại các nút mạng chính làm các điểm chuyển mạch chung cho tất cả các loại hình dịch vụ. Thử nghiệm các hệ thống chuyển mạch quang. Đối với công nghệ truyền dẫn: Tiếp tục củng cố mạng lưới đường trục quốc gia trên cơ sở công nghệ truyền dẫn chủ đạo cáp quang SDH. Thử nghiệm, tiến tới triển khai diện rộng các công nghệ ghép kênh quang, các công nghệ khuyếch đại quang công nghệ soliton... Triển khai đề án phóng vệ tinh viễn thông riêng của Việt Nam Đối với công nghệ mạng truy cập: Thử nghiệm, tiến tới triển khai cáp quang trên mạng thuê bao với các phương thức cáp quang tới các toà nhà (FTTB) và tới cụm thuê bao (FTTC) tại các khu dân cư và các khu vực thương mại; phương thức cáp quang tới tận nhà (FTTH) đến các khách hàng có nhu cầu dịch vụ băng rộng. Thử nghiệm và triển khai công nghệ mạch vòng thuê bao vô tuyến băng rộng và vô tuyến quang. Đối với công nghệ thông tin di động: Đưa vào triển khai các hệ thống thông tin di động theo công nghệ CDMA. Triển khai các hệ thống nhắn tin hai chiều và nhắn tin bằng lời. Đối với cấu trúc và cộng nghệ quản lý mạng lưới: Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc mạng, tiến tới cấu trúc mạng hai cấp. Thực hiện việc quản lý tập trung hoàn toàn. Đối với việc phát triển công nghệ tin học Bưu điện: Chuyên môn hoá việc sản xuất phần mềm theo hướng công nghiệp để xuất khẩu được và tăng doanh thu, hoàn thiện các sản phẩm phần mềm phục vụ cho việc khai thác thông tin trên mạng máy tính đến tận thuê bao, phát triển phần mềm tin học chuyên dụng phục vụ cho mục đích quản lý mạng tập trung. Giai đoạn từ năm 2011đến năm 2020: Mục tiêu cơ bản của giai đoạn này là hoàn thành mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng truyền thông tin học quốc gia (NII), với việc triển khai công nghệ ATM/B-ISDN và công nghệ quang trên toàn mạng. Các hướng ưu tiên phát triển trong giai đoạn này là: Đối với công nghệ chuyển mạch: Tăng cường triển khai công nghệ ATM/B-ISDN trên mạng, tiến tới thay thế các tổng đài truyền thông bằng tổng đài ATM để cung cấp dịch vụ B-ISDN tới khách hàng. Từng bước triển khai trên mạng các hệ thống chuyển mạch quang. Đối với công nghệ truyền dẫn: Cáp quang hoá tất cả các tuyến truyền dẫn quan trọng với các công nghệ hỗ trợ là vi ba và thông tin vệ tinh. Đối với công nghệ mạng truy nhập: Xây dựng mạng cáp quang nội hạt (FTTC) và (FTTH) với các giải pháp công nghệ ghép kênh theo bước sóng (WDM), mạng quang thụ động (PON) ... để cung cấp các dịch vụ thích hợp: thoại, số liệu, truyền hình ... với băng tần không hạn chế tới khách hàng. Đối với công nghệ thông tin di động: triển khai ứng dụng các giải pháp và công nghệ vô tuyến hiện đại nhất trong việc mở rộng vùng phủ sóng các hệ thống thông tin di động. Triển khai công nghệ thông tin di động băng rộng để cung cấp các dịch vụ đa phương tiện di động. Triển khai trên diện rộng các hệ thống nhắn tin hai chiều và nhắn tin bằng lời. Thiết lập mạng thông tin cá nhân PCN với sự hội nhập của các mạng cố định và di động. 3. Các mục tiêu phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông Việt Nam trong năm 2001: (Trích "báo cáo kế hoạch năm 2001", trên tạp chí Bưu chính - Viễn thông 1/2001). Triển khai kịp thời các chủ trương của Đảng và Nhà nước, duy trì và ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; Thực hiện bằng được các chỉ tiêu kinh tế đề ra, hoàn thiện mô hình Tổng công ty theo hướng thành lập tập đoàn kinh tế; tăng cường năng lực quản lý để đáp ứng với tình hình mới; kiện toàn và xây dựng đội ngũ; chuẩn bị các điều kiện hội nhập và cạnh tranh. 1 - Hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2001: Doanh thu phát sinh: trên 16.000 tỷ đồng Nộp ngân sách: trên 2.000 tỷ đồng Tổng vốn đầu tư: 5.200 tỷ đồng Phát triển máy điện thoại: 648.831 máy 2 - Hoàn thiện kế hoạch phát triển của Tổng công ty giai đoạn 2001 - 2005; định hướng đến năm 2010 và 2020. Xây dựng kế hoạch chuẩn bị đầu tư đến năm 2005. Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp trong nước đến năm 2005; chiến lược phát triển công nghệ phần mềm 2001-2005-2010. 3 - Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ lao động; đảm bảo ổn định đời sống người lao động. Thực hiện tốt chính sách xã hội; chương trình của Chính phủ về xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn; hưởng ứng các phong trào đền ơn đáp nghĩa, ngày vì người nghèo, vì trẻ thơ... 4 - Đẩy mạnh tiến độ triển khai một số dự án trọng điểm: vệ tinh Vinasat; phát triển viễn thông nông thôn các tỉnh miền Trung bằng nguồn vốn ODA Nhật Bản; tuyến cáp quang đường Hồ Chí Minh; Trung tâm quản lý mạng và các Trung tâm tính cước và chăm sóc khách hàng; cơ sở hạ tầng Bưu chính Viễn thông tại các khu công nghiệp mới hình thành ... nâng cao hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn. 5 - Hoàn thiện đề án xây dựng Tổng công ty BC -VT thành tập đoàn kinh tế; bên cạnh đó tiếp tục thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp và dịch vụ. Chuẩn bị để một số Công ty chuyên ngành có thể liên doanh với các Công ty của Mỹ, Nhật Bản... trong viêc phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ. 6- Tăng cường khai thác các dịch vụ đã có. Nghiên cứu, phát triển các dịch vụ mới, đặc biệt là các dịch vụ tin học, truyền số liệu, Internet, di động theo công nghệ mới... 7- Tiếp tục mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế. Rút ngắn bán kính phục vụ của các bưu cục, điểm BĐ-VHX. Thành lập các Công ty điện thoại thứ 2 tại Hà Nội, và thành phố Hồ Chí Minh. Mở văn phòng đại diện của một số Công ty, lĩnh vực hoạt động tại nước ngoài. Tăng cường công ty xuất khẩu hàng công nghiệp, xuất khẩu phần mềm. 8 - Xem xét, đề xuất điều chỉnh một số loại cước, phí dịch vụ BCVT, tin học, Phát hành báo chí, thuê thiết bị, giá bán các sản phẩm công nghiệp... Báo cáo Thủ tướng Chính phủ tiếp tục giành sự ưu tiên, tạo những cơ chế thuận lợi nhằm hỗ trợ phát triển công nghiệp, thương mại trong nước. Phần II Thực trạng quản lý công nghệ của bưu điện thành phố Hà Nội I. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của bưu điện thành phố Hà Nội: 1. Giới thiệu chung: Tên: Bưu điện thành phố Hà Nội (Hanoi Post and Telecommunication - HNPT ) Trụ sở chính: 75 Đinh Tiên Hoàng - Hoàn Kiếm - Hà Nội 2. Quá trình hình thành và phát triển: HNPT là một doanh nghiệp Nhà nước được hình thành theo quyết định số 483/TC. CBLĐ ngày 14 tháng 9 năm 1986 của Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện Việt Nam. HNPT hoạt động theo điều lệ về tổ chức và hoạt động theo quyết định số 166/HĐQT-TC ngày 3 tháng 6 năm 1986 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tiền thân của HNPT là sở Bưu điện thành phố Hà Nội và các Trung tâm dịch vụ Bưu chính- Viễn thông trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ khi bắt đầu hình thành và phát triển cho đến nay HNPT đã trải qua các giai đoạn phát triển chính như sau: Giai đoạn từ 1954-1975: Năm 1954, Sở Bưu điện thành phố Hà Nội chính thức đi vào hoạt động với phần lớn cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu, tiếp nhận từ tay thực dân Pháp. Trong giai đoạn này Tổng Cục Bưu điện đã 2 lần thay đổi tổ chức của Sở Bưu điện thành phố theo các chức năng hoạt động chính, đó là Bưu chính và Điện tín. Nhìn chung, trong giai đoạn này do điều kiện chiến tranh nên Sở Bưu điện Hà Nội chưa có sự phát triển nào đáng kể. Hoạt động chủ yếu trong giai đoạn này là sửa chữa và khắc phục lại hệ thống máy móc thiết bị do thực dân Pháp để lại. Cơ sở vật chất kỹ thuật lúc đó quá nghèo nàn cơ sở phục vụ tuy có 4 địa điểm nhưng duy nhất chỉ có Bưu điện bờ hồ là có mở đầy đủ các nghiệp vụ, còn 3 bưu điện khác chỉ bán tem thư, tiếp nhận thư và một số lượng ít ỏi bưu tá đi phát, điện hàng ngày. Về trang thiết bị kỹ thuật: lúc đó chỉ có một tổng đài điện thoại cộng điện 1500 số, khoảng 600 máy thuê bao và một số máy thu phát vô tuyến điện công suất nhỏ. Cái khó là ở chỗ việc bố trí mạng lưới của Pháp trước đây không phù hợp với yêu cầu của Chính phủ ta, do vậy việc huy động vào phục vụ còn rất hạn chế. Về lực lượng lao động sau khi tiếp quản: Bưu điện Hà nội có 501 người trong đó có 218 anh chị em ở kháng chiến về và 283 anh chị em công nhân viên chức Bưu điện Pháp trước đây. Nhiệm vụ trước mắt của Bưu điện Hà nội là tập trung mọi cố gắng, huy động mọi khả năng để đáp ứng yêu cầu thông tin liên lạc của Trung ương Đảng, Chính phủ và các ngành, cơ quan để giữ gìn an ninh trật tự, ổn định sinh hoạt và đời sống nhân dân thành phố. Từ năm 1955 - 1960 Bưu điện Hà nội và nhân dân thủ đô bắt tay vào hàn gắn vết thương sau chiến tranh, cố gắng tập trung sửa chữa, điều chỉnh mạng lưới, lắp đặt thêm một số tổng đài điện thoại công cộng phục vụ đời sống nhân dân và công cuộc cải tạo công thương nghiệp của thành phố. Đến tháng 5/1960 đã đưa vào sử dụng tổng đài điện thoại tự động đầu tiên ở miền bắc. Qua 5 năm vừa khôi phục, cải tạo và phát triển, Bưu điện Hà nội đã xây dựng được một số công trình thông tin, nâng cao chất lượng và năng lực thông tin ở Thủ Đô, thiết lập các trạm khai thác điện báo, điện thoại đường dài với hầu hết các tỉnh miền Bắc, các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước tư bản khác. Từ năm 1961 - 1965, triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Bưu điện Hà Nội hướng mục tiêu phát triển mạng lưới phục vụ, nâng cao chất lượng thông tin, phát triển mạng lưới bưu chính - viễn thông ở các khu công nghiệp, khu dân cư, xây dựng thêm một số tổng đài, phát triển loa công cộng và loa nhỏ vào các hộ gia đình. Từ 1965 - 1975, đây là thời kỳ đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá. Miền Bắc chuyển từ thời bình sang thời chiến. Bưu điện Hà nội đã sắp xếp lại mạng lưới để đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ cho chiến đấu. Mặc dù bị chiến tranh phá hoại nặng nề về mạng lưới, nhưng thông tin liên lạc vẫn được đảm bảo không bị gián đoạn lâu. Hơn thế nữa, trải qua phục vụ chiến đấu mạng lưới điện thoại còn ngày được bổ sung và phát triển. Năm 1970, Bưu điện Hà nội đã xây dựng thêm tổng đài điện thoại tự động 3.000 số, bên cạnh tổng đài hiện có; Đồng thời lắp đặt thêm một số tổng dài khác ở các khu vực ngoại thành đáp ứng được nhiều yêu cầu phát triển thuê bao của khách hàng, giảm bớt áp lực về thông tin. Ngày 30-4-1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất. Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu nên yêu cầu về thông tin ngày càng phát triển và bức bách. Trong khi đó mạng cáp của Bưu điện Hà nội phần lớn được xây dựng từ thời Pháp, chất lượng xấu lại trải qua chiến tranh nên xuống cấp trầm trọng. Việc phát triển và mở rộng để đáp ứng yêu cầu mới càng bị hạn chế. Giai đoạn thời kỳ 1975 - 1985: Đất nước thống nhất mở ra một thời kỳ mới, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khoá VI đã quyết định: "Hà nội là Thủ đô của cả nước CHXHCN Việt Nam". Bưu điện Hà nội đã trở thành trung tâm đầu mối thông tin của cả nước và quốc tế. Sau năm 1975, phạm vi hoạt động đã được mở rộng, yêu cầu về thông tin đòi hỏi lớn cả về chất lượng và số lượng. Bưu điện Hà nội đã phát triển thêm rất nhiều, song song với việc củng cố các bưu cục đã có trước đây trong nội thành và ngoại thành. Tuy nhiên, đến năm 1980 tổng đài chính của thành phố vẫn mới chỉ có 6.000 số; đường thông tin giữa Hà nội và các tỉnh bạn, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu nhiều, sản lượng điện thoại, điện báo tăng dẫn đến tình trạng ứ đọng hoặc phải huỷ bỏ. Để khắc phục tình hình này Bưu điện Hà nội đã lắp thêm một số tổng đài ở Sơn Tây, Đông Anh ... cải tạo và phát triển được 90 bưu cục. Năm 1982 hoàn thành tổng đài XY 5000 số. Năm 1983 - năm quốc tế thông tin, Bưu điện Hà nội lắp thêm 2000 số vào tổng đài XY nâng dung lượng lên 7000 số; Lắp tổng đài tự động 600 số cho Bưu điện Bạch mai, 400 số cho Bưu điện Đông Anh, 400 số cho bưu điện Hoài Đức, 200 số cho bưu điện Sơn Tây, đặc biệt là việc lắp tổng đài bán tự động đường dài Hà nội - Matxcơva, lập đường điện báo Gentex Hà nội - Bucaret và Hà nội - Berlin; hàng loạt các bưu cục mới được thành lập ở Thanh Trì, Đan Phượng, Bà Vì, Hoà Lạc, Cổ Loa ... Xây dựng kho chứa hàng trung chuyển tại sân bay Nội bài. Với những kết quả đạt được trong thời kỳ này, cơ sở vật chất của Bưu điện Hà nội đã được tăng cường một mức đáng kể, năng lực và chất lượng thông tin của cả hai phần bưu và điện có nhiều tiến bộ so với thời kỳ trước đây nhưng về khách quan thì tình trạng thông tin vẫn còn lạc hậu, chưa đủ đáp ứng nhu cầu thông tin của một Thủ đô. Giai đoạn từ năm 1986 tới nay: Năm 1986 cùng với chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành Bưu điện đưa ra chiến lược tăng tốc: đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá, số hoá và tự động hoá trong Ngành. Bưu điện Hà nội tiếp tục thực hiện ba mục tiêu của Ngành là "Chất lượng, năng suất và hiệu quả", với nội dung cụ thể: " Nâng cao chất lượng thông tin, khai thác mọi tiềm năng, mọi khả năng, sắp xếp lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý và cải tiến lề lối làm việc" Đến cuối năm 1987, tổng cục Bưu điện đã hợp nhất sở bưu điện thành phố Hà nội với các Trung tâm dịch vụ thành một đơn vị lấy tên chung là Bưu điện Thành phố Hà Nội (HNPT). Cùng với việc hợp nhất trên, cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện Thành phố Hà Nội cũng được thay đổi để thích ứng với tình hình phát triển của Ngành cũng như của xã hội. Bưu điện Thành phố Hà Nội đã tổ chức thành nhiều công ty trực thuộc, trong đó mỗi công ty lại chịu trách nhiệm quản lý một sản phẩm nhất định như Công ty điện thoại Hà nội có nhiệm vụ quản lý các sản phẩm về điện thoại; Công ty Viễn thông quản lý các sản phẩm về thông tin đường dài và mạng lưới viễn thông... Việc phân công trách nhiệm như vậy đã giúp Bưu điện Thành phố Hà Nội quản lý các hoạt động của mình đạt hiệu quả hơn. Trong giai đoạn này mạng bưu chính - viễn thông của Thành phố Hà Nội đã được đầu tư mới rất nhiều. Năm 1990, năm đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong ngành Viễn thông của Hà nội; tổng đài số hoá điện tử đầu tiên E10B của Alcatel với dung lượng 15.000 số giai đoạn 1 đã được đưa vào hoạt động. Bưu chính trong thời gian này cũng được trang bị thêm 4 xe tải lớn chủ động trong việc vận chuyển khai thác đi các tỉnh. Trong những năm tiếp theo, thực hiện 4 chương trình đồng bộ của Ngành; Bưu điện Thành phố Hà nội đã phát huy tiềm năng cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng lao động để củng cố phát triển mạng lưới. Tiến hành bổ xung dung lượng cho các tổng đài hiện có và xây dựng thêm một số tổng đài mới. Ngày 20/12/1993 đã đánh dấu một bước tiến lớn của ngành Viễn thông Việt Nam; toàn bộ mạng chuyển mạch, truyền dẫn cấp I trên toàn quốc đã được số hoá 100%. Đây có thể coi là một bước đột phá của ngành Bưu điện trong việc nâng cao chất lượng phục vụ, tính hiện đại của mạng lưới. Bưu điện Thành phố Hà Nội đã được trang bị đồng bộ tổng đài điện tử và truyền dẫn liên tỉnh kỹ thuật số hiện đại. Về Bưu chính, Bưu điện Thành phố Hà Nội vẫn tiếp tục củng cố, cải tạo nâng cấp, mở thêm một số bưu cục mới, trang bị thêm xe chuyên dùng phục vụ chuyên trở bưu phẩm, bưu kiện ... đồng thời mở thêm hàng loạt các dịch vụ mới như DHL, điện hoa, UPS, AIRBORNE ... Các dịch vụ viễn thông mới như 108, điện thoại dùng thẻ, phát hành niên giám điện thoại những trang vàng ... đã làm phong phú thêm hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng, làm tăng nguồn doanh thu. Năm 1993 dịch vụ chuyển phát nhanh EMS trong nước và quốc tế được đưa vào phục vụ; đáp ứng nhu cầu về dịch vụ bưu chính có chất lượng cao cho khách hàng. Giai đoạn 1990 - 2000 là chiến lược tăng tốc của Ngành Bưu điện. Cùng với các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, Bưu điện Thành phố Hà Nội đã thực sự đổi mới toàn diện trong công tác phục vụ và sản xuất kinh doanh, đã có những bước tiến dài trên con đường CNH - HĐH. Cho đến nay mạng lưới đã toả rộng khắp địa bàn, 100% số xã ngoại thành đã có bưu cục. Tóm lại: những năm qua là một chặng đường phát triển đầy sôi động, đầy sáng tạo. Toàn ngành Bưu điện nói chung và Bưu điện Thành phố Hà Nội nói riêng đã kết hợp và phát huy các yếu tố thuận lợi, khắc phục khó khăn. Được sự quan tâm của Tổng công ty, của các cấp lãnh đạo trên địa bàn Thủ đô, Bưu điện Thành phố Hà Nội đã đạt được những bước phát triển vượt bậc, có thể nói là bước nhảy vọt và đã đưa mạng lưới Bưu chính - Viễn thông trở nên hiện đại, phục vụ tốt nhu cầu thông tin của mọi người dân trên địa bàn TP Hà nội, tạo đà cho các bước phát triển tiếp theo. Về Viễn thông, trên địa bàn TP Hà nội từ một mạng lưới nhỏ bé và lạc hậu, mật độ điện thoại chỉ đạt 0,18 máy/100 dân và chỉ có 10% số xã có máy điện thoại vào năm 1991. Cho đến nay đã có 100% số xã phường trên địa bàn có điện thoại, mật độ điện thoại đạt 18 máy/100 dân, cao nhất cả nước. Mạng truyền dẫn đặc biệt là mạng truyền dẫn nội hạt đạt các chỉ tiêu kỹ thuật quốc tế với những công nghệ cáp quang hiện đại. Để có được kết quả như vậy là do Bưu điện Thành phố Hà Nội đã vận dụng đúng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, quán triệt chủ trương "đi thẳng vào công nghệ hiện đại theo hướng số hoá, tự động hoá và đa dịch vụ"; Bưu điện Thành phố Hà Nội đã tập trung phát huy mọi nguồn lực để phát triển thông tin, mở rộng sản xuất kinh doanh, phục vụ có hiệu quả, đảm bảo việc làm và đời sống của cán bộ CNV. Bên cạnh đó Bưu điện Thành phố Hà Nội cũng luôn được sự ủng hộ của các cấp, các ngành địa phương trên địa bàn Thủ đô. 3. Bộ máy tổ chức và quản lý của Bưu điện Thành phố Hà Nội: Bộ máy tổ chức: Bưu điện Thành phố Hà Nội là doanh nghiệp được xếp hạng doanh nghiệp hạng I; là một đơn vị hạch toán trực thuộc Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích cùng các đơn vị thành viên phụ thuộc khác trong dây truyền công nghệ bưu chính viễn thông liên hoàn, thống nhất cả nước, có mối liên hệ mật thiết với nhau về mạng lưới, lợi ích kinh tế, tài chính, phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông để thực hiện những mục tiêu, kế hoạch Nhà nước do Tổng công ty giao (theo nghị định 52/CP ngày 1/8/1995 của chính phủ). Bưu điện Thành phố Hà Nội cũng có thể được coi là một ngành Bưu điện được thu hẹp ở một địa phương. Nó có mọi hoạt động và loại hình sản xuất như một ngành Bưu điện nhỏ. (sơ đồ mô hình tổ chức) Quản lý kinh doanh: Bưu điện là Ngành sản xuất vật chất đặc biệt. Sản phẩm của ngành Bưu điện chính là hiệu quả có ích của việc truyền đưa thông tin, tin tức. Để thực hiện được nhiệm vụ sản xuất của mình, đảm bảo quản lý tốt việc truyền đưa tin tức, Bưu điện Thành phố Hà Nội đã phân ra từng loại hình kinh doanh đặc thù cho mỗi loại hình tổ chức. Loại hình kinh doanh dịch vụ: Đây là loại hình phục vụ dịch vụ cho khách hàng có nhu cầu truyền đưa tin tức, loại hình này được thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, từ gửi thông tin đến nhận phát thông tin và phải trải qua một quá trình tham gia của nhiều đơn vị. Mỗi đơn vị tham gia sẽ thực hiện một công đoạn trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của mỗi đơn vị bưu điện không đặc trưng cho kết quả kinh doanh của mình mà là của nhiều nơi, nên phải thực hiện tổ chức hạch toán toàn Ngành đối với sản xuất chính trong kinh doanh dịch vụ bưu điện. Quy trình một bức thư hay bưu phẩm, bưu kiện đi từ địa chỉ này đến địa chỉ khác Người Bưu cục Bưu điện Công ty BC-PHBC gửi nhận Trung tâm Phân loại, chia khu vực chuyển nhận chuyển (1) (2) Bưu cục Bưu điện Đơn vị vận chuyển Bưu cục đến đến trung tâm (đường dài) (nội tỉnh) đến Người nhận Người nhận Quy trình một cuộc đàm thoại đường dài (Từ Hà nội đến TP Hồ Chí Minh) Đường dây của VTN Tổng đài HOST tại Hà nội Tổng đài vệ tinh khu vực máy gọi đi Máy gọi đi Tổng đài vệ tinh nơi máy được gọi Tổng đài HOST tại TP Hồ Chí Minh Máy được gọi Loại hình kinh doanh thương mại, thương nghiệp: Được áp dụng cho Công ty ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0147.doc