Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên

Tài liệu Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên: ... Ebook Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Đầu tư xây dựng cơ bản là một lĩnh vực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước,địa phương.Các công trình xây dựng cơ bản được xây dựng đã giúp cho cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao.Trong giai đoạn hiện nay,cùng với sự phát triển đi lên của đất nước,vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng được đề cao.Các công trình xây dựng cơ bản ngày càng đáp ứng được các yêu cầu của người dân. Tuy nhiên để có thể thực hiện được các công trình đó,cần phải sử dụng một khối lượng lớn vốn.Trong các nguồn vốn được dùng thì nguồn vốn ngân sách đóng vai trò rất quan trọng.Với tình hình hiện nay,mặc dù đã có những hiệu quả trong công tác sử dụng vốn nhưng việc sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước là hết sức khó khăn với nhiều hạn chế như dàn trải,thất thoát,tham ô lãng phí…Đối mặt với những điều kiện như vậy chúng ta đã có những giải pháp kiến nghị để nhằm giảm bớt sự không hiệu quả của quá trình sử dụng vốn quan trọng này Đồng Hỷ trong những năm qua được sự quan tâm của nhà nước,công tác đầu tư xây dựng cơ bản có những bước tiến đáng kể đã mang lại những lợi ích to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế địa phương,nguồn vốn không ngừng tăng lên,đi đôi với đó là cơ sở vật chất ngày càng hiện đại hơn phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu người dân.Song địa phương vẫn có nhiều hạn chế trong công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.một trong những hạn chế đó là cơ chế phối hợp giữa các ngành còn chưa caoĐiều đó làm cho hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản còn chưa tương xứng với nguồn lực bỏ ra.Vì lý do đó tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện Đồng Hỷ-Thái Nguyên”.Đề tài này gồm 3 phần Chương 1 Những lý luận chung Chương II: Thực trạng công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước ở huyện Đồng Hỷ Chương III.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các phòng ban của huyện Đồng Hỷ trong quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước Đề tài được nghiên cứu tại phòng tài chính kế hoạch huyện Đồng Hỷ nhằm mục đích đưa ra các giải pháp nhằm tăng hiệu quả công tác phối hợp quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản(vốn ngân sách nhà nước) hiệu quả hơn Danh mục viết tắt XDCB : xây dựng cơ bản NSNN : ngân sách nhà nước NSTU : ngân sách trung ương NSDP : ngân sách địa phương UBND : ủy ban nhân dân Chương 1 Những lý luận chung I.vốn đầu tư xây dựng cơ bản và phân cấp quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho cấp huyện ở Việt Nam 1.Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước 1.1 đầu tư xây dựng cơ bản Là một bộ phận của đầu tư phát triển,đó là các hoạt động tiêu hao nguồn lực hiện tại để nhằm đem lại lợi ích tương lai Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản: Đòi hỏi nguồn lực lớn về tiền bạc và sức người Thời gian thi công kéo dài Có độ trễ về thời gian Để thực hiện đầu tư,nhà nước là người phải thực hiện do nguồn vốn quá lơn,các doanh nghiệp tư nhân khó có thể làm được. 1.2 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước 1.2.1 khái niệm Vốn đầu tư Xây dựng cơ bản là toàn bộ những chi phí để đạt được mục đích đầu tư bao gồm chi phí cho việc khảo sát thiết kế và xây dựng , mua sắm , lắp đặt máy móc thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Phân loại vốn đầu tư Tài sản sản xuất được chia thành tài sản cố định và tài sản lưu động. Tương ứng như vậy, vốn đầu tư sản xuất cũng được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động Vốn đầu tư vào tài sản cố định: Đáp ứng nhu cầu bù đắp hao mòn trong quá trình hoạt động của tài sản cố định và đảm bảo các yêu cầu mở rộng quy mô, dung lượng của nền kinh tế và yêu cầu cải tiến, hiện đại hóa phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động: Đảm bảo các yêu cầu dự trữ thường xuyên, ổn định các yếu tố thiết yếu của các ngành kinh tế: dự trữ nguyên, nhiên liệu… Đồng thời giúp cho các nhà đầu tư tăng, giảm mức dự trũ hàng hóa tồn kho theo sự biến động của giá cả. Nếu đứng trên góc độ tính chất của hoạt động đầu tư thì vốn đầu tư được chia làm hai bộ phận là: Vốn đầu tư thuần túy: là phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng quy mô, khối lượng vốn sản xuất (ký hiệu là N). Vốn đầu tư khôi phục: là bộ phận vốn có tác dụng bù đắp các giá trị hao mòn của vốn sản xuất, đây chính là quỹ khấu hao (Dp). Vốn đầu tư Xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn sau : Nguồn trong nước : Đây là nguồn vốn có vai trò quyết định tới sự phát triển kinh tế của đất nước , nguồn này chiếm tỷ trọng lớn, nó bao gồm từ các nguồn sau : Vốn ngân sách nhà nước: Gồm ngân sách TU và ngân sách địa phương , được hình thành từ sự tích luỹ của nền kinh tế , vốn khấu hao cơ bản và một số nguồn khác dành cho đầu tư Xây dựng cơ bản . Vốn tín dụng đầu tư gồm : Vốn của nhà nước chuyển sang, vốn huy động từ các đơn vị kinh tế và các tầng lớp dân cư, dưới các hình thức, vốn vay dài hạn của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài. Vốn nước ngoài Nguồn này có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đầu tư Xây dựng cơ bản và sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nguồn này bao gồm Vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế như WB , ADB, các tổ chức chính phủ như JBIC ( OECF) , các tổ chức phi chính phủ ( NGO) . Đây là nguồn (ODA ) Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn chi ngân sách nhà nước,nguồn thu của nó là thu từ thuế và các loại phí,lệ phí 1.2.2 Kế hoạch vốn đầu tư Kế hoạch khối lượng vốn đầu tư xã hội là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội nhằm xác định quy mô,cơ cấu tổng nhu cầu vốn đầu tư xã hội cần có để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ kế hoạch,cân đối các nguồn đảm bảo vốn đầu tư,đưa ra các giải pháp chính sách nhằm khai thác huy động và sử dụng vốn cón hiệu quả nhất Nhiệm vụ Xác định nhu cầu vốn đầu tư xã hội phục vụ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế Xác định tỉ lệ cơ cấu vốn đầu tư theo ngành,theo các lĩnh vực,đối tượng khu vực đầu tư Xác định cơ cấu nguồn vốn đầu tư coi đó là nhiệm vụ tiết kiệm của từng lĩnh vực từng bộ phận cấu thành tổng đầu tư xã hội Xác định chính sách khai thác huy động định hướng sử dụng vốn đầu tư 1.3 ý nghĩa của vốn đầu tư Nhìn một cách tổng quát : đầu tư Xây dựng cơ bản trước hết là hoạt động đầu tư nên cung có những vai trò chung của hoạt động đầu tư như : tác động đến tổng cung và tổng cầu, tác động đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế , tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Ngoài ra với tính chất đặc thù của mình, đầu tư Xây dựng cơ bản là điều kiện trước tiên và cần thiết cho phát triển nền kinh tế , có những ảnh hưởng vai trò riêng đối với nền kinh tế và với từng cơ sở sản xuất . Đó là : Vốn đầu tư giúp giải quyết các vấn đề về phát triển cơ sở hạ tầng: Việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng là một yếu tố tiên quyết cho sự phát triển kinh tế xã hội của một địa phương, một tỉnh, thành phố. Tuy nhiên để phát triển được hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và đáp ứng yêu cầu thì cần phải có một lượng vốn rất lớn. Vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Vốn đầu tư giúp giải quyết các vấn phát triển xã hội, các vấn đề xã hội. Để đảm bảo phát triển kinh tế một cách bền vững chúng ta luôn phải đảm bảo sự phát triển, tiến bộ của xã hội: Phát triển hệ thống giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng…Đồng thời giảm bớt mặt trái của sự phát triển đối với xã hội: tệ nạn, ô nhiễm môi trường… Những vấn đề này muốn giải quyết được chúng ta cần có một lượng vốn đầu tư khá lớn Mỗi phương thức sản xuất từ đặc điểm sản phẩm , yếu tố nhân lực, vốn và điều kiện về địa điểm,… lại có đòi hỏi khác biệt về máy móc thiết bị ;nhà xưởng. Đầu tư Xây dựng cơ bản đã giải quyết vấn đề này. -Đầu tư Xây dựng cơ bản là điều kiện phát triển các ngành kinh tế. 1.4 Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách nhà nước Hiệu quả kinh tế - xã hội Lợi ích kinh tế - xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với đóng góp mà nền kinh tế - xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư . Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế . Những sự đóng góp này có thể được xét mang tính chất định tính hoặc đo lường bằng cách tính toán định lượng. Chi phí mà xã hội phải bỏ ra của dự án bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất , sức lao động mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng các công việc khác trong tương lai. Khi phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội phải tính đầy đủ các khoàn thu chi , xem xét và điều chỉnh các khoản thu chi mang tính chất chuyển khoản , những tác động day chuyền nhằm phản ánh đúng những tác động của dự án. 1.5 Những hạn chế và thách thức hiện nay trong công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản tại nước ta tuy đã có nhiều thành tựu nhưng vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế vẫn chưa khắc phục được như Quy hoạch kém Quy hoạch phát triển nhiều ngành chất lượng chưa cao hoặc chậm được phê duyệt, chưa gắn kết chặt chẽ quy hoạch phát triển ngành với vùng và địa phương; Quy hoạch chưa sát với thực tế, chồng chéo, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng thoả đáng đến yếu tố môi trường và xã hội.Không ít dự án quy hoạch tuy đã được xác định nhưng chưa có đầy đủ các căn cứ kinh tế, xã hội, nhất là phân tích và dự báo về thị trường và năng lực cạnh tranh, nên phải thay đổi nhiều lần như quy hoạch ngành điện, xi măng... Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng hệ thống giao thông, hệ thống cảng, đô thị... còn mang tính tình thế, nhu cầu đến đâu phát triển đến đó; hệ thống cảng biển, cảng sông, hệ thống sân bay chưa tính hết sự gắn kết trong việc khai thác kết cấu hạ tầng hiện có và khả năng huy động vốn, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm vốn đầu tư. Đầu tư dàn trải Tình trạng dàn trải trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm, gây lãnh phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, chậm được khắc phục.  Việc bố trí vốn đầu tư thiếu tập trung là điểm yếu và lặp đi lặp lại trong nhiều năm qua. Số dự án dự kiến kết thúc đưa vào sử dụng trong kỳ tăng chậm, trong khi đó số dự án có quyết định đầu tư mới trong kỳ vẫn tiếp tục tăng cao hơn, bình quân vốn bố trí cho một dự án qua các năm có xu hướng giảm dần. Một số Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư. Thất thoát, lãng phí Tình trạng thất thoát, lãnh phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản diễn ra trong nhiều dự án đâu tư, thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư Nợ đọng vốn đầu tư lớn Số nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn Nhà nước ở mức cao, kéo dài, vẫn tiếp diễn và có xu hướng gia tăng. Theo số liệu tổng hợp chưa đầy đủ, tổng số nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản có liên quan đến nguồn vốn ngân sách Nhà nước đến hết năm 2003 là 11.000 tỷ  đồng. Ngoài tình trạng nợ đọng vốn đầu tư có liên quan đến nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nợ đọng lớn và kéo dài còn xảy ra ở các dự án, công trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư khác. Đánh giá chung cho thấy, những tồn tại trên đã làm cho hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản đạt thấp. Hiệu quả đâu tư thấp thể hiện cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế và ở tầm vi mô của từng dự án, công trình, hạng mục công trình thuộc các Bộ, ngành, địa phương. Trong những năm qua, đầu tư xây dựng cơ bản mới chủ yếu góp phần phát triển kinh tế - xã hội theo chiều rộng, chưa tạo được bước chuyển biến tích cực về chất lượng tăng trưởng, chi phí sản xuất cao, giá trị tăng thêm của sản phẩm còn ít, chưa có tác động mạnh đến phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, kiến trúc và cảnh quan đô thị. Đầu tư xây dựng cơ bản trong các chương trình mục tiêu cũng chưa đạt kết quả cao. 2.Yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước là nguồn vốn lớn,thu từ dân do đó công tác quản lý vốn này phải hết sức chú ý đến tính hiệu quả của việc sử dụng chúng,giảm thiểu tối đa sự thất thoát lãng phí vốn Để chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và để đầu tư vốn có hiệu quả, điều đầu tiên phải quan tâm là việc xác định chủ trương đầu tư. Nhớ lại thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, do quan liêu, chạy theo cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, chạy theo mục tiêu phải hoàn thành, tất cả đều phải dựa vào vốn đầu tư của nhà nước, chúng ta đã phải trả giá cho những công trình đầu tư nhưng kém hiệu quả, công nghệ lạc hậu, giá thành cao, nhiều thiết bị đắt tiền được nhập về rồi đắp chiếu, dần trở thành đống sắt vụn và còn rất nhiều điều bất hợp lý nhưng chưa có ai tổng kết để xem hậu quả Nhà nước đã bị thiệt hại là bao nhiêu, nhưng tin chắc rằng con số đó không nhỏ. Trong thời gian gần đây, việc đổi mới kinh tế, cơ cấu đầu tư đã được các cấp, các ngành chú ý hơn, song tình trạng đầu tư không đúng định hướng gây lãng phí chưa được giảm bớt. Quy hoạch vùng lãnh thổ, quy hoạch các ngành, các địa phương còn sơ sài, thiếu cơ sở khoa học, có quy hoạch không xuất phát từ thực tiễn khách quan mà lại xuất phát từ nguyện vọng chủ quan, chạy theo phong trào; điều mấu chốt là nghiên cứu quy hoạch phải được áp dụng vào cuộc sống. Những câu hỏi tại sao? đã được đặt ra không ít trong các cuộc hội thảo, các diễn đàn, hay trong chính các đề tài nghiên cứu, nhưng câu trả lời vẫn chưa thỏa đáng. Nguyên nhân thì có nhiều, song nguyên nhân cơ bản mà các nhà nghiên cứu vẫn loay hoay đi tìm đó là ‘‘một phương pháp nghiên cứu mang tính khoa học và phù hợp vời thực tiễn’‘. Do thiếu cơ sở khoa học, nôn nóng cho nên những năm trước đây đã có phong trào xây dựng xi măng lò đứng với công nghệ lạc hậu, hay phong trào xây dựng nhà máy đường ở hầu hết các tỉnh cũng vậy. Vấn đề cần được làm rõ là nguồn vốn của Nhà nước đã được đầu tư đúng hướng, đúng chỗ chưa? Cần làm rõ, phân định trách nhiệm từ người quyết định đầu tư, người trực tiếp quản lý, sử dụng và khai thác, chấm dứt tình trạng người đầu tư không có trách nhiệm gì, người xây dựng không gắn với người sử dụng,  dồn tất cả các khoản chi phí tiêu cực cho người quản lý công trình. Để nâng cao hiệu, quả đầu tư vốn, chống thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, cần có những giải pháp sau: Quá trình đầu tư cần được quản lý chặt chẽ: Để triển khai một dự án, công tác chuẩn bị đầu tư thường được tiến hành trước từ 1 - 2 năm. Trong thực tế đây vẫn là khâu chủ yếu làm chậm việc thực hiện đầu tư, hiện tượng ‘‘vốn chờ dự án’‘ vẫn còn phổ biến. Có một số bộ và địa phương tranh thủ được ghi kế hoạch đầu tư, mặc dù chưa đủ thủ tục, cốt là để giữ chỗ sau đó mới chạy các thủ tục. Việc giao kế hoạch đầu tư hàng năm thưởng chậm, có khi giữa năm mới giao xong, gây ra tình trạng đầu năm sau vẫn thực hiên vốn của năm trước. Do đó, việc đẩy mạnh thực hiện các thủ tục về chuẩn bị đầu tư và phân cấp giữa trung ương và địa phương cần được cải tiến. Phải khắc phục ngay cơ chế ‘‘xin cho’‘, đây là nguyên nhân gây ra những tiêu cực trong việc nhận dự án và công trình xây dựng. Tệ nạn ‘‘chạy vốn - lại quả’‘ đang khá phổ biến và công khai. Thực hiện quy chế đấu thầu chưa được nghiêm túc, tỷ lệ chỉ định thầu chiếm tỷ trọng cao, việc phá giá đấu thầu, bỏ giá quá thấp để được trúng thầu đang là mối nguy cơ lớn ảnh hưởng đến chất lượng công trình cần khắc phục tình trạng đấu thầu giả, xét thầu thiếu trong sáng, sự can thiệp bằng thư tay... Để tháo gỡ chuyện này, tháng 8/2003 vừa qua Chính phủ đã ban hành Quyết định số 890/QĐ-TTg quy định: Từ 2004 không chấp nhận việc bố trí kế hoạch và cấp vốn đầu tư cho các dự án không thực hiện đúng quy định theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành. Công khai hóa vốn đầu tư bằng vốn NSNN Muốn chống thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cần phải tiến hành hàng loạt các biện pháp từ khâu lập kế hoạch, tính dự toán, đến quản lý xây dựng... Nhưng biện pháp quan trọng nhất là việc công khai hóa toàn bộ hoạt động đầu tư bằng vốn Nhà nước. Có thể tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng điều cơ bản là phải đảm bảo sự giám sát của nhân dân 3.Phân cấp quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một phần của ngân sách nhà nước nên mọi nguyên tắc quản lý và sử dụng loại vốn này đều được triển khai trong các văn bản có liên quan đến sử dụng ngân sách nhà nước 3.1phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 3.1.1Khái niệm Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành NSNN. 3.1.2 Nguyên tắc thực hiện Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý NSNN ở nước ta. Hai là: NSTƯ giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia. Nguyên tắc này được thể hiện: Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN được ban hành thống nhất và dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý NSTƯ. Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn phải được tập trung vào NSTƯ, các khoản chi có tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm. NSTƯ chi phối hoạt động của NSĐP, đảm bảo tính công bằng giữa các địa phương. Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản ngân sách nào do địa phương thu, khoản ngân sách nào phải do địa phương chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lại hoặc lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch như trước đây. Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. 3.2 Ý nghĩa của việc phân cấp quản lý vốn ngân sách nhà nước Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung ương và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN. NSNN được phân cấp quản lý giữa chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn. Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với các hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý NSNN 3.3 Thực trạng phân cấp quản lý tại Việt Nam qua một số giai đoạn Phân cấp ngân sách là phân định trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích giữa các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp trong hệ thống NSNN. Tại Việt nam, kể từ sau khi có luật NSNN, cơ chế phân cấp đã có sự thay đổi một cách căn bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chính quyền địa phương trong việc chủ động khai thác nguồn thu và bố trí chi tiêu. Với sự thống nhất từ trên xuống về các khái niệm, nội dung, nguyên tắc quản lý, hệ thống NSNN đã đồng nhất cách hiểu, tư duy trong quá trình vận hành trong thực tế. Nét mới là ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi cấp chính quyền theo luật (chỉ thay đổi khi quốc hội sửa luật), khắc phục được tính không ổn định trong phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi. Trước đây, về thu, hầu như năm nào chính phủ cũng điều chỉnh nguồn thu, tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa trung ương và địa phương. Việc điều chỉnh này chủ yếu bằng quyết định, chỉ thị (các văn bản dưới luật) của thủ tướng chính phủ nên hiệu lực pháp lý không cao. Có những nguồn thu, năm thì để lại cho địa phương, năm thì thu về trung ương (thuế xuất, nhập khẩu tiểu ngạch, thu cấp quyền sử dụng đất…). Về chi, cũng thường xuyên sửa đổi các nhiệm vụ chi (như chi trợ cấp khó khăn thường xuyên và đột xuất cho cán bộ trung ương; chi cho bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; quản lý công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới, đo đạc và quản lý ruộng đất…có năm được xác định là nhiệm vụ của trung ương, có năm lại là của địa phương). Luật ngân sách Nhà nước đã khẳng định nguyên tắc: ngân sách cấp trên nắm giữ các nguồn thu chủ yếu và đảm nhận các nhiệm vụ chi quan trọng hơn cấp dưới, các nguồn thu của ngân sách cấp dưới không đủ đáp ứng nhu cầu chi thì được cấp bổ sung và không được sử dụng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác. Từ khi đưa luật NSNN vào thực tiễn, nhiều địa phương đã ý thức được trách nhiệm phải đảm bảo nguồn thu gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở địa phương thì mới có thể đảm nhận tốt nhiều nhiệm vị chi. Đồng thời, nhận thức được, khi đời sống của đại đa số nhân dân ở địa phương khá lên thì NSĐP mới đảm bảo được hầu hết các nhiệm vụ chi về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của NSĐP nhìn chung được tập trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự phân tán nguồn thu nên số thu ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng được mở rộng. Từ khi đưa luật NSNN vào thực tiễn, nhiều địa phương đã ý thức được trách nhiệm phải đảm bảo nguồn thu gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở địa phương thì mới có thể đảm nhận tốt nhiều nhiệm vị chi. Đồng thời, nhận thức được, khi đời sống của đại đa số nhân dân ở địa phương khá lên thì NSĐP mới đảm bảo được hầu hết các nhiệm vụ chi về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của NSĐP nhìn chung được tập trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự phân tán nguồn thu nên số thu ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng được mở rộng. Luật NSNN một mặt đề cao vai trò của NSTƯ, mặt khác để đảm bảo khả năng cân đối của ngân sách các cấp địa phương, luật đã thu hẹp dần các khoản thu của ngân sách Trung ương, một mặt thay đổi thuế doanh thu bằng thuế GTGT, thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt khác điều chỉnh nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, trong đó hai khoản thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế tài nguyên (trừ dầu khí) được để lại 100% cho ngân sách địa phương(theo luật cũ là phân chia giữa NSTƯ và NSĐP). Đồng thời, tăng thêm các khoản thu cho ngân sách địa phương, đặc biệt là cấp huyện và đô thị về thuế tiêu thụ đặc biệt (trước đây trung ương thu 100%), thu đối với hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã, kinh doanh vũ trường…đã tạo điều kiện làm phong phú nguồn thu của ngân sách địa phương. Trước thực trạng phân cấp, quản lý ngân sách đó, tình hình thu, chi NSNN đã đạt được nhiều kết quả trong năm 2009 Về thu NSNN không những đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thường xuyên của nhà nước mà còn dành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển, tăng cường dự trữ, củng cố tiềm lực tài chính. Theo đó, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% kế hoạch năm, vượt 750 tỷ đồng so với kế hoạch đề ra.Trong đó, số thu từ thuế, phí và lệ phí ngày càng lớn và chiếm tỷ trọng quyết định trong tổng thu NSNN, bình quân đạt khoảng 95% đến 98% tổng thu.Thu ngân sách địa phương năm 2009 vượt dự toán khoảng 7.480 tỷ đồng.Thành tựu này không chỉ do luật NSNN đem lại mà còn đánh dấu sự tiến bộ của ngành thuế, đồng thời khẳng định chiều hướng phát triển đúng đắn của công cuộc chuyển đổi kinh tế, cải cách thuế. II.Chức năng quyền hạn của các phòng ban cấp huyện trong quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước 1.Quy trình phân bổ và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước Quy trình phân bổ quản lý vốn ngân sách nhà nước được thực hiện theo luật ngân sách nhà nước. Luật Ngân Sách ===> Nghị định hướng dẫn Luật ===> các Thông tư hướng dẫn Nghị định ===> các văn bản khác hướng dẫn thực hiện hoặ điều chỉnh 1 số điều thi hành của Thông tư một số nghị định và thông tư có liên quan đến việc phân bổ quản lý ngân sách tại địa phương - Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002; - Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước; - Nghị định số 73/2003/NĐ-CP ngày 23/6/2003 của Chính Phủ ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; - Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP của Chính phủ; - Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính quy định về quản lý Ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn; - Quyết định số 130/2003/QĐ-BTC ngày 18/08/2003 của Bộ Tài chính về việc ban hành chế độ kế toán ngân sách 2.Nhiệm vụ và quyền hạn của các phòng ban trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước ở cấp huyện 2.1 Phòng tài chính kế hoạch chức năng và nhiệm vụ của phòng tài chính kế hoạch được quy định bởi các văn bản do ủy ban nhân dân cùng cấp.Nhìn chung chức năng và nhiệm vụ của cơ quan này ở mỗi địa phương có nhiều điểm chung lớn: Tham mưu giúp UBND huyện điều hành kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, thực hiện chính sách về tài chính, giá cả, các chính sách kinh tế- xã hội do nhà nước ban hành; tham mưu trình UBND huyện các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật và các quy định của UBND tỉnh, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư về công tác tài chính, Kế hoạch và đầu tư trên địa bàn. Chủ trì xây dựng và tổng hợp và trình chủ tịch UBND huyện các quy hoạch, kế hoạch dài hạn, hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình, mục tiêu, các danh mục, dự án đầu tư trên địa bàn thành phố; hàng năm xây dựng kế hoạch phân bổ dự toán thu, chi ngân sách cho các đơn vị, phường, xã; Hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt. Chủ trì tiếp nhận hồ sơ, phối hợp với các nghành liên quan, thẩm định các dự án đầu tư trình Chủ tịch UBND huyện phê duyệt theo thẩm quyền phân cấp; tham gia thẩm định dự án đầu tư trên địa bàn thuộc thẩm quyền của huyện; phối hợp thẩm tra quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, các công trình sử dụng vốn ngân sách huyện;thẩm định kế hoạch đấu thầu, kết quả xét thầu thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND huyện. Chỉ đạo công tác Kế toán ngân sách trong phạm vi quản lý, lập quyết toán thu, chi ngân sách huyện; tổng hợp báo cáo quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, chi ngân sách huyện, quyết toán chi kinh phí ủy quyền của cấp trên. Hướng dẫn các đơn vị trực thuộc UBND huyện, UBND các thị trấn, xã xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội và lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý; thực hiện chế độ kiểm tra kế toán thường xuyên, định kỳ kiểm tra việc thực hiện công tác kế hoạch đối với các đơn vị sử dụng ngân sách và UBND các thị trấn, xã. 2.2Ban quản lý các dự án Ban Quản lý Dự án Xây dựng chịu sự chỉ đạo của UBND huyện đồng thời chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và kiểm tra hoạt động, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Xây dựng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước Ban Quản lý Dự án chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao.Trường hợp chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án thì chủ đầu tư có thể thành lập Ban Quản lý Dự án, Ban Quản lý Dự án chịu trách nhiệm._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25639.doc
Tài liệu liên quan