Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực & thế giới

Lời mở đầu Trong bối cảnh thế giới với xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá để phát triển đi lên, Việt Nam không thể đứng ngoài, tách khỏi xu thế chung của nhân loại. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng đạt được những mục tiêu về dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề kinh tế đối ngoại là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Với một phạm vi có hạn của một đề án kinh tế chính trị, bài viết này chỉ bàn bạc về “ Vấn

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực & thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề thực trạng và giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới trong giai đoạn hiện nay” ở những mặt cơ bản, quan trọng và xúc tích nhất. Để từ đó thấy được tầm quan trọng to lớn mà kinh tế đối ngoại đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. Do khả năng nhận thức còn non yếu nên bài viết này không thể tránh khỏi nhiều sai sót và hạn chế . Vì vậy, em rất mong được ghi nhận những ý kiến đóng góp và sửa chữa của các thầy, cô giáo cho bài viết này. Phần I: một số vấn đề về cơ sở lí luận I. Khái niệm kinh tế đối ngoại Để hiểu thế nào là kinh tế đối ngoại và không nhầm lẫn nó với khái niệm kinh tế quốc tế, trước hết ta hãy xem khái niệm về kinh tế đối ngoại của giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lênin do Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đưa ra như sau: “Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận kinh tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế”. Như vậy kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài, với nước khác hoặc tổ chức kinh tế quốc tế khác. Còn kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế II. Những cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại 1. Phân công lao động quốc tế Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học, công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế . 2. Lí thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo Một dân tộc có hiệu quả thấp hơn so với các dân tộc khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, vẫn có cơ sở cho phép tham gia vào sự phân công lao động và thương mại quốc tế, tạo lợi ích cho dân tộc mình.Theo ông, một hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế tương đối là những hàng hoá, dịch vụ mà việc tạo ra nó có những bất lợi ít nhất. Và hàng hoá hoặc dịch vụ không có lợi thế tương đối là những hàng hoá, dịch vụ mà việc sản xuất ra chúng có nhiều bất lợi nhất.Và cũng theo lí thuyết này, một quốc gia cho dù bất lợi trong sản xuất các loại hàng hoá dịch vụ so với các quốc gia khác vẫn có thể tham gia thương mại quốc tế nếu biết lợi dụng sự chênh lệch về tiền lương và theo đó là tỷ giá giữa hai đồng tiền nội tệ và ngoại tệ khi thực hiện trao đổi quốc tế . 3. Xu thế thị trường thế giới Từ những thập kỷ 70 của thế kỷ XX lại đây, toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn đến “mở cửa” và “hội nhập” của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế, trong đó có “xu thế phát triển của thị trường thế giới”. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. 3.1. Thương mại trong các ngành tăng lên rõ rệt: Sau chiến tranh thế giới 2, cùng với khoa học và công nghệ phát triển sự phân công quốc tế đã có thay đổi rất lớn về hình thức, chủ yếu thể hiện ở sự phân công giữa các ngành từng bước chuyển sang phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển rất nhanh. Theo dự báo, cùng với cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và cùng với tiến bộ khoa học- công nghệ, thương mại trong nội bộ ngành sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thương mại thế giới. Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng: Tổng kim ngạch thương mại trong các tập đoàn kinh tế khu vực ( như cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC- nay là EU)) trong hiệp định sản phẩm xã hội Mỹ- Canađa không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch quốc tế. Hình thành thị trường thế giới trong từng khu vực, lấy Mỹ- châu Âu- Nhật Bản làm trung tâm. 3.2. Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng: Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, trên thị trường thế giới, thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng, cứ 10 năm lại tăng lên gấp 4 lần, vượt xa tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hoá. Thương mại công nghệ phát triển theo ba xu hướng: + Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và chiến lược kinh tế của các nước, các nước phát triển sẽ nhanh chóng chuyển vốn, thiết bị và kỹ thuật quá thừa ra nước ngoài. Còn các nước đang phát triển sẽ tìm cách thu hút vốn của nước ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng kinh tế đối ngoại + Xuất khẩu bằng sáng chế, phát minh, giấy phép, bản vẽ thiết kế, tổ chức quản lý…sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng. + Cạnh tranh gay gắt trong thị trường thương mại công nghệ. Trong cuộc cạnh tranh ấy, các xí nghiệp xuyên quốc gia của các nước phát triển giữ vai trò chi phối. 3.3. Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực với các nhân tố sau chi phối: + Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, cục diện thế giới thay đổi từ hai cực sang đa cực, so sánh sức mạnh kinh tế thế giới cũng thay đổi rõ rệt. Để duy trì lợi ích của mình và củng cố vị trí trong đàm phán, nhiều nước đang phát triển cũng tổ chức các loại hình liên minh kinh tế khu vực. Và để đảm bảo sự ổn định và phát triển hài hoà, các nước phát triển cũng không thể xây dựng thị trường chungcó tính chất khu vực nhằm điều hoà ngành sản xuất và thương mại của các nước. + Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô thế giới. Những tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực mới như dịch vụ, quyền sở hữu tài sản, trợ thuế ngày càng gia tăng. Vì vậy, các nước có tiềm lực kinh tế lớn muốn lợi dụng hiệp nghị thương mại song phương để gây sức ép trong đàm phán thương mại đa phương và ra sức lấy đó làm mẫu mực ký kết hiệp định thương mại tự do với các nước có liên quan. Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại thế giới, làm cho hướng chuyển dịch tiền vốn và kỹ thuật trên phạm vi thế giới có thay đổi lớn. Điều này vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế thế giới vừa có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là các nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển . Tóm lại, sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại diễn ra trong điều kiện toàn cầu, khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong mấy thập niên gần đây. Đứng trên góc độ kinh tế chính trị, liên hệ với Việt Nam hiện nay, vấn đề kinh tế đối ngoại sẽ được xem xét trên hai phương diện: thực trạng và giải pháp. để từ đó thấy được những thành tựu chúng ta đã đạt được cũng như những sai sót, yếu kém, hạn chế trong kinh tế đối ngoại của ta. Giúp ta từng bước khắc phục, đi lên, lựa chọn được mô hình kinh tế đối ngoại phù hợp nhất, trong điều kiện kinh tế nước nhà nói riêng và hoà chung với nền kinh tế thế giới. Phần II: thực trạng và giải pháp I. vấn đề thực trạng kinh tế đối ngoại Việt Nam 1. Ngoại thương: Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất- nhập khẩu. Trong các nội dung kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quảlợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước. Đối với Việt Nam, ngoại thương đã vượt qua được cơn sốc xảy ra năm 1991-1992 do sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, mở rộng thị trường ở các châu lục.Việc mất gần hết thị trường truyền thống (Liên Xô và Đông Âu) lúc đầu là một khó khăn tưởng chừng không vượt qua nổi. Nhưng từ trong khó khăn đó những giải pháp tháo gỡ đã đưa nền ngoại thương Việt Nam phát triển vượt bậc. Đến nay, chúng ta đã phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.Tính theo châu lục thì hàng xuất khẩu của Việt Nam sang châu á chiếm 80%, châu Âu:15%, châu Phi; 3% và châu Mỹ là: 2%. Mười quốc gia và lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất hàng Việt Nam là: Nhật Bản (28.5%), Xingapo (14.6%), Trung Quốc (7.4%), Đài Loan (5.4%), Hồng Kông (4.9%), CHLB Đức (4.6%), Pháp (3.2%), Thái Lan (2.3%), Liên bang Nga (2.2%), Hàn Quốc (2.2%). Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao. Từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đều tăng, trong thời kỳ 1991-1995 trung bình mỗi năm kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng 20%. Đây là một tốc độ tăng trưởng cao so với nền ngoại thương thế giới và cao hơn nhiều so với tốc độ phát triển của sản xuất trong nước. Năm 1996, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7…2558 tỷ USD tăng 31.1% so với năm 1995; riêng hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy chỉ chiếm tỷ lệ 11.1% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đã tăng gấp hai lần so với năm 1995. Năm 1997, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 9 tỷ USD. 2. Đầu tư quốc tế: Đầu tư quốc tế (mà trước đây Lênin gọi là nhập khẩu tư bản) là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi ở Việt Nam. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tháng 6-1990, tháng 12-1992 và tháng 11-1996 đã được dư luận quốc tế , đặc biệt là các chủ đầu tư trực tiếp đánh giá là thông thoáng và hấp dẫn, tương đối phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đến cuối năm 1997, đã thu hút được 2300 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 32 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện là12.3 tỷ USD.Tốc độ tăng trung bình hàng năm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 50%. Các dự án FDI đã tạo khoảng 200 000 việc làm trực tiếp và gián tiếp, cùng hàng vạn việc làm trong các dịch vụ ở những nơi có các doanh nghiệp FDI. Đã có 800 công ty nước ngoài thuộc 61 quốc gia và vùng lãnh thổ đến làm ăn tại Việt Nam. Cho tới nay sau hai cuộc họp về tài trợ ODA cho Việt Nam,nguồn ODA đã chính thức được cam kết là 8.6 tỷ USD. Nguồn vốn này được sử dụng để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Trước những thành tựu kinh tế của Việt Nam, các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB … đã có những ưu đãi đối với chúng ta, có các thủ tục giải ngân ODA thuận lợi hơn. Điều này cho phép chúng ta có thể sớm khôi phục, nâng cấp những cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với nền kinh tế đạt tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời từng bước hội nhập với hệ thống thanh toán quốc tế tạo thuận lợi cho các quan hệ ngoại thương, đầu tư quốc tế phát triển. 3. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Trong những năm đổi mới, các hoạt động dịch vụ quốc tế đã phát triển với tốc độ cao chưa từng thấy, đạt những thành quả hết sức to lớn, góp phần mang lại cục diện mới cho nền kinh tế Việt Nam. Trước tiên phải kể đến ngành bưu chính viễn thông. Đến năm 1996, đã có 14 liên doanh hoạt động trong ngành bưu chính viễn thông với tổng số vốn đầu tư là 751.37 triệu USD. Viễn thông Việt Nam đã được Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) công nhận đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế mở, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong ngành dịch vụ và khách sạn, cho đến năm 1996, Tổng cục du lịch đã ký 12 hiệp định hợp tác quốc tế với các nước. Ngành du lịch cả nước có 76 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, 118 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa. Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đã thực hiện 400 hợp đồng đưa đón khách với các hãng du lịch nước ngoài. Lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam thời kỳ 1990-1995 tăng trung bình 40%/năm. Riêng năm 1996 số lượng du khách quốc tế đạt mức 1.6 triệu lượt người. Số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế ngày càng tăng. Đã có 120 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 5 sao.Toàn ngành du lịch- khách sạn đã thu hút 149 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký đạt 3.97 tỷ USD ( chỉ đứng sau ngành công nghiệp). Tất cả những điều đó cho thấy ngành du lịch Việt Nam đã và đang vươn lên mạnh mẽ để trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển đất nước. Tài chính- tiền tệ cũng có những biến đổi phù hợp với quá trình công nghiẹp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay ở Việt Nam có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, có ngân hàng phục vụ người nghèo, tổng công ty vàng bạc đá quý, 53 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài của 12 nước, 70 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài, 2 công ty tài chính cổ phần, hệ thống tín dụng và hợp tác xã tín dụng. Sự có mặt của các tổ chức kinh doanh tiền tệ nước ngoài tại Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện sự quan tâm của cộng đồng tài chính- tiền tệ quốc tế đối với Việt Nam, góp phần đa dạng hoá hệ thống tài chính trong nước, tạo ra môi trường cạnh tranh mới, thúc đẩy quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam để hội nhập có hiệu quả với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới Một số dịch vụ quốc tế khác cũng đã bước đầu hoạt động có hiệu quả như vận tải quốc tế, xuất nhập khẩu. 4. Chính sách tỷ giá hối đoái Từ năm 1987, Việt Nam bắt đầu thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đồng Việt Nam (VNĐ) với đô la Mỹ (đồng tiền đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán cuả Việt Nam với nước ngoài). Vào tháng 8 và tháng 11-1991, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được hình thành, tạo nền móng cho một thị trường hối đoái tại Việt Nam. Đến tháng 10-1994 thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã chính thức ra đời.Hoạt động của thị trường này khá linh hoạt, khách quan. Khoảng cách giữa tỷ giá của ngân hàng với tỷ giá thị trường tự do được thu hẹp qua các năm. Cho đến đầu năm 1995 tỷ giá của hệ thống ngân hàng với tỷ giá thị trường tự do gần như không còn có sự chênh lệch. Sự thành công của chính sách tỷ giá hối đoái một mặt giữ vững được giá trị đồng tiền Việt Nam cả về danh nghĩa và giá trị thực, góp phần ổn định mặt bằng giá cả trong nước và kiềm chế lạm phát, mặt khác vẫn khuyến khích được xuất khẩu tăng lên hàng năm, thu hút nguồn ngoại tệ lớn vào Việt Nam đáp ứng nhu cầu nhập khẩu ngày một tăng và tăng đáng kể nguồn dự trữ ngoại tệ của đất nước. 5. phát triển các mối quan hệ với các trung tâm và các cường quốc kinh tế trên thế giới 5.1 Bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ Ngày 3-2-1994 Mỹ tuyên bố bãi bỏ cấm vận kinh tế chống Việt Nam, mở ra một sự thay đổi trong quan hệ kinh tế giữa hai nước. Trao đổi hàng hoá đã ngay lập tức được khôi phục. Đến cuối năm 1996, đã có 61 dự án của các nhà đầu tư Mỹ được cấp giấy phép với tổng số vốn 1.3 tỷ USD, ngoài ra còn phải kể đến 280 văn phòng đại diện của các công ty Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam. Một số hàng hoá của Việt Nam như cà phê, gạo, bia…cũng thâm nhập có hiệu quả vào thị trường Mỹ. 5.2 Ký kết hiệp định khung hợp tác kinh tế Liên minh châu Âu (EU) với Việt Nam Hiện nay, đầu tư của EU đã nhiều hơn so với nhiều nước trong khu vực (vào khoảng 12% tổng số FDI của châu Âu). EU sẽ tài trợ giúp Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp về kỹ thuật, tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU, tăng ODA cho Việt Nam …Trên thực tế, một số ngành công nghiệp như may mặc, da giày, giấy… của Việt Nam phát triển được một phần đáng kể là nhờ có vốn đầu tư và thị trường của châu Âu. Ví dụ, năm 1995, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang EU là 350 triệu USD, năm 1996 đã lên tới 560 triệu USD. 5.3 Thành công bước đầu trong liên kết kinh tế khu vực Từ 28-7-1995, Việt Nam đã nhanh chóng tận dụng ưu thế của liên kết khu vực nhằm phát triển kinh tế . Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam cũng gia tăng và có hiệu quả hơn. Vị thế Việt Nam trong các mối liên kết kinh tế khu vực ASEAN tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển. Việt Nam cũng đã đệ đơn gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) (tháng 12-1994) và Diễn đàn kinh tế châu á- Thái Bình Dương (APEC) (năm 1996). Quá trình đàm phán để gia nhập đang diễn biến thuận lợi và tạo ra các cơ hội đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới . 6. Những thiếu sót trong kinh tế đối ngoại . -Hiệu quả kinh tế đối ngoại chưa cao .Việc phát triển kinh tế chưa hướg hạnh vào xuất khẩ, kim ngạch xuất khẩu còn thấp , chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô , chưa qua chế biến .Cơ chế hàng nhập khẩu chưa hợp lí . Nhập siêu quá lớn .Dịch vụ thu ngoại tệ chưa phát triển . -Chưa tạo được những thị trường xuất nhập khẩu trực tiếp có quy mô lớn và ổn định , chưa vào đươc một số thị tường lớn , quan trọng .Chưa mạnh dạn đi vào những thị trường mới .Mở rộng thị trường nước ngoài nhưng chưa chú ý đúng mức thị trường trong nước . -Tình trạng tự phát , thiếu tổ chức quản lí , tranh mua , tranh bán ,sơ hở , bị động tronghoạt động kinh tế đối ngoại còn khá phổ biến . -Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiếu quy hoạch cụ thể và hiệu quả chưa cao .Việc tranh thủ vốn FDI còn nhiều yếu kém ở các khâu quy hoachị , góp vốn của phía Việt Nam , thủ tục hành chíh cấp giấy phép và triển khai , quản lí dự án , thực thi pháp luật , nhất là về thuế, lao động , tiền lương, giá …Mức giả ngân đối với các dự án thực hiệ bằng vốn ODA còn thấp , chưa chủ động và chưa hợp lí , làm kéo dài tiến đội xây dựng công trình . -Tệ tham nhũng , buôn lậu , lừa đảo và nhiều hiện tựơng tiêu cực khác tronghoạt động kinh tế đối ngoại , kể cả trong các khẩu xét duyệt cấp giấy phép và triển khai đầu tư , cấp giấy phép cô-ta , thu thuế , kiểm tra hải quan …Là rất nghiêm trọng .Một số cán bộ , nhân viên thoái hoá , biến chất , sa đoạ hoặc bị người nước ngoài mua chuộc gây thiệt hại lớn về nhiều mặt cho Nhà nước . Các cơ sở đảng , đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn yếu , nhiều nơi trắng . -Việc kết hợp kinh tế đối ngoại với quốc phòng , an ninh , ngoại giao , gìn giữ và phát huy bản sắc văn háo dân tộc chưa chặt chẽ . -Việc quản lí , điều hành công tác kinh tế đối ngoại ở cấp vĩ mô chưa tốt , còn phân tán , quá nhiều đầu mối , thiếu sự kiểm tra và thanh tra một cách thường xuyên .Các cơ chế , chính sách , về kinh tế đối ngoại chưa đồng bộ có trường hợp chưa sát với thực tế , ác văn bản pháp luật chưa hoàn chỉnh , thiếu nhất quán . -Trình độ chuyên môn , nghiệp vụ ngọai ngữ của cán bộ làm kinh tế đối ngoại còn yếy kém , bất cập với nhiệm vụ mới , việc đào tạo và đào tạo lại cácn bộ rất chậm . 7. Những tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế đã có những tác đọnh tích cực đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thể hiện trên những nét chủ yếu sau đây : 7.1 Độ mở của nến kinh tế nước ta tăng nhanh . Độ mở của nền kinh tế của một nước được đo bằng “Độ phụ thuộc mậu dịch đối ngoại’’ , đó là chỉ số so sánh giữ kim ngạch ngoại thương với GDP hoặc GNP của nước đó hoặc đo bằng “ Độ phụ thuộc xuất (nhập) khẩu”, tức là so sánh kim ngach xuất (nhập) khẩu với GDP hoăc GNP của nước đó . Độ phụ thuộc mậu dịch đối ngoại của nước ta năm 1995 khoảng 65% , năm 2000 tăng lên 100%. Độ phụ thuôc xuất khẩu tương ứng từ 26% lên 48% và chỉ số này trong nhập khẩu từ 39% lên 52% .Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu bình quân của nước ta giảm từ 32.6% thời kì 1991 –1995 xuống còn 19,3 %/năm trong thời kì 1996-2000 do chịu ảnh hửơng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy thoái kinh tế toàn cấu , nhưng vẫn cao hơn tốc dộ tăng GDP nhiều , nên độphụ thuộc mậu dich đối ngoại nói chungvà độ phụ thuộc xuất khẩu nối riêng vẫn tăng lên . Bảng1: Tốc độ tăng GDP giai đoạn 1991 - 2001 theo giá so sánh năm 1994 (%) Năm 1191 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Mức tăng 5.81 8.70 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.79 So bộ 6.84 7.2 Tốc độ tăng trưởng GDP cao , thời kì 1996-2000 bị ảnh hưởng bởi bối cảnh kinh tế khu vực và quốc tế nên tốc độ này giảm xuống nhưng vẫn được đánh giá là khả quan so với nhiều nước . Tính bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8.18% tình bình quân giai đoạn 1996-2000 là 6.95%. Bản trên cho thấy từ năm 1997 tốc độ tăng GDP giảm so với những năm trứơc do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và sau đó là suy thoái kinh tế toần cầu . So sánh với kim ngach xuất khẩu và nhập khẩu thấy xu hướng biến động của GDP chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại thương .Rõ nhất là hai năm 1998-1999 xuất khẩu tăng thấp 1.9% và 23.3% và nhập khẩu tương ứng là -0.8% và 2.1% thì tốc đọ tăng GDP cũng giảm xuống 5.76% vầ 4.77% . Bảng 2: Tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu 1991 - 2001 (%) Năm 1191 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Xuất khẩu Nhập khẩu -13.2 -15.1 23.7 8.7 15.7 54.4 35.8 48.5 34.4 40.0 33.2 36.6 36.6 0.4 1.9 -0.8 23.3 2.1 25.5 33.2 3. 3.48 7.3 Thị trường nước ngoài không ngừng được mở rộng . Cho tới năm 2001 nước ta đã có quan hệ buôn bán với 165 nước , trong đó có 76 nước đã kí hiệp định thương mại, thoả thuận tối hụê quốc với 68 nước . Nước ta đã đẩy lùi được chính saccchs bao vây cô lập, cấm vận cuẩ các thế lực thù địch , tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, năng câo vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới . 7.4 Thu hút một nguồn lớn FDI . FDI đăng kí cao nhất vào năm 1996, rồi giảm mạnh , dến năm 2001 lại tăng đôi chút n, nhưng vẫn chưa đạt 1993; Còn FDI thực hiện lại đạt đỉnh cao vào năm 1997 và giảm ít hựn FDI đăng ký, năm 2001 đật cao hơn mức 1994 .Đáng chú ý là tỷ lệ giữa FDI thực hiện so với FDI đăng lí co xu hướng tăng lên , nhất là năm 1999 và năm 2000, chứng tỏ một soó dự án cũ có hiệu quả nên được tăng thêm vốn . Về số dự án FDI: Tăng từ 37 ( năm 1988 ) lên 410 (năm 1995 ) rồi giảm xuống vào các năm 1996-1998 sau đó lại tăng dần và đạt 463 dự án vào năm 2001. Vốn pháp định giảm dần tỷ trọng từ 74.3% (năm 1998), 86.3% (năm 1990) xuống 42.2% (năm 2001), tính tổng số thì từ 1988 đến năm 2001, chiếm 45.7%. Theo nhận định của các chuyên gia thì đây là một tỷ lệ thấp không bình thường (ở Malaixia tỷ lệ này là 70%, Singapo là 80%), phản ánh tình trạng các nhà đầu tư chưa tin tưởng vào môi trường kinh doanh trong nước và có thể còn do thuế đánh vào lợi nhuận chuyển về nước cao (3%). Về cơ cấu ngành: FDI vào Việt Nam thời gian đầu hướng nhiều vào ngành xây dựng và dịch vụ, thời gian sau gia tăng vào công nghiệp chế tạo (số dự án trong ngành này từ 26% thời kỳ 1988-1991 lên 66.5% thời kỳ 1996-2000 và 80.7% năm 2001 và về vốn đăng ký tương ứng là 22%, 31% và 76.4%) Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vào GDP tăng từ 6.3% (năm 1995) lên 13.3% (năm 2000) Bảng 3: Lượng FDI đăng ký và thực hiện Đơn vị: Triệu USD Năm 1988 - 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Đăng ký 1582 1275 2027 2589 3746 6607 8640 4649 3897 1567 1987 2736 Thực hiện - 478 542 1097 2213 2761 2837 3032 2189 1933 2100 2300 Tỷ lệ thực hiện/đăng ký (%) - 37,5 26,7 42,5 59 41,8 32,9 66,3 56,1 123,3 105,6 94,4 7.5 Thu hút ODA và xây dựng kết cấu hạ tầng Nhìn chung ODA tăng đều từ năm 1993 đến năm 1999, năm 2000 và năm 2001 có giảm nhưng vẫn tương đương mức năm 1997. Tỷ lệ giải ngân so với vốn cam kết có xu hướng tăng lên từ 22,2% (năm 1993) lên 72.6% (năm 2001). Tính đến tháng 12-2001 Việt Nam có quan hệ hợp tác với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ (NGO) trong đó Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB) và Nhật Bản là những nhà tài trợ dành số ODA lớn cho Việt Nam. Năm 1999 trong tổng giá trị ODA theo các hiệp định dã được ký kết với nước ta Nhật Bản chiếm 38.77%, WB 20.8% và ADB 10.34%, các đối tác khác 30%. Phần lớn ODA đã Sử dụng vào phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội, trong đó năng lượng điện chiếm 26%, giao thông vận tải 27,8%, tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế 10%, nông nghiệp 14,3%, cấp thoát nước 7%, lĩnh vực xã hội (y tế, dân số, giáo dục và đào tạo…) 6,8% các ngành khác 7,2%. Bảng 4: Lượng ODA cam kết và giải ngân Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cam kết 1810 1940 2260 2430 2400 2700 2800 2400 2356 Giải ngân 413 725 737 900 1000 1242 1350 1650 1711 Tỷ lệ giải ngân/cam kết (%) 22,2 37,3 32,6 37 41,6 46 48,2 68,7 72,6 7.6. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, đói nghèo giảm Bảng 5: GDP thực tế bình quân đầu người và tính theo tỷ giá sức mua tương đương (PPP năm 1999) và chỉ số HDI của Việt Nam Năm 1995 1997 1999 2001 GDP/ người theo PPP năm 1999 (USD) 1010 1208 1630 1860 Chỉ số K 0,38 0,42 0,47 0,49 Xếp hạng 151/156 147/160 133/174 120/162 Chỉ số HDI 0,539 0,557 0,644 0,682 Xếp hạng 120/160 121/160 110/174 101/162 Việc chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế không những tác động vào tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, giảm đói nghèo Theo bảng 5 trên đây, tuy GDP bình quân đầu người của nước ta còn rất thấp, vẫn thuộc loại nước nghèo nhất thế giới nhưng thứ hạng HDI lại cao hơn thứ hạng GDP nhiều. Điều đó chứng tỏ đời sống của nhân dân đựơc cải thiện nhanh hơn mức tăng trưởng GDP và đói nghèo giảm. Bảng 6: Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP )%) Năm Tổng số Nông, lâm, thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 1995 100 27,18 28,76 44,16 1996 100 27,76 29,73 42,51 1997 100 25,77 32,08 42,15 1998 100 24,78 32,49 41,73 1999 100 25,43 34,49 40,08 2000 100 24,53 36,73 38,74 2001 (sơ bộ) 100 23,62 37,83 38,5 8. Hạn chế của việc toàn cầu hoá tác động đối với hội nhập kinh tế của nền kinh tế thị trường nước ta. Một là, tác động nói trên chủ yếu hướng vào những ngành và lĩnh vực định hướng xuất khẩu, đối với phần còn lại của nền kinh tế quốc dân chưa rõ nét, thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất chậm. Qua bảng 6 trên có thể thấy tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp trong GDP của nước ta giảm rất chậm( từ 27,18% năm 1995 xuống 23,62% năm 2001, tức là chỉ giảm 3,5% sau 6 năm); chỉ tiêu này trong dịch vụ không những không tăng mà lại giảm từ 44,16% năm 1995 xuống 38,55% năm 2001, còn trong công nghiệp và xây dựng chỉ tăng trên 9% trong cùng kỳ. Xét cơ cấu lao động xã hội trong các ngành kinh tế càng kém sáng sủa hơn.Lao động trong ngành nông, lâm, thuỷ sản từ 71,2% năm 1995 giảm xuống còn 68,2% năm 2000, lao động trong nhóm ngành công nghiệp khai thác mỏ; công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước và xây dựng tương ứng tăng từ 11,4% lên 12,1% và lao động trong các ngành dịch vụ từ 17,4% lên 19,7% (tính theo Niên giám Thống kê 2001, tr41). Như vậy là chuyển biến quá chậm. Hai là, thị trường nước nước ngoài chủ yếu là Châu á mà cơ hội hỗ trợ cho nhau giữa Việt Nam với các nước Châu á là tương đối thấp. Theo số liệu thống kê, giá trị xuất khẩu của nước ta với 46 nước và giá trị nhập khẩu với 41 nước năm 2000 ( chiếm khoảng 95% tổng kim ngạch ) thì châu á chiếm 60% xuất khẩu và 83.3% nhập khẩu của Việt Nam, trong đó Nhật Bản chiếm 18.7% xuất khẩu và 15.3% nhập khẩu; tiếp đến là Châu âu chiếm gần 24% xuất khẩu, 11.3% nhập khẩu, riêng EU là 20.7% và 8.7%; tương ứng châu Đại Dương trên 9% xuất khẩu và 3% nhập khẩu, trong đó Mỹ chiếm 5.3% xuất khẩu và 2.4% nhập khẩu. Còn châu Phi hầu như không đáng kể. Theo nhậu định của một số chuyên gia của WB thì cơ hội hỗ trợ cho nhau giữa Việt Nam và các nước châu á tương đối thấp nên triển vọng tăng kim ngạch xuất khẩu với các nước này không lớn. Nhưng Việt Nam lại có mức độ tương thích cao trong buôn bán với Mỹ và EU, đặc biệt là xuất khẩu quy mô vừa và nhỏ. Việc phân phối vốn đầu tư nước ngoài theo các vùng trong nước cũng mất cân đối, các dự án tập trung nhiều ở các vùng Đông Nam Bộ ( chủ yếu là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu) và đồng bằng Sông Hồng (xung quanh Hà Nội). Trong tổng số dự án đăng ký từ 1998-2001 thì 62.65 ở Đông Nam Bộ, 19.8% ở đồng bằng sông Hồng. Con số tương ứng về vốn đăng ký ở hai vùng trên là 53.1% và 25.9%. Việc các nhà đầu tư chưa chuyển đến các vùng sâu, xa một mặt do kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải,kém phát triển , mặt khác do thiếu những chính sách khuyến khích thoả đáng. Ba là, hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh của hàng hoá của nước ta còn thấp .Qua bảng ba và bảng bốn ở trên có thể tháy FDI thực hiệ giảm không nhiều, còn lượng ODA giải ngân tăng đều, nhưng tốc độ tăng GDP lại giảm khi hệ số ICOR tăng nhanh, điều đó chứng tở hiệu quả đầu tư thấp. Theo dự tính của trung tâm kinh tế quốc tế (CIE) và WB thì tăng trưởng năng suất tổng hợp của Việt Nam đáng lẽ phải tăng lên hơn trước để bù lại sự giảm sút FDI thì lại chậm lại vaò nửa cuối những năm 90. Giai đoạn 1990-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của năng suất tổng hợp là 2% , nhưng xét cả giai đoạn từ 1990 –2000 thì chỉ tiêu này là 1.1% .Mặt khác hệ số ICOR tăng đòi hỏi phải tăng vốn đầu tư mà FDI lại giảm . Sở dĩ hệ số ICOR thấp trong những năm đầu đổi mới là do cơ chế mới đã giãi phóng được những tiềm năng bị kìm hãm bởi cơ chế cũ , đồng thời một số công trình được xây dựng từ thời bao cấp ( như thuỷ điện Hoà Bình , nhiệt điện Phả Lại …) được đưa vào sử dụng . hơn nữa hồi đó chủ yếu phát triển những doanh nghiệp ứng dụng công nghệ có hàm lượng lao động cao . Việc sử dụng ODA cũng chưa cao, chưa định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ, nên đang gặp khó khăn trong thu hồi vốn để trả nợ; công tác quản lý sau dự án bị buông lỏng ; trình độ cán bộ quản lý các dự án ODA chưa đáp ứng yêu cầu; việc phân bổ ODA còn dàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0393.doc